Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.14 KB, 26 trang )

TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI
NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN
********************

Ngày nay, xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá nền kinh tế thế giới đang diễn ra
nhanh và mạnh hơn bao giờ hết. Dù muốn hay không, tất cả các nước trên thế giới
cũng đều phải áp dụng chính sách mở cửa nền kinh tế để phát triển và bắt kịp với
xu thế chung của thời đại. Việc hội nhập không chỉ còn là chỉ đề về lý thuyết mà đã
trở thành vấn đề nóng bỏng hàng ngày của mọi quốc gia.
Thực tế cho thấy rằng, một quốc gia muốn phát triển kinh tế, thì ngoài việc
dựa vào nền sản xuất trong nước, quốc gia đó còn phải thực hiện giao dịch, quan hệ
với các nước khác. Sở dĩ như vậy là do sự khan hiếm và sự phân bố không đồng đều
của các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Một quốc gia nếu chỉ dựa vào nền sản xuất
trong nước thì sẽ không thể cung cấp đủ hàng hoá dịch vụ đáp ứng nhu cầu sản
xuất, tiêu dùng của nền kinh tế quốc dân. Do đó việc nhập khẩu các mặt hàng cần
thiết mà trong nước không sản xuất được hoặc sản xuất không có hiệu quả là rất
cần thiết.

Ngược lại, trên cơ sở khai thác tiềm năng và những lợi thế kinh tế vốn có của
mình, một quốc gia ngoài việc phục vụ nhu cầu trong nước, còn có thể tạo nên
những thặng dư để xuất khẩu sang các nước khác, góp phần tăng thu ngoại tệ đáp
ứng nhu cầu nhập khẩu, trả nợ, đầu tư và phát triển kinh tế đất nước.
Như vậy, hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung và hoạt động XNK nói riêng là
một tất yếu khách quan để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế của một đất nước.
I. Khái niệm tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu.
Trong xu thế thị trường thương mại thế giới ngày càng mở rộng, nhu
cầu về thị trường hàng hoá xuất nhập khẩu, thị trường đầu tư đã trở thành
nhu cầu cấp thiết của các doanh nghiệp Việt Nam.
Hoạt động của tài trợ ngân hàng không chỉ tạo điều kiện thuận lợi về tài
chính cho nhà xuất khẩu mà còn cho cả nhà nhập khẩu. Tài trợ ngân hàng đã
thúc đẩy quá trình hoạt động của kinh tế xã hội, thúc đẩy phát triển sản xuất,


tạo nên sự cân bằng trong cán cân thanh toán xuất nhập của nhà nước, trong
đó vai trò của ngân hàng lúc này hết sức quan trọng để góp phần thực hiện
thắng lợi các chiến lược kinh tế.
Thông qua tài trợ ngân hàng giúp doanh nghiệp xuất khẩu cũng như
doanh nghiệp nhập khẩu thực hiện được những thương vụ lớn: có những
thương vụ trong thương mại quốc tế đòi hỏi nguồn vốn rất lớn để thanh toán
tiền hàng. Do đặc điểm của vận chuyển hàng hải, các mặt hàng thiết yếu như
phân bón, sắt thép, gạo, bột mỳ.... thường hai bên mua bán với số lượng nguyên
tàu hàng (từ 10.000 đến hai 20.000 tấn) nhằm tiết kiệm chi phí vận chuyển,
thuận lợi trong công tác giao nhận, nên kéo theo giá trị lô hàng cũng rất lớn.
Trong trường hợp này, vốn lưu động của doanh nghiệp không đủ để chuẩn bị
hàng xuất hoặc thanh toán tiền nhập, tài trợ ngân hàng là giải pháp giúp
doanh nghiệp thực hiện những hợp đồng dạng này.
Để đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng, ngân hàng phải huy động
vốn từ những người gửi tiền, vay từ các ngân hàng thương mại khác, phải cân
đối lãi suất và thời hạn đầu vào so với lãi suất và thời hạn cho vay sao cho đủ
bù đắp chi phí, rủi ro thấp nhất và có lãi. Do đặc thù của các giao dịch xuất
nhập khẩu, các giao dịch thanh toán thường vượt ra ngoài phạm vi một quốc
gia, nên những khoản tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng thường kèm
theo các giao dịch thanh toán.
Những khoản tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng thường liên quan
đến ba “khu vực” của quá trình sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu:
- Khu vực thứ nhất là sản xuất, khai thác nguyên liệu cho xuất khẩu.
Những khoản tín dụng loại này thường có cả ngắn hạn, trung và dài hạn, cả
nội tệ và ngoại tệ để hỗ trợ vốn hoạt động sản xuất, nhập khẩu vật tư, thiết bị
đầu vào.
- Khu vực thứ hai là thu mua, chế biến hàng xuất khẩu. Đối với hoạt
động này, khách hàng thường cần những khoản tín dụng ngắn hạn bằng nội
tệ. Tuy nhiên, đây cũng là khu vực yêu cầu lượng tín dụng trung, dài hạn lớn,
nếu khách hàng đầu tư vào xây dựng cơ bản, mua sắm thiết bị và những dây

chuyền chế biến công nghệ cao.
- Khu vực thứ ba là lưu thông và xuất khẩu. Những khoản tín dụng ngân
hàng cho khu vực này thường có thời hạn ngắn, chủ yếu nhằm đáp ứng vốn
cho các doanh nghiệp xuất khẩu tiếp tục chu trình sản xuất kinh doanh mới
trong thời gian kể từ khi giao hàng đến khi nhận được thanh toán từ đối tác
nhập khẩu nước ngoài.
Khách hàng vay những khoản tín dụng từ ngân hàng cho ba khu vực
trên thường là khác nhau, nhưng cả ba khu vực đó lại có mối quan hệ khăng
khít và hỗ trợ nhau cùng phát triển.
Khép kín hoạt động đầu tư cho ba khu vực này không chỉ giúp cho hoạt
động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao, đảm bảo nguồn nguyên liệu ổn
định cho sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu mà còn tạo điều kiện thuận lợi
cho ngân hàng trong quá trình thu nợ, hạn chế rủi ro cũng như mở rộng hoạt
động tín dụng và các dịch vụ khác có liên quan.
Như vậy: Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu là sự hỗ trợ về mặt tài
chính để các nhà xuất khẩu nước sở tại đẩy mạnh sản xuất, khuyến
khích xuất khẩu, đồng thời giúp đỡ các nhà nhập khẩu nước ngoài có
đủ điều kiện về tài chính để mua hàng hoá của nước đó.
II. Một số hình thức tài trợ xuất nhập khẩu.
Thông thường, nghiệp vụ tín dụng XNK của NHTM gắn liền với nghiệp vụ
thanh toán quốc tế. Sự phát triển của hoạt động, nghiệp vụ này sẽ là tiền đề, nền
tảng hoặc bổ sung cho sự phát triển của hoạt động, nghiệp vụ kia. Mối quan hệ hữu
cơ không thể tách rời này có thể được dẫn giải như sau:
Với những hợp đồng ngoại thương giá trị vừa và lớn, vốn lưu động của khách
hàng thường không đủ để thực hiện hợp đồng. Khi đó, họ phải nhờ đến nguồn vốn của
NH thông qua các khoản tín dụng NH. Ngân hàng khi đó vừa là NH phục vụ người XK
(người NK), vừa là NH tài trợ cho thương vụ được thực hiện.
Ngược lại, trong quá trình tài trợ, muốn đảm bảo đồng vốn tài trợ được sử
dụng đúng mục đích, quản lý được nguồn thu, NH sẽ tham gia thanh toán quốc tế với
vai trò là NH chiết khấu (Negotiating Bank), NH nhờ thu (Collection Bank) hay NH

phát hành (Issuing Bank).
Và như vậy, hoạt động mua bán quốc tế gắn liền với các thể thức thanh toán,
tài trợ XNK. Hoạt động mua bán quốc tế càng được mở rộng thì các hình thức thanh
toán và tài trợ XNK càng phải phát triển hoàn thiện và đa dạng. Căn cứ vào đối tượng
và mục đích cấp tín dụng, ta có thể chia tín dụng XNK thành hai loại chính: Tín dụng
NH cấp cho người XK và tín dụng NH cấp cho người NK. Trong mỗi loại đó, ta lại có
thể chia tín dụng XNK ra thành các hình thức nhỏ hơn, cụ thể là:
1. Đối với hoạt động xuất khẩu:
a- Tín dụng chiết khấu hối phiếu:
Tín dụng chiết khấu hối phiếu là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn được thực
hiện bằng hình thức ngân hàng mua lại các hối phiếu thương mại trước khi
đến hạn thanh toán và khách hàng sẽ nhận được số tiền bằng mệnh giá của hối
phiếu đã trừ đi lãi chiết khấu và hoa hồng phí chiết khấu. Tín dụng chiết khấu
hối phiếu tạo điều kiện thuận lợi cho nhà xuất khẩu trong việc tái đầu tư đối
với khoản tín dụng cung ứng mà anh ta đã cấp cho nhà nhập khẩu.
Nét đặc trưng của nghiệp vụ này là ngân hàng sẽ khấu trừ tiền lãi ngay
khi chiết khấu và chỉ chuyển cho khách hàng số tiền còn lại. Các ngân hàng sẽ
xác định giá trị chiết khấu căn cứ vào mệnh giá của hối phiếu được áp dụng
làm đối tượng chiết khấu trừ đi lợi tức chiết khấu và lệ phí nhờ thu mà ngân
hàng chiết khấu hưởng.
Công thức được xác định như sau:

Lck
Tck = M x ( 1 - x T ) - P
3600
Trong đó:
Tck : Giá trị chiết khấu
M : Mệnh giá hối phiếu
Lck : Lãi suất chiết khấu (theo năm)
T : Thời gian chiết khấu (theo ngày)

P : Lệ phí
Khi kết thúc thời hạn chiết khấu, ngân hàng sẽ đòi tiền của người có
nhiệm vụ trả tiền hối phiếu.
b- Tín dụng ứng trước đối với nhà xuất khẩu:
Khi nhà xuất khẩu có toàn quyền sở hữu đối với bộ chứng từ hàng xuất
mà bộ chứng từ này thể hiện nội dung và giá trị hàng hoá đã chuyển giao, anh
ta có thể nhận được khoản tín dụng ứng trước bằng cách bán lại bộ chứng từ
hàng hoá này cho ngân hàng. Bằng cách đó, nhà xuất khẩu được bù đắp nguồn
vốn để tiếp tục kinh doanh trong suốt thời gian từ khi gửi hàng cho đến khi
nhận được tiền từ nhà nhập khẩu.
Điều kiện để nhận được khoản tín dụng này là khả năng truy hoàn của
nhà xuất khẩu. Các chứng từ liên quan nhất thiết phải là chứng từ có giá trị để
cấp tín dụng, không được phép chuyển nhượng cho người thứ ba để sử dụng.
Các ngân hàng thường ký với nhà xuất khẩu một hạn mức tín dụng để sử dụng
cho loại hình cho vay này. Tuy nhiên khoản vay này chỉ được cấp căn cứ vào
giá trị của bộ chứng từ và với một tỷ lệ tối đa nhất định tuỳ theo loại hàng hoá
và khả năng thanh toán của khách hàng (khoảng 70 →80% giá trị hàng hoá).
c- Cho vay chiết khấu hoặc ứng trước chứng từ hàng xuất khẩu:
Để đáp ứng nhu cầu vốn, nhà xuất khẩu sau khi giao hàng xong có thể
thương lượng với ngân hàng thực hiện chiết khấu bộ chứng từ, hoặc ứng
trước tiền khi bộ chứng từ được thanh toán. Như vậy đối với nhà xuất khẩu,
L/C không chỉ là công cụ đảm bảo thanh toán mà còn là công cụ đảm bảo tín
dụng.
Chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất là hình thức ngân hàng tài trợ cho
nhà xuất khẩu thông qua việc mua lại hoặc cho vay trên cơ sở giá trị bộ chứng
từ xuất khẩu hoàn hảo được người xuất khẩu trình. Có hai hình thức chiết
khấu:
- Chiết khấu miễn truy đòi: Ngân hàng mua lại bộ chứng từ xuất khẩu
hoàn hảo của nhà xuất khẩu. Giá mua sẽ thấp hơn giá trị bộ chứng từ do ngân
hàng tính trừ đi phí chiết khấu và thời gian cần thiết để đòi tiền người nhập

khẩu nước ngoài. Chiết khấu miễn truy đòi cũng có nghĩa là người xuất khẩu
bán hẳn bộ chứng từ cho ngân hàng, nhận tiền và không còn trách nhiệm hoàn
trả, trách nhiệm thu tiền và quyền sử dụng số tiền thu được hoàn toàn thuộc về
ngân hàng.
- Chiết khấu có truy đòi: Ngân hàng thực hiện việc cho vay trên cơ sở
người xuất khẩu xuất trình bộ chứng từ hoàn hảo. Thời gian cho vay được tính
bằng thời gian cần thiết trung bình để đòi tiền người nhập khẩu nước ngoài.
Khi đó, trách nhiệm người xuất khẩu vẫn còn cho đến khi ngân hàng đòi được
tiền từ người nhập khẩu.
d- Tài trợ trong khuôn khổ nhờ thu kèm chứng từ:
Nhờ thu, nghĩa là nhà xuất khẩu lập các chứng từ về hàng hoá, vận
chuyển, bảo hiểm và các chứng từ khác gửi cho ngân hàng của mình. Ngân
hàng này sẽ chuyển tiếp chứng từ đến ngân hàng của nhà nhập khẩu với chỉ
thị giao chứng từ khi đã thanh toán (D/P = Documents against payment) hoặc
chấp nhận một hối phiếu đòi nợ kèm theo (D/A = Documents against
acceptance).
Nếu điều kiện D/P (thanh toán để đổi lấy chứng từ) được sử dụng, các
chứng từ được giao vào lúc chấp nhận hối phiếu và người bán mất quyền kiểm
soát hàng hoá , anh ta sẽ phụ thuộc vào độ tín nhiệm và sự trọn vẹn của khách
hàng nước ngoài trong việc thanh toán đúng hạn.
Cả hai phương pháp đều có lợi thế là các chứng từ cũng là chủ quyền đối
với hàng hoá, vẫn nằm trong quyền kiểm soát của ngân hàng cho tới khi hối
phiếu được chấp nhận hay việc thanh toán được thực hiện.
Trong nghiệp vụ này ngân hàng tham gia chủ yếu với tư cách trung gian
thực hiện và thừa hành theo uỷ nhiệm để giảm bớt rủi ro về tiêu thụ, thanh
toán cũng như về cung ứng. Tuy nhiên, từ lúc gửi chứng từ đến ngân hàng cho
tới khi được thanh toán hay chấp nhận hối phiếu là một khoảng thời gian dài.
Trong khi đó, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thường buôn bán từ đầu đến
cuối có thể cần đến một tín dụng tạm thời.
Ví dụ: Hàng hoá được mua với điều kiện “thanh toán khi xuất trình

chứng từ” và bán tiếp cho một khách hàng có nhu cầu ở nước khác với điều
kiện “thanh toán khi nhận hàng hoá 30 ngày” thì sẽ nảy sinh vấn đề tài trợ
giữa chừng nếu nhà xuất khẩu thiếu vốn tự có. Trong trường hợp này, ngân
hàng của nhà xuất khẩu hoặc nhà nhập khẩu đều có thể tạm ứng trước. Để
đảm bảo có thể chuyển nhượng từ sự uỷ nhiệm cho ngân hàng thu chứng từ.
Nhưng giá trị của sự chuyển nhượng này phụ thuộc hàng đầu vào khả năng
thanh toán của người vay tín dụng vì không có sự đảm bảo chắc chắn rằng các
chứng từ của người phải thanh toán được chấp nhận và giá trị hàng hóa được
thanh toán.
Hình thức này thường được sử dụng để tài trợ xuất khẩu trong ngắn
hạn.
e - Bao thanh toán tương đối (Factoring):
Đây là hình thức tài trợ trung và dài hạn, đặc biệt dành cho nhà xuất
khẩu, ngân hàng hoặc các tổ chức tài chính sẽ mua lại các chứng từ thanh
toán, các khoản nợ chưa đến hạn thanh toán để trở thành chủ nợ trực tiếp,
đứng ra đòi nợ nhà nhập khẩu. Factoring không được sử dụng L/C cũng như
các hối phiếu ngoại thương vì Factoring chỉ được sử dụng cho những hoạt
động xuất khẩu thường xuyên theo định kỳ, theo hợp đồng dài hạn và cho
nhiều nhà xuất khẩu khác nhau trong cùng một nước hoặc cho nhiều nước
trong cùng một thời điểm. Do vậy, đối tượng mua bán của Factoring là những
tổ hợp kinh tế có doanh số hoạt động xuất nhập khẩu hàng năm lớn.
Nghiệp vụ Factoring có những chức năng sau:
- Chức năng dịch vụ thanh toán: Tổ chức Export factor đảm nhiệm
mọi nhiệm vụ thanh toán cho nhà xuất khẩu về những khoản thanh toán
chuyển nhượng, đảm nhiệm mọi nghiệp vụ nhờ thu hoặc thông báo cho nhà
xuất khẩu giải quyết những vướng mắc trong thanh toán. Như vậy, Export
factor thực hiện tất cả các nghiệp vụ ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu. Hơn
nữa, nó còn thực hiện chức năng kiểm tra và giám sát khả năng thanh toán
của nhà nhập khẩu.
- Chức năng tài chính: Export factor đảm nhiệm chức năng tài chính

cung ứng cho nhà xuất khẩu. Cơ sở để nó đảm nhiệm việc này là mối quan hệ
giao dịch giữa Export factor và Import factor.
+ Nghiệp vụ tài chính ứng trước: Dù hợp đồng Factoring được ký kết từ
trước, nhưng ngày có hiệu lực là ngày thanh toán theo định kỳ của nhà nhập
khẩu. Do đó, nếu muốn sử dụng vốn trước ngày này, nhà xuất khẩu có thể vay
của tổ chức Factoring. Khoản tín dụng ứng trước này được thực hiện như tín
dụng luân chuyển và nhà xuất khẩu trả lãi cho khoản tín dụng này như lãi suất
luân chuyển thông thường và hạn mức tín dụng từ 70→ 90% khoản thanh
toán.
+ Nghiệp vụ chiết khấu: Nhà xuất khẩu có thể bán các chứng từ thanh
toán và vận chuyển cho Export factor và nhận tiền ngay lập tức nhưng tỷ lệ
chiết khấu khá cao (10 → 30%) và phụ thuộc vào khả năng thanh toán của
nhà nhập khẩu.
- Chức năng phòng chống rủi ro: Factoring có thể hạn chế được
những rủi ro về kinh tế tới 100%.
QUY TRÌNH NGHIỆP VỤ FACTORING
(1)
IMPORT FACTOREXPORT FACTOR
NHÀ NHẬP KHẨUNHÀ XUẤT KHẨU
(2) (6) (7) (13) (4) (9) (10) (11)
(3)

(12) &(5)
(1): Thoả thuận thương mại giữa nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu trong đó quy định rõ
định kỳ cung ứng thường xuyên.
(2): Đơn đề nghị mua thanh toán các khoản xuất liên tục do nhà xuất khẩu lập gửi tổ chức
Export factor.
(3): Quan hệ giao dịch trên cơ sở hợp đồng giữa Export factor và Import factor.
(4): Import factor kiểm tra gián tiếp hoạt động kinh doanh và khả năng thanh toán của nhà
nhập khẩu thông qua ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu.

(5): Import factor thông báo kết quả kiểm tra cho Export factor.
(6): Thông báo của Export factor cho nhà xuất khẩu và hạn mức mua khoản thanh toán.
(7): Nhà xuất khẩu công nhận thoả thuận và bán khoản thanh toán cho Export factor
chuyển quyền sở hữu các khoản cho Export factor.
(8): Export factor thông báo cho nhà xuất khẩu về việc chuyển quyền sở hữu,chuyển nợ.
(9): Import factor thông báo cho nhà xuất khẩu về việc họ đảm nhiệm nhờ thu cũng như
quan hệ giao dịch thay Export factor.
(10): Nhà nhập khẩu thanh toán cho Import factor.
(11): Nhà nhập khẩu có quyền phản hồi thanh toán khi có vấn đề xảy ra với hàng nhập hoặc
không chấp nhận thanh toán.
(12): Import factor hạch toán nghiệp vụ vào tài khoản giao dịch cho Export factor.
(13): Export factor tất toán nghiệp vụ khi thanh toán chứng từ cho nhà xuất khẩu và trừ đi
bao thanh toán.
f - B ao thanh toán tuyệt đối ( Forfaiting):
Tín dụng bao thanh toán tuyệt đối là loại tín dụng trung và dài hạn do các tổ
chức tài chính cỡ lớn cấp cho nhà XK theo một tỷ lệ phần trăm (%) ứng trước mà hai
bên đã thoả thuận trong tổng trị giá hoá đơn để giành lấy quyền đòi nợ từ người NK.
Loại tín dụng này có những đặc điểm rất khác so với tín dụng Factoring. Đó là:
- Thời hạn của tín dụng bao thanh toán tuyệt đối là trung hoặc dài hạn
(khoảng từ 6 tháng đến 10 năm).
- Đây là loại ứng trước không có truy đòi: Sau khi nhận tiền và giao các chứng
từ có liên quan đến chuyến hàng cho tổ chức tài chính, nhà XK hết trách nhiệm. Rủi ro
về việc người mua hàng ở nước ngoài không trả tiền hàng hoàn toàn do tổ chức tài
chính gánh chịu. Do vậy, trong hình thức tín dụng này, nhà NK phải trả cho tổ chức tài
chính một khoản phí tương đối cao, và cao hơn rất nhiều so với mức phí trong bao
thanh toán tương đối.
Tín dụng bao thanh toán tuyệt đối thường được sử dụng trong phương thức
thanh toán bằng L/C có xác nhận. Việc chiết khấu thường là chiết khấu hối phiếu đi
kèm L/C.
Như vậy, tín dụng bao thanh toán giúp nhà XK có vốn ngay để tiếp tục hoạt

động sản xuất kinh doanh của mình, dù bán hàng theo phương thức thu tiền hay bán
chịu; đồng thời giúp nhà XK không phải bận tâm vào việc quản lý thanh toán phức tạp
và kéo dài. Bù lại, nhà XK sẽ phải trả cho người bao thanh toán một khoản phí khá cao
khi được bao thanh toán.
2. Đối với hoạt động nhập khẩu:
a - Tín dụng chấp nhận hối phiếu:
Tín dụng chấp nhận hối phiếu là khoản tín dụng mà ngân hàng ký chấp
nhận hối phiếu. Người vay khoản tín dụng này chính là nhà nhập khẩu và
khoản vay chỉ là hình thức vì thực chất ngân hàng chưa phải xuất tiền cho
người vay.
Tuy nhiên khi đến hạn, nếu nhà nhập khẩu chưa có đủ khả năng thanh
toán thì ngân hàng (người đứng ra chấp nhận hối phiếu) phải trả nợ thay. Nhà
nhập khẩu phải vay mượn theo danh nghĩa này để có được một chấp nhận của
ngân hàng trên hối phiếu theo đề nghị của nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu
phải trả chi phí cho khoản vay mượn này.
Giá trị của hình thức tín dụng này thể hiện ở chỗ : Với sự chấp nhận của
ngân hàng trên hối phiếu, nhà xuất khẩu có được sự đảm bảo chắc chắn về khả

×