Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Thực trạng thanh toán bằng séc tại SGDI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.46 KB, 32 trang )

Thực trạng thanh toán bằng séc tại SGDI
I. Khái quát về sự ra đời và phát triển của SGDI
1. Vài nét về sự ra đời và phát triển của SGDI
SGDI NHNo và PTNT Việt Nam được thành lập theo quyết định số
15/NHNN- TCCB ngày 6/3/1991 của Tổng Giám Đốc NHNo Việt Nam (nay là
NHNo vàPTNT Việt Nam). Là đơn vị hạch toán độc lập, trực tiếp giao dịch với
khách hàng, có con dấu riêng, có bảng tổng kết tài sản riêng. Tự chủ về tài
chính và tự chịu trách nhiệm đối với hoạt động kinh doanh. SGDI hoạt động
theo điều lệ NHNo Việt Nam và theo quy chế uỷ quyền của Tổng Giám Đốc
NHNo và PTNT. Có trụ sở tại số 4 Phạm Ngọc Thạch - Đống Đa - Hà Nội.
Bước đầu thành lập SGDI đã có rất nhiều điều kiện thuận lợi đó là: Luôn
được sự chỉ đạo sâu sát và ủng hộ nhiệt tình của Ban lãnh đạo NHNo vàPTNT
Việt Nam cả về đường lối chiến lược kinh doanh, cơ chế nghiệp vụ và cơ sở vật
chất kỹ thuật - đây là thuận lợi cơ bản nhất góp phần quyết định sự tồn tại và
phát triển của SGDI. Hơn nữa được sự quan tâm, ủng hộ nhiệt tình của các
cấp, các ngành các doanh nghiệp từ Trung ương đến địa phương. Có trụ sở
khang trang nằm trên đường Phạm Ngọc Thạch và những cơ sở vật chất ban
đầu cho hoạt động của một NHTM tương đối đầy đủ, đội ngũ cán bộ nhiệt tình,
giàu năng lực, đoàn kết, hăng hái quyết tâm thực hiện nhiệm vụ mới.
Tuy nhiên mới được thành lập và đi vào hoạt động nên SGDI đã gặp phải
rất nhiều khó khăn, cản trở: Thể hiện ở chỗ SGD I hoạt động trên địa bàn Hà
Nội nơi mà việc cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại trong cùng hệ
thống, ngoài hệ thống, giữa ngân hàng thương mại quốc doanh với NHCP, các
chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng diễn
ra rất gay gắt trên nhiều lĩnh vực: Quy mô, lãi suất, công nghệ, phong cách
phục vụ. Trong khi đó SGDI mới đi vào hoạt động các nghiệp vụ còn rất ít mới
chủ yếu thực hiện hoạt động huy động vốn và cho vay, hầu hết các khách hàng
đã có quan hệ truyền thống với một hoặc nhiều ngân hàng, việc lôi kéo khách
hàng về với ngân hàng tạo lập mỗi quan hệ giữa khách hàng với ngân hàng
đòi hỏi phải khẳng định được thể mạnh hơn hẳn về nguồn vốn, lãi suất, chất
lượng phục vụ.


Song bằng sự nỗ lực của tập thể lãnh đạo và cán bộ công nhân viên SGD
I đã từng bước vượt qua khó khăn, phát huy thế mạnh để tồn tại và phát triển.
Sau 12 năm hoạt động SGDI đã đạt được rất nhiều thành tựu quan
trọng trên tất cả các mặt:
Ngày 31/12/1996 SGDI đã trở thành thành viên tham gia thanh toán bù
trừ và là đại diện của NHNo và PTNT Việt Nam, là thành viên của thị trường
liên ngân hàng trên địa bàn thành phố Hà nội .
Từ cuối năm 1994 đến nay ngoài việc kinh doanh sinh lời SGDI còn được
giao nhiệm vụ:
- Tổ chức hạch toán, theo dõi vốn và các quỹ tập trung của SGDI NHNo
vàPTNT Việt Nam, theo dõi vốn thuộc dự án nước ngoài như: Dự án đầu tư của
ngân hàng thế giới (WB), vốn tài trợ của ngân hàng nước ngoài.
-Tổ chức điều hoà vốn thanh toán trong hệ thống, làm đầu mối thanh
toán bù trừ của các chi nhánh trong hệ thống NHNo và PTNT Việt Nam với các
ngân hàng thương mại khác trên địa bàn thành phố Hà Nội
2. Về cơ cấu tổ chức của SGDI:
Để đáp ứng yêu cầu nắm bắt tình hình thực tế trên thị trường, tạo điều
kiện cho việc giao dịch với khách và phù hợp với hoạt động kinh doanh, SGDI
đã không ngừng hoàn thiện bộ máy tổ chức mở rộng màng lưới, nâng cao
trình độ nghiệp vụ, thực hiện tốt chính sách kinh doanh tiền tệ- tín dụng và ổn
định đời sống công nhân viên .Tổng số cán bộ công nhân viên của SGDI khi mới
thành lập còn rất ít, chủ yếu được điều từ trụ sở chính về, nhưng tính đến ngày
31/12/2002 tổng số cán bộ đã lên đến 185 người. Tốc độ tăng của CBCNV rất
nhanh chứng tỏ màng lưới, quy mô hoạt động của SGDI không ngừng được mở
rộng và việc bố trí cán bộ ở các khâu lãnh đạo, các phòng ban chức năng được
thực hiện như sau:
- Tổng số cán bộ chủ chốt của SGDI là 33 cán bộ, trong đó:
+ Ban Giám Đốc: 4 người, trong đó có 1 Giám Đốc và 3 phó Giám Đốc.
+ Trưởng, phó phòng nghiệp vụ: 16 người
+ Giám Đốc, phó Giám Đốc chi nhánh: 6 người

+ Trưởng, phó phòng giao dịch: 5 người
+ Trưởng, phó quỹ tiết kiệm: 2 người
Hiện tại SGDI có 9 phòng ban chức năng với nhiệm vụ được quy định rất
cụ thể như sau:
* Phòng kế hoạch kinh doanh:
Có chức năng tham mưu cho Ban Giám Đốc về việc xây dựng kế hoạch kinh
doanh hàng tháng, quý, năm để đề ra mục tiêu giải pháp cho từng kế hoạch
chiến lược cụ thể, quản lý điều hành vốn kinh doanh hàng ngày, trực tiếp giao
dịch với khách hàng. Nhiệm vụ chính là: huy động vốn, cho vay, bảo lãnh các
loại.
* Phòng kế toán:
Hiện tại phòng kế toán biên chế 22 cán bộ với 1 trưởng phòng 2 phó
phòng. Có chức năng tham mưu cho Ban Giám Đốc trong công tác kế toán, các
quy định, quy chế của ngân hàng nhà nước đối với việc hạch toán kế toán, thực
hiện tốt chức năng kế toán quản trị trong ngân hàng. Nhiệm vụ chính của
phòng kế toán là thực hiện hạch toán kịp thời, đầy đủ các nghiệp vụ kinh tế
phát sinh đồng thời hướng dẫn, kiểm tra nghiệp vụ kế toán của các chi nhánh,
quỹ tiết kiệm, các phòng giao dịch (thanh toán bù trừ, thanh toán điện tử liên
hàng). Là trung tâm chuyển tiền thanh toán của cả nước với các ngân hàng
trên địa bàn thành phố Hà Nội phòng kế toán đảm nhiệm thanh toán.
* Phòng ngân quỹ:
Thực hiện nhiệm vụ thu, chi đầy đủ, kịp thời, chính xác, đảm bảo an toàn
trong việc vận chuyển tiền mặt, quản lý bảo vệ kho tiền, trực tiếp giao dịch với
khách hàng.
* Phòng kiểm tra kiểm toán nội bộ:
Với nhiệm vụ chính là kiểm tra, kiểm soát các hoạt động kinh doanh của
SGDI và các nhiệm vụ kiểm soát của ngành giao, giúp ban Giám Đốc cũng như
các phòng thấy được những tồn tại trong các mặt hoạt cũng như những thế
mạnh để có biện phát khắc phục tồn tại, phát huy lợi thế một cách kịp thời.
Nâng cao hiệu quả kinh doanh của đơn vị cũng như hạn chế các rủi ro có thể

xảy ra.
* Phòng tổ chức cán bộ và đào tạo:
Thực hiện việc quản lý cán bộ, tổ chức thi tuyển và đào tạo lại cán bộ cho
phù hợp với yêu cầu công việc, điều chuyển cán bộ, phân công công tác cho
đúng với chức năng nhiệm vụ, theo dõi để có quyết định khen thưởng, kỷ luật
đúng đắn.
* Phòng hành chính:
Có chức năng tham mưu cho Ban Giám Đốc thực hiện công tác văn
phòng, tổng hợp thi đua, hành chính quản trị. Với nhiệm vụ chủ yếu là: Duy trì
trật tự , nội vụ cơ quan, thực hiện tác phong văn minh, lịch sự trong quá trình
làm việc, đảm bảo cho hoạt động của cơ quan nề nếp, an toàn, khang trang
sạch đẹp, phục vụ các dịp lễ, tết, hội nghị, tiếp khách của cơ quan theo đúng
yêu cầu.
* Phòng thanh toán quốc tế:
Được thành lập vào năm 2002 nhằm thực hiện các nghiệp vụ, dịch vụ
thanh toán với nước ngoài, kinh doanh ngoại hối, huy động vốn nội, ngoại tệ
phục vụ nhu cầu kinh doanh của Sở.
* Phòng vi tính:
Thực hiện chức năng triển khai ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt
động của ngân hàng.
Tính đến thời điểm 31/12/2002 SGDI đã có 3 chi nhánh cấp IV và 4
phòng giao dịch, 2 điểm giao dịch.Các chi nhánh ngân hàng loại IV thực hiện
nhiệm vụ huy động vốn và cho vay các doanh nghiêp nhỏ, cá nhân trên địa bàn.
Là đơn vị hạch toán phụ thuộc, có bảng cân đối cuối tháng hoà nhập vào bảng
cân đối của SGDI nên các chi nhánh ngân hàng loại 4 chưa nhận khoán tài
chính, mọi chi phí và tiền lương do SGDI thực hiện.
Như vậy SGDI là đơn vị tự chủ về tài chính, tự chịu trách nhiệm trong
quá trình kinh doanh, hoạt động theo nguyên tắc đi vay để cho vay, đồng thời
phát triển tất cả các nghiệp vụ ngân hàng để thu lợi nhuận.
II Khái quát tình hình hoạt động kinh doanh của SGDI trong

năm 2002
1.Môi trường kinh doanh ảnh hưởng đến hoạt động của SGDI NHNo và
PTNT Việt Nam:
* Tình hình kinh tế xã hội trên địa bàn thủ đô Hà Nội
Hà Nội -Thủ đô của nước Việt Nam ngàn năm văn hiến, là hội tụ trung tâm
kinh tế, văn hoá, du lịch - Hà Nội là nơi tập trung dân cư đông đúc, có thu nhập
cao, tập trung nhiều doanh nghiệp chủ chốt. Riêng về tình hình kinh tế đã có
hơn 75% các Tổng công ty 90,91 đóng trụ sở và là vị trí đầu mối để phát triển
kinh tế. Không chỉ có các doanh nghiệp lớn và các Tổng công ty mà Hà Nội còn
là nơi hội tụ các TCTD: hiện nay trên địa bàn Hà Nội có 26 SGD và chi nhánh
thành viên của ngân hàng thương mại quốc doanh, ngoài ra còn có màng lưới
các ngân hàng thương mại cổ phần với 5 SGD và 9 chi nhánh ngân hàng nước
ngoài. Năm 2002 quán triệt theo tinh thần nghị quyết TW 5 khoá IX của Đảng:
Kinh tế thủ đô phát triển ổn định. Tổng sản phẩm trong nước( GDP) của thành
phố Hà Nội năm 2002 đạt mức tăng 10,3% so với năm 2001, trong đó tỷ trọng
ngành công nghiệp chiếm 39,1%: ngành công nghiệp chiếm 2,34%; dịch vụ
chiếm 58,56%; Công nghệ phát triển cao .
Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 24,3%; dich vụ tăng 9,18%; kim
nghạch xuất khẩu trên địa bàn tăng 7.3%; kim ngạch nhập khẩu tăng 7,9%.
Các hoạt động đầu tư , sản xuất phát triển đã tạo ra một cơ sở thuận lợi cho
tăng trưởng các hoạt động tín dụng, huy động vốn của các TCTD. Tuy nhiên
cạnh tranh giữa các trung gian tài chính sẽ rất gay gắt, và quyết liệt.
Tất cả những thuận lợi và khó khăn đó sẽ tác động đến hoạt động kinh
doanh của SGDI nói riêng và các TCTD khác nói chung.
* Về hoạt động điều hành CSTT của NHNN:
Hoạt động điều hành CSTT đã góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, ổn
định giá trị tiền tệ, kiểm soát lạm phát. Thực hiện nghị quyết đại hội Đảng IX
và các mục tiêu kinh tế vĩ mô năm 2002 mà Quốc Hội đề ra, NHNN đã kịp thời
đặt ra nhiều giải pháp tiền tệ- tín dụng, lãi suất, tỷ giá phù hợp với mục tiêu
của CSTT: Sau khi thực hiện cơ chế lãi suất thị trường đối với USD vào tháng 6

năm 2001, từ tháng 6/2002 trong điều kiện lãi suất quốc tế xuống thấp. NHNN
đã áp dụng cơ chế lãi suất thoả thuận trong hợp đồng tín dụng bằng VND.
Theo đó TCTD đã xác định lãi suất cho vay bằng VND trên cơ sở cung cầu vốn
thị trường và mức độ tín nhiệm của khách hàng vay vốn.
Trong năm 2002, NHNN cũng đã từng bước hoàn thiện, điều hành linh
hoạt đồng bộ các công cụ CSTT như: Thị trường mở, hoán đổi ngoại tệ, DTBB,
tái cấp vốn.
Bên cạnh đó NHNN tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách tín dụng ngân
hàng theo hướng mở rộng quyền tự quyết cho TCTD; Ban hành quy chế cho vay
đồng tài trợ của các tổ chức tín dụng, quy định về uỷ thác và nhận uỷ thác cho
vay vốn giữa bên uỷ thác là tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài với bên
nhận uỷ thác là tổ chức tín dụng trong nước.
Như vậy sự điều hành CSTT hiệu quả của NHNN là cơ sở thuận lợi cho
hoạt động của tổ chức tín dụng trước diễn biến phức tạp của nền kinh tế trong
nước và quốc tế. Tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các TCTD và
một hành lang pháp lý vững chắc bảo vệ quyền và lợi ích của những người
tham gia.
2. Kết quả kinh doanh của SGDI năm 2002
Nằm trên địa bàn thủ đô Hà Nội, trung tâm kinh tế- văn hoá- xã hội, là
môi trường thuận lợi và cũng là môi trường có sự cạnh tranh sôi động của các
TCTD, SGDI đã triển khai đồng bộ tất cả các hoạt động nghiệp vụ và đã đạt
được kết quả cao trong năm 2002, thể hiện trên các mặt sau:
2.1. Về công tác huy động vốn:
Tính đến 31/12/2002 tổng nguồn vốn của SGDI đạt 6117 tỷ đồng tăng
83% so với đầu năm và vượt kế hoạch 36% chiếm 5,2% thị phần so với các
ngân hàng thương mại khác trên địa bàn. Sở dĩ có được kết quả đó là do Sở đã
đa dạng hoá các phương thức huy động kết hợp với sử dụng linh hoạt các công
cụ lãi suất để thu hút tiền gửi trong dân cư, từ các doanh nghiệp nhằm đáp
ứng tốt nhu cầu cho nền kinh tế, giữ vững và đảm bảo được sự ổn định về
nguồn vốn trong hoạt động kinh doanh.

Cụ thể được trình bày ở bảng sau:
Bảng 1: Nguồn vốn của SGDI
Đơn vị: Tr đồng
Chỉ tiêu 2001 2002
Số tiền Tỷ
trọng(%
)
Số tiền Tỷ
trọng(%
)
I. Tổng nguồn vốn huy động 2.049.157 61 4.741.861 75,5
a. Vốn nội tệ 1.494.112 44,6 4.154.062 67,9
- Vốn không kỳ hạn 966.752 28,86 2.564.533 41,9
- Vốn có kỳ hạn 527.360 15,7 1.589.529 26
b.Nguồn vốn ngoại tệ 555.045 16,57 587.799 9,6
-Tiền gửi thanh toán 37.758 1,13 28.937 0,47
- Tiền gửi có kỳ hạn 517.287 15,44 558.862 9,13
II. Vốn uỷ thác đầu tư 1.300.000 39 1.350.000 28
III. Vốn đi vay TCTD khác - - 1.350.000 0,5
Tổng nguồn vốn 3.349.157 100 6.116.861 100
( Nguồn: lấy từ báo cáo các chỉ tiêu kinh doanh cơ bản từ năm 1999-2002)
Nhìn vào bảng thể hiện tình hình nguồn vốn của SGDI trong 2 năm 2001,
2002 ta thấy rằng vốn huy động chiếm tỷ trọng chủ yếu, năm 2001 là 61% trên
tổng nguồn vốn, năm 2002 là 75,5% trên tổng nguồn vốn chứng tỏ rằng Sở đã
rất chú trọng và chủ động trong việc tìm kiếm, tạo lập vốn với chi phí thấp.
Trong đó tiền gửi tiết kiệm đạt 1186 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 20%, tiền gửi của
các tổ chức kinh tế- xã hội đạt 2361 tỷ đồng chiếm 39% trên tổng nguồn. Nếu
phân theo cơ cấu vốn huy động theo thời gian huy động: tiền gửi không kỳ hạn
chiếm 35,7% trên tổng nguồn vốn huy động; tiền gửi có kỳ hạn dưới 12 tháng
chiếm 10% trên tổng nguồn vốn huy động và tiền gửi có kỳ hạn trên 12 tháng

chiếm 54,3% trên tổng nguồn vốn huy động; SGDI đã chú trọng đến huy động
vốn trung và dài hạn, khuyến khích các tổ chức kinh tế gửi tiền có kỳ hạn nên
vốn huy động trung và dài hạn tăng đáng kể so với những năm trước đây. Tuy
nhiên công tác huy động vốn cũng có những hạn chế: Mặc dù
nguồn vốn huy động của SGDI có tốc độ tăng trưởng vững và tương đối khá,
nhưng tỷ trọng nguồn vốn trung dài hạn còn thấp, chưa tạo được sự thay đổi
lớn trong việc huy động nguồn vốn có thời hạn dài
2.2. Công tác sử dụng vốn:
Về hoạt động tín dụng: Trong năm 2002, chính phủ và NHNN đã ban
hành mới và bổ sung nhiều cơ chế, chính sách có liên quan đến công tác cho
vay như: Cơ chế đảm bảo tiền vay, chính sách quy chế cho vay, cơ chế điều hành
lãi suất tín dụng, quy chế đồng tài trợ. Đã tạo môi trường pháp lý quan trọng
cho việc chủ động mở rộng và nâng cao hiệu quả đầu tư. Đặc biệt cơ chế lãi
suất thoả thuận đối với bằng cả VND và cho vay bằng ngoại tệ đã có tác dụng
tích cực đối với hoạt động kinh tế và tín dụng. Chủ động tìm hiểu và tiếp cận
với khách hàng, củng cố khách hàng truyền thống và chủ động thu hút thêm
khách hàng có tiềm lực tài chính, có uy tín trong quan hệ tín dụng và khách
hàng vay vốn sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu có thu ngoại tệ ổn định,
thực hiện chính sách ưu đãi đối với các khách hàng có quan hệ truyền thống
với ngân hàng hoặc những khách hàng giao dịch với ngân hàng với doanh số
lớn: Về lãi suất, phí dich vụ. Với tổng hợp các biện pháp trên, SGDI đã có được
tốc độ dư nợ khá trong năm qua. Tính đến ngày 31/12/2002, tổng dư nợ các
tổ chức kinh tế và dân cư của SGDI NHNo vàPTNT Việt Nam đạt 689 tỷ đồng so
với năm 2001 tăng 225 tỷ đồng (tăng 48%) vượt mức kế hoạch đặt ra là 3%,
thị phần chiếm 1,2% của các ngân hàng thương mại trên địa bàn. Trong đó
dư nợ nội tệ là 625 tỷ đồng, dư nợ ngoại tệ quy đổi là 64 tỷ đồng được cụ thể
hoá như sau:
Bảng 2: Tình hình sử dụng vốn tại SGDI năm qua
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu 2001 2002

Số tiền Tỷ
trọng(%
)
Số tiền Tỷ
trọng(%)
I. Dư nợ với các TCKT 464.496 48 688.674 58
Phân theo TPKT:
1. Dư nợ quốc doanh 437.842 94 612.785 89
2. Dư nợ ngoài quốc doanh 3.412 1 14.410 2
3. Hộ sản xuất 12.093 3 17.382 3
4. Tiêu dùng 11.131 2 43.879 6
II. Dư nợ với các TCTD 500.445 52 492.105 42
Tổng dư nợ 964.941 100 1.180.597 100
( Nguồn: Lấy từ báo cáo các chỉ tiêu kinh doanh cơ bản từ năm 1999-2002)
Ta thấy rằng với tổng nguồn vốn trên 6117 tỷ đồng mà sử dụng vốn mới
chỉ hết có 1181 tỷ đồng là một điều hết sức bất thường đối với một ngân hàng
thương mại vì đây là hoạt động tạo nguồn thu nhập chính cho ngân hàng
nhưng đối với SGDI là một đơn vị có thế mạnh rất lớn trong việc huy động vốn
thì lại không có gì là bất bình thường cả, hàng năm số vốn được điều chuyển
từ SGDI để sử dụng cho toàn hệ thống trong việc phát triển tín dụng do trung
tâm điều hành thực hiện rất lớn. Đối với dư nợ với các tổ chức kinh tế thì cho
vay đối với các doanh nghiệp quốc doanh vẫn chiếm đa số, trong khi đó đối với
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và cho vay hộ gia đình chưa được chú
trọng thu hút về với ngân hàng. Việc tập trung vào những khách hàng lớn đã
làm cho Sở phải chịu sức ép rất lớn từ phía khách hàng về mặt lãi suất. Sang
năm 2002, SGDI đã có nhiều biện pháp tích cực đẩy mạnh cho vay đối với các
loại hình doanh nghiệp và trong dân cư. Chú trọng triển khai các phương thức
và đối tượng cho vay nhờ đó có sự chuyển dịch cơ cấu cho vay rất lớn so với
năm trước.Bên cạnh việc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng tín dụng, SGDI cũng
rất chú trọng đến chất lượng tín dụng: SGDI đã chủ động thường xuyên phối

hợp với các ban, ngành có liên quan để tháo gở vướng mắc, khó khăn trong
quan hệ vay vốn giữa ngân hàng và khách hàng, đặc biệt là các doanh nghiệp
có hoat động xuất nhập khẩu trên địa bàn thành phố. Mở rộng tín dụng đi đôi
với đảm bảo an toàn, hiệu quả nên vốn tín dụng của SGDI đã có tác động tích
cực đối với sản xuất kinh doanh. Sở cũng đã chủ động tiếp cận, tư vấn cho các
doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp xây dựng, dự án sản xuất kinh doanh,
tạo thuận lợi về thủ tục cho vay và đầu tư để các doanh nghiệp tiếp cận dể
dàng hơn với vốn tín dụng của ngân hàng. Thực hiện nghiêm túc việc phân
tích, phân loại tín dụng, xử lý nợ, thường xuyên kiểm tra, phân tích nợ quá hạn,
đánh giá thực chất nợ xấu để trích lập dự phòng rủi ro và đảo bảo thực hiện
lành mạnh hoá tài chính. Bởi vậy dư nợ quá hạn đến năm 2002 là 23916 triệu
đồng tăng so với đầu năm là 1240 triệu đồng, tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư
nợ đối với các tổ chức kinh tế là 3,4%.
2.3. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ:
Năm 2002, tỷ giá VND/USD trên thị trường có nhiều biến động theo
chiều hướng tăng lên liên tục. SGDI đã bám sát diễn biến tỷ giá trên thị trường
để điều hành nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ. Được sự chỉ đạo điều hành sát sao
của ban Giám Đốc SGDI về kế hoạch triển khai cũng như xử lý tình huống một
cách linh hoạt, chủ động. Kết quả năm 2002 đạt được như sau:
- Tổng doanh số mua vào: 112 triệu USD, so với năm 2001 tăng77 triệu
USD (tương ứng 20%).
- Tổng doanh số bán ra:115 triệu USD so với năm 2001tăng76 triệu USD
( tương ứng 195%).
- Doanh số hàng xuất: 1 triệu USD so với năm 2001 giảm 2 triệu
USD( tương ứng –66%).
- Doanh số thanh toán hành nhập: 111triệu USD so với năm 2001 tăng
69 triệu USD (tương ứng).
Tuy nhiên trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ SGDI vẫn chưa được chủ
động áp dụng tỷ giá bán theo thời điểm và diển biến thực tế của thị trường
liên ngân hàng do đó gây phản ứng từ phía khách hàng rất lớn. Mặt khác

chính mức tăng trưởng cao của hoạt động thanh toán quốc tế lại tạo áp lực
lớn cho cán bộ ngân hàng trong công tác xử lý nghiệp vụ.
2.4. Hoạt động kế toán thanh toán:
Một trong những công tác được SGDI rất quan tâm đó là công tác kế
toán thanh toán vì đây là khâu then chốt để thu hút khách hàng. Trong những
năm qua công tác thanh toán tại SGDI không ngừng được cải tiến và nâng cao
hơn, với việc đưa hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng vào phục vụ cho
hoạt động thanh toán trong thời gian gần đây đã giúp tăng nhanh tốc độ
thanh toán về thời gian, giúp tiết kiệm vốn cho các tổ chức tín dụng. Hơn nữa
để phục vụ tốt hoạt động kinh doanh của Sở: Bộ phận kế toán đã thực hiện
hạch toán đầy đủ, kịp thời đúng chế độ các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, phục vụ
khách hàng tiện lợi, an toàn với phong cách và thái độ phục vụ lịch sự, nhanh
nhạy nên đã tăng uy tín cho Sở và kéo đợc nhiều khách hàng đến giao dịch với
Sở. Cụ thể:
Tính đến 31/12/2002 tổng số tài khoản là 6541 tài khoản, tăng so với
năm 2001 là 3216 tài khoản. Trong đó tiền gửi không kỳ hạn chiếm đến 4600
tài khoản (tài khoản tiền gửi cá nhân là 3950 tài khoản), tài khoản tiền gửi có
kỳ hạn 18, tiền gửi ngoai tệ 170 tài khoản, tiền cho vay các tổ chức kinh tế là
34 tài khoản…Chứng tỏ lượng khách hàng đến giao dịch với Sở gia tăng rất
nhanh thể hiện tổng số thanh toán chung là 145.984.125 triệu đồng tăng so với
năm 2001 là 53.236.401 triệu đồng. Trong đó:
- Thanh toán không dùng tiền mặt là 108.466.502 triệu đồng (Trong đó
doanh số thanh toán bằng séc là1.843.925 triệu đồng).
+ Doanh số thanh toán bù trừ chiếm 16.718.497 triệu đồng chiếm 15,4%
trong tổng số thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM).
+ Doanh số thanh toán nội bộ là 79.708.164 triệu đồng tăng so với năm
2001 là 52.006.602 triệu đồng chiếm 73,5% trong tổng số thanh toán.
Tổng số chứng từ giao dịch năm 2002 là 519.101 chứng từ, tăng 26.147
so với năm 2001.
- Thanh toán bằng tiền mặt trong năm đạt 37.517.920 triệu đồng.

Công tác tin học: Rất được chú trọng phát triển, hiện nay SGDI đã triển
khai cho 100% chi nhánh và phòng giao dịch các chương trình ứng dụng do
trung tâm công nghệ thông tin chuyển giao. Thực hiện tốt các dự án (WB) về
hiện đại hoá ngân hàng. Thường xuyên kiểm tra và giúp chi nhánh, phòng giao
dịch khai báo dữ liệu đúng và đầy đủ, ngoài ra còn tiến hành lập chương trình
tính và hạch toán tiền lương, quản lý tài sản, dự chi tiết kiệm… Thiết kế trang
Web nội bộ SGDI. Trong năm Sở đã thành lập phòng vi tính để có thể thực hiện
chuyên môn hoá công tác ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác kế toán
và các ở các bộ phận khác ở ngân hàng. Mọi hoạt động khai báo dữ liệu khách
hàng, hạch toán, lưu trữ thông tin đều được thực hiện trên máy giúp cho quá
trình thanh toán diễn ra một cách nhanh chóng, thuận tiện và chính xác. Hệ
thống thanh toán SGDI nói riêng NHNo và PTNT Việt Nam nói chung đang
từng bước được hoàn thiện và phát triển hơn phù hợp với yêu cầu của nền
kinh tế.

×