Tải bản đầy đủ (.docx) (109 trang)

Những vấn đề lý thuyết liên quan đến định giá cổ phiếu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (457.31 KB, 109 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Những vấn đề lý thuyết liên quan đến định giá cổ phiếu
1. Khái niệm bản chất và vai trò của định giá cổ phiếu
1.1. Khái niệm về định giá cổ phiếu
Định giá cổ phiếu thực chất là quá trình xác định giá trị thực hay giá trị
kinh tế doanh nghiệp là công ty cổ phần để từ đó xác định giá trị của cổ phần mà
đại diện cho nó là cổ phiếu.
1.2. Bản chất của định giá cổ phiếu
Định giá cổ phiếu thực chất là quá Chương I: Những vấn đề lý thuyết
liên quan đến định giá cổ phiếu
1. Khái niệm bản chất và vai trò của định giá cổ phiếu
1.1. Khái niệm về định giá cổ phiếu
Định giá cổ phiếu thực chất là quá trình xác định giá trị thực hay giá trị
kinh tế doanh nghiệp là công ty cổ phần để từ đó xác định giá trị của cổ phần mà
đại diện cho nó là cổ phiếu.
1.2. Bản chất của định giá cổ phiếu
Định giá cổ phiếu thực chất là quá trình xác định giá trị doanh nghiệp là
công ty cổ phần để từ đó xác định giá trị của của cổ phần mà đại diện cho nó là cổ
phiếu. Việc định giá trị doanh nghiệp nhằm mục đích đưa doanh nghiệp ra trao
đổi, mua bán dưới một hình thức nào đó. Do vậy, doanh nghiệp cũng được coi như
hàng hoá, có hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng. Tuy nhiên, doanh nghiệp là
một loại hàng hoá đặc biệt vì doanh nghiệp là một hệ thống phức tạp của nhiều
yếu tố cấu thành và các mối quan hệ giữa các yếu tố đó. Có những yếu tố vật chất
như các tài sản hữu hình song cũng có những yếu tố phi vật chất như tài sản vô
hình. Giá trị của các yếu tố cấu thành tài sản của doanh nghiệp lại luôn thay đổi
theo thời gian. Hơn nữa, mỗi doanh nghiệp lại có những đặc thù riêng do vậy giữa
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
các doanh nghiệp có sự khác biệt đáng kể. Chính vì vậy, giá trị của doanh nghiệp
cũng chỉ là mức giá cá biệt. Việc định giá doanh nghiệp không chỉ đơn giản là lấy
tổng giá trị tài sản doanh nghiệp đã được kiểm kê, đánh giá để xác định giá trị


của doanh nghiệp, mà còn phải xuất phát từ yêu cầu của sản xuất và lưu thông
hàng hoá như một quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu, đặc
biệt là quy luật lợi nhuận của nền kinh tế thi trường.
Thông thường giá trị doanh nghiệp gồm 3 bộ phận chính: Giá trị tài sản của
doanh nghiệp; giá trị đất doanh nghiệp sử dụng; giá trị các yếu tố làm tăng giá trị
như địa điểm, uy tín, tiếng tăm của doanh nghiệp.
Đối với người đầu tư, họ xác định giá cổ phiếu không chỉ dựa vào giá trị tài
sản hiện hành công ty sở hữu mà quan trọng hơn chính là khả năng thu lợi nhuận
trong tương lai. Khả năng này không chỉ phụ thuộc vào khả năng thu lợi nhuận
trong quá khứ và hiện tại của doanh nghiệp mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố
khác như lợi thế thương mại, uy tín doanh nghiệp, bí quyết kinh doanh, ngành
nghề kinh doanh và khả năng mở rộng thị trường, sự tác động của các chính sách
kinh tế nhà nước đối với ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp trong tương
lai.
Những vấn đề nêu trên là những căn cứ khách quan để xem xét định giá
doanh nghiệp từ đó xác định giá trị cổ phiếu. Xác định giá trị cổ phiếu là phải xem
xét toàn diện các yếu tố cấu thành giá trị doanh nghiệp. Đó là giá trị các tài sản
hữu hình và tài sản vô hình của doanh nghiệp. Những giá trị của doanh nghiệp
muốn được xã hội thừa nhận cần phải được thông qua trao đổi, tức là mức giá
mà cả người mua và người bán đều chấp nhận được.
Định giá tài sản đáp ứng yêu cầu tính toán, xác định sự thay đổi về mặt giá
trị của thực thể tại một thời điểm nhất định, đây được xem như là quá trình ước
tính khoản tiền mà người mua sẵn sàng chi trả để họ có quyền sở hữu và thu lợi ở
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
một thực thể nhất định, và ngược lại cũng là sự ước tính khoản tiền thu được của
người bán khi bán thực thể đó.
Trong nền kinh tế thị trường, các thực thể kinh doanh cũng trở thành hàng hoá, do đó
việc định giá trị tài sản là căn cứ quan trọng để xác định giá trị doanh nghiệp cũng như giá trị
cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, đây cũng chính là mối quan tâm hàng đầu của cả các chủ

thể phát hành chứng khoán và công chúng đầu tư.
Trong điều kiện của Việt nam, đang thực hiện quá trình chuyển đổi nền kinh
tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý, điều tiết
của Nhà nước thì việc định giá doanh nghiệp có một vai trò quan trọng trong quá
trình đổi mới, cải cách hệ thống doanh nghiệp nhà nước ở nước ta, nhất là việc
trong việc thực hiện chủ trương cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà
nước. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, khi thị trường chứng khoán Việt nam
mới mở cửa hoạt động thì vai trò của việc định giá doanh nghiệp hay định giá cổ
phiếu lại càng quan trọng. Điều này sẽ giúp tạo ra sự công bằng thông qua việc
người mua và người bán đều đánh giá đúng giá trị của cổ phiếu mà mình mua
bán, từ đó có thể đưa ra quyết định giao dịch có cơ sở. Đến lượt nó, việc đảm bảo
cân bằng quyền lợi cho người mua và người bán sẽ giúp cho hoạt động của thị
trường chứng khoán ổn định và phát triển bền vững. Mặt khác, thông qua việc xác
định mức giá thị trường hợp lý, các nhà quản lý thị trường có cơ sở để đưa ra các
quyết định quản lý đúng đắn nhằm đảm bảo cho thị trường hoạt động hiệu quả và
an toàn.
1.3. Vai trò của định giá cổ phiếu
 Xét ở góc độ chủ thể phát hành, vai trò của việc định giá cổ phiếu thể hiện rất rõ
nét. Thông qua việc xác định giá cổ phiếu, các chủ thể phát hành có thể định ra
được mức giá hợp lý nhằm đảm bảo người đầu tư sẵn sàng chấp nhận mức giá
đó; đồng thời doanh nghiệp cũng không bị thua thiệt do cổ phiếu bị định giá thấp.
Điều này bảo đảm sự thành công của đợt phát hành trên thị trường sơ cấp, đồng
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
thời cũng đảm bảo tính thanh khoản cho cổ phiếu khi được giao dịch trên thị
trường thứ cấp. Trên thực tế, hoạt động định giá cổ phiếu hiện nay ở Việt nam còn
nhiều bất cập, khung khổ pháp lý chưa hoàn thiện, đặc biệt là chính sách chế độ về
tài chính kế toán, các phương pháp áp dụng nghèo nàn, thiếu các tổ chức tài chính
hoạt động chuyên nghiệp về lĩnh vực này... gây nên những khó khăn nhất định
trong việc định giá và chính điều này là một trong những cản trở trong quá trình

cổ phần hoá các DNNN và hạn chế việc phát hành chứng khoán ra công chúng của
các chủ thể phát hành.
 Đối với người đầu tư, cổ phiếu là một phương tiện có khả năng thu lợi nhuận
cao, nhưng cũng có thể gặp rủi ro lớn. Để đi đến quyết định đầu tư đúng đắn đòi
hỏi phải có sự lựa chọn loại cổ phiếu thích hợp về giá cả và có mức độ rủi ro mà
người đầu tư có thể chấp nhận được. Nếu rủi ro càng lớn thì yêu cầu lợi suất đầu
tư càng phải cao và do đó giá cổ phiếu phải càng thấp. Vì lẽ đó người đầu tư cần
phải tiến hành định giá cổ phiếu để xác định mức giá và độ rủi ro của cổ phiếu đó
có phù hợp với nhau và phù hợp với sở thích của người đầu tư. Nếu như người
đầu tư có thể đánh giá đúng cổ phiếu của công ty thì người đó sẽ thu được mức
lợi suất đầu tư mong muốn.
 Về phía các cơ quan quản lý nhà nước đối với thị trường tài chính và hệ thống
doanh nghiệp, việc nắm được các phương pháp và kỹ năng định giá cổ phần/ cổ
phiếu sẽ giúp cho các cơ quan này đánh giá được thực trạng giá cả các tài sản tài
chính trên thị trường. Từ đó sẽ có những chính sách và biện pháp hợp lý để điều
chỉnh thị trường trên cả tầm vĩ mô lẫn vi mô.
 Đới với các công ty chứng khoán
Đối với các hoạt động đầu tư trên thị trường chứng khoán, để ra quyết định
đầu tư thì nhà đầu tư luôn phải cân nhắc giữa giá thị trường và giá trị thực của
chứng khoán, quyết định mua khi giá thị trường thấp hơn giá trị thực và quyết
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
định bán khi giá thị trường cao hơn giá trị thực. Giá trị thực của chứng khoán
thường được xác định bằng cách định giá, không chỉ được sử dụng cho việc ra
quyết định đầu tư mà còn phục vụ cho việc phát hành, bảo lãnh phát hành, tư vấn
đầu tư, tư vấn hợp nhất, sát nhập doanh nghiệp... Trong bối cảnh thị trường
chứng khoán Việt Nam hiện nay, giao dịch cổ phiếu chiếm tới 89% giá trị giao dịch
toàn thị trường, định giá cổ phiếu đối với công ty chứng khoán có những lợi ích
sau đây:
- Cung cấp thông tin định lượng cần thiết cho nhà đầu tư cá nhân, qua đó

làm tốt nghiệp vụ tư vấn đầu tư, thu hút thêm nhiều nhà đầu tư cá nhân trong
nước và nước ngoài, qua đó tăng giá trị giao dịch toàn thị trường và thúc đẩy thị
trường phát triển sôi động.
- Hoàn thiện qua trình ra quyết định đầu tư tự doanh và đầu tư danh mục,
nâng cao gia trị giao dịch và hiệu quả đầu tư, thu hút thêm nhiều nhà đầu tư có tổ
choc để quản lý danh mục đầu tư.
- Đẩy mạnh nghiệp vụ phát hành mới và bảo lãnh phát hành của công ty
chứng khoán, tăng lượng hàng hoá cho thị trường, thúc đẩy sự tham giá của các
công ty cổ phần mới vào thị trường giao dịch tập trung để huy động vốn, thúc đẩy
sự ra đời của các công ty cổ phần mới để huy động vốn trên thị trường thứ cấp.
Có cơ sở để so sánh các hàng hoá khác nhau, tạo cạnh tranh trên thị trường,
qua đó thúc đẩy công tác cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và có sự lựa chọn
những doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả vào danh sách cổ phần hoá.
Đẩy mạnh việc chuyển đổi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
thành công ty cổ phần và thổi luồng sinh khí mới vào thị trường chứng khoán Việt
Nam khi Chính phủ có văn bản cho phép định hướng này.
Nói một cách tổng quát, việc định giá được quy định trong các trường hợp
khác nhau và với các mục đích khác nhau sẽ gây ảnh hưởng tới kết quả thu được
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
và việc lựa chọn các phương pháp áp dụng. Tuy nhiên, việc định giá thường được
tiến hành theo một số mục đích chính sau đây:
- Hỗ trợ người mua trong việc xác định mức độ sẵn sàng chấp nhận mua;
- Hỗ trợ người bán trong việc xem xét giá bán;
- Đóng vai trò như quan toà trong việc giải quyết tranh chấp giữa các bên;
- Hỗ trợ người cho vay trong việc định lượng chứng khoán thế chấp đối với
một khoản vay;
- Hình thành giá trị liên quan đến các điều khoản trong luật pháp, như
nhằm mục đích tính thuế trước bạ;
- Định lượng giá trị đưa vào các báo cáo kế toán;

- Hỗ trợ nguyên đơn hoặc bị đơn trong các vụ kiện tụng;
- Đánh giá một khiếu nại về hậu quả tổn thất;
- Xác định giá trị theo hợp đồng hoặc các điều khoản trong Điều lệ công ty;
- Xác định nghĩa vụ thuế lãi vốn hoặc tổn thất;
- Thực hiện việc đánh giá độc lập về một công ty đại chúng phục vụ cho việc
thâu tóm hoặc cơ cấu lại theo Luật Công ty, hoặc theo các quy định niêm yết của
cơ quan quản lý thị trường chứng khoán.
Tóm lại, việc định giá cổ phiếu có thể được nhìn nhận từ nhiều góc độ khác
nhau và có các giá trị tương ứng khác nhau. Song dù nhìn nhận dưới góc độ nào,
mỗi cách xác định giá trị cổ phiếu bao giờ cũng liên quan đến lợi ích của người
mua, người bán trên thị trường. Vì vậy việc xem xét, lựa chọn một cách đánh giá
cổ phiếu theo phương pháp phù hợp, thoả mãn lợi ích của người mua và người
bán trên thị trường là một thực tế không thể bỏ qua.
2. Phương pháp luận trong việc định giá cổ phiếu
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
2.1. Các khái niệm về giá trị liên quan đến việc định giá cổ phiếu
Quá trình hoạt động của công ty sẽ sinh ra một luồng thu nhập cho cổ đông
của công ty và luồng thu nhập này sẽ quyết định giá trị kinh tế qua đó thể hiện sự
thành công hay thất bại của hoạt động sản xuất kinh doanh và được phản ánh vào
giá cổ phiếu của công ty. Tuy nhiên trên thực tế giá trị được xác định bằng nhiều
cách khác nhau và do đó sẽ có những khái niệm khác nhau về giá trị. Chẳng hạn,
có những giá trị được hình thành từ sổ sách kế toán, có giá trị được hình thành từ
luồng thu nhập như nêu trên đây hoặc giá trị được hình thành từ quy luật cung-
cầu của thị trường... Trong từng trường hợp, giá trị được phân tích đánh giá căn
cứ vào một số điều kiện cụ thể và không nhất thiết chỉ căn cứ vào các chiến lược
và hiệu quả kinh doanh của công ty.
Để hiểu rõ các khái niệm về giá trị và vận dụng chúng một cách thích hợp
vào mục đích phân tích trong quá trình định giá, ta có thể xem xét một số khái
niệm cơ bản nhất sau đây:

Giá trị kinh tế
Khái niệm giá trị kinh tế liên quan đến công dụng chủ yếu của một tài sản
trong việc tạo ra luồng thu nhập sau thuế cho người nắm giữ tài sản đó. Những
luồng thu nhập này có được từ thu nhập hay các khoản thanh toán theo hợp đồng,
hay thanh lý một phần hoặc toàn bộ vào một thời điểm trong tương lai. Giá trị
kinh tế chính là một khái niệm lựa chọn luồng thu nhập. Giá trị của một hàng hoá
được định nghĩa là số tiền mà người mua sẵn sàng trả theo giá trị hiện tại của nó
để có được luồng thu nhập dự tính trong tương lai. Do vậy, giá trị kinh tế là một
khái niệm hướng về tương lai. Nó được xác định thông qua việc đánh giá luồng
thu nhập tiềm năng trong tương lai, kể cả số tiền thu được từ lần thanh lý hàng
hoá cuối cùng. ở đây, các chi phí phát sinh do quyết định trước đây là chi phí chìm
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
và do vậy không liên quan đến việc ước tính luồng thu nhập trong tương lai nếu
xét từ góc độ kinh tế.
Giá trị kinh tế làm cơ sở cho một khái niệm giá trị thông thường khác bởi vì
nó dựa trên logic lựa chọn hoàn toàn tất yếu trong quá trình đầu tư tiền bạc. Tuy
nhiên việc tính toán giá trị kinh tế trên thực tế sẽ rất phức tạp vì chúng ta cần
phải lựa chọn và áp dụng một tỷ lệ chiết khấu đại diện (lợi nhuận tiêu chuẩn) khi
tính giá trị hiện tại của luồng thu nhập và luồng thu nhập dương trong một thời
gian nhất định. Những luồng thu nhập này còn bao gồm cả giá trị giả định cuối
cùng về lượng tiền có khả năng thu hồi hoặc mọi giá trị hiện thực tại điểm phân
tích cuối cùng. Quá trình này thực tế quyết định sự cân bằng của luồng thu nhập
trong toàn bộ những khoản thời gian khác nhau.
Mặt khác, việc đánh giá rủi ro của một công ty được dựa trên các đặc điểm
tương đối của công ty, do vậy giá trị kinh tế không phải là tuyệt đối; nó chỉ là kết
quả của việc đánh giá rủi ro tương đối dự tính trong tương lai. Trên thực tế, giá
trị kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ với mức độ chấp nhận rủi ro của mỗi cá nhân.
Do đó, giá trị kinh tế đóng vai trò chủ chốt trong việc đưa ra quyết định đầu tư
của mỗi người.

Giá trị thị trường
Giá trị thị trường còn được gọi là giá trị thị trường công bằng, đây là giá trị
của một tài sản hay tập hợp tài sản khi giao dịch trên thị trường có tổ chức hoặc
giữa các bên cá nhân trong một giao dịch tự nguyện. Thị trường có tổ chức sẽ
giúp người mua và người bán định ra giá trị thị trường phù hợp cho tất cả các
loại tài sản hữu hình và vô hình. Giá trị thị trường tất nhiên cũng được hình thành
thông qua các giao dịch giữa các bên cá nhân khi không có thị trường có tổ chức.
Một lần nữa, giá trị thị trường cũng không phải là giá trị tuyệt đối mà là
một thoả thuận nhất thời giữa hai hay nhiều bên. Theo một nghĩa nào đó thì các
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
bên giao dịch sẽ điều chỉnh các đánh giá cá nhân tương ứng đối với giá trị kinh tế
của tài sản đủ để đi đến sự nhất trí. Do vậy, giá trị thị trường của cổ phiếu vào
một thời điểm nhất định có thể phụ thuộc vào sự ưa thích và thậm chí là quan
điểm của các cá nhân liên quan, xu hướng tâm lý phổ biến trên sở giao dịch có tổ
chức, độ gay cấn của cuộc chiến giành quyền thâu tóm, các biến đổi về kinh tế,
phát triển công nghiệp, điều kiện kinh tế chính trị... Hơn nữa, khối lượng tài sản và
chứng khoán giao dịch hiện tại sẽ ảnh hưởng tới giá trị do người mua và người
bán định ra.
Giá trị thị trường mặc dù có khả năng biến động nhưng nói chung vẫn được
coi là một tiêu chuẩn hợp lý để đánh giá giá trị hiện tại của từng tài sản có và tài
sản nợ ghi trong bảng cân đối kế toán. Giá trị thị trường còn thường được dùng
để đánh giá hàng tồn kho và để phân tích vốn đầu tư dưới dạng các giá trị thu hồi
trong tương lai. Việc sáp nhập và thâu tóm các công ty đang hoạt động cũng dựa
trên giá trị thị trường do các bên đặt ra.
Cũng giống như giá trị kinh tế, việc thiết lập giá trị thị trường cũng gặp
phải những trở ngại thực tế. Một giá trị thị trường đích thực chỉ có thể xác định
được khi thực sự tham gia vào một giao dịch. Bởi vậy, trừ khi hàng hoá được mua
bán trên thực tế, mọi giá trị thị trường còn lại chỉ mang tính ước lượng và có thể
dễ dàng thay đổi theo điều kiện và nhận thức của mỗi bên.

Nhưng ngay cả khi giá trị thị trường được niêm yết sẵn thì vẫn có thể có
những điều chỉnh nhất định. Ví dụ các cổ phiếu phổ thông phổ biến tại các sở giao
dịch lớn được yết giá công khai trên thị trường, nhưng thường sẽ phải chịu những
biến động giá cả quan trọng thậm chí là trong một ngày giao dịch. Do đó, giá trị
thị trường căn cứ vào các giao dịch cùng loại chỉ có thể biến động trong một giới
hạn nhất định gắn với các điều kiện giao dịch theo ngày, theo tuần hay theo tháng.
9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Đối với hàng hoá không được giao dịch thường xuyên, việc đánh giá giá trị giao
dịch thực tế sẽ trở nên khó khăn hơn.
Giá trị sổ sách
Giá trị sổ sách của một tài sản có hay tài sản nợ là giá trị ghi trong bảng cân
đối kế toán theo nguyên tắc kế toán được chấp nhận ở mỗi nước. Giá trị sổ sách
chủ yếu phục vụ cho mục đích kế toán chứ không phải là giá trị kinh tế hiện hành.
Giá trị sổ sách là một giá trị có tính lịch sử mà vào một thời điểm nhất định nào đó
nó có thể được đánh giá lại để thể hiện giá trị thị trường. Tuy nhiên, vì giá trị thị
trường luôn thay đổi theo thời gian và những biến động của điều kiện kinh tế, do
vậy, giá trị sổ sách và giá trị thị trường sẽ hầu như không đồng nhất. Thực tế này
rất đúng đối với cổ phiếu phổ thông được giao dịch theo giá trị thị trường và giá
trị này thường khác xa so với giá trị ghi sổ. Sở dĩ có sự khác biệt trên là vì giá trị
sổ sách được xác định từ bảng cân đối kế toán.
Bảng cân đối kế toán được chuẩn bị vào ngày cụ thể, ghi chép các loại và số
lượng các tài sản có được sử dụng cho hoạt động kinh doanh (tức là các khoản
vốn đã cam kết) và các tài sản nợ đối ứng huy động của người cho vay và các chủ
sở hữu (tức là các khoản vốn đã huy động được). Cũng có thể gọi là bản báo cáo
điều kiện tài chính hoặc bản báo cáo tình hình tài chính, bản này luôn phải cân đối
bởi vì giá trị ghi sổ của toàn bộ các tài sản đã được đầu tư vào hoạt động kinh
doanh tại một thời điểm nào đó phải cân đối một cách chính xác với các khoản nợ
đã vào sổ và các khoản vốn cổ phần của các chủ sở hữu là nguồn gốc của các tài
sản này. Các khoản nợ này là các nghĩa vụ cụ thể thể hiện các trái quyền đối với

tài sản của doanh nghiệp, được xếp hạng cao hơn các cổ đông trong thứ tự ưu
tiên thanh toán. Vốn cổ phần của các cổ đông đã được ghi sổ thể hiện quyền của cổ
đông đối với phần tài sản còn lại sau khi đã trừ đi tất cả các khoản nợ. Một bảng
cân đối kế toán tổng quát nhất được thể hiện như sau:
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Bảng cân đối kế toán
(Ngày..../...../.....)
Tài sản có Nợ và tài sản ròng
Tài sản lưu động Nợ ngắn hạn
Tài sản cố định Nợ dài hạn
Tài sản khác
Lãi (lỗ) ròng

Vốn chủ sở hữu
Tổng tài sản có Tổng nợ và tài sản
ròng
Các loại tài sản có chủ yếu hoặc các khoản vốn đã cam kết gồm:
- Các tài sản lưu động (các khoản mục này quay vòng trong trường hợp kinh
doanh bình thường trong một khoản thời gian tương đối ngắn như tiền mặt, các
chứng khoán dễ chuyển đổi sang tiền mặt, các khoản phải thu và hàng tồn kho).
- Tài sản cố định (gồm có đất đai, các nguồn khoáng sản, nhà cửa, thiết bị, máy
móc và các phương tiện vận chuyển).
- Các tài sản khác như các khoản tiền gửi, các bằng sáng chế và các tài sản vô hình
khác, kể cả giá trị lợi thế phát sinh khi thâu tóm công ty.
Các nguồn vốn nợ và tài sản ròng chủ yếu bao gồm:
- Các khoản nợ ngắn hạn là nghĩa vụ đối với nhà cung cấp, cơ quan thuế vụ, người
lao động và người cho vay trong vòng một năm.
- Các khoản nợ dài hạn bao gồm các công cụ nợ có thời hạn hoàn trả trên một
năm như trái phiếu, các khoản cho vay và các khoản thế chấp.

- Vốn cổ phần của chủ sở hữu bao gồm số vốn ròng do các loại chủ sở hữu đóng
góp cũng như các khoản thu nhập tích luỹ được giữ lại trong doanh nghiệp sau
khi chi trả cổ tức.
11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Bảng cân đối kế toán là các hình ảnh sao chụp dạng tĩnh phản ánh các điều
kiện tại thời điểm lập bảng. Các số liệu này cũng mang tính chất tích luỹ vì nó
trình bày các kết quả của tất cả các quyết định và các giao dịch được thực hiện kết
từ khi doanh nghiệp bắt đầu hoạt động và được tính toán cho đến thời điểm
chuẩn bị báo cáo.
Như chúng ta đã thấy trên đây, các quy định kế toán tài chính quy định rằng
tất cả các giao dịch phải được hạch toán theo chi phí và giá trị tại thời điểm hiện
thời, và những điều chỉnh về sau giá trị ghi sổ chỉ được thực hiện trong những
trường hợp hạn hữu. Do vậy, bảng cân đối kế toán (số liệu được tính luỹ) diễn giải
các tài sản và các khoản nợ đã mua hoặc phải thực hiện trong những thời gian
khác nhau. Do các giá trị kinh tế hiện thời của các tài sản có thể thay đổi, đặc biệt
trong trường hợp những khoản mục dài hạn (như nhà cửa, máy móc) hoặc các
nguồn vốn (như đất đai, khoáng sản), các chi phí được phản ánh trong bảng cân
đối kế toán có thể không phản ánh các giá trị kinh tế thực sự. Hơn nữa, những
thay đổi về giá trị của tiền tệ dùng để hạch toán các giao dịch có thể bóp méo bảng
cân đối kết toán theo thời gian.
Cuối cùng, vì giá trị sổ sách của vốn cổ phần là phần chênh lệch giữa tổng
tài sản có và vốn nợ nên giá trị này cũng chỉ thể hiện giá trị kế toán chứ không
phải là giá trị kinh tế hiện thời. Thường có sự khác nhau hoàn toàn giữa giá trị
còn lại này với giá trị kinh tế hiện thời của doanh nghiệp được phản ánh trên giá
cổ phiếu hoặc trong việc định giá khi mua bán doanh nghiệp. Thực tế, cổ phần của
các công ty hoạt động có hiệu quả được mua bán theo các mức giá cao hơn nhiều
so với giá trị ghi sổ của nó.
Từ thực tế trên cho thấy giá trị sổ sách trong nhiều trường hợp chỉ nên
dùng để tham khảo chứ không có giá trị phân tích kinh tế để xác định giá trị thị

trường của công ty.
12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Giá trị tái sinh
Đây là chi phí bắt buộc để thay thế một tài sản cố định hiện tại cùng loại.
Nói cách khác, đây chính là chi phí thay thế máy móc, thiết bị hoặc các tài sản
cùng loại khác. Trên thực tế, giá trị tái sinh là một trong những thước đo dùng để
điều chỉnh giá trị tài sản của một doanh nghiệp đang hoạt động. Xác định giá trị
tái sinh là một ước tính chủ yếu dựa trên những thay đổi về mặt kỹ thuật.
Giá trị tái sinh liên quan đến việc liệu tài sản cố định có thể được tái sinh
hoàn toàn giống như ban đầu hay không. Cùng với hao mòn vật chất, phần lớn
mọi tài sản hữu hình sản xuất theo công nghệ theo thời gian đều trở nên lỗi thời.
Đồng thời còn có vấn đề đánh giá các chi phí thực tế phục vụ cho việc tái sinh tài
sản cùng loại. Còn trong phân tích, giá trị tái sinh thường là tiêu chuẩn để đánh
giá giá trị thị trường của tài sản của một doanh nghiệp đang hoạt động.
Giá trị đảm bảo
Đây là giá trị của một tài sản dùng để đảm bảo cho một khoản vay hay các
loại tín dụng khác. Giá trị đảm bảo nói chung được coi như mức giá trị tín dụng
lớn nhất dùng để đánh giá tài sản cầm cố. Khi có vật đảm bảo trong tay, các chủ
nợ thường định giá giá trị đảm bảo thấp hơn giá trị thị trường của tài sản đó.
Như vậy sẽ tạo ra sự an toàn trong trường hợp mất khả năng thanh toán còn mức
rủi ro đối với chủ nợ sẽ quyết định mức độ điều chỉnh giảm bớt tuỳ ý. Khi giá trị
thị trường chưa được hình thành, giá trị đảm bảo được xác định hoàn toàn trên
cơ sở đánh giá, thì chủ nợ sẽ cho phép duy trì một biên độ an toàn đủ lớn phù hợp
trong từng trường hợp cụ thể.
Giá trị sau khấu hao
Nói chung, các nguyên tắc và thông lệ kế toán được chấp nhận quy định
rằng giá trị của một tài sản hao mòn phải được giảm dần một cách hệ thống và
bằng giá trị thực ròng sau quãng đời hoạt động của nó. Giá trị giảm này được gọi
13

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
là mức khấu hao hoặc giảm giá, thường được quy định phải tính theo lợi nhuận
trong suốt những giai đoạn kế toán sử dụng tài sản. Giá trị sau khấu hao bằng giá
trị sổ sách của một tài sản trừ đi tổng mức khấu hao hoặc giảm giá đã được xác
định. Vì là giá trị sổ sách nên phản ánh giá thị trường khi bán tài sản hoặc mức
chi phí bỏ ra để thay thế tài sản.
Giá trị thẩm định
Giá trị thẩm định được xác định và sử dụng một cách chủ quan khi tài sản
liên quan không có giá trị thị trường rõ ràng. Người ta thường lấy giá giao dịch
phù hợp để so sánh với tài sản được thẩm định. Giá trị thẩm định thường được
dùng trong các giao dịch có quy mô đáng kể, đặc biệt là đối với bất động sản có
tính chất thương mại hay đất đai, giá trị thẩm định được xác định bởi một giám
định viên công bằng được hai bên tham gia chấp thuận, đó là người có kiến thức
về giám định các loại tài sản liên quan giúp người mua và người bán tìm ra được
mức giá hợp lý, hay ít nhất là đề ra mức độ mặc cả. Chất lượng đánh giá phụ
thuộc vào khả năng giám định và so sánh với các trường hợp trước đó. Một lần
nữa, khả năng và đánh giá của cá nhân góp phần làm cân bằng giá trị. Hiếm khi
những lần thẩm định khác nhau lại có cùng kết quả.
Giá trị hoạt động liên tục
Giá trị hoạt động liên tục là giá trị của một doanh nghiệp đang hoạt động
hoặc giá trị của tài sản “đang sử dụng”. Khái niệm giá trị hoạt động liên tục
thường gặp khi định giá nhà xưởng và thiết bị và thường kết hợp với một yếu tố
thu nhập vốn hoá. Ví dụ, trong thời kỳ lạm phát cao, giá trị hoạt động liên tục của
nhà xưởng và thiết bị có thể vượt quá giá trị sổ sách của chúng rất nhiều. Giá trị
hoạt động liên tục nói chung thường cao hơn giá trị có thể thực hiện nếu bán tài
sản thông qua đấu giá công khai.
Giá trị cổ phần
14
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Như đã trình bày ở trên, giá trị cổ phần được hình thành khi lợi nhuận từ

các hoạt động kinh doanh hiện tại và trong tương lai vượt quá chi tiêu về tài sản
của công ty. Đó là toàn bộ mức tăng về giá trị kinh tế của doanh nghiệp phản ánh
trong tổng cổ tức tăng định kỳ được tính bằng tổng cổ tức cộng với lãi hay lỗ. Giá
trị cổ phần liên quan chặt chẽ với các luồng thu nhập và lợi nhuận dự tính làm cơ
sở cho giá trị kinh tế.
Giá trị thanh lý
Trong trường hợp một doanh nghiệp giải thể hoạt động, thường có ít thời
gian để bán tài sản. Nhu cầu bán tài sản trong một khoảng thời gian ngắn thường
dẫn tới việc không thu hồi được toàn bộ giá trị tài sản so với trường hợp nếu
doanh nghiệp có nhiều thời gian để bán tài sản hơn. Giá trị thấp này được coi là
giá trị thanh lý hoặc giải thể và gần bằng giá trị có thể thu được nếu bán tài sản
thông qua đấu giá công khai.
Giá trị đặc biệt
Giá trị đặc biệt là giá trị phụ thêm mà một người mua sẵn sàng trả, phản
ánh các nhân tố như quy mô kinh tế, tiềm năng phát triển, khả năng cạnh tranh,
đảm bảo một nguồn cung hoặc tiêu thụ cho sản phẩm, và giá trị phụ này là đánh
giá của riêng người mua đó. Việc tồn tại giá trị đặc biệt này có nghĩa là người
mua đó sẵn sàng trả thêm một khoản đáng kể cao hơn giá trị mà những người
mua khác sẵn sàng trả.
2.2. Những nguyên tắc cơ bản trong định giá cổ phiếu
2.2.1. Cơ sở định giá cổ phiếu
Giá trị của một công ty được xác định bằng nguồn lợi nhuận mà công ty
đem lại hàng năm cho tất cả những người chủ sở hữu công ty. Hay nói cách khác,
cổ phiếu phổ thông mang lại cho người sở hữu một nguồn thu nhập tại các thời
15
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
điểm khác nhau trong tương lai như: cổ tức (được chia định kỳ hoặc không cố
định); giá trị cổ phiếu khi người sở hữu bán cổ phiếu đó đi. Nói tóm lại, cổ phiếu
đem lại cho người sở hữu một dòng thu nhập trong tương lai.
Do tiền có giá trị về mặt thời gian, cho nên mỗi đồng tiền ở mỗi thời điểm

khác nhau sẽ đem lại một giá trị khác nhau. Vì vậy, để xác định giá trị cổ phiếu tại
một thời điểm nào đó, người ta phải xác định được giá trị luồng thu nhập mà cổ
phiếu đó (hoặc công ty đó) đem lại ở các thời điểm khác nhau và quy chúng về
cùng thời điểm cần định giá. Việc quy đổi này luôn tuân theo nguyên tắc chung là
một đồng của ngày hôm nay luôn có giá trị hơn một đồng của ngày mai do tính
chất sinh lợi của đồng tiền như sau:
Ngày hôm nay, người đầu tư bỏ ra một đồng để tiết kiệm với lãi suất r thì
sau một năm khoản tiền trên có giá trị bằng 1(1+r). Như vậy, giá trị sau một năm
của một đồng sẽ là (1+r) đồng. Nếu làm phép tính ngược lại thì nếu người đầu tư
muốn có được một khoản tiền M
1
= (1+r) đồng sau đây một năm thì ngày hôm nay,
người đó phải gửi tiết kiệm một khoản M
1
/(1+r) = (1+r)/(1+r) = 1 đồng. Đây
chính là nguyên lý cơ bản để xác định giá trị luồng thu nhập theo thời gian. Do
vậy, việc xác định giá trị cổ phiếu được dựa trên nguyên tắc xác định giá trị đồng
tiền theo thời gian như sau:
• Xác định giá trị tương lai của một khoản tiền hiện tại
Đồng tiền có giá trị theo thời gian. Một khoản đầu tư có thể tăng sau một
thời gian do có lãi suất. Nếu đầu tư một khoản PV trong n năm, lãi suất các năm
tương ứng là r
1
, r
2
, .... và FV(n; r
1
, r
2
...r

n
) là giá trị cuối kỳ thì:
FV(n; r
1
, r
2
...r
n
) = PV(1+r
1
)(1+r
2
)...(1+r
n
)
Nếu lãi suất không đổi qua các năm: r
1
=r
2
=...=r
n
thì :
FV(n;r) = PV(1+r)
n
Trong đó:
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
FV(n;r) : giá trị cuối kỳ
n: Số năm (hay số thời kỳ)
r : lãi suất năm (%) (hay thời kỳ)

PV: Giá trị ban đầu
- Nếu tính theo tháng thì công thức biến đổi như sau:
FV(n;r) = PV(1+r)
n/12
Trong đó:
FV(n;r) : giá trị cuối kỳ
n: Số tháng gửi
r : lãi suất năm (%)
PV: Giá trị ban đầu
- Nếu tính theo ngày thì công thức biến đổi như sau:
FV(n;r) = PV(1+r)
n/365
Trong đó:
FV(n;r) : giá trị cuối kỳ
n: Số ngày gửi
r : lãi suất năm (%)
PV: Giá trị ban đầu
- Lãi suất nhiều kỳ trong năm:
FV(n,r) = PV (1 +
m
r
)
n
×
m
Trong đó:
r: Lãi suất hàng năm
n: Số năm gộp lãi
m: Số kỳ gộp lãi mỗi năm (tháng, quý, ngày)
17

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Giá trị tại một thời điểm thời gian trong tương lai của một dòng thu nhập
đều đặn trước đó.
FV(n, r
1
r
2
... r
n
) = PV(1+r
n
)
0
+ PV(1+r
n-1
)
1
+ ... + PV(1+r
1
)
n-1
Nếu lãi suất như nhau:
FV(n, r) = PV{(1+r)
0
+ PV(1+r)
1
+ ... + PV(1+r)
n-1
}
FVA(n,r) = PV (

r
1r)(1
n
−+
)
• Xác định giá trị hiện tại của một khoản tiền trong tương lai:
PV=
)r)...(1r)(1r(1
r)FV(n,
n21
+++
Với lãi suất cố định:
PV=
n
r)(1
r)FV(n,
+
Thời gian tính theo tháng:
PV =
n/12
r)(1
r)FV(n,
+
Thời gian tính theo ngày:
PV =
n/365
r)(1
r)FV(n,
+
- Giá trị hiện tại của dòng thu nhập tại các thời điểm khác nhau trong tương

lai
PV(n, r
1
r
2
... r
n
%) =
1
1
1
)r(1
FV
+
+
2
2
2
)r(1
FV
+
+ ... +
n
n
n
)r(1
FV
+
Trong đó:
18

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
PV: Giá trị hiện tại
FV
1
: Giá trị thu nhập của năm 1
FV
2
: Giá trị thu nhập của năm 2
FV
n
: Giá trị thu nhập của năm n
Nếu FV
1
= FV
2
= FV
n
= FV và r
1
= r
2
= ... = r
n
= r

thì
PV(n, r) =
1
r)(1
FV

+
+
2
r)(1
FV
+
+ ... +
n
r)(1
FV
+
Như vậy, nếu ta cần xác định giá trị của toàn bộ công ty hoặc của từng cổ
phiếu tại thời điểm hiện tại thì có thể áp dụng công thức tổng quát sau:
P
o
=


=
+
1i
i
i
i
)r(1
FV
Trong đó:
FV
i
: là thu nhập của toàn công ty hoặc từng cổ phiếu hàng năm.

r
i
: lãi suất năm i.
Về nguyên tắc, dòng thu nhập có thể là vô hạn vì một công ty và cổ phiếu
của công ty có thể tồn tại vô thời hạn.
2.2.1. Nguyên tắc ngang giá
Trong điều kiện thị trường hoạt động trôi chảy và không có những yếu tố
làm nó méo mó giá cả, nguyên tắc giá trị hiện tại và lợi suất tương ứng với rủi ro
đưa đến hệ quả là giá cả của nó. Tại những thời điểm nhất định, do sự mất cân đối
về thông tin hay thông tin không đầy đủ thì có thể phát sing sự chêch lệch giữa giá
cả và hiện giá của một tài sản nhưng trên thị trường lập tức sẽ đẩy giá thị trường
về sát với hiện giá của nó. Đây chính là hoạt động có tác dụng điều chỉnh thường
xuyên trên các TTCK phát triển. Mặt khác, cơ chế trên còn đưa một nguyên lý nữa
là giá cả của các tài sản có cùng dòng tiền thu nhập và cùng độ rủi ro thì phải
19
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
bằng nhau nếu giả định rằng chi phí giao dịch là bằng không và thị trường hoạt
động hiệu quả.
2.2.2. Lợi suất tương ứng với rủi ro
Lãi suất r nêu trên chính là tỷ suet để qui các luồng tiền thu nhập trong
twong lai của tài sản tài chính về giá trị hiện tại hay còn gọi là tỷ lệ chiết khấu. Với
choc năng đó, tỷ lệ chiết khấu phải tương xứng với mức độ rủi ro của tài sản tài
chính và còn được gọi là lợi suất mong đợi điều chỉnh theo rủi ro bởi vì xét từ góc
độ nhà đầu tư nó là lợi tức được thể hiện theo giá trị tương đối (phần trăm) mà
họ mong muốn thu được qua việc đầu tư vào một tài sản có mức độ rủi ro nhất
định. Rủi ro này bao gồm rủi ro hệ thống (rủi ro không thể tránh khỏi) và rui ro
phi hệ thống (rủi ro có thể loại trừ bằng cách đa dạng hoá). Do vậy, r phải bao
hàm hai yếu tố: lợi suất phi rủi ro và phí bù đắp rủi ro. Lợi suất phi rủi ro đem lại
lợi tức thực, cps tính lợi đến lạm phát cho nhà đầu tư (mà điển hình là lãi suất của
Tín phiếu Kho bạc); còn phí bù đắp rủi ro bao gồm: rủi ro vỡ nợ, rủi ro kỳ hạn, rủi

ro về tính thanh khoản, rủi ro tỷ giá hối đoái...gắn với từng loại tài sản.
Mô hình định giá tài sản vốn (CAPM)
Một phát triển của lý thuyết thị trường vốn là mô hình định giá tài sản vốn
(CAPM), được áp dụng phổ biến trong bối cảnh tài chính hiện tại. Về cơ bản, CAPM
chỉ ra rằng lợi suất mong đợi (hay yêu cầu) của tài sản tài chính bằng với lợi suất
của chứng khoán phi rủi ro cộng với chi phí bù đắp rủi ro, theo công thức sau:
r
e
= r
f
+ [ E(r
m
) - r
f
]
e
β

Trong đó:
r
f
= lợi suất phi rủi ro
20
%
m
e
f
e
β
f

Bêta
1,0
Bêta
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
E(r
m
) = lợi suất dự tính của danh mục thị trường
E(r
m
) - r
f
= mức bù đắp rủi ro thị trường
e
β
= rủi ro hệ thống của tài sản
r
e
= lợi suất yêu cầu
Lợi suất yêu cầu, r
e
là một hàm số của rủi ro hệ thống (
β
). Rủi ro beta của
danh mục thị trường bằng 1,0. Hệ số
β
của chứng khoán càng lớn thì mức rủi ro
càng cao, và do vậy lợi suất yêu cầu (r
e
) phái càng lớn.
Để áp dụng phương pháp CAPM, chúng ta cần phải xác định ba nhân tố: lợi

suất phi rủi ro, mức bù đắp rủi ro thị trường, và rủi ro hệ thống (
β
).
Xác định lợi suất phi rủi ro
21
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Lợi suất phi rủi ro là thu nhập từ một chứng khoán hoặc một danh mục đầu
tư chứng khoán không có rủi ro và hoàn toàn không chịu tác động của các biến
đôngk kinh tế. Người ta thường áp dụng lãi suất tín phiếu kho bạc là phù hợp
nhất. Nguyên nhân chủ yếu là do tín phiếu kho bạc có kỳ hạn ngắn, do vậy hầu
như không chịu rủi ro biến động lãi suất trên thị trường.
Xác định mức bù đắp rủi ro thị trường
Bù đắp rủi ro thị trường (giá của rủi ro) là phần chênh lệch giữa lợi suất dự
tính từ danh mục thị trường và lợi suất phi rủi ro, E(r
m
) - r
f
. Mô hình CAPM lập
luận rằng chứng khoán càng rủi ro thì mức lãi suất yêu cầu khi đầu tư vào chứng
khoán đó càng phải lớn, tức là chi phí của công ty phát hành ra chứng khoán đó
phải càng lớn. Lý do ở chỗ rủi ro càng cao thì mức bù đắp rủi ro phải càng lớn. Vì
danh mục thị trường có hệ số
β
bằng 1 nên mức bù đắp rủi ro thị trường E(r
m
) -
r
f
được coi là giá của một đơn vị rủi ro. Vì vậy, đối với một chứng khoán nào đó có
e

β
> 1 thì mức bù đắp rủi ro cho chứng khoán đó phải cao hơn mức bù đắp rủi ro
thị trường,
e
β
[ E(r
m
) - r
f
]. Trường hợp ngược lại thì mức bù đắp rủi ro của chứng
khoán sẽ thấp hơn mức bù đắp thị trường.
Xác định rủi ro hệ thống (
e
β
):
Xác định hệ số
e
β
phụ thuộc vào việc liệu cổ phần của công ty có được niêm
yết hay không.
22
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Nếu công ty thực hiện chào bán ra công chúng thì nhà đầu tư có thể sử
dụng các hệ số
β
được công bố rộng rãi làm thước đo. Các hệ số
β
này được cập
nhật theo định kỳ (quý hoặc năm,...). Việc xác định rủi ro hệ thống này được căn
cứ vào các hệ số tài chính của từng công ty. Chúng thay đổi khi các hệ số tài chính

này thay đổi, và phản ánh sự đánh giá gần nhất của thịư trường vfề rủi ro vốn cổ
phần một cách chính xác hơn.
Một phương pháp xác định
β
một cách phổ biến là dùng thống kê toán học.
Tuy nhiên, phương pháp này chỉ có thể hực hiện được khi thị trường chứn khoán
đã hoạt động được một thời gian dài. Để xác định
β
của một công ty, người ta thu
thập số liệu quá khứ (ít nhất là 5 năm) về mức chi phí vốn cổ phần (r
e
) của công
ty đó và gắn kết chúng trong mối quan hệ với mức bù đắp rủi ro thị trường thep
mô hình CAPM như sau:
r
e
=
0
α
+
e
β
( r
m
- r
f
)
Đới với những công ty không niêm yết thì thông thường trên thị trường
không công bố beta của một công ty đó. Trong trường hợp này, có thể sử dụng hệ
số

β
của một công ty tương tự được niêm yết hoặc có thể dùng hệ số
β
bình quân
ngành làm trước đó.
- Nếu vốn của công ty bao gồm cả vốn cổ phần và vốn nợ thì r
e
cần được
xác định theo phương pháp chi phí vốn bình quân gia quyền (WACC):
23
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
r
a
= r
e
x
ED
E
+
+ r
d
DE
D
+
(1-t)
Trong đó:
r
a
là lợi suất thu nhập ước tính trên tài sản của công ty hay chính là chi phí
vốn bình quân gia quyền của một công ty.

r
e
là lợi suất phải trả cho vốn cổ phần (chính là lợi suất yêu cầu của nhà
đầu tư) và r
d
là lãi suất vay nợ.
E và D là khối lượng vốn cổ phần và vốn vay tương ứng
t là thuế suất thuế thu nhập của công ty
Từ công thức trên ta có thể suy ra công thức tính lợi suất yêu cầu đới với cổ
phiếu:
r
e
= r
a
+ (D/E) [ r
a
- r
d
(1-t)]
Mô hình CAPM đựoc sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực tài chính để xác định
lợi suất yêu cầu đối với một tài sản tài chính. Tuy nhiên, mô hình này có các nhược
điểm sau:
- Không phản ánh được cả rủi ro hệ thống lẫn rủi ro phi hệ thống của chứng
khoán
- Do thông tin không cân xứng nên khó dự đoán được hệ số beta, lợi nhận
bù đắp rủi ro của thị trường.
3. Phân tích những thông tin cơ bản phục vụ quá trình định giá cổ phiếu
phổ thông
24
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

3.1. Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp
Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp đi sau xem xét tình hình tài chính
những năm đã qua của công ty có cổ phiếu định giá và so sánh với những công ty
hoạt động cùng ngành nhằm thu được những đặc thù hoạt động riêng của công
ty, những xu hướng biến động riêng của công ty làm cơ sở dự báo hoặc tìm kiếm
công ty tương đương.
Khi phân tích các chỉ số tài chính cần lưu ý rằng: Nếu như bảng cân đối kế
toán (BCĐKT) phản ánh những tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của công
ty tịa một thời điểm, thì báo cáo kết quả kinh doanh (BCKQKD) phản ánh kết quả
kinh doanh của công ty trong một thời kỳ nhất định. Vì vậy khi phân tích các chỉ số
tài chính mà có một chỉ tiên thuộc BCĐKT, một chỉ tiêu thuộc BCKQKD thì có hai
quan điểm khác nhau về việc lựa chọn số liệu phục vụ phân tích: Thứ nhất, có thế
tính toán theo số dư cuối kỳ, quan điểm thứ hai lại dùng số dư trung bình của kỳ.
Nhưng trong báo cáo này, em sẽ phân tích các chỉ số tài chính dựa trên số dư
trung bình của kỳ, do số dư trung bình của kỳ cho phép phản ánh hợp lý những
thay đổi trong kết quả kinh doanh mà có kiên quan đến việc thay đổi các khoản
mục tài sản trong kỳ tài chính. Phần này bao gồm:
 Phân tích các tỷ số tài chính
Các hệ số tài chính được sử dụng rộng rãi khi xem xét tình hình và đặc điểm
hoạt động của một doanh nghiệp do chúng phản ánh được mối quan hệ của
những con số tuyệt đối trong báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Do các hệ số này
là chỉ tiêu tương đối, phản ánh quan hệ giữa các đại lượng, nên việc phân tích chỉ
có ý nghĩa khi so sánh tương quan; thông thường người ta thường so sánh hệ số
của một doanh nghiệp xem xét với:
- Hệ số của nền kinh tế;
- Hệ số trung bình ngành hoạt động của doanh nghiệp;
25

×