Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Những vấn đề lý thuyết liên quan đến định giá cổ phiếu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.37 KB, 50 trang )

Lời nói đầu
Xác định giá trị cổ phiếu chính là xác định giá trị doanh nghiệp phát hành cổ
phiếu. Việc này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đảm bảo quyền lợi của các bên
liên quan đến thị trờng chứng khoán, đặc biệt là ngời phát hành và ngời đầu t. Nếu
giá cổ phiếu quá thấp thì sẽ gây thiệt hại cho ngời bán; còn nếu định giá cổ phiếu quá
cao sẽ gây thiệt hại cho ngời mua. Để thị trờng hoạt động có hiệu quả, cần tạo ra một
thị trờng công bằng và hoạt động trôi chảy thông qua việc cân đối lợi ích của các bên
tham gia thị trờng. Điều này lại càng quan trọng đối với các thị trờng chứng khoán
mới hoạt động nh Việt nam vì nó giúp cho thị trờng hoạt động ổn định và phát triển
về lâu dài. Trên thế giới đã có rất nhiều sách, báo viết về đề tài này, giới thiệu từ
những phơng pháp cơ bản cho đến những ứng dụng mang tính đặc thù tuỳ theo hoàn
cảnh tuỳ từng nớc, tuỳ doanh nghiệp. Hiện nay, Việt nam cha có một công trình
nghiên cứu nào có tính chất toàn diện và gắn với việc đa ra niêm yết và giao dịch tại
thị trờng chứng khoán, ngoài một số phơng pháp xác định giá trị doanh nghiệp cổ
phần hoá đơn giản đợc áp dụng tại các giai đoạn khác nhau trong tiến trình cổ phần
hoá, mà gần đây nhất là Thông t 104-1998/TT-BTC ngày 18/07/1998 của Bộ Tài
chính. Trong bối cảnh thị trờng chứng khoán Việt Nam hiện nay, giao dịch cổ phiếu
chiếm tới 89% giá trị giao dịch toàn thị trờng, hoàn thiện nghiệp vụ định giá cổ phiếu
có ý nghĩa thiết thực về mặt lý luận cũng nh thực tiễn nhằm góp phần vào sự phát
triển các hoạt động nghiệp vụ của công ty chứng khoán để thúc đẩy sự phát triển của
thị trờng.
1
Chơng I: Những vấn đề lý thuyết liên quan đến định
giá cổ phiếu
1. Khái niệm bản chất và vai trò của định giá cổ phiếu
1.1. Khái niệm về định giá cổ phiếu
Định giá cổ phiếu thực chất là quá trình xác định giá trị thực hay giá trị kinh tế
doanh nghiệp là công ty cổ phần để từ đó xác định giá trị của cổ phần mà đại diện
cho nó là cổ phiếu.
1.2. Bản chất của định giá cổ phiếu
Định giá cổ phiếu thực chất là quá trình xác định giá trị doanh nghiệp là công


ty cổ phần để từ đó xác định giá trị của của cổ phần mà đại diện cho nó là cổ phiếu.
Việc định giá trị doanh nghiệp nhằm mục đích đa doanh nghiệp ra trao đổi, mua bán
dới một hình thức nào đó. Do vậy, doanh nghiệp cũng đợc coi nh hàng hoá, có hai
thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng. Tuy nhiên, doanh nghiệp là một loại hàng hoá
đặc biệt vì doanh nghiệp là một hệ thống phức tạp của nhiều yếu tố cấu thành và các
mối quan hệ giữa các yếu tố đó. Có những yếu tố vật chất nh các tài sản hữu hình
song cũng có những yếu tố phi vật chất nh tài sản vô hình. Giá trị của các yếu tố cấu
thành tài sản của doanh nghiệp lại luôn thay đổi theo thời gian. Hơn nữa, mỗi doanh
nghiệp lại có những đặc thù riêng do vậy giữa các doanh nghiệp có sự khác biệt đáng
kể. Chính vì vậy, giá trị của doanh nghiệp cũng chỉ là mức giá cá biệt. Việc định giá
doanh nghiệp không chỉ đơn giản là lấy tổng giá trị tài sản doanh nghiệp đã đợc
kiểm kê, đánh giá để xác định giá trị của doanh nghiệp, mà còn phải xuất phát từ yêu
cầu của sản xuất và lu thông hàng hoá nh một quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh,
quy luật cung cầu, đặc biệt là quy luật lợi nhuận của nền kinh tế thi trờng.
Thông thờng giá trị doanh nghiệp gồm 3 bộ phận chính: Giá trị tài sản của
doanh nghiệp; giá trị đất doanh nghiệp sử dụng; giá trị các yếu tố làm tăng giá trị nh
địa điểm, uy tín, tiếng tăm của doanh nghiệp.
2
Đối với ngời đầu t, họ xác định giá cổ phiếu không chỉ dựa vào giá trị tài sản
hiện hành công ty sở hữu mà quan trọng hơn chính là khả năng thu lợi nhuận trong t-
ơng lai. Khả năng này không chỉ phụ thuộc vào khả năng thu lợi nhuận trong quá khứ
và hiện tại của doanh nghiệp mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nh lợi thế th-
ơng mại, uy tín doanh nghiệp, bí quyết kinh doanh, ngành nghề kinh doanh và khả
năng mở rộng thị trờng, sự tác động của các chính sách kinh tế nhà nớc đối với ngành
nghề kinh doanh của doanh nghiệp trong tơng lai.
Những vấn đề nêu trên là những căn cứ khách quan để xem xét định giá doanh
nghiệp từ đó xác định giá trị cổ phiếu. Xác định giá trị cổ phiếu là phải xem xét toàn
diện các yếu tố cấu thành giá trị doanh nghiệp. Đó là giá trị các tài sản hữu hình và
tài sản vô hình của doanh nghiệp. Những giá trị của doanh nghiệp muốn đợc xã hội
thừa nhận cần phải đợc thông qua trao đổi, tức là mức giá mà cả ngời mua và ngời

bán đều chấp nhận đợc.
Định giá tài sản đáp ứng yêu cầu tính toán, xác định sự thay đổi về mặt giá trị
của thực thể tại một thời điểm nhất định, đây đợc xem nh là quá trình ớc tính khoản
tiền mà ngời mua sẵn sàng chi trả để họ có quyền sở hữu và thu lợi ở một thực thể
nhất định, và ngợc lại cũng là sự ớc tính khoản tiền thu đợc của ngời bán khi bán thực
thể đó.
Trong nền kinh tế thị trờng, các thực thể kinh doanh cũng trở thành hàng hoá,
do đó việc định giá trị tài sản là căn cứ quan trọng để xác định giá trị doanh nghiệp
cũng nh giá trị cổ phiếu trên thị trờng chứng khoán, đây cũng chính là mối quan tâm
hàng đầu của cả các chủ thể phát hành chứng khoán và công chúng đầu t.
Trong điều kiện của Việt nam, đang thực hiện quá trình chuyển đổi nền kinh tế
từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trờng có sự quản lý, điều tiết của
Nhà nớc thì việc định giá doanh nghiệp có một vai trò quan trọng trong quá trình đổi
mới, cải cách hệ thống doanh nghiệp nhà nớc ở nớc ta, nhất là việc trong việc thực
hiện chủ trơng cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nớc. Đặc biệt, trong giai
đoạn hiện nay, khi thị trờng chứng khoán Việt nam mới mở cửa hoạt động thì vai trò
3
của việc định giá doanh nghiệp hay định giá cổ phiếu lại càng quan trọng. Điều này
sẽ giúp tạo ra sự công bằng thông qua việc ngời mua và ngời bán đều đánh giá đúng
giá trị của cổ phiếu mà mình mua bán, từ đó có thể đa ra quyết định giao dịch có cơ
sở. Đến lợt nó, việc đảm bảo cân bằng quyền lợi cho ngời mua và ngời bán sẽ giúp
cho hoạt động của thị trờng chứng khoán ổn định và phát triển bền vững. Mặt khác,
thông qua việc xác định mức giá thị trờng hợp lý, các nhà quản lý thị trờng có cơ sở
để đa ra các quyết định quản lý đúng đắn nhằm đảm bảo cho thị trờng hoạt động hiệu
quả và an toàn.
1.3. Vai trò của định giá cổ phiếu
Xét ở góc độ chủ thể phát hành, vai trò của việc định giá cổ phiếu thể
hiện rất rõ nét. Thông qua việc xác định giá cổ phiếu, các chủ thể phát hành
có thể định ra đợc mức giá hợp lý nhằm đảm bảo ngời đầu t sẵn sàng chấp
nhận mức giá đó; đồng thời doanh nghiệp cũng không bị thua thiệt do cổ

phiếu bị định giá thấp. Điều này bảo đảm sự thành công của đợt phát hành
trên thị trờng sơ cấp, đồng thời cũng đảm bảo tính thanh khoản cho cổ
phiếu khi đợc giao dịch trên thị trờng thứ cấp. Trên thực tế, hoạt động định
giá cổ phiếu hiện nay ở Việt nam còn nhiều bất cập, khung khổ pháp lý cha
hoàn thiện, đặc biệt là chính sách chế độ về tài chính kế toán, các phơng
pháp áp dụng nghèo nàn, thiếu các tổ chức tài chính hoạt động chuyên
nghiệp về lĩnh vực này... gây nên những khó khăn nhất định trong việc định
giá và chính điều này là một trong những cản trở trong quá trình cổ phần
hoá các DNNN và hạn chế việc phát hành chứng khoán ra công chúng của
các chủ thể phát hành.
Đối với ngời đầu t, cổ phiếu là một phơng tiện có khả năng thu lợi nhuận
cao, nhng cũng có thể gặp rủi ro lớn. Để đi đến quyết định đầu t đúng đắn
đòi hỏi phải có sự lựa chọn loại cổ phiếu thích hợp về giá cả và có mức độ
rủi ro mà ngời đầu t có thể chấp nhận đợc. Nếu rủi ro càng lớn thì yêu cầu
lợi suất đầu t càng phải cao và do đó giá cổ phiếu phải càng thấp. Vì lẽ đó
4
ngời đầu t cần phải tiến hành định giá cổ phiếu để xác định mức giá và độ
rủi ro của cổ phiếu đó có phù hợp với nhau và phù hợp với sở thích của ngời
đầu t. Nếu nh ngời đầu t có thể đánh giá đúng cổ phiếu của công ty thì ngời
đó sẽ thu đợc mức lợi suất đầu t mong muốn.
Về phía các cơ quan quản lý nhà nớc đối với thị trờng tài chính và hệ
thống doanh nghiệp, việc nắm đợc các phơng pháp và kỹ năng định giá cổ
phần/ cổ phiếu sẽ giúp cho các cơ quan này đánh giá đợc thực trạng giá cả
các tài sản tài chính trên thị trờng. Từ đó sẽ có những chính sách và biện
pháp hợp lý để điều chỉnh thị trờng trên cả tầm vĩ mô lẫn vi mô.
Đới với các công ty chứng khoán
Đối với các hoạt động đầu t trên thị trờng chứng khoán, để ra quyết định đầu t
thì nhà đầu t luôn phải cân nhắc giữa giá thị trờng và giá trị thực của chứng khoán,
quyết định mua khi giá thị trờng thấp hơn giá trị thực và quyết định bán khi giá thị tr-
ờng cao hơn giá trị thực. Giá trị thực của chứng khoán thờng đợc xác định bằng cách

định giá, không chỉ đợc sử dụng cho việc ra quyết định đầu t mà còn phục vụ cho việc
phát hành, bảo lãnh phát hành, t vấn đầu t, t vấn hợp nhất, sát nhập doanh nghiệp...
Trong bối cảnh thị trờng chứng khoán Việt Nam hiện nay, giao dịch cổ phiếu chiếm
tới 89% giá trị giao dịch toàn thị trờng, định giá cổ phiếu đối với công ty chứng
khoán có những lợi ích sau đây:
- Cung cấp thông tin định lợng cần thiết cho nhà đầu t cá nhân, qua đó làm tốt
nghiệp vụ t vấn đầu t, thu hút thêm nhiều nhà đầu t cá nhân trong nớc và nớc ngoài,
qua đó tăng giá trị giao dịch toàn thị trờng và thúc đẩy thị trờng phát triển sôi động.
- Hoàn thiện qua trình ra quyết định đầu t tự doanh và đầu t danh mục, nâng
cao gia trị giao dịch và hiệu quả đầu t, thu hút thêm nhiều nhà đầu t có tổ choc để
quản lý danh mục đầu t.
- Đẩy mạnh nghiệp vụ phát hành mới và bảo lãnh phát hành của công ty chứng
khoán, tăng lợng hàng hoá cho thị trờng, thúc đẩy sự tham giá của các công ty cổ
5
phần mới vào thị trờng giao dịch tập trung để huy động vốn, thúc đẩy sự ra đời của
các công ty cổ phần mới để huy động vốn trên thị trờng thứ cấp.
Có cơ sở để so sánh các hàng hoá khác nhau, tạo cạnh tranh trên thị trờng, qua
đó thúc đẩy công tác cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc và có sự lựa chọn những
doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả vào danh sách cổ phần hoá.
Đẩy mạnh việc chuyển đổi các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài thành
công ty cổ phần và thổi luồng sinh khí mới vào thị trờng chứng khoán Việt Nam khi
Chính phủ có văn bản cho phép định hớng này.
Nói một cách tổng quát, việc định giá đợc quy định trong các trờng hợp khác
nhau và với các mục đích khác nhau sẽ gây ảnh hởng tới kết quả thu đợc và việc lựa
chọn các phơng pháp áp dụng. Tuy nhiên, việc định giá thờng đợc tiến hành theo một
số mục đích chính sau đây:
- Hỗ trợ ngời mua trong việc xác định mức độ sẵn sàng chấp nhận mua;
- Hỗ trợ ngời bán trong việc xem xét giá bán;
- Đóng vai trò nh quan toà trong việc giải quyết tranh chấp giữa các bên;
- Hỗ trợ ngời cho vay trong việc định lợng chứng khoán thế chấp đối với một

khoản vay;
- Hình thành giá trị liên quan đến các điều khoản trong luật pháp, nh nhằm
mục đích tính thuế trớc bạ;
- Định lợng giá trị đa vào các báo cáo kế toán;
- Hỗ trợ nguyên đơn hoặc bị đơn trong các vụ kiện tụng;
- Đánh giá một khiếu nại về hậu quả tổn thất;
- Xác định giá trị theo hợp đồng hoặc các điều khoản trong Điều lệ công ty;
- Xác định nghĩa vụ thuế lãi vốn hoặc tổn thất;
6
- Thực hiện việc đánh giá độc lập về một công ty đại chúng phục vụ cho việc
thâu tóm hoặc cơ cấu lại theo Luật Công ty, hoặc theo các quy định niêm yết của cơ
quan quản lý thị trờng chứng khoán.
Tóm lại, việc định giá cổ phiếu có thể đợc nhìn nhận từ nhiều góc độ khác
nhau và có các giá trị tơng ứng khác nhau. Song dù nhìn nhận dới góc độ nào, mỗi
cách xác định giá trị cổ phiếu bao giờ cũng liên quan đến lợi ích của ngời mua, ngời
bán trên thị trờng. Vì vậy việc xem xét, lựa chọn một cách đánh giá cổ phiếu theo ph-
ơng pháp phù hợp, thoả mãn lợi ích của ngời mua và ngời bán trên thị trờng là một
thực tế không thể bỏ qua.
2. Phơng pháp luận trong việc định giá cổ phiếu
2.1. Các khái niệm về giá trị liên quan đến việc định giá cổ phiếu
Quá trình hoạt động của công ty sẽ sinh ra một luồng thu nhập cho cổ đông
của công ty và luồng thu nhập này sẽ quyết định giá trị kinh tế qua đó thể hiện sự
thành công hay thất bại của hoạt động sản xuất kinh doanh và đợc phản ánh vào giá
cổ phiếu của công ty. Tuy nhiên trên thực tế giá trị đợc xác định bằng nhiều cách
khác nhau và do đó sẽ có những khái niệm khác nhau về giá trị. Chẳng hạn, có những
giá trị đợc hình thành từ sổ sách kế toán, có giá trị đợc hình thành từ luồng thu nhập
nh nêu trên đây hoặc giá trị đợc hình thành từ quy luật cung-cầu của thị trờng...
Trong từng trờng hợp, giá trị đợc phân tích đánh giá căn cứ vào một số điều kiện cụ
thể và không nhất thiết chỉ căn cứ vào các chiến lợc và hiệu quả kinh doanh của công
ty.

Để hiểu rõ các khái niệm về giá trị và vận dụng chúng một cách thích hợp vào
mục đích phân tích trong quá trình định giá, ta có thể xem xét một số khái niệm cơ
bản nhất sau đây:
Giá trị kinh tế
Khái niệm giá trị kinh tế liên quan đến công dụng chủ yếu của một tài sản
trong việc tạo ra luồng thu nhập sau thuế cho ngời nắm giữ tài sản đó. Những luồng
7
thu nhập này có đợc từ thu nhập hay các khoản thanh toán theo hợp đồng, hay thanh
lý một phần hoặc toàn bộ vào một thời điểm trong tơng lai. Giá trị kinh tế chính là
một khái niệm lựa chọn luồng thu nhập. Giá trị của một hàng hoá đợc định nghĩa là
số tiền mà ngời mua sẵn sàng trả theo giá trị hiện tại của nó để có đợc luồng thu nhập
dự tính trong tơng lai. Do vậy, giá trị kinh tế là một khái niệm hớng về tơng lai. Nó đ-
ợc xác định thông qua việc đánh giá luồng thu nhập tiềm năng trong tơng lai, kể cả số
tiền thu đợc từ lần thanh lý hàng hoá cuối cùng. ở đây, các chi phí phát sinh do quyết
định trớc đây là chi phí chìm và do vậy không liên quan đến việc ớc tính luồng thu
nhập trong tơng lai nếu xét từ góc độ kinh tế.
Giá trị kinh tế làm cơ sở cho một khái niệm giá trị thông thờng khác bởi vì nó
dựa trên logic lựa chọn hoàn toàn tất yếu trong quá trình đầu t tiền bạc. Tuy nhiên
việc tính toán giá trị kinh tế trên thực tế sẽ rất phức tạp vì chúng ta cần phải lựa chọn
và áp dụng một tỷ lệ chiết khấu đại diện (lợi nhuận tiêu chuẩn) khi tính giá trị hiện tại
của luồng thu nhập và luồng thu nhập dơng trong một thời gian nhất định. Những
luồng thu nhập này còn bao gồm cả giá trị giả định cuối cùng về lợng tiền có khả
năng thu hồi hoặc mọi giá trị hiện thực tại điểm phân tích cuối cùng. Quá trình này
thực tế quyết định sự cân bằng của luồng thu nhập trong toàn bộ những khoản thời
gian khác nhau.
Mặt khác, việc đánh giá rủi ro của một công ty đợc dựa trên các đặc điểm tơng
đối của công ty, do vậy giá trị kinh tế không phải là tuyệt đối; nó chỉ là kết quả của
việc đánh giá rủi ro tơng đối dự tính trong tơng lai. Trên thực tế, giá trị kinh tế có mối
quan hệ chặt chẽ với mức độ chấp nhận rủi ro của mỗi cá nhân. Do đó, giá trị kinh tế
đóng vai trò chủ chốt trong việc đa ra quyết định đầu t của mỗi ngời.

Giá trị thị trờng
Giá trị thị trờng còn đợc gọi là giá trị thị trờng công bằng, đây là giá trị của
một tài sản hay tập hợp tài sản khi giao dịch trên thị trờng có tổ chức hoặc giữa các
bên cá nhân trong một giao dịch tự nguyện. Thị trờng có tổ chức sẽ giúp ngời mua và
ngời bán định ra giá trị thị trờng phù hợp cho tất cả các loại tài sản hữu hình và vô
8
hình. Giá trị thị trờng tất nhiên cũng đợc hình thành thông qua các giao dịch giữa các
bên cá nhân khi không có thị trờng có tổ chức.
Một lần nữa, giá trị thị trờng cũng không phải là giá trị tuyệt đối mà là một
thoả thuận nhất thời giữa hai hay nhiều bên. Theo một nghĩa nào đó thì các bên giao
dịch sẽ điều chỉnh các đánh giá cá nhân tơng ứng đối với giá trị kinh tế của tài sản đủ
để đi đến sự nhất trí. Do vậy, giá trị thị trờng của cổ phiếu vào một thời điểm nhất
định có thể phụ thuộc vào sự a thích và thậm chí là quan điểm của các cá nhân liên
quan, xu hớng tâm lý phổ biến trên sở giao dịch có tổ chức, độ gay cấn của cuộc
chiến giành quyền thâu tóm, các biến đổi về kinh tế, phát triển công nghiệp, điều kiện
kinh tế chính trị... Hơn nữa, khối lợng tài sản và chứng khoán giao dịch hiện tại sẽ
ảnh hởng tới giá trị do ngời mua và ngời bán định ra.
Giá trị thị trờng mặc dù có khả năng biến động nhng nói chung vẫn đợc coi là
một tiêu chuẩn hợp lý để đánh giá giá trị hiện tại của từng tài sản có và tài sản nợ ghi
trong bảng cân đối kế toán. Giá trị thị trờng còn thờng đợc dùng để đánh giá hàng tồn
kho và để phân tích vốn đầu t dới dạng các giá trị thu hồi trong tơng lai. Việc sáp
nhập và thâu tóm các công ty đang hoạt động cũng dựa trên giá trị thị trờng do các
bên đặt ra.
Cũng giống nh giá trị kinh tế, việc thiết lập giá trị thị trờng cũng gặp phải
những trở ngại thực tế. Một giá trị thị trờng đích thực chỉ có thể xác định đợc khi thực
sự tham gia vào một giao dịch. Bởi vậy, trừ khi hàng hoá đợc mua bán trên thực tế,
mọi giá trị thị trờng còn lại chỉ mang tính ớc lợng và có thể dễ dàng thay đổi theo
điều kiện và nhận thức của mỗi bên.
Nhng ngay cả khi giá trị thị trờng đợc niêm yết sẵn thì vẫn có thể có những
điều chỉnh nhất định. Ví dụ các cổ phiếu phổ thông phổ biến tại các sở giao dịch lớn

đợc yết giá công khai trên thị trờng, nhng thờng sẽ phải chịu những biến động giá cả
quan trọng thậm chí là trong một ngày giao dịch. Do đó, giá trị thị trờng căn cứ vào
các giao dịch cùng loại chỉ có thể biến động trong một giới hạn nhất định gắn với các
điều kiện giao dịch theo ngày, theo tuần hay theo tháng. Đối với hàng hoá không đợc
9
giao dịch thờng xuyên, việc đánh giá giá trị giao dịch thực tế sẽ trở nên khó khăn
hơn.
Giá trị sổ sách
Giá trị sổ sách của một tài sản có hay tài sản nợ là giá trị ghi trong bảng cân
đối kế toán theo nguyên tắc kế toán đợc chấp nhận ở mỗi nớc. Giá trị sổ sách chủ yếu
phục vụ cho mục đích kế toán chứ không phải là giá trị kinh tế hiện hành. Giá trị sổ
sách là một giá trị có tính lịch sử mà vào một thời điểm nhất định nào đó nó có thể đ-
ợc đánh giá lại để thể hiện giá trị thị trờng. Tuy nhiên, vì giá trị thị trờng luôn thay
đổi theo thời gian và những biến động của điều kiện kinh tế, do vậy, giá trị sổ sách và
giá trị thị trờng sẽ hầu nh không đồng nhất. Thực tế này rất đúng đối với cổ phiếu phổ
thông đợc giao dịch theo giá trị thị trờng và giá trị này thờng khác xa so với giá trị ghi
sổ. Sở dĩ có sự khác biệt trên là vì giá trị sổ sách đợc xác định từ bảng cân đối kế
toán.
Bảng cân đối kế toán đợc chuẩn bị vào ngày cụ thể, ghi chép các loại và số l-
ợng các tài sản có đợc sử dụng cho hoạt động kinh doanh (tức là các khoản vốn đã
cam kết) và các tài sản nợ đối ứng huy động của ngời cho vay và các chủ sở hữu (tức
là các khoản vốn đã huy động đợc). Cũng có thể gọi là bản báo cáo điều kiện tài
chính hoặc bản báo cáo tình hình tài chính, bản này luôn phải cân đối bởi vì giá trị
ghi sổ của toàn bộ các tài sản đã đợc đầu t vào hoạt động kinh doanh tại một thời
điểm nào đó phải cân đối một cách chính xác với các khoản nợ đã vào sổ và các
khoản vốn cổ phần của các chủ sở hữu là nguồn gốc của các tài sản này. Các khoản
nợ này là các nghĩa vụ cụ thể thể hiện các trái quyền đối với tài sản của doanh
nghiệp, đợc xếp hạng cao hơn các cổ đông trong thứ tự u tiên thanh toán. Vốn cổ
phần của các cổ đông đã đợc ghi sổ thể hiện quyền của cổ đông đối với phần tài sản
còn lại sau khi đã trừ đi tất cả các khoản nợ. Một bảng cân đối kế toán tổng quát nhất

đợc thể hiện nh sau:
Bảng cân đối kế toán
(Ngày..../...../.....)
10
Tài sản có Nợ và tài sản ròng
Tài sản lu động Nợ ngắn hạn
Tài sản cố định Nợ dài hạn
Tài sản khác
Lãi (lỗ) ròng

Vốn chủ sở hữu
Tổng tài sản có Tổng nợ và tài sản ròng
Các loại tài sản có chủ yếu hoặc các khoản vốn đã cam kết gồm:
- Các tài sản lu động (các khoản mục này quay vòng trong trờng hợp kinh doanh bình
thờng trong một khoản thời gian tơng đối ngắn nh tiền mặt, các chứng khoán dễ
chuyển đổi sang tiền mặt, các khoản phải thu và hàng tồn kho).
- Tài sản cố định (gồm có đất đai, các nguồn khoáng sản, nhà cửa, thiết bị, máy móc
và các phơng tiện vận chuyển).
- Các tài sản khác nh các khoản tiền gửi, các bằng sáng chế và các tài sản vô hình
khác, kể cả giá trị lợi thế phát sinh khi thâu tóm công ty.
Các nguồn vốn nợ và tài sản ròng chủ yếu bao gồm:
- Các khoản nợ ngắn hạn là nghĩa vụ đối với nhà cung cấp, cơ quan thuế vụ, ngời lao
động và ngời cho vay trong vòng một năm.
- Các khoản nợ dài hạn bao gồm các công cụ nợ có thời hạn hoàn trả trên một năm
nh trái phiếu, các khoản cho vay và các khoản thế chấp.
- Vốn cổ phần của chủ sở hữu bao gồm số vốn ròng do các loại chủ sở hữu đóng góp
cũng nh các khoản thu nhập tích luỹ đợc giữ lại trong doanh nghiệp sau khi chi trả cổ
tức.
Bảng cân đối kế toán là các hình ảnh sao chụp dạng tĩnh phản ánh các điều
kiện tại thời điểm lập bảng. Các số liệu này cũng mang tính chất tích luỹ vì nó trình

bày các kết quả của tất cả các quyết định và các giao dịch đợc thực hiện kết từ khi
doanh nghiệp bắt đầu hoạt động và đợc tính toán cho đến thời điểm chuẩn bị báo cáo.
Nh chúng ta đã thấy trên đây, các quy định kế toán tài chính quy định rằng tất
cả các giao dịch phải đợc hạch toán theo chi phí và giá trị tại thời điểm hiện thời, và
11
những điều chỉnh về sau giá trị ghi sổ chỉ đợc thực hiện trong những trờng hợp hạn
hữu. Do vậy, bảng cân đối kế toán (số liệu đợc tính luỹ) diễn giải các tài sản và các
khoản nợ đã mua hoặc phải thực hiện trong những thời gian khác nhau. Do các giá trị
kinh tế hiện thời của các tài sản có thể thay đổi, đặc biệt trong trờng hợp những khoản
mục dài hạn (nh nhà cửa, máy móc) hoặc các nguồn vốn (nh đất đai, khoáng sản), các
chi phí đợc phản ánh trong bảng cân đối kế toán có thể không phản ánh các giá trị
kinh tế thực sự. Hơn nữa, những thay đổi về giá trị của tiền tệ dùng để hạch toán các
giao dịch có thể bóp méo bảng cân đối kết toán theo thời gian.
Cuối cùng, vì giá trị sổ sách của vốn cổ phần là phần chênh lệch giữa tổng tài
sản có và vốn nợ nên giá trị này cũng chỉ thể hiện giá trị kế toán chứ không phải là
giá trị kinh tế hiện thời. Thờng có sự khác nhau hoàn toàn giữa giá trị còn lại này với
giá trị kinh tế hiện thời của doanh nghiệp đợc phản ánh trên giá cổ phiếu hoặc trong
việc định giá khi mua bán doanh nghiệp. Thực tế, cổ phần của các công ty hoạt động
có hiệu quả đợc mua bán theo các mức giá cao hơn nhiều so với giá trị ghi sổ của nó.
Từ thực tế trên cho thấy giá trị sổ sách trong nhiều trờng hợp chỉ nên dùng để
tham khảo chứ không có giá trị phân tích kinh tế để xác định giá trị thị trờng của
công ty.
Giá trị tái sinh
Đây là chi phí bắt buộc để thay thế một tài sản cố định hiện tại cùng loại. Nói
cách khác, đây chính là chi phí thay thế máy móc, thiết bị hoặc các tài sản cùng loại
khác. Trên thực tế, giá trị tái sinh là một trong những thớc đo dùng để điều chỉnh giá
trị tài sản của một doanh nghiệp đang hoạt động. Xác định giá trị tái sinh là một ớc
tính chủ yếu dựa trên những thay đổi về mặt kỹ thuật.
Giá trị tái sinh liên quan đến việc liệu tài sản cố định có thể đợc tái sinh hoàn
toàn giống nh ban đầu hay không. Cùng với hao mòn vật chất, phần lớn mọi tài sản

hữu hình sản xuất theo công nghệ theo thời gian đều trở nên lỗi thời. Đồng thời còn
có vấn đề đánh giá các chi phí thực tế phục vụ cho việc tái sinh tài sản cùng loại. Còn
12
trong phân tích, giá trị tái sinh thờng là tiêu chuẩn để đánh giá giá trị thị trờng của tài
sản của một doanh nghiệp đang hoạt động.
Giá trị đảm bảo
Đây là giá trị của một tài sản dùng để đảm bảo cho một khoản vay hay các loại
tín dụng khác. Giá trị đảm bảo nói chung đợc coi nh mức giá trị tín dụng lớn nhất
dùng để đánh giá tài sản cầm cố. Khi có vật đảm bảo trong tay, các chủ nợ thờng định
giá giá trị đảm bảo thấp hơn giá trị thị trờng của tài sản đó. Nh vậy sẽ tạo ra sự an
toàn trong trờng hợp mất khả năng thanh toán còn mức rủi ro đối với chủ nợ sẽ quyết
định mức độ điều chỉnh giảm bớt tuỳ ý. Khi giá trị thị trờng cha đợc hình thành, giá
trị đảm bảo đợc xác định hoàn toàn trên cơ sở đánh giá, thì chủ nợ sẽ cho phép duy trì
một biên độ an toàn đủ lớn phù hợp trong từng trờng hợp cụ thể.
Giá trị sau khấu hao
Nói chung, các nguyên tắc và thông lệ kế toán đợc chấp nhận quy định rằng
giá trị của một tài sản hao mòn phải đợc giảm dần một cách hệ thống và bằng giá trị
thực ròng sau quãng đời hoạt động của nó. Giá trị giảm này đợc gọi là mức khấu hao
hoặc giảm giá, thờng đợc quy định phải tính theo lợi nhuận trong suốt những giai
đoạn kế toán sử dụng tài sản. Giá trị sau khấu hao bằng giá trị sổ sách của một tài sản
trừ đi tổng mức khấu hao hoặc giảm giá đã đợc xác định. Vì là giá trị sổ sách nên
phản ánh giá thị trờng khi bán tài sản hoặc mức chi phí bỏ ra để thay thế tài sản.
Giá trị thẩm định
Giá trị thẩm định đợc xác định và sử dụng một cách chủ quan khi tài sản liên
quan không có giá trị thị trờng rõ ràng. Ngời ta thờng lấy giá giao dịch phù hợp để so
sánh với tài sản đợc thẩm định. Giá trị thẩm định thờng đợc dùng trong các giao dịch
có quy mô đáng kể, đặc biệt là đối với bất động sản có tính chất thơng mại hay đất
đai, giá trị thẩm định đợc xác định bởi một giám định viên công bằng đợc hai bên
tham gia chấp thuận, đó là ngời có kiến thức về giám định các loại tài sản liên quan
giúp ngời mua và ngời bán tìm ra đợc mức giá hợp lý, hay ít nhất là đề ra mức độ mặc

13
cả. Chất lợng đánh giá phụ thuộc vào khả năng giám định và so sánh với các trờng
hợp trớc đó. Một lần nữa, khả năng và đánh giá của cá nhân góp phần làm cân bằng
giá trị. Hiếm khi những lần thẩm định khác nhau lại có cùng kết quả.
Giá trị hoạt động liên tục
Giá trị hoạt động liên tục là giá trị của một doanh nghiệp đang hoạt động hoặc
giá trị của tài sản đang sử dụng. Khái niệm giá trị hoạt động liên tục thờng gặp khi
định giá nhà xởng và thiết bị và thờng kết hợp với một yếu tố thu nhập vốn hoá. Ví
dụ, trong thời kỳ lạm phát cao, giá trị hoạt động liên tục của nhà xởng và thiết bị có
thể vợt quá giá trị sổ sách của chúng rất nhiều. Giá trị hoạt động liên tục nói chung
thờng cao hơn giá trị có thể thực hiện nếu bán tài sản thông qua đấu giá công khai.
Giá trị cổ phần
Nh đã trình bày ở trên, giá trị cổ phần đợc hình thành khi lợi nhuận từ các hoạt
động kinh doanh hiện tại và trong tơng lai vợt quá chi tiêu về tài sản của công ty. Đó
là toàn bộ mức tăng về giá trị kinh tế của doanh nghiệp phản ánh trong tổng cổ tức
tăng định kỳ đợc tính bằng tổng cổ tức cộng với lãi hay lỗ. Giá trị cổ phần liên quan
chặt chẽ với các luồng thu nhập và lợi nhuận dự tính làm cơ sở cho giá trị kinh tế.
Giá trị thanh lý
Trong trờng hợp một doanh nghiệp giải thể hoạt động, thờng có ít thời gian để
bán tài sản. Nhu cầu bán tài sản trong một khoảng thời gian ngắn thờng dẫn tới việc
không thu hồi đợc toàn bộ giá trị tài sản so với trờng hợp nếu doanh nghiệp có nhiều
thời gian để bán tài sản hơn. Giá trị thấp này đợc coi là giá trị thanh lý hoặc giải thể
và gần bằng giá trị có thể thu đợc nếu bán tài sản thông qua đấu giá công khai.
Giá trị đặc biệt
Giá trị đặc biệt là giá trị phụ thêm mà một ngời mua sẵn sàng trả, phản ánh các
nhân tố nh quy mô kinh tế, tiềm năng phát triển, khả năng cạnh tranh, đảm bảo một
nguồn cung hoặc tiêu thụ cho sản phẩm, và giá trị phụ này là đánh giá của riêng ngời
14
mua đó. Việc tồn tại giá trị đặc biệt này có nghĩa là ngời mua đó sẵn sàng trả thêm
một khoản đáng kể cao hơn giá trị mà những ngời mua khác sẵn sàng trả.

2.2. Những nguyên tắc cơ bản trong định giá cổ phiếu
2.2.1. Cơ sở định giá cổ phiếu
Giá trị của một công ty đợc xác định bằng nguồn lợi nhuận mà công ty đem lại
hàng năm cho tất cả những ngời chủ sở hữu công ty. Hay nói cách khác, cổ phiếu phổ
thông mang lại cho ngời sở hữu một nguồn thu nhập tại các thời điểm khác nhau
trong tơng lai nh: cổ tức (đợc chia định kỳ hoặc không cố định); giá trị cổ phiếu khi
ngời sở hữu bán cổ phiếu đó đi. Nói tóm lại, cổ phiếu đem lại cho ngời sở hữu một
dòng thu nhập trong tơng lai.
Do tiền có giá trị về mặt thời gian, cho nên mỗi đồng tiền ở mỗi thời điểm khác
nhau sẽ đem lại một giá trị khác nhau. Vì vậy, để xác định giá trị cổ phiếu tại một
thời điểm nào đó, ngời ta phải xác định đợc giá trị luồng thu nhập mà cổ phiếu đó
(hoặc công ty đó) đem lại ở các thời điểm khác nhau và quy chúng về cùng thời điểm
cần định giá. Việc quy đổi này luôn tuân theo nguyên tắc chung là một đồng của
ngày hôm nay luôn có giá trị hơn một đồng của ngày mai do tính chất sinh lợi của
đồng tiền nh sau:
Ngày hôm nay, ngời đầu t bỏ ra một đồng để tiết kiệm với lãi suất r thì sau một
năm khoản tiền trên có giá trị bằng 1(1+r). Nh vậy, giá trị sau một năm của một đồng
sẽ là (1+r) đồng. Nếu làm phép tính ngợc lại thì nếu ngời đầu t muốn có đợc một
khoản tiền M
1
= (1+r) đồng sau đây một năm thì ngày hôm nay, ngời đó phải gửi tiết
kiệm một khoản M
1
/(1+r) = (1+r)/(1+r) = 1 đồng. Đây chính là nguyên lý cơ bản để
xác định giá trị luồng thu nhập theo thời gian. Do vậy, việc xác định giá trị cổ phiếu
đợc dựa trên nguyên tắc xác định giá trị đồng tiền theo thời gian nh sau:
Xác định giá trị tơng lai của một khoản tiền hiện tại
15
Đồng tiền có giá trị theo thời gian. Một khoản đầu t có thể tăng sau một thời
gian do có lãi suất. Nếu đầu t một khoản PV trong n năm, lãi suất các năm tơng ứng

là r
1
, r
2
, .... và FV(n; r
1
, r
2
...r
n
) là giá trị cuối kỳ thì:
FV(n; r
1
, r
2
...r
n
) = PV(1+r
1
)(1+r
2
)...(1+r
n
)
Nếu lãi suất không đổi qua các năm: r
1
=r
2
=...=r
n

thì :
FV(n;r) = PV(1+r)
n
Trong đó:
FV(n;r) : giá trị cuối kỳ
n: Số năm (hay số thời kỳ)
r : lãi suất năm (%) (hay thời kỳ)
PV: Giá trị ban đầu
- Nếu tính theo tháng thì công thức biến đổi nh sau:
FV(n;r) = PV(1+r)
n/12
Trong đó:
FV(n;r) : giá trị cuối kỳ
n: Số tháng gửi
r : lãi suất năm (%)
PV: Giá trị ban đầu
- Nếu tính theo ngày thì công thức biến đổi nh sau:
FV(n;r) = PV(1+r)
n/365
Trong đó:
FV(n;r) : giá trị cuối kỳ
n: Số ngày gửi
r : lãi suất năm (%)
PV: Giá trị ban đầu
- Lãi suất nhiều kỳ trong năm:
FV(n,r) = PV (1 +
m
r
)
n

ì
m
16
Trong đó:
r: Lãi suất hàng năm
n: Số năm gộp lãi
m: Số kỳ gộp lãi mỗi năm (tháng, quý, ngày)
- Giá trị tại một thời điểm thời gian trong tơng lai của một dòng thu nhập đều
đặn trớc đó.
FV(n, r
1
r
2
... r
n
) = PV(1+r
n
)
0
+ PV(1+r
n-1
)
1
+ ... + PV(1+r
1
)
n-1
Nếu lãi suất nh nhau:
FV(n, r) = PV{(1+r)
0

+ PV(1+r)
1
+ ... + PV(1+r)
n-1
}
FVA(n,r) = PV (
r
1r)(1
n
+
)
Xác định giá trị hiện tại của một khoản tiền trong tơng lai:
PV=
)r)...(1r)(1r(1
r)FV(n,
n21
+++
Với lãi suất cố định:
PV=
n
r)(1
r)FV(n,
+
Thời gian tính theo tháng:
PV =
n/12
r)(1
r)FV(n,
+
Thời gian tính theo ngày:

PV =
n/365
r)(1
r)FV(n,
+
- Giá trị hiện tại của dòng thu nhập tại các thời điểm khác nhau trong tơng lai
PV(n, r
1
r
2
... r
n
%) =
1
1
1
)r(1
FV
+
+
2
2
2
)r(1
FV
+
+ ... +
n
n
n

)r(1
FV
+
Trong đó:
PV: Giá trị hiện tại
17
FV
1
: Giá trị thu nhập của năm 1
FV
2
: Giá trị thu nhập của năm 2
FV
n
: Giá trị thu nhập của năm n
Nếu FV
1
= FV
2
= FV
n
= FV và r
1
= r
2
= ... = r
n
= r

thì

PV(n, r) =
1
r)(1
FV
+
+
2
r)(1
FV
+
+ ... +
n
r)(1
FV
+
Nh vậy, nếu ta cần xác định giá trị của toàn bộ công ty hoặc của từng cổ phiếu
tại thời điểm hiện tại thì có thể áp dụng công thức tổng quát sau:
P
o
=


=
+
1i
i
i
i
)r(1
FV

Trong đó:
FV
i
: là thu nhập của toàn công ty hoặc từng cổ phiếu hàng năm.
r
i
: lãi suất năm i.
Về nguyên tắc, dòng thu nhập có thể là vô hạn vì một công ty và cổ phiếu của
công ty có thể tồn tại vô thời hạn.
2.2.1. Nguyên tắc ngang giá
Trong điều kiện thị trờng hoạt động trôi chảy và không có những yếu tố làm nó
méo mó giá cả, nguyên tắc giá trị hiện tại và lợi suất tơng ứng với rủi ro đa đến hệ
quả là giá cả của nó. Tại những thời điểm nhất định, do sự mất cân đối về thông tin
hay thông tin không đầy đủ thì có thể phát sing sự chêch lệch giữa giá cả và hiện giá
của một tài sản nhng trên thị trờng lập tức sẽ đẩy giá thị trờng về sát với hiện giá của
nó. Đây chính là hoạt động có tác dụng điều chỉnh thờng xuyên trên các TTCK phát
triển. Mặt khác, cơ chế trên còn đa một nguyên lý nữa là giá cả của các tài sản có
cùng dòng tiền thu nhập và cùng độ rủi ro thì phải bằng nhau nếu giả định rằng chi
phí giao dịch là bằng không và thị trờng hoạt động hiệu quả.
2.2.2. Lợi suất tơng ứng với rủi ro
Lãi suất r nêu trên chính là tỷ suet để qui các luồng tiền thu nhập trong twong
lai của tài sản tài chính về giá trị hiện tại hay còn gọi là tỷ lệ chiết khấu. Với choc
18
năng đó, tỷ lệ chiết khấu phải tơng xứng với mức độ rủi ro của tài sản tài chính và còn
đợc gọi là lợi suất mong đợi điều chỉnh theo rủi ro bởi vì xét từ góc độ nhà đầu t nó là
lợi tức đợc thể hiện theo giá trị tơng đối (phần trăm) mà họ mong muốn thu đợc qua
việc đầu t vào một tài sản có mức độ rủi ro nhất định. Rủi ro này bao gồm rủi ro hệ
thống (rủi ro không thể tránh khỏi) và rui ro phi hệ thống (rủi ro có thể loại trừ bằng
cách đa dạng hoá). Do vậy, r phải bao hàm hai yếu tố: lợi suất phi rủi ro và phí bù
đắp rủi ro. Lợi suất phi rủi ro đem lại lợi tức thực, cps tính lợi đến lạm phát cho nhà

đầu t (mà điển hình là lãi suất của Tín phiếu Kho bạc); còn phí bù đắp rủi ro bao
gồm: rủi ro vỡ nợ, rủi ro kỳ hạn, rủi ro về tính thanh khoản, rủi ro tỷ giá hối
đoái...gắn với từng loại tài sản.
Mô hình định giá tài sản vốn (CAPM)
Một phát triển của lý thuyết thị trờng vốn là mô hình định giá tài sản vốn
(CAPM), đợc áp dụng phổ biến trong bối cảnh tài chính hiện tại. Về cơ bản, CAPM
chỉ ra rằng lợi suất mong đợi (hay yêu cầu) của tài sản tài chính bằng với lợi suất của
chứng khoán phi rủi ro cộng với chi phí bù đắp rủi ro, theo công thức sau:
r
e
= r
f
+ [ E(r
m
) - r
f
]
e


Trong đó:
r
f
= lợi suất phi rủi ro
E(r
m
) = lợi suất dự tính của danh mục thị trờng
E(r
m
) - r

f
= mức bù đắp rủi ro thị trờng
e

= rủi ro hệ thống của tài sản
r
e
= lợi suất yêu cầu
19
%
E(r)
r
r
r = r + [ E(r) - r]
E(r) - r= hệ số góc

Bêta
1,0
Bêta
Lợi suất yêu cầu, r
e
là một hàm số của rủi ro hệ thống (

). Rủi ro beta của
danh mục thị trờng bằng 1,0. Hệ số

của chứng khoán càng lớn thì mức rủi ro càng
cao, và do vậy lợi suất yêu cầu (r
e
) phái càng lớn.

Để áp dụng phơng pháp CAPM, chúng ta cần phải xác định ba nhân tố: lợi suất
phi rủi ro, mức bù đắp rủi ro thị trờng, và rủi ro hệ thống (

).
Xác định lợi suất phi rủi ro
Lợi suất phi rủi ro là thu nhập từ một chứng khoán hoặc một danh mục đầu t
chứng khoán không có rủi ro và hoàn toàn không chịu tác động của các biến đôngk
kinh tế. Ngời ta thờng áp dụng lãi suất tín phiếu kho bạc là phù hợp nhất. Nguyên
nhân chủ yếu là do tín phiếu kho bạc có kỳ hạn ngắn, do vậy hầu nh không chịu rủi ro
biến động lãi suất trên thị trờng.
Xác định mức bù đắp rủi ro thị trờng
Bù đắp rủi ro thị trờng (giá của rủi ro) là phần chênh lệch giữa lợi suất dự tính
từ danh mục thị trờng và lợi suất phi rủi ro, E(r
m
) - r
f
. Mô hình CAPM lập luận rằng
chứng khoán càng rủi ro thì mức lãi suất yêu cầu khi đầu t vào chứng khoán đó càng
phải lớn, tức là chi phí của công ty phát hành ra chứng khoán đó phải càng lớn. Lý do
ở chỗ rủi ro càng cao thì mức bù đắp rủi ro phải càng lớn. Vì danh mục thị trờng có
hệ số

bằng 1 nên mức bù đắp rủi ro thị trờng E(r
m
) - r
f
đợc coi là giá của một đơn
vị rủi ro. Vì vậy, đối với một chứng khoán nào đó có
e


> 1 thì mức bù đắp rủi ro cho
20

×