Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.79 KB, 28 trang )

CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ
NHỎ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1- DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ - MỘT LOẠI HÌNH DOANH
NGHIỆP QUAN TRỌNG
1.1.1- Khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ
Các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc gần đây đã khẳng định: Phát triển
doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) là một nhiệm vụ quan trọng trong
chiến lược phát triển kinh tế xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại
hoá đất nước. Nhà nước ta khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho
DNVVN phát huy tính chủ động sáng tạo vốn có, nâng cao năng lực
quản lý, phát triển khoa học công nghệ và nguồn nhân lực, mở rộng các
mối liên kết với các loại hình doanh nghiệp khác, tăng hiệu quả kinh
doanh và khả năng cạnh tranh trên thị trường, tạo việc làm và nâng
cao đời sống cho người lao động.
Trên thế giới có rất nhiều quan điểm cũng như tiêu thức khác nhau dể định nghĩa và
phân biệt DNVVN với các loại hình doanh nghiệp khác. Trong đó có hai tiêu thức được sử
dụng phổ biến nhất là: tổng số vốn sản xuất kinh doanh và số lượng lao động của doanh
nghiệp (DN).
Đối với Việt Nam, văn bản đầu tiên đưa ra tiêu chí xác định DNVVN là công văn số
681/CP-KTN ban hành ngày 20/06/1998. Theo đó, DNVVN được tạm thời quy định là
“Những DN có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và có số lao động trung bình hàng năm dưới 200
người”. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước, các DN mới ra
đời ngày một nhiều, có không ít DN có số vốn vượt quá 5 tỷ đồng nhưng vẫn chưa đủ mạnh
để được coi là một DN lớn. Để đáp ứng được đòi hỏi của thực tế, ngày 23/11/2003, Chính
phủ đã ban hành Nghị định 90/NĐ-CP đưa ra tiêu chí mới để xác định DNVVN của Việt Nam.
Theo Nghị đinh:
“Doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập,
đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký
không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm
không quá 300 người”.
Vì tình hình kinh tế của mỗi địa phương là khác nhau nên trong


khi phân loại các DN có thể áp dụng cả hai chỉ tiêu hoặc chỉ sử dụng
một trong hai chỉ tiêu vốn và số lượng lao động để xếp loại và có những
định hướng cũng như các chính sách hỗ trợ.
1.1.2- Đặc điểm của DNVVN ở Việt Nam
Theo số liệu của Chi cục Thống kê TP Hà Nội, đến hết năm 2001,
về mặt số lượng các DNVVN trên địa bàn chiếm tuyệt đại đa số trong
tổng số DN của thủ đô(Số DN có dưới 500 lao động chiếm 96%, số DN
có vốn dưới 10 tỷ đồng chiếm 85%). Phần lớn các DNVVN nằm trong
khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực
thương mại(khoảng 50%) và công nghiệp(khoảng 22-24%) tiếp theo là
xây dựng, kinh doanh khách sạn nhà hàng…Với số lượng đông đảo như
trên, các DNVVN có một số đặc điểm nổi bật như sau:
a, Chủ doanh nghiệp có trình độ chưa cao nên khả năng quản lý, điều
hành hoạt động sản xuất, kinh doanh thấp.
Theo số liệu thống kê, chủ các DNVVN thường chỉ có trình độ học
vấn dưới đại học, rất hiếm người học đại học hoặc trên đại học vì vậy
những kiến thức về thị trường cũng như hiểu biết về các quy luật kinh
tế, các quy định của pháp luật còn nhiều hạn chế. Do những hạn chế về
kiến thức nói trên mà các ông chủ này gặp rất nhiều khó khăn trong
việc lập kế hoạch sản xuất, phân phối, tiêu thụ hàng hoá cũng như nắm
bắt các công nghệ hiện đại và có kế hoạch lâu dài nhằm mang lại lợi
nhuận cho DN cũng như sự phát triển ổn định cho nền kinh tế.
b, DNVVN có quy mô hoạt động nhỏ bé
Do nguồn vốn tự có ban đầu nhỏ bé lại thêm khó khăn trong việc
tiếp cận với nguồn vốn của ngân hàng cũng như các tổ chức tín dụng
nên quy mô hoạt động của các DN này ngay từ đầu đã rất nhỏ bé, mang
tính tự phát. Hơn nữa, trong quá trình hoạt động, các DNVVN ít khi tiếp
cận được những khách hàng lớn và những nguồn vốn rẻ nên cơ hội để
mở rộng quy mô sản xuất là rất hiếm hoi. Vì vậy, muốn mở rộng quy mô
cho các DNVVN nhà nước và đặc biệt là các NHTM có những chính sách

ưu đãi đối với họ.
c, Sức cạnh tranh của các DNVVN thấp, chịu nhiều ảnh hưởng của môi
trường kinh doanh bên ngoài.
Do nguồn vốn có hạn, quy mô sản xuất nhỏ bé, công nghệ lạc hậu
nên các sản phẩm làm ra có sức cạnh tranh thấp hơn so với sản phẩm
của các DN lớn, doanh nghiệp quốc doanh và đặc biệt là các doanh
nghiệp liên doanh với nước ngoài. Thêm nữa, do sức cạnh tranh thấp
nên các DNVVN ít có khả năng chống lại những biến động lớn của thị
trường, và thường thì các DN này hay gặp rủi ro khi có những biến
động bất lợi của thị trường.
1.1.3- Vai trò của DNVVN trong nền kinh tế
1.1.3.1- Tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập cho người lao
động
Mục đích chính của các nhà doanh nghiệp là lợi ích kinh tế mà họ
thu được. Nhưng vô hình chung, sự ra đời của các DN lại giải quyết vấn
đề việc làm cho không ít người lao động. Ở Việt Nam hàng năm có
khoảng 16 triệu người đến độ tuổi lao động, ngoài ra còn một số lượng
lớn những người bán thất nghiệp ở nông thôn và thành thị. Với nhu cầu
về việc làm lớn như vậy, chỉ các DN lớn hay các DNNN không thể đáp
ứng nổi. Các DNVVN ra đời đã phần nào giảm bớt gánh nặng thất
nghiệp cho xã hội. Vì hoạt động trong nhiều lĩnh vực nên các DN này có
thể sử dụng người lao động ở mọi trình độ, vì vậy những người có trình
độ chuyên môn không cao vẫn có thể tìm được việc làm thích hợp với
khả năng của mình. Theo số liệu của bộ lao động thương binh và xã hội,
tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị đã giảm từ 13% năm 1989 xuống
còn 6,2% năm 1994 và hàng năm có khoảng gần 1 triệu lao động tìm
được việc làm trong các DNVVN.
1.1.3.2- Góp phần to lớn vào tốc độ tăng trưởng kinh tế
Từ khi ra đời các DNVVN đã khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực kinh tế
tiềm ẩn trong dân cư, hoạt động của các DNVVN thực sự đã góp một phần không nhỏ vào

sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. Theo số liệu thống kê của Bộ kế hoạch và đầu
tư, mỗi năm các DNVVN Việt Nam tạo ra khoảng 25-26% GDP của cả nước, 31% giá trị tổng
sản lượng công nghiệp, 64% tổng khối lượng luân chuyển hàng hoá. Bên cạnh đó, các
DNVVN còn giữ một vai trò quan trọng trong việc giữ gìn và phát triển những làng nghề
truyền thống nhằm giữ được những nét văn hoá Việt Nam trong tiến trình hội nhập vào nền
kinh tế khu vực và thế giới.
1.1.3.3- Sự có mặt của các DNVVN làm tăng tính năng động, đa
dạng cho nền kinh tế
Với đặc trưng về nguồn vốn và quy mô hoạt động, các DNVVN có khả năng nhanh
chóng chuyển đổi mặt hàng kinh doanh, chuyển hướng sản xuất và đổi mới công nghệ…cho
phù hợp với sự biến động của môi trường kinh doanh. Như vậy, vô hình chung các DNVVN
đã làm cho nền kinh tế trở nên năng động hơn. Thực tế cho thấy, tốc độ gia tăng các DNVVN
lớn hơn rất nhiều so với các DN lớn và đương nhiên khi có càng nhiều doanh nghiệp ra đời
thì tính cạnh tranh của thị trường càng được tăng lên. Một thị trường có tính cạnh tranh
cao sẽ thúc đẩy các DN tự hoàn thiện và nâng cao vị thế của mình. Và với vai trò là các đơn
vị vệ tinh cho các DN lớn, DN quốc doanh các DNVVN cũng góp phần không nhỏ vào việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho phù hợp với định hướng phát triển của từng giai đoạn.
1.1.3.4- DNVVN phát triển góp phần tăng thu cho ngân sách Nhà
nước
Đóng thuế là trách nhiệm của mọi công dân, mọi tổ chức, và như
chúng ta đã biết thuế là nguồn thu chính của ngân sách nhà nước. Đây
chính là nguồn chi trả cho lợi ích chung của xã hội. Do đó, sản xuất kinh
doanh phát triển tạo ra nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Trong
những năm vừa qua, do có sự quan tâm tạo diều kiện của nhà nước và
với khả năng sáng tạo của mình các DNVVN đã từng bước khẳng định
vị trí của mình. Hàng năm khu vực này đã đóng góp trên 30% ngân
sách nhà nước, góp phần giảm sự mất cân đối của cán cân ngân sách,
phát huy vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước.
1.1.4- Nhu cầu về vốn của các DNVVN
Vốn có vai trò rất quan trọng trong toàn bộ quá trình sản xuất kinh

doanh. Ngay từ khi mới thành lập một doanh nghiệp, một công ty hay
bất kỳ một loại hình kinh tế nào khác cũng cần phải có một số vốn nhất
định. Trong mọi DN, vốn đều bao gồm hai bộ phận: Vốn chủ sở hữu và
nợ.Vốn chủ sở hữu của DN bao gồm vốn góp ban đầu, nguồn vốn từ lợi
nhuận không chia và phát hành cổ phiếu. Nguồn vốn còn lại được hình
thành từ các khoản vay ngân hàng , phát hành trái phiếu công ty.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh thì tình trạng thừa thiếu vốn
luôn là điều không thể tránh khỏi đối với một doanh nghiệp. Để giải
quyết sự thiếu hụt vốn, trước hết, bản thân doanh nghiệp huy động vốn
trên thị trường thông qua con đường phát hành cổ phiếu, trái phiếu đòi
hỏi doanh nghiệp phải có qui mô lớn, sản xuất kinh doanh có hiệu quả
và có uy tín trên thị trường, hơn nữa phải có một thị trường vốn hoàn
chỉnh với một hệ thống tổ chức tài chính trung gian đủ mạnh có khả
năng đảm đương việc bảo lãnh phát hành cổ phiếu, trái phiếu của công
ty và nó còn phụ thuộc rất nhiều vào trình độ dân trí thói quen kinh
doanh và sự sôi động của thị trường thứ cấp.
Ở nước ta hiện nay, phát hành cổ phiếu, trái phiếu công ty ra ngoài
thị trường vẫn là một cái gì đó chưa được nhiều người biết đến, việc
phát hành cổ phiếu mới chỉ dừng lại trong nội bộ một số công ty cổ
phần. Mặc dù thị trường chứng khoán Việt Nam đã hình thành nhưng
hoạt động còn mang tính hình thức, chưa thu hút được đông đảo các
công ty tham gia, và quan trọng hơn nhất là hệ thống văn bản pháp
luật về vấn đề này còn chưa hoàn chỉnh, gây khó khăn cho các đơn vị
muốn tham gia niêm yết. Vì những lý do nói trên mà việc huy động vốn
qua phát hành cổ phiếu là rất khó đối với các DN Việt Nam nói chung,
DNVVN nói riêng.
Chính vì lẽ đó, đối với các DNVVN tín dụng Ngân hàng luôn được coi
là một điểm tựa vững chắc về vốn.
1.2- TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ
NHỎ

1.2.1- Khái niệm về tín dụng ngân hàng
Trong cuộc sống có nhiều hình thức quan hệ tín dụng, như: Tín
dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng nhà nước, tín dụng tiêu
dùng, tín dụng quốc tế…Trong đó, tín dụng ngân hàng là hình thức tín
dụng phổ biến và có vai trò quan trọng nhất trong nền kinh tế. Đồng
thời, nó cũng giữ vị trí chủ chốt trong hoạt động của mỗi ngân hàng.
Chúng ta có thể nói: “Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng
bằng tiền tệ giữa một bên là ngân hàng - một tổ chức chuyên
kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ- với một bên là các tổ chức, cá
nhân trong xã hội, trong đó ngân hàng vừa là người đi vay, vừa
là người cho vay”
Nói đến tín dụng ngân hàng ta vẫn cho rằng nó bao gồm cả hoạt
động “đi vay” và hoạt động “cho vay” của ngân hàng .Tuy nhiên, trên
thực tế, do tính chất phức tạp của hoạt động ngân hàng mà các nhà
quản lý đã tách riêng hoạt động nhận tiền gửi và hoạt động cho vay, do
hai bộ phận chuyên môn độc lập nhau đảm nhận: bộ phận Nguồn vốn
và bộ phận Tín dụng. Hoạt động nhận tiền gửi không được gọi là hoạt
động tín dụng mà là hoạt động “huy động vốn” do bộ phận Nguồn vốn
thực hiện. Bộ phận tín dụng chuyên làm nhiệm vụ cho vay. Như vậy định
nghĩa: "Tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn bằng tiền tệ,
trong đó ngân hàng là người cho vay, còn người đi vay là các tổ
chức, cá nhân trong xã hội, trên nguyên tắc người đi vay sẽ hoàn
trả cả vốn lẫn lãi vào một thời điểm xác định trong tương lai như
hai bên đã thoả thuận" sẽ phù hợp với hoạt động thực tế của các
ngân hàng .
1.2.2- Bản chất của tín dụng ngân hàng
“Bản chất của tín dụng ngân hàng là sự vận động của vốn tiền tệ
thông qua các ngân hàng”. Ngân hàng bằng các nghiệp vụ và các hình
thức huy động vốn khác nhau huy động lượng tiền nhàn rỗi trong lưu
thông, tạo thành nguồn vốn lớn. Đồng thời, ngân hàng sử dụng chính

nguồn vốn này để đem cho vay với lãi suất lớn hơn lãi suất tiền gửi. Là
trung gian nên ngân hàng là cầu nối giữa người có vốn và người cần
vốn hay nói cách khác việc sử dụng nguồn vốn trong các doanh nghiệp
nói riêng và trong nền kinh tế nói chung được ngân hàng điều hoà sao
cho phù hợp và đạt hiệu quả cao. Như vậy, ngân hàng bằng hoạt động
của mình đã góp phần vào việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong xã
hội, thông qua chức năng tạo tiền ngân hàng có thể nhận nguồn tiền
gửi tăng trưởng theo bội số tạo tiền. Qua đó, ngân hàng sẽ được hưởng
phần chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động.
1.2.3- Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với DNVVN
1.2.3.1- Tín dụng ngân hàng góp phần hình thành cơ cấu vốn hợp
lý cho DNVVN
Nguồn vốn của một DN luôn bao gồm hai phần: Vốn tự có và vốn
vay. Sự kết hợp nhất định giữa hai nguồn này chỉ ra chi phí vốn tối ưu
cho doanh nghiệp. Cơ cấu vốn tối ưu là sự kết hợp hợp lý nhất các
nguồn tài trợ cho kinh doanh của một doanh nghiệp nhằm mục đích tối
đa hoá giá trị thị trường của doanh nghiệp tại mức giá vốn bình quân
rẻ nhất. Cơ cấu vốn tối ưu cần đạt được sự cân bằng giữa rủi ro và lợi
nhuận. Nếu tỷ lệ vốn của chủ lớn thì mức độ rủi ro của DN thấp nhưng
kéo theo mức lợi nhuận thu được cũng thấp do vốn chủ sở hữu thường
là nhỏ bé trong khi nhu cầu vốn của DN là rất lớn, vì vậy để đáp ứng
được nhu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như mong
muốn tăng nguồn lợi thu được, các DN phải tiếp cận với nguồn vốn vay.
Nhưng nếu vốn vay quá lớn thì chi phí vốn sẽ tăng, kéo theo giá
thành tăng và đương nhiên lợi nhuận thu được sẽ giảm, đồng thời khả
năng thanh toán của DN giảm, rủi ro dẫn tới nguy cơ phá sản tăng. Do
đó, tỷ lệ vốn vay càng lớn, doanh nghiệp càng phải chịu sự kiểm soát sát
sao và các điều kiện vay vốn chặt chẽ của ngân hàng. Vì thế các ngân
hàng và các DN phải cân nhắc trong việc quyết định tỷ trọng giữa vốn
vay và vốn chủ trong cơ cấu vốn sao cho hợp lý để vừa đáp ứng được

nhu cầu về vốn, vừa đảm bảo được nguồn thu và mang lại sự an toàn
cho hoạt động kinh doanh.
1.2.3.2- Tín dụng ngân hàng tác động vào xu thế chuyển dịch cơ
cấu sản xuất của DNVVN
Nhà nước ta đang có chủ trương chuyển dịch cơ cấu các ngành
kinh tế theo hướng nâng cao tỉ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ
trong tổng thu nhập quốc nội. Như vậy các DN hoạt động trong các lĩnh
vực nãy sẽ được hưởng sự ưu đãi khi muốn quan hệ với các NHTM. Cụ
thể như khi muốn lập hồ sơ vay vốn, các DN này được sự ủng hộ của
chính quyền địa phương nên thủ tục giấy tờ được giải quyết nhanh
chóng, về phía ngân hàng sẽ có những chính sách ưu đãi về lãi suất, về
xét duyệt hạn mức tín dụng, điều kiện cho vay cũng dễ dàng hơn các DN
khác…
1.2.3.3- Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện cho DNVVN mở rộng
sản xuất
Ngân hàng mở rộng quy mô hoạt động của mình thông qua việc
huy động vốn tạm thời nhàn rỗi trong toàn bộ nền kinh tế để tài trợ cho
các thành phần kinh tế nói chung và DNVVN nói riêng. Để đảm bảo cho
các DNVVN không chỉ duy trì sản xuất mà còn mở rộng tái sản xuất, tín
dụng ngân hàng tài trợ vốn cho DN không chỉ với các khoản vay ngắn
hạn mà còn có trung và dài hạn. Muốn mở rộng sản xuất kinh doanh,
ngoài thị trường tiềm năng trong nước các DN còn phải chú trọng tới
thị trường nước ngoài. Tín dụng ngân hàng thông qua nghiệp vụ bảo
lãnh, tài trợ cho nghiệp vụ xuất nhập khẩu giúp cho DN đạt được mục
đích này. Nói chung với các nghiệp vụ của mình ngân hàng đã giúp các
DN nói chung và DNVVN nói riêng mở rộng được thị phần của mình,
mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh.
1.2.3.4- Tín dụng ngân hàng giúp các DNVVN sử dụng đồng vốn
tiết kiệm và có hiệu quả
Nhằm giảm thiểu rủi ro cho hoạt động của mình, các ngân hàng

không chỉ tiến hành thẩm đinh, phân tích rồi giải ngân mà còn có nhiều
biện pháp kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh của DN và tình hình
sử dụng vốn vay của họ. Do đó, không chỉ thu hồi vốn là đủ mà các DN
còn phải tìm kiếm các biện pháp sử dụng vốn có hiệu quả, tiết kiệm,
tăng nhanh vòng quay của vốn đảm bảo tỷ suất lợi nhuận lớn hơn lãi
suất của ngân hàng thì DN mới trả được nợ và kinh doanh có lãi.
Hơn nữa, bằng việc kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay, giám
sát chặt chẽ tiến độ và mục đích sử dụng vốn của DN ngân hàng không
chỉ kiểm soát được đồng vốn của mình mà còn đưa ra những tư vấn,
giúp đỡ trong phạm vi cho phép giúp DN tháo gỡ khó khăn trước mắt
và gây dựng được mối quan hệ lâu dài giữa ngân hàng và khách hàng.
1.2.4- Các hình thức tín dụng ngân hàng
Có nhiều tiêu thức để có thể phân loại các hình thức tín dụng ngân
hàng, tuy nhiên dưới đây chúng ta chỉ đề cập đến mấy tiêu thức chính
như sau:
1.2.4.1- Phân loại theo mục đích vay vốn
Dựa vào căn cứ này cho vay thường được chia ra làm các loại:
- Cho vay bất động sản: Là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm
và xây dựng bất động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh
vực công nghiệp, thương mại và dich vụ.
- Cho vay công nghiệp và thương mại: Là loại cho vay ngắn hạn để
bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công
nghiệp, thương mại và dịch vụ.
- Cho vay nông nghiệp: là loại cho vay để trang trải các chi phí sản
xuất như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia
súc…
- Cho vay các định chế tài chính: bao gồm cấp tín dụng cho các ngân
hàng, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, công ty bảo
hiểm, quỹ tín dụng và các định chế tài chính khác.
- Cho vay cá nhân: là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng

như mua sắm các vât dụng đắt tiền, và các khoản cho vay để
trang trải các chi phí thông thường của đời sống thông qua phát
hành thẻ tín dụng.
1.2.4.2- Phân loại theo thời hạn cho vay
Theo căn cứ này cho vay được chia làm 3 loại sau:
- Cho vay ngắn hạn : Loại cho vay này có thời hạn đến 12 tháng và
được sủ dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh
nghiệp và nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của các cá nhân
- Cho vay trung hạn : theo quy định hiện nay của ngân hàng Nhà
nước Việt Nam, cho vay trung hạn có thời hạn trên 12 tháng đến
5 năm.Tín dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua
sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở
rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ
và thời gian thu hồi vốn nhanh. Ngoài ra nguồn vốn trung hạn
này còn được các doanh nghiệp dùng để đổi mới sản phẩm
- Cho vay dài hạn : Là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm và thời
gian tối đa có thể lên đến 20-30 năm, một số trường hợp cá biệt
có thể lên tới 40 năm. Tín dụng dài hạn được cung cấp để đáp
ứng các nhu cầu về xây dựng cơ bản.
1.2.4.3- Phân loại theo mức độ tín nhiệm đối với khách hàng
Theo căn cứ này, cho vay được chia làm hai loại chính, đó là:
- Cho vay không bảo đảm : Là loại cho vay không có tài sản thế chấp,
cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ
dựa vào uy tín của bản thân khách hàng. Đối với những khách
hàng tốt, có khả năng tài chính mạnh ngân hàng có thể cung cấp
tín dụng dựa vào uy tín của bản thân khách hàng mà không cần
một nguồn thu nợ thứ hai bổ sung.
- Cho vay có bảo đảm : Là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm
như thế chấp hoặc cầm cố, hoặc phảI có sự bảo lãnh của người
thứ ba.

Đối với các khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng khi
vay vốn đồi hỏi phải có bảo đảm. Sự bảo đảm này là căn cứ pháp

×