Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU Thực trạng và giải pháp.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (465.01 KB, 62 trang )

Chuyờn thc tp cui khúa
trờng đại học kinh tế quốc dân
KHOA THƯƠNG MạI Và KINH Tế QUốC Tế

ơ
CHUYÊN Đề THựC TậP CUốI
KHOá
Đề tà i:
HOT NG XUT KHU HNG DT MAY VIT NAM
SANG TH TRNG EU: THC TRNG V GII PHP
Sinh viên thực hiện : TRầN LONG áNH
Mã sinh viên : cq480138
Lp : kinh tế quốc tế b
Khoá : 48
Giáo viên hớng dẫn : ths. đỗ thị hơng
Sinh viờn thc hin: Trn Long nh Lp: Kinh t Quc t 48B

Chuyên đề thực tập cuối khóa
Sinh viên thực hiện: Trần Long Ánh Lớp: Kinh tế Quốc tế 48B
2
Hµ Néi - 2010
Chuyên đề thực tập cuối khóa
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực tập, được sự giúp đỡ nhiệt tình của các anh chị ở Ban
Nghiên cứu thị trường, Viện Nghiên cứu Thương mại – Bộ Công thương và
sự chỉ dẫn của ThS. Đỗ Thị Hương, tôi đã hoàn thành chuyên đề thực tập cuối
khóa của mình. Tuy nhiên do hạn chế về kỹ năng và kinh nghiệm thực tế nên
chuyên đề không tránh khỏi thiếu sót nhất định. Vì vậy, tôi rất mong được sự
đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo,các anh chị Ban Nghiên cứu thị trường,
Viện Nghiên cứu Thương mại để tôi có thể hoàn thiện hơn chuyên đề của
mình.


Tôi xin chân thành cảm ơn
Sinh viên
Trần Long Ánh
Sinh viên thực hiện: Trần Long Ánh Lớp: Kinh tế Quốc tế 48B
Chuyên đề thực tập cuối khóa
MỤC LỤC
Sinh viên thực hiện: Trần Long Ánh Lớp: Kinh tế Quốc tế 48B
Chuyên đề thực tập cuối khóa
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT
Chữ viết tắt Nghĩa đầy đủ
Tiếng Anh Tiếng Việt
1 EC European Committee Uỷ ban châu Âu
3 EU European Union Liên minh châu Âu
4 KNXK Kim ngạch xuất khẩu
5 WTO World Trade Orgnization Tổ chức thương mại thế giới
Sinh viên thực hiện: Trần Long Ánh Lớp: Kinh tế Quốc tế 48B
Chuyên đề thực tập cuối khóa
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau hơn 20 năm đổi mới, cải cách, mở cửa phát triển nền kinh tế theo
cơ chế định hướng xã hội chủ nghĩa, ngành công nghiệp dệt may Việt Nam đã
trở thành ngành kinh tế mũi nhọn hướng ra xuất khẩu và ngày càng khẳng
định vai trò không thể thiếu trong đời sống kinh tế - xã hội. Trước xu thế hội
nhập của nền kinh tế khu vực và thế giới, dệt may Việt Nam càng đứng trước
Sinh viên thực hiện: Trần Long Ánh Lớp: Kinh tế Quốc tế 48B
Chuyên đề thực tập cuối khóa
nhiều cơ hội và thách thức lớn. Với những quy định của Hiệp định Thương
mại về hàng dệt và may mặc đối với các thành viên của WTO và những cam

kết của Việt Nam khi gia nhập WTO đối với ngành dệt may có tác động trực
tiếp tới ngành dệt may Việt Nam. Ngành dệt may đang đứng trước vận hội
mới, thâm nhập và phát triển thị trường mới, giữ vững thị trường truyền thống
là vấn đề được đặt ra hiện nay.
EU là thị trường tiêu thụ hàng dệt may lớn nhất thế giới đồng thời cũng
là bạn hàng truyền thống của dệt may xuất khẩu Việt Nam. Nhưng trong thời
gian qua, kim ngạch xuất khẩu dệt may sang EU còn rất khiêm tốn, chưa
tương xứng với tiềm năng phát triển ngành dệt may của Việt Nam cũng như
nhu cầu tiêu thụ của EU. Chính vì vậy, vấn đề đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt
may Việt Nam sang EU trong thời gian tới là hết sức thiết thực. Xuất phát từ
lý do đó, em xin chọn đề tài “Hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
sang thị trường EU: Thực trạng và giải pháp” làm chuyên đề thực tập.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu:
Chuyên đề đi vào phân tích thực trạng, đánh giá những thành công
cũng như những tồn tại của hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang
EU. Từ đó đưa ra một số giải pháp để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng dệt
may của Việt Nam sang thị trường EU.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Khái quát những đặc điểm, tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam.
- Phân tích thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang EU trong
thời gian qua, đánh giá những mặt thành công, hạn chế và chỉ rõ những
nguyên nhân dẫn dến thành công, hạn chế đó.
- Đưa ra những giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt
Nam sang thị truờng EU trong thời gian tới.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Không gian: Nghiên cứu hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
Sinh viên thực hiện: Trần Long Ánh Lớp: Kinh tế Quốc tế 48B

7
Chuyên đề thực tập cuối khóa
sang thị trường EU.
- Thời gian: Tập trung nghiên cứu tình hình xuất khẩu hàng dệt may
Việt Nam sang thị trường EU trong giai đoạn 2000 – 2009.
4. Kết cấu chuyên đề
Ngoài phần mở đầu và kết luận chuyên đề được chia làm 3 phần.
Chương 1: Tổng quan về hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị
trường EU trong thời gian qua.
Chương 3: Định hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt
may Việt Nam sang thị trường EU đến năm 2020.
Sinh viên thực hiện: Trần Long Ánh Lớp: Kinh tế Quốc tế 48B
8
Chuyên đề thực tập cuối khóa
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
HÀNG DỆT MAY
1.1. Tổng quan về ngành dệt may Việt Nam
Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, các sản phẩm về may mặc
ngày càng hoàn thiện. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật cùng với những
phát minh khoa học trong lĩnh vực công nghiệp đã giúp cho ngành dệt may có
sự phát triển vượt bậc.
Ở Việt Nam, dệt may cũng là một trong những ngành được chú trọng
phát triển khi Việt Nam thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Với những
ưu thế về nguồn nhân công dồi dào, lượng vốn đầu tư không lớn, khả năng
thu hút vốn nhanh, Việt Nam có thể đẩy mạnh hoạt động của ngành dệt may
để vừa thu về giá trị xuất khẩu lớn, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế của đất
nước, vừa giải quyết được việc làm cho phần lớn người lao động.
1.1.1. Đặc điểm của ngành dệt may Việt Nam
Dệt may là một ngành sản xuất khá đặc thù thường kéo dài trên rất

nhiều công đoạn. Mỗi công đoạn lại có quy trình sản xuất riêng, phức tạp và
có nhiều quy trình sản xuất con. Trong khi đó, việc sản xuất lại phục vụ cho
nhiều tiêu thức như: gia công theo đơn đặt hàng hay sản xuất tự tiêu thụ. Mỗi
phương thức lại có những khác biệt về việc theo dõi bán hàng, cung ứng
nguyên phụ liệu cũng như các phân tích quản trị khác liên quan đến điều độ
sản xuất.
Từ tháng 4 ngành dệt may bắt đầu vào vụ cao điểm sản xuất. Các hợp
đồng sản xuất hàng hoá được chia theo 2 mùa rõ rệt: quần áo mùa đông sản
xuất từ tháng 4 đến tháng 9 và mùa hạ từ tháng 11 đến tháng 1. Ngoài thời
gian cao điểm này, hơn 2 tháng còn lại, các doanh nghiệp dệt may khá “rỗi”
việc, khối lượng công việc chỉ bằng 60% các tháng còn lại.
Một đặc thù khác của ngành dệt may Việt Nam là phụ thuộc phần lớn
vào nguyên liệu nhập khẩu (70% nguồn xơ, sợi là nhập khẩu), công nghệ còn
lạc hậu so với thế giới, lợi nhuận thực thu chỉ chiếm chưa đầy 20% tổng kim
ngạch xuất khẩu, xuất khẩu hầu hết qua trung gian dưới hình thức gia công,
Sinh viên thực hiện: Trần Long Ánh Lớp: Kinh tế Quốc tế 48B
9
Chuyên đề thực tập cuối khóa
các giao dịch kinh tế phụ thuộc vào nhìêu ý kiến chỉ định từ phía khách hàng.
Như vậy, đặc thù của ngành may là “gia công- bán sức lao động” cho nên
hiệu quả sản xuất kinh doanh đạt thấp. Các doanh nghiệp khu công nghiệp mở
rộng, chủ yếu là các doanh nghiệp nước ngoài thu hút nhiều lao động, nhưng
không mất chi phí đào tạo, mà chủ yếu thu hút lao động của các doanh nghiệp
trong nước, vì vậy đã tạo ra sự cạnh tranh khá gay gắt về lao động khiến các
doanh nghiệp trong nước thường xuyên bị biến động về lực lượng lao động.
1.1.2. Các sản phẩm của ngành dệt may Việt Nam
Sản phẩm của ngành dệt may không chỉ được biết đến đơn thuần là các
sản phẩm quần áo, mà bao gồm những sản phẩm dùng trong các ngành và
sinh hoạt như: lều, buồm, chăn , màn, rèm…
Với ngành may mặc Việt Nam, sản phẩm của ngành cũng rất đa dạng

nhằm đáp ứng yêu cầu xuất khẩu. Những sản phẩm may mặc phổ biến thường
được xuất khẩu sang các thị trường chính của Việt Nam, như Mỹ, EU, Nhật
bản, là quần dài, quần short, áo jacket, áo sơ mi, áo bông, áo thun…
Sản phẩm dệt may của Việt Nam hiện có nhiều lợi thế so với các nước
xuất khẩu khác như Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan... vì nhiều hãng thời
trang lớn trên thế giới và thị trường nhập khẩu lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản,
Hàn Quốc… đang có xu hướng tìm đến sản phẩm của Việt Nam, do các
doanh nghiệp đã có thể đáp ứng tốt yêu cầu về chất lượng của sản phẩm
trung, cao cấp.
1.1.4. Nguồn nhân lực trong ngành dệt may
Dệt may hiện là ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động nhất. Lao
động của ngành dệt may chiếm hơn 20% lao động trong khu vực công nghiệp
và gần 5% trong tổng lực lượng lao động toàn quốc. Nguồn nhân lực của
ngành dệt may có những đặc điểm sau:
- Gần 80% là lao động nữ, trình độ văn hóa của người lao động tương
đối cao, chủ yếu là đã tốt nghiệp phổ thông trung học. Lao động trực tiếp của
ngành đa số tuổi đời còn rất trẻ, tỷ lệ chưa có gia đình cao sẽ là lợi thế cho
việc đào tạo và nâng cao năng suất lao động.
- Mức độ tập trung lao động dệt may trong các doanh nghiệp không
Sinh viên thực hiện: Trần Long Ánh Lớp: Kinh tế Quốc tế 48B
10
Chuyên đề thực tập cuối khóa
cao. Lao động trong ngành dệt may hiện nay tăng nhanh và tập trung chủ yếu
trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, sau đó là doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài. Hai loại hình doanh nghiệp này hiện nay đang thu hút 2/3 lao
động của toàn ngành dệt may.
- Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam hiện đang phân bố theo các cụm
công nghiệp dệt may. Hai vùng tập trung nhiều lao động ngành dệt may và có
sự tăng trưởng nhanh trong những năm qua là vùng Đông Nam Bộ và Đồng
bằng sông Hồng. Lao động có trình độ thạc sĩ và đại học của toàn ngành hầu

hết cũng tập trung ở 2 khu vực này.
Xét tỷ lệ lao động có trình độ cao đẳng trở lên trên tổng số lao động
toàn ngành thì đó là một con số khá khiêm tốn – hơn 4%. Tuy là ngành sử
dụng nhiều công nhân, nhưng một tỷ lệ như vậy đã được các chuyên gia trong
ngành đánh giá là quá thấp.
Nhận định chung về lực lượng cán bộ hiện nay của ngành dệt may đang
có xu hướng già đi, và chưa có lớp kế cận. Lý do là thu nhập bình quân của
ngành dệt may thấp so với các ngành khác và điều kiện làm việc cũng như đãi
ngộ cũng không tốt, nên thiếu hấp dẫn trong việc thu hút lao động.
Cán bộ thiết kế mẫu mốt, cán bộ marketing trong các doanh nghiệp
dệt may đang rất thiếu và yếu, đặc biệt trong lĩnh vực sử dụng internet để tạo
lợi thế trong tiếp cận khách hàng ở các nước và marketing cho công ty và
sản phẩm.
Về năng suất lao động, ngành dệt may của ta có năng suất lao động
thấp hơn so với khu vực. Cùng một ca làm việc, năng suất lao động bình
quân của một lao động ngành dệt may Việt Nam chỉ đạt 12 áo sơ mi ngắn
tay hoặc 10 quần, thì một lao động Hồng Kông năng suất lao động là 30 áo
hoặc 15 – 20 quần.
Những bất cập về nguồn nhân lực, đặc biệt là về chất lượng nguồn
nhân lực đã làm giảm đáng kể khả năng cạnh tranh của toàn ngành. Mục tiêu
hiện nay mà ngành dệt may đặt ra cho mình là phấn đấu đứng trong top 5
nước xuất khẩu dệt may lớn của thế giới, và định hướng phát triển của ngành
là theo hướng thời trang – công nghệ - thương hiệu. Với hướng đi như vậy
Sinh viên thực hiện: Trần Long Ánh Lớp: Kinh tế Quốc tế 48B
11
Chuyên đề thực tập cuối khóa
nguồn nhân lực của toàn ngành dệt may phải hướng đến chất lượng cao,
nguồn nhân lực cần là yếu tố quan tâm số một trong việc tạo ra lợi thế cạnh
tranh, đào tạo cần được coi là giải pháp cơ bản và quan trọng nhất để nguồn
nhân lực đạt đến chất lượng mong muốn.

1.1.5. Phân tích SWOT đối với ngành dệt may Việt Nam
Mô hình SWOT là kết quả của quá trình phân tích các yếu tố bên trong
và bên ngoài. SWOT là viết tắt của Strengths (điểm mạnh), Weakness (điểm
yếu), Opportunities (Cơ hội), Threats (Thách thức), trong đó các Điểm mạnh
và Điểm yếu được coi là yếu tố môi trường nội bộ, còn Cơ hội và Thách thức
được coi là yếu tố môi trường bên ngoài phải đối mặt, được liệt kê theo mức
độ quan trọng tăng dần.
Bảng 1.1: Phân tích SWOT đối với ngành dệt may Việt Nam
Điểm
mạnh
- Nguồn lao động dồi dào, khéo léo, cần cù, chịu khó.
- Tiền gia công sản phẩm rẻ, chi phí nhân công thấp.
- Chất lượng các sản phẩm may mặc của Việt Nam được các nước
nhập khẩu đánh giá cao.
- Kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam ngày càng tăng
và thị trường xuất khẩu ngày càng được mở rộng.
- Các doanh nghiệp may đang dần chú trọng và có kế hoạch đầu tư
nâng cao năng lực thiết kế, năng suất lao động, ứng dụng công nghệ
vào sản xuất làm giảm lãng phí về nguyên vật liệu.
Điểm
yếu
- Công nghệ của các doanh nghiệp trong ngành vẫn còn lạc hậu.
- Lao động có tay nghề cao, giàu kinh nghiệm còn chiếm tỷ lệ nhỏ.
- Chủ yếu là thực hiện may gia công cho các doanh nghiệp nước
ngoài nên giá trị gia tăng của ngành may còn thấp.
- Chưa xây dựng được thương hiệu riêng cho ngành may của Việt
Nam tại thị trường nước ngoài nên không chủ động được kênh phân
phối và thị trường tiêu thụ.
- Phần lớn nguyên liệu cho ngành may mặc hiện nay vẫn phải nhập
khẩu dẫn đến giá trị thực tế thu được của ngành chưa cao.

Sinh viên thực hiện: Trần Long Ánh Lớp: Kinh tế Quốc tế 48B
12
Chuyên đề thực tập cuối khóa
- Ngành may mặc Việt Nam hiện chưa chú trọng nhiều đến thị
trường nội địa.
- Khả năng tự thiết kế còn yếu, phần lớn là làm theo mẫu mã đặt
hàng của phía nước ngoài để xuất khẩu.

hội
-Dân số Việt Nam đông sẽ cung cấp một nhu cầu lớn cho ngành may
mặc Việt Nam.
-Mức sống và thu nhập của người dân ngày càng tăng lên sễ khiến
cho nhu cầu đối với các sản phẩm may mặc ngày càng tăng, đặc biệt
là các sản phẩm trung và cao cấp.
-Hàng may mặc của Việt Nam ngày càng nhận được sự tín nhiệm
của các nước nhập khẩu (Mỹ, EU, Nhật Bản…) do chất lượng sản
phẩm cao nên sẽ có thể mở rộng hơn thị phần xuất khẩu cũng như
tăng giá trị xuất khẩu.
-Việt Nam trở thành thành viên của WTO sẽ được hưởng những ưu
đãi về thuế suất khi xuất khẩu hàng may mặc vào các nước khác.
Thách
thức
- Các quốc gia nhập khẩu thường có những yêu cầu nghiêm ngặt đối
với chất lượng của hàng may mặc nhập khẩu vào, bao gồm cả hàng
hóa của Việt Nam.
- Hàng hóa Việt Nam cũng như của một số quốc gia khác có nguy cơ
bị kiện bán phá giá và áp mức thuế chống bán phá giá nhằm bảo vệ
ngành may mặc của nước nhập khẩu.
- Sự cạnh tranh mạnh mẽ của hàng may mặc Trung Quốc với giá
thành rẻ và kiểu dáng mẫu mã đa dạng, phù hợp với thu nhập của

người dân Việt Nam và các nước trên thế giới.
- Các rào cản về kỹ thuật, vệ sinh, an toàn, trách nhiệm xã hội, chống
trợ giá ngày càng tăng tại các thị trường lớn có khả năng gây thiệt hại
cho ngành.
Nguồn: Báo cáo phân tích ngành dệt may,
Mục đích của việc phân tích này là xác định rõ vị thế của ngành dệt
may trên thị trường. Bản chất của phân tích SWOT là tìm ra phân đoạn thị
trường, có các cơ hội phù hợp với điểm mạnh, còn các thách thức có tác động
nhỏ nhất tới các mặt dễ bị tổn hại, yếu thế của ngành. Trên thực tế, bằng cách
Sinh viên thực hiện: Trần Long Ánh Lớp: Kinh tế Quốc tế 48B
13
Chuyên đề thực tập cuối khóa
tìm các cơ hội bên ngoài phù hợp với các nguồn lực bên trong, nhà xuất khẩu
có thể xác định được các thị trường mục tiêu, các phân đoạn thị trường phù
hợp và các sản phẩm mục tiêu trên thị trường ấy.
1.2. Thực trạng sản xuất và xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam
trong thời gian qua
1.2.1. Thực trạng sản xuất hàng dệt may Việt Nam giai đoạn 2000 - 2009
Cùng với những biến đổi tích cực của nền kinh tế suốt hơn 23 năm thực
hiện đổi mới, ngành dệt may Việt nam cũng có nhiều bước đi tiến bộ. Năng
lực sản xuất và chất lượng hoạt động ngày càng được nâng cao. Nhiều sản
phẩm của ngành đã được nhiều khách hàng trên thế giới đón nhận, kim ngạch
xuất khẩu ngày càng có những bước tiến vượt bậc. Ngành dệt may đã từng
bước khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
Tình hình về ngành dệt may Việt Nam hiện nay
Trong những năm gần đây, ngành dệt may Việt Nam đã có những bước
phát triển đáng kể với tốc độ trên dưới 20%/năm, kim ngạch xuất khẩu chiếm
15% kim ngạch xuất khẩu cả nước. Giá trị sản xuất công nghiệp của ngành
dệt may tăng nhanh. Các sản phẩm chủ yếu như: sợi, vải lụa, quần áo dệt kim,
quần áo may sẵn đều tăng. Sự phát triển ấn tượng của ngành dệt may đã góp

phần đưa Việt Nam trở thành một trong 9 nước xuất khẩu hàng may mặc lớn
nhất trong số 153 nước xuất khẩu hàng dệt may trên toàn thế giới. Dệt may
đang vươn lên và tham gia vào những mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch xuất
khẩu trên 1 tỷ USD của Việt Nam, bên cạnh những mặt hàng khác như dầu
thô, giày dép, thủy sản… Năm 2009, kim ngạch xuất khẩu của dệt may Việt
Nam đạt 9,2 tỷ USD, tăng 1% so với năm 2008.
Doanh nghiệp dệt may của Việt Nam hiện nay chủ yếu vẫn là thực hiện
các đơn hàng gia công xuất khẩu cho phía nước ngoài. Số doanh nghiệp có
khả năng thiết kế và sản xuất các sản phẩm thời trang hiện vẫn chưa nhiều.
Do đó giá trị gia tăng trong các sản phẩm may mặc của Việt Nam còn thấp,
dẫn đến lợi nhuận thu về chưa tương xứng với khả năng cũng như giá trị xuất
khẩu cao trong những năm qua. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp dệt may trong
nước lại chưa chú trọng đến thị trường nội địa với số dân đông đảo như hiện
Sinh viên thực hiện: Trần Long Ánh Lớp: Kinh tế Quốc tế 48B
14
Chuyên đề thực tập cuối khóa
nay. Chính vì thế, hàng may mặc Việt Nam dù được đánh giá khá cao tại
nước ngoài thì lại không được coi trọng ở trong nước. Quần áo của Trung
Quốc với giá rẻ và mẫu mã đa dạng có thể được tìm thấy ở khắp các cửa
hàng, siêu thị, chợ của Việt Nam trong khi hàng Việt Nam thì hầu như vắng
bóng. Gần đây, hàng may mặc của Việt Nam với một số thương hiệu như
May 10, Việt Tiến, Ninomax, Made in Vietnam… đã dần được người tiêu
dùng Việt Nam chú ý hơn. Tuy nhiên ở phân khúc thị trường hàng may mặc
giá rẻ thì hàng Việt Nam vẫn chưa thể cạnh tranh được với hàng Trung Quốc
ngay trên “sân nhà”.
Một thực tế nữa là ngành may mặc của Việt Nam vẫn bị phụ thuộc khá
nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu từ nước ngoài, với trị giá nguyện phụ liệu
nhập khẩu thường chiếm gần 70 – 80% so với giá trị kim ngạch xuất khẩu.
Tuy đã được chú trọng đầu tư về công nghệ, dây chuyền sản xuất hiện đại hơn
nhưng nguyên liệu sản xuất trong nước hoặc không đủ cho nhu cầu sử dụng

để sản xuất hàng xuất khẩu, hoặc không đáp ứng được tiêu chuẩn của khách
hàng nước ngoài. Nhiều đơn đặt hàng, phía nước ngoài cũng chỉ định luôn
nhà cung cấp nguyên vật liệu khiến cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam
không có điều kiện sử dụng những nguyên liệu sản xuất trong nước với giá
thành rẻ hơn. Như vậy, giá trị thực tế mà ngành may thu được không hề cao
so với con số kim ngạch xuất khẩu.
Trình độ công nghệ và năng lực sản xuất của các doanh nghiệp dệt may
Việt Nam hiện nay vẫn còn thấp hơn 30 – 50% so với mặt bằng chung của
khu vực. Đây là một thiệt thòi lớn cho ngành may mặc của Việt Nam. Tuy
nhiên, trong thời gian qua, một số doanh nghiệp cũng đã chủ động đầu tư cải
tiến về công nghệ nhằn nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, tiết kiệm
chi phí, từ đó tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Xét về năng lực sản xuất:
Hiện nay Việt Nam có khoảng 2500 doanh nghiệp dệt may, trong đó
DNNN chiếm 0,5%, DN có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 25%, còn lại là các
DN tư nhân và các công ty cổ phần. Toàn ngành hiện đang sử dụng khoảng
hơn 2,2 triệu lao động, sản xuất khoảng 2 tỷ sản phẩm dệt may trong đó có tới
Sinh viên thực hiện: Trần Long Ánh Lớp: Kinh tế Quốc tế 48B
15
Chuyên đề thực tập cuối khóa
65% là dành cho xuất khẩu. Các doanh nghiệp tập trung chủ yếu ở các thành
phố lớn như: TP Hồ Chí Minh, Hà Nội và các vùng lân cận, còn lại là ở các
vùng duyên hải miền Trung. Sự phân bố này cho thấy ngành dệt may mới chỉ
tập trung ở các thành phố lớn ở hai miền Nam và Bắc, miền Trung và các tỉnh
Tây Nguyên vẫn còn rất ít, mặc dù đây là nơi dồi dào về sức lao động cũng
như tiềm năng rất lớn về nguyên liệu. Vì vậy trong thời gian tới rất mong
Chính phủ và các Bộ ngành có liên quan có các chính sách đầu tư phù hợp đối
với khu vực này.
Tính đến nay thì công nghiệp ngành phụ trợ dệt may cũng phát triển
khá tốt. Trước đây, hầu hết các nguyên liệu dệt may phải nhập khẩu thì bây

giờ chúng ta đã sản xuất được một phần nguyên phụ liệu cho ngành dệt may.
Bên cạnh đó, tình hình sản xuất hóa chất thuốc nhuộm phục vụ
ngành may mặc cũng phát triển theo chiều hướng khả quan, ngành dệt
may đang phấn đấu đạt được tỷ lệ nguyên liệu nội địa hóa là khoảng 50%
vào năm 2012.
Xét về cơ cấu mặt hàng dệt may:
Ngành công nghiệp dệt may đã có những thay đổi đáng kể từ sau đổi
mới, từ chỗ sản xuất không đủ cho nhu cầu trong nước đến nay đã có thể đáp
ứng được và còn xuất khẩu với kim ngạch ngày càng cao. Để đáp ứng tốt hơn
nhu cầu rộng rãi của khách hàng, các sản phẩm dệt may cũng có nhiều thay
đổi, đa dạng hóa cả về mẫu mã và chất lượng.
Trong khâu sản xuất sợi, tỷ trọng sợi nhân tạo được sử dụng tăng lên.
Trong khâu dệt vải, đã có nhiều sản phẩm dệt cao cấp được sản xuất.
Cơ cấu các sản phẩm may công nghiệp cũng có những thay đổi đáng
kể, từ chỗ chỉ may quần áo bảo hộ lao động, đồng phục học sinh đến nay
ngành đã có những sản phẩm chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao
của khách hàng trong và ngoài nước: quần jean, comple… Sản xuất phụ liệu
may cũng có nhiều thay đổi cả về chủng loại và chất lượng như: khóa kéo
Nha Trang, chỉ khâu Phong Phú… đạt tiêu chuẩn quốc tế và được sử dụng
trong may xuất khẩu.
Bên cạnh những cải tiến rất lớn trong ngành dệt may thì cũng có những
Sinh viên thực hiện: Trần Long Ánh Lớp: Kinh tế Quốc tế 48B
16
Chuyên đề thực tập cuối khóa
tồn tại như: trang thiết bị chuyên dụng hiện đại còn ít nên phải dùng thủ công
nhiều khiến năng suất lao động thấp và một số sản phẩm cao cấp như:
comple, áo khoác dạ… thì có ít doanh nghiệp sản xuất được.
Xét về đầu tư:
Hiện nay dệt may đang là ngành kinh tế mũi nhọn của nước ta nên
được chú trọng đầu tư: đầu tư đổi mới công nghệ, đầu tư vào lĩnh vực sản

xuất nguyên phụ liệu…để chủ động hơn trong sản xuất dệt may. Toàn ngành
hiện có 153 dự án với tổng mức đầu tư là 1973,6 tỷ đồng, chủ yếu cho các
công ty dệt: 920,8 tỷ đồng, các công ty may: 505,1 tỷ, còn lại là các doanh
nghiệp khác.
Đầu tư cho ngành dệt may vẫn đang được coi là một trong những vấn
đề nóng bỏng của ngành này trong bối cảnh đẩy mạnh xuất khẩu. Mục tiêu
của ngành dệt may là sẽ đạt mức 12 tỷ USD vào năm 2010 này và 20 đến 22
tỷ USD vào năm 2020.
1.2.2. Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam giai đoạn 2000 - 2009
Trước tình hình sản xuất hàng dệt may, ngành dệt may Việt Nam đã có
những bước thâm nhập vào thị trường thế giới và đã mang lại nhiều kết quả
đáng ghi nhận.
1.2.2.1. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
Trong những năm qua ngành dệt may Việt Nam đã có những đóng góp
to lớn vào nền kinh tế nước ta nói chung và kim ngạch xuất khẩu nói riêng.
Theo số liệu của Bộ Công thương, từ năm 1992, dệt may luôn đứng trong
nhóm 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của ta, đặc biệt từ năm 1994 đến nay dệt
may luôn đứng thứ hai về kim ngạch xuất khẩu chỉ sau dầu thô. Năm 1996
kim ngạch xuất khẩu dệt may đạt 1,15 tỷ USD, đây là lần đầu tiên kim ngạch
xuất khẩu vượt qua ngưỡng 1 tỷ USD. Đến năm 1996, 1997 xuất khẩu dệt
may trì trệ với mức tăng trưởng khoảng 0,14% do khủng hoảng tiền tệ châu
Á. Năm 1999, 2000 hoạt động xuất khẩu lại lấy được bước tăng trưởng. Với
việc ký kết hiệp định thương mại Việt-Mỹ (BTA), ngành dệt may Việt Nam
đã tiếp cận được thị trường đầy tiềm năng, do đó từ năm 2001 đến năm 2004
KNXK dệt may tăng trung bình 79,33 triệu USD/năm, với tốc độ bình quân
Sinh viên thực hiện: Trần Long Ánh Lớp: Kinh tế Quốc tế 48B
17
Chuyên đề thực tập cuối khóa
năm là 31,15%. Tuy nhiên đến năm 2005 lại là năm khó khăn đối với dệt may
Việt Nam, KNXK thấp hơn nhiều so với mục tiêu 5,3 tỷ USD đặt ra, chỉ đạt

4,8 tỷ USD tăng 11,63% so với năm 2004.
Năm 2006 dệt may lại có sự tăng trưởng trở lại với KNXK đạt 5,8 tỷ
USD tăng 1 tỷ USD so với năm 2005, với tốc độ tăng trưởng đạt 20,83%. Đến
năm 2007 Việt Nam đã lọt vào top 10 nước và vùng lãnh thổ xuất khẩu dệt
may lớn nhất thế giới, tăng 34,48% so với 2006, đạt 7,8 tỷ USD, vượt chỉ tiêu
dự tính là 7 tỷ USD. Đây là bước nhảy vọt ngoạn mục của dệt may Việt Nam,
là kết quả của sự nỗ lực không ngừng của chính phủ, bộ ngành liên quan và
sự nỗ lực tìm kiếm thị trường mới của các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu.
Nhưng đến năm 2008 thì tốc độ tăng lại chậm lại chỉ đạt 16,67% so với năm
2007 và đạt 9,1 tỷ USD. Kim ngạch cả năm 2009 đạt 9,2 tỷ USD, tăng 1% so
với năm 2008, trong điều kiện xuất khẩu của cả nước tăng trưởng “âm”, đưa
dệt may nằm trong top dẫn đầu những mặt hàng xuất khẩu của cả nước.
Không những thế, thời trang Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ
6 của Liên đoàn thời trang châu Á (AFF).
Hình 1.1: KNXK dệt may Việt Nam thời gian qua
Đơn vị: tỷ USD
0
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 Năm
Nguồn: Bộ Công thương
Mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề của cơn bão suy thoái kinh tế toàn cầu,

Sinh viên thực hiện: Trần Long Ánh Lớp: Kinh tế Quốc tế 48B
18
Chuyên đề thực tập cuối khóa
xuất khẩu của ngành dệt may năm 2009 tương đối khả quan, là ngành duy
nhất tăng trưởng được KNXK so với năm 2008, đạt 9,2 tỷ USD. Như vậy
trong năm 2009, ngành dệt may Việt Nam đã "xuất siêu" 4 tỷ USD, đóng góp
một phần không nhỏ trong việc giảm "nhập siêu" của Việt Nam; tăng tỷ lệ nội
địa hóa của hàng dệt may Việt Nam lên 44% so với mức 38% của năm 2008.
Đạt được kết quả trên là một nỗ lực lớn của các DN trong ngành, của hàng
triệu lao động trong điều kiện các thị trường tiêu dùng và nhập khẩu chính
đều suy giảm mạnh, và hầu hết các nước xuất khẩu đều bị giảm KNXK.
Bảng 1.2: KNXK hàng dệt may Việt Nam giai đoạn 2000 - 2009
Đơn vị: tỷ USD
Năm
200
0
200
1
2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
KNXK 1,89 2,02 2,7 3,6 4,3 4,8 5,8 7,8 9,1 9,2
Tăng
(%)
… 6,88
33,6
6
33,3
3
19,4
4
11,6

3
20,8
3
34,4
8
16,6
7
1
Nguồn: Bộ Công thương
Quý I năm 2010, dệt may tiếp tục là ngành xuất khẩu dẫn đầu cả nước
với KNXK đạt gần 2,2 tỷ USD, tăng 12,3% so với cùng kỳ năm trước. Nhiều
doanh nghiệp dệt may đã ký được hợp đồng xuất khẩu đến hết năm 2010. Với
KNXK này, dệt may được đánh giá là ngành sản xuất ổn định và có tốc độ
tăng trưởng khá.
1.2.2.2. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của dệt may Việt Nam
Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của dệt may Việt Nam thời gian vừa qua có
sự mất cân đối trầm trọng, xuất khẩu chủ yếu là hàng may mặc, còn hàng dệt
có tỷ lệ rất thấp, chỉ khoảng 10% KNXK. Các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là
các sản phẩm chưa có độ phức tạp, chủ yếu là áo jacket (khoảng 51,6%), áo
sơ mi (khoảng 11%), áo len và áo dệt kim (khoảng 4%)… Các sản phẩm cao
cấp yêu cầu phức tạp chúng ta chưa sản xuất được hoặc sản xuất và xuất khẩu
với tỷ lệ rất nhỏ.
1.2.2.3. Hình thức xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
Sinh viên thực hiện: Trần Long Ánh Lớp: Kinh tế Quốc tế 48B
19
Chuyên đề thực tập cuối khóa
Hiện nay hình thức xuất khẩu chủ yếu của dệt may Việt Nam vẫn là
xuất khẩu gián tiếp qua trung gian như: Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan…
hay gia công cho nước ngoài chiếm tới 70%. Mặc dù gia nhập WTO cơ hội
được làm việc trực tiếp với nước ngoài là lớn hơn song tỷ lệ xuất khẩu trực

tiếp theo giá FOB cũng chỉ đạt 30%.
Hình thức gia công là xuất khẩu qua một nước trung gian, chủ yếu là
qua các nước NICs có nền công nghiệp dệt may phát triển - với vị trí là nhà
đặt hàng. Các nhà nhập khẩu đóng vai trò là chủ hàng nước ngoài và là nguồn
cung ứng chính về nguyên phụ liệu. Xuất khẩu trọn gói theo FOB là doanh
nghiệp sản xuất Việt Nam có thể thỏa thuận tự cung ứng nguồn nguyên phụ
liệu trong và ngoài nước, hình thức này mang lại lợi nhuận cao hơn, giúp
doanh nghiệp tiếp cận tốt hơn với thị trường và xu hướng thế giới.
1.2.2.4. Thị trường xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam
Dệt may Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh mẽ cả về giá trị xuất
khẩu và thị trường xuất khẩu, hiện nay hàng dệt may Việt Nam đang có mặt
trên thị trường khoảng hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ, đặc biệt là một số
thị trường lớn như: Mỹ, EU, Nhật Bản.
Kể từ sau Hiệp định thương mại Việt-Mỹ và đặc biệt khi Việt Nam trở
thành thành viên chính thức của WTO, thị trường và thị phần xuất khẩu hàng
may mặc của Việt Nam ngày càng phát triển. Trong đó, thị trường Mỹ đứng
đầu, tiếp theo là EU và Nhật bản. Ngoài ra còn có các thị trường khác như:
Đài Loan, Canada, Hàn Quốc…
Trước năm 2005, EU là thị trường có hạn ngạch lớn nhất của dệt may
Việt Nam, bên cạnh đó EU cũng dành cho Việt Nam mức ưu đãi thuế quan
phổ cập GSP. Bắt đầu từ 1/1/2005 EU đã chính thức cắt bỏ hạn ngạch dệt
may đối với Việt Nam, mặc dù năm 2005 ta vẫn chưa phải là thành viên chính
thức của WTO. Theo số liệu thống kê của Bộ Công thương, tốc độ tăng
trưởng kim ngạch dệt may sang thị trường này là khoảng 23%/năm, tuy nhiên
cũng chỉ chiếm 1% KNXK dệt may của thị trường EU. Hiện nay ta đã là
thành viên của WTO, hội nhập ngày càng sâu rộng, EU ngày càng khẳng định
vị trí quan trọng trong ngành dệt may xuất khẩu của Việt Nam.
Sinh viên thực hiện: Trần Long Ánh Lớp: Kinh tế Quốc tế 48B
20
Chuyên đề thực tập cuối khóa

Mỹ là thị trường số một của dệt may Việt Nam trong những năm gần
đây, thứ hai là EU. Trước đây EU là thị trường lớn nhất của dệt may Việt
Nam nhưng đến khi có thị trường Mỹ thì KNXK sang EU đã có phần giảm
sút, mỗi năm chỉ đạt khoảng 0,5 tỷ USD so với thị trường Mỹ là khoảng 2 tỷ
USD. Nguyên nhân của sự sụt giảm trên, đó là các doanh nghiệp dệt may Việt
Nam đã quá tập trung vào thị trường Mỹ mà bỏ qua một thị trường đầy tiềm
năng như thị trường EU.
Năm 2008, tỷ trọng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam chủ yếu là vào
Mỹ chiếm 56,3%, tiếp đến là thị trường EU chiếm 18,8%, Nhật Bản chiếm
9%, còn lại là các thị trường khác chiếm 15,9 %.
Bảng 1.2: KNXK dệt may Việt Nam sang một số thị trường.
Đơn vị: triệu USD
Thị
trường
2004 2005 2006 2007 2008 2009
KN
XK
Tỷ
trọng
(%)
KN
XK
Tỷ
trọng
(%)
KN
XK
Tỷ
trọng
(%)

KN
XK
Tỷ
trọng
(%)
KN
XK
Tỷ
trọng
(%)
KN
XK
Tỷ
trọng
(%)
EU 762 15,2 882 17,4 1243 21,4 1489 18,6 1704 18,8 1644 17,9
Mỹ 2474 53,8 2603 54 3044 52 4465 57,3 5116 56,3 4983 54,2
Nhật
Bản
531 14 604 12,9 628 10,8 704 9 820 9 1388 15,1
Các
nước
khác
618 17 749 15,8 919 15,8 1136 15,1 1442 15,9 1175 12,5
Tổng 4385 100 4838 100 5834 100 7794 100 9082 100 9190 100
Nguồn: Niên giám thống kê và Bộ Công thương
Như vậy, trong năm 2009, tỷ trọng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
vào Mỹ và EU đều giảm, ở Mỹ chỉ chiếm 54,2% và ở EU là 17,9%. Đối với
thị trường Nhật Bản, tỷ trọng xuất khẩu tăng 6,1% do Việt Nam và Nhật Bản
đã ký Hiệp định song phương từ ngày 1/10/2009, thuế suất của hàng dệt may

từ Việt Nam vào Nhật Bản được cắt giảm.
Hiện nay, thị trường xuất khẩu chủ lực của ngành dệt may Việt Nam
như Mỹ, EU đang hồi phục về kinh tế, cho nên xuất khẩu trong quý I năm
Sinh viên thực hiện: Trần Long Ánh Lớp: Kinh tế Quốc tế 48B
21
Chuyên đề thực tập cuối khóa
2010 vào các thị trường này tăng trưởng đáng kể. Nếu như năm 2009, xuất
khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ tăng trưởng âm khoảng 4%,
thì sang quý I-2010, xuất khẩu vào thị trường này ước tăng khoảng 15%; thị
trường châu Âu trong năm 2009 xuất khẩu tăng trưởng âm 3,5%, quý I-2010
đã tăng khoảng 6%. Ðạt được mức tăng trưởng xuất khẩu cao này là do các
DN dệt may đều ký được nhiều đơn hàng hơn so cùng kỳ năm trước, có nhiều
DN đã có đơn hàng xuất khẩu đến hết năm. Ðáng chú ý, mặt hàng sợi có kim
ngạch xuất khẩu tăng mạnh, các nhà máy sợi đều có khả năng xuất khẩu
1.2.3. Đánh giá khái quát về tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
giai đoạn 2000 – 2009
Trong giai đoạn 2000 – 2009, hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam đã có
những bước đi ngày càng vững chắc, đóng góp to lớn vào nền kinh tế nước ta
nói chung và kim ngạch xuất khẩu nói riêng. Dệt may luôn đứng trong nhóm
10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của ta. Và Việt Nam đang đứng thứ 10 thế
giới về xuất khẩu dệt may. Đây là một thành công to lớn mang lại cho nền
kinh tế nước ta trên bước đường hội nhập kinh tế thế giới.
Dù gặp nhiều khó khăn nhưng năm 2009 vẫn là một năm đầy thành
công đối với ngành dệt may Việt Nam, nằm trong Top đầu mặt hàng xuất
khẩu của cả nước (trừ dầu thô), sức tiêu thụ tại thị trường nội địa ngày một
gia tăng, từ chỗ phải nhập khẩu, ngành dệt may Việt Nam đã xuất khẩu được
nhiều nguyên phụ liệu ra nước ngoài.
Ngành dệt may Việt Nam cũng đã tiếp cận được thị trường Trung
Đông, xuất khẩu vải, khăn bông và phụ liệu sang một số nước như Tiểu
vương quốc Arập, Ai Cập, Nam Phi. Đặc biệt, Thổ Nhĩ Kỳ- vốn là một cường

quốc về dệt may, năm nay cũng đã nhập khẩu của Việt Nam số lượng khá lớn,
nhất là mặt hàng sợi. Các nước Đông Âu cũ cũng nhập khẩu khá lớn hàng dệt
may Việt Nam. Đáng chú ý, nhiều nước trước đây từng giúp Việt Nam về kỹ
thuật, giờ rất muốn hợp tác với Việt Nam để phát triển ngành dệt may, điển
hình như Nga, hiện đang có chương trình hợp tác với Việt Nam để phát triển
ngành dệt may của họ.
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may ngày càng tăng, thị trường xuất
Sinh viên thực hiện: Trần Long Ánh Lớp: Kinh tế Quốc tế 48B
22
Chuyên đề thực tập cuối khóa
khẩu ngày càng được củng cố và mở rộng, điều đó khiến Việt Nam đang là
một trong những điểm đến hấp dẫn, ưu tiên đầu tư của nhiều công ty, nhà
nhập khẩu trên thế giới.
Tuy nhiên bên cạnh đó, hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu cũng còn
những điểm hạn chế. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu còn nghèo nàn. Các sản
phẩm xuất khẩu chưa có độ phức tạp và tình thời trang cao, thiếu khả năng
cạnh tranh so với các nước khác. Hình thức xuất khẩu vẫn chủ yếu là xuất
khẩu gián tiếp qua trung gian.
Sinh viên thực hiện: Trần Long Ánh Lớp: Kinh tế Quốc tế 48B
23
Chuyên đề thực tập cuối khóa
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY
VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG EU TRONG THỜI GIAN QUA
2.1. Sự cần thiết phải thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU
Khi tham gia vào thương mại quốc tế, mục tiêu của các quốc gia là
hướng ra xuất khẩu. Đây là nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển
kinh tế của Việt Nam, trong đó thúc đẩy xuất khẩu, gia tăng KNXK hàng dệt
may Việt nam sang EU cũng không nằm ngoài chiến lược phát triển này.
2.1.1. Một số đặc điểm về thị trường hàng dệt may EU
Năm 1957, sáu quốc gia Tây Âu là Pháp, Tây Đức, Italia, Bỉ, Hà Lan

và Lucxămbua đã ký kết Hiệp ước đánh dấu sự ra đời của Cộng đồng kinh tế
châu Âu (EEC), còn gọi là Cộng đồng châu Âu (EC: European Union). Năm
1995 EC đã có 15 thành viên với 9 thành viên mới gồm: Anh, Ailen, Đan
Mạch, Hy Lạp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Áo, Phần Lan và Thuỵ Điển. EU
nhiều lần được mở rộng, ngày 1/5/2004 kếp nạp thêm 10 thành viên Trung và
Đông Âu nâng tổng số thành viên của EU lên 25, lần kết nạp gần đây nhất
vào ngày 1/1/2007, Bungari và Rumani chính thức là thành viên thứ 26 và 27
của Liên minh châu Âu. Sự phát triển của EU thể hiện vai trò quan trọng đối
với châu Âu nói riêng và của cả thế giới nói chung.
Thị trường EU là một thị trường chung lớn nhất thế giới. Thị trường
EU phát triển vượt xa khỏi những hiệp định mậu dịch tự do giữa các thành
viên. Đây là một liên hiệp về hải quan và tiền tệ, cho phép hàng hóa, dịch vụ,
con người và vốn được di chuyển một cách tự do điều hành bởi các định chế
chung (Ủy Ban Châu Âu, Nghị viện Châu Âu…), các hệ thống quy định, luật
lệ mang tính hoà hợp chung và các chính sách phù hợp nhất.
EU là một trong các thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam,
trong đó có xuất khẩu hàng dệt may, là thị trường có tốc độ tăng trưởng cao,
tương đối ổn định, có đồng tiền riêng khá vững chắc. Bởi vậy đẩy mạnh xuất
khẩu hàng dệt may sang thị trường EU là vấn đề cấp bách và quan trọng đối
với sự phát triển kinh tế của Việt Nam.
Với vị thế của EU trên trường quốc tế, các doanh nghiệp xuất khẩu
hàng dệt may sang EU cần biết tới EU với một số đặc điểm sau:
Sinh viên thực hiện: Trần Long Ánh Lớp: Kinh tế Quốc tế 48B
24
Chuyên đề thực tập cuối khóa
2.1.1.1. Dung lượng thị trường
EU hiện là một trong 3 trụ cột của nền kinh tế thế giới, với diện tích
khoảng 3.978.372km
2
, dân số trên 500 triệu người. Thị trường EU thống nhất

cho phép tự do lưu chuyển sức lao động, hàng hoá, dịch vụ và vốn giữa các
nước thành viên. Đây là một thị trường lớn, thị trường xuất khẩu lớn nhất thế
giới và là thị trường nhập khẩu lớn thứ hai thứ giới. Kim ngạch nhập khẩu
không ngừng tăng lên. Theo thống kê của cơ quan thống kê EU
(EUROSTAT) cơ cấu hàng hoá nhập khẩu của EU: sản phẩm chế tạo chiếm
khoảng 67,19% tổng kim ngạch nhập khẩu hằng năm, sản phẩm thô chiếm
29,74%, các sản phẩm khác chiếm khoảng 3,07%. EU còn nhập khẩu một số
mặt hàng dệt may, khoáng sản, thuỷ sản, giày dép, nông sản, cà phê… Đây là
những mặt hàng xuất khẩu thế mạnh của Việt Nam, chúng ta cần tận dụng
những cư hội, có phương thức thâm nhập tốt vào thị trường EU – một thị
trường lớn và ngày càng mở rộng.
Đối với mặt hàng dệt may nói riêng, EU là khu vực đứng đầu thế giới
về nhập khẩu mặt hàng này, chiếm 46% tổng giá trị nhập khẩu hàng dệt may
của toàn thế giới. Nhu cầu nhập khẩu hằng năm của EU vào khoảng 110 tỷ
USD hàng quần áo may sẵn và hàng dệt các loại đem đến cơ hội tuyệt vời cho
các nước xuất khẩu hàng dệt may trong đó có Việt Nam.
2.1.1.2. Tập quán và thị hiếu của người tiêu dùng hàng dệt may EU
EU là liên minh của 27 nước thành viên với trình độ phát triển kinh tế
xã hội khá đồng đều, sự tương đồng về văn hoá và địa lý cho nên người dân
thuộc khối EU có những điểm chung về sở thích và thói quen tiêu dùng.
Những sản phẩm nổi tiếng có thương hiệu trên thị trường thế giới được
người tiêu dùng EU rất ưa chuộng, vì họ cho rằng những thương hiệu này gắn
liền với chất lượng sản phẩm và đảm bảo chất lượng an toàn cho người sử
dụng. Đối với khách hàng EU họ sẵn sàng mua những sản phẩm giá đắt, có
thương hiệu nổi tiếng mà không dùng những sản phẩm không nổi tiếng cho
dù giá rất rẻ.
Đối với mặt hàng dệt may: Người tiêu dùng EU thường dùng những
sản phẩm không chứa chất nhuộm có nguồn gốc hữu cơ. Họ đặc biệt quan
Sinh viên thực hiện: Trần Long Ánh Lớp: Kinh tế Quốc tế 48B
25

×