Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO THUÊ TÀI CHÍNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.46 KB, 34 trang )

NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO THUÊ
TÀI CHÍNH
Hình thức tài trợ thông qua cho thuê tài sản đã có lịch sử lâu đời và diễn ra trong hầu hết mọi
lĩnh vực hoạt động sản xuất, thuộc nhiều khu vực trên thế giới. Tuy nhiên, từ khi xuất hiện phương
thức cho thuê tài chính (leasing) thì loại hình tài trợ này đã có những bước phát triển mang tính
đột phá. Đối với nước ta cho thuê tài chính là một lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ với kết quả đạt được
còn khiêm tốn. Nhưng sau hơn 5 năm đi vào hoạt động các công ty cho thuê tài chính ( CTTC ) đã
chứng tỏ tính ưu việt của mình, hoạt động này đã tạo một kênh dẫn vốn rất quan trọng đến các
doanh nghiệp, và thực tế cho thấy hoạt động cho thuê tài chính đã có những bước phát triển vượt
bậc cả về quy mô và phạm vi địa ý lý. Hiện nay, ngành cho thuê đã dần khẳng định vị thế của mình
trên thị trường vốn. Song song với sự phát triển về chiều rộng, chiều sâu đang dần thay đổi và phát
triển. Với mục đích trang bị những vấn đề cơ bản về cho thuê tài chính ( từ khái niệm, đặc điểm,
phương thức giao dịch,... đến bản chất, vai trò, lợi ích ) nội dung của chương I gồm các vấn đề sau:
1.1. VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG CHO THUÊ TÀI CHÍNH TRONG NỀN KINH
TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1.1. CHO THUÊ TÀI CHÍNH - HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY CHO THUÊ
1.1.1.1. Lịch sử ra đời của hoạt động cho thuê
Cho thuê tài sản là một phương thức tài trợ được sáng tạo từ rất sớm
trong lịch sử văn minh nhân loại. Theo các thư tích cổ, hoạt động cho thuê tài
sản đã xuất hiện từ năm 2800 trước CN tại thành phố Sumeran của người UR
(là một thành phố phía Nam của thành phố Mesopotania, gần vịnh Ba tư, là
một phần của Iraq ngày nay). Trong đó những người cho thuê là các thầy tu,
còn những người đi thuê là những nông dân tự do, tài sản thuê là những công
cụ sản xuất nông nghiệp như súc vật kéo, nhà cửa, ruộng đất....
Những bộ luật quy định về nguyên tắc của hoạt động cho thuê đó cũng ra
đời rất sớm. Vào khoảng năm 1700 trước CN, vua Babilon là Hamunurabi đã
ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng tạo thành một luật lớn có liên
quan tới hoạt động cho thuê tài sản. Đồng thời trong các nền văn minh cổ đại
khác như Hy Lạp-La Mã hay Ai Cập cũng đã xuất hiện các hình thức cho thuê
để tài trợ cho hoạt động sản xuất.
Tuy nhiên các giao dịch cho thuê tài sản diễn ra ở những thời kỳ trước chỉ


là những giao dịch của hoạt động cho thuê kiểu truyền thống, tương tự như
hình thức cho thuê vận hành ngày nay, một hình thức cho thuê ngắn hạn
nhưng trong suốt hàng ngàn năm lịch sử tính chất giao dịch của hình thức này
gần như không thay đổi. Đến đầu thế kỷ 19 hoạt động cho thuê diễn ra rất sôi
động gia tăng về cả số lượng lẫn chủng loại tài sản cho thuê. Và đến đầu
những năm 50 của thế kỷ 20, hoạt động cho thuê tài sản đã tiến một bước dài
và đã trở thành một ngành kinh doanh thực sự với việc ra đời của công ty
United States Leasing Coporation (Hoa Kỳ), một hình thức cho thuê mới được
thực hiện, cho thuê tài sản trung và dài hạn, hình thức cho thuê tài sản này đã
có sự thay đổi về chất. Từ đó đến nay hoạt động cho thuê tài sản được chia
thành hai nhánh: Cho thuê tài sản trong thời gian ngắn ( hay còn gọi là cho
thuê vận hành, cho thuê thông thường, cho thuê kiểu truyền thống ) và cho
thuê tài sản trung và dài hạn (hay còn gọi là cho thuê tài chính).
Sau đó nghiệp vụ phát triển Leasing sang Châu Âu và được ghi vào Luật
Thuê mua của Pháp ( năm 1960 ) với tên gọi “ Credit Bail “. Cũng trong năm
1960, hợp đồng cho thuê tài chính đầu tiên được thảo ra ở Anh có giá trị
18.000 bảng Anh.
Từ khi xuất hiện hình thức cho thuê tài chính, các hoạt động cho thuê đã
phát triển hết sức phi thường. Trong giao dịch ngày nay, các Công ty Leasing
có thể cho thuê cả những nhà máy hoàn chỉnh theo phương thức “ chìa khoá
trao tay “. Đồng thời về chủng loại, tài sản cho thuê cũng được đa dạng hoá.
Chỉ tính riêng tại Hoa Kỳ, tổng số vốn thiết bị cho thuê năm 1987 lên tới 107,9
tỷ đôla ($) và có tốc độ gia tăng 7% mỗi năm. Ngày nay, ngành cho thuê thiết
bị Hoa Kỳ chiếm từ 25% - 30% tổng số tiền tài trợ cho các giao dịch mua bán
thiết bị hàng năm. Ở Anh, năm 1993 tổng giá trị ngành công nghiệp cho thuê
đạt 49 tỷ bảng Anh.
Châu Á, Nhật là quốc gia có ngành kinh doanh cho thuê ra đời sớm nhất.
Công ty cho thuê đầu tiên của Nhật được thành lập vào năm 1963, đó là Công
ty cho thuê Orient ( Orient leasing corporation ). Ở Nhật hoạt động của các
Công ty cho thuê được sự hỗ trợ của các NHTM, các Công ty thương mại tổng

hợp và các hãng sản xuất, vì vậy ngành cho thuê ở Nhật phát triển khá nhanh.
Năm 1970 tổng giá trị hợp đồng của 31 Công ty cho thuê lớn nhất là 726 triệu
USD, năm 1981 là 7.500 triệu USD, tăng hơn 10 lần so với năm 1970.
Đến đầu những năm 70 hoạt động cho thuê tài chính cũng bắt đầu xuất
hiện ở Hàn Quốc, ấn Độ, Indonesia, đến cuối những năm 70 đầu 80 hoạt động
cho thuê tài chính đã phát triển ở hầu hết các nước Châu Á. Như vậy, Cho thuê
tài chính đã phát triển mạnh ở Châu Á và nhiều khu vực khác trên thế giới kể
từ thập niên 70. Năm 1994, ngành công nghiệp cho thuê trên thế giới có giá trị
trao đổi chiếm 350 tỷ đôla ($), đến năm 1998 đã là 450 tỷ đôla ($). Nguyên
nhân chính thúc đẩy hoạt động cho thuê phát triển mạnh mẽ là do nó là hình
thức tài trợ có tính an toàn cao, tiện lợi và đem lại hiệu quả cao cho các bên
tham gia.
So với các nước Châu Á ngành công nghiệp cho thuê thâm nhập vào Việt
Nam có phần muộn hơn. Ngân hàng đi đầu trong lĩnh vực này là ngân hàng
Ngoại thương Việt Nam, năm 1994 ngân hàng này đã thành lập công ty cho
thuê và đầu tư để thực hiện hoạt động cho thuê tài chính. Tuy nhiên, đến ngày
27/5/1995 Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam mới ban hành thể lệ tín
dụng thuê mua ( Quyết định 149/QĐ-NH5 ) và ngày 9/10/1995 Chính phủ đã
ban hành Nghị định 64/CP về “ Quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của
công ty cho thuê tài chính Việt Nam ”. Nhờ các văn bản pháp lý trên đã tạo điều
kiện cho các công ty cho thuê tài chính ra đời. Cho đến nay có 8 công ty CTTC
đang hoạt động tại Việt Nam, trong đó có 5 công ty CTTC trực thuộc tổ chức tín
dụng ( công ty CTTC NH Công thương, công ty CTTC NH Ngoại thương, công ty
CTTC NH Đầu tư, công ty CTTC NH Nông nghiệp I và công ty CTTC NH Nông
nghiệp II ), 2 công ty CTTC 100% vốn nước ngoài (Kexim và ANZ - VTrac ) và 1
công ty CTTC Liên doanh (VILC ). Với dư nợ cho thuê ( bao gồm cả phần vốn
đầu tư mua thiết bị ) của các công ty CTTC là 2.021,7 tỷ VNĐ chiếm 90,11%
trên tổng tài sản có (Tính đến ngày 30/06/2002).
1.1.1.2. Hoạt động của công ty cho thuê
Công ty cho thuê là một loại hình công ty tài chính, hoạt động chủ yếu là

cho thuê tài sản. Từ lịch sử phát triển của hoạt động cho thuê tài sản, ta có thể
thấy rõ hoạt động cho thuê của công ty cho thuê trong nền kinh tế thị trường
sẽ bao gồm cả hoạt động cho thuê ngắn hạn (cho thuê vận hành) và cho thuê
trung và dài hạn (cho thuê tài chính). Hoạt động của công ty cho thuê cũng
như các doanh nghiệp kinh doanh ở các lĩnh vực khác đều gồm có hoạt động
huy động vốn, sử dụng vốn và một số hoạt động khác.
Các công ty cho thuê có thể được thành lập theo nhiều loại hình doanh
nghiệp như công ty hợp danh, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn
hoặc cũng có thể là doanh nghiệp Nhà nước. Do vậy vốn hoạt động của công ty
cho thuê có thể lấy từ các nguồn sau:
- Nguồn vốn tự có: nguồn vốn tự có của công ty cho thuê có thể là nguồn
vốn góp của các cổ đông, nguồn vốn do Nhà nước cấp, các quỹ và lợi nhuận giữ
lại công ty.
- Nguồn vốn đi vay: có thể là vay trực tiếp từ dân cư, vay ngân hàng hoặc
vay qua thị trường vốn, vay nước ngoài.
Hoạt động sử dụng vốn của công ty cho thuê chủ yếu được thực hiện qua
hoạt động cho thuê tài sản, gồm cả cho thuê vận hành và cho thuê tài chính.
Hình thức cho thuê vận hành đã được thực hiện ở Việt Nam từ lâu, một số tài
sản có giá trị lớn như máy bay hay một số máy móc mà doanh nghiệp chỉ cần
sử dụng trong một thời gian ngắn như máy nén cọc, cần cẩu công suất lớn
chúng tài sản cũng thực hiện thuê theo phương thức này. Tại thành phố Hồ Chí
Minh, các Business Center cung cấp các loại dịch vụ văn phòng thực chất chính
là các doanh nghiệp cho thuê tài sản ngắn hạn (cho thuê vận hành). Gần đây
các nhà đầu tư nước ngoài cũng áp dụng hình thức này với tài sản là máy móc
thiết bị dùng trong ngành công nghiệp. Phía Việt Nam xin thuê thiết bị hiện
đại, tự quản lý sản xuất, tiền thuê máy được tính vào số sản phẩm làm từ chiếc
máy đó. Phía nước ngoài hướng dẫn kỹ thuật, giúp đỡ sáng tác mẫu mã sản
phẩm và tiêu thụ sản phẩm ở thị trường nước ngoài. Thực tế phương thức tài
trợ này đã đem lại hiệu quả cao nhất là đối với các doanh nghiệp đang thiếu
vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, cho thuê vận hành phù hợp

với một nền kinh tế phát triển, các doanh nghiệp có kế hoạch sản xuất cụ thể
cho từng thời điểm nhất định trong năm. Dựa vào đó các công ty cho thuê có
thể nghiên cứu đa dạng hoá hoặc chuyên môn hoá đối tượng khách hàng và
lập kế hoạch cho thuê cụ thể. Thực tế loại hình kinh doanh này đem lại lợi
nhuận cao song độ rủi ro cũng lớn, đặc biệt là rủi ro do kỹ thuật lạc hậu, nên
nó không thích hợp với các công ty leasing mới ra đời, chưa có kinh nghiệm. Ở
Việt Nam hiện nay các công ty cho thuê chưa thực hiện phương thức cho thuê
này vì vậy trong luận văn này em xin đề cập về hình thức cho thuê tài sản trung
và dài hạn (cho thuê tài chính).
1.1.1.3. Giao dịch cho thuê tài chính
Phương thức cho thuê tài chính được “ du nhập ” từ nước ngoài, vì vậy
thuật ngữ “ Cho thuê tài chính ” tiếng Anh là “ Finance Lease ” ( một số tài liệu
gọi là “ Net Lease ” hay “ Capital Lease ” ) Trong tiếng Anh: “ Finance ” nghĩa là
tài chính hay tài trợ, còn “Lease” nghĩa là cho thuê nên có thể dịch là: Cho thuê
tài chính, tài trợ thuê mua, cho thuê tư bản hay cho thuê thuần,..
Từ “ Tài chính ” trong thuật ngữ “ Cho thuê tài chính ” xuất phát từ thực tế
là: Người cho thuê tuy sở hữu thiết bị về mặt pháp lýý nhưng lại đứng vào vị
thế kinh tế của một nhà tài chính ( hay nhà cấp tín dụng với thuật ngữ “Tín
dụng thuê mua” ) hơn là người sở hữu. Tách biệt quyền sở hữu pháp lý với
quyền sở hữu kinh tế là tinh thần cơ bản của cho thuê tài chính.
Tuy nhiên vấn đề thuật ngữ không đóng vai trò quá quan trọng mà điều
quan trọng là cần phải hiểu đúng và chính xác bản chất của sự việc. Để phù
hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể, luận văn sẽ thống nhất sử dụng thuật ngữ
Cho thuê tài chính theo như các văn bản pháp luật của Việt Nam hiện nay.
Một giao dịch được coi là cho thuê tài chính nếu như nó chuyển gần như
tất cả mọi rủi ro và lợi ích từ việc sở hữu tài sản cho người thuê. Như vậy,
người thuê tuy không phải là chủ sở hữu về mặt pháp lý nhưng thực sự chịu
mọi rủi ro và hưởng mọi lợi ích từ việc sử dụng tài sản (người thuê chỉ nắm
quyền sở hữu kinh tế, còn quyền sở hữu pháp lý vẫn thuộc người cho thuê).
Loại thuê này thường không thể huỷ bỏ nhằm đảm bảo cho người cho thuê có

thể thu hồi vốn và lãi đối với số vốn cho vay. Sau khi đã thu hồi được vốn và lãi
rồi thì quyền sở hữu pháp lý sẽ dễ dàng chuyển sang cho người thuê. Điều này
giải thích tại sao giá mua tài sản khi kết thúc hợp đồng cho thuê tài chính chỉ
có ý nghĩa tượng trưng. Trên thực tế người thuê sẽ nhận thấy rằng lợi ích thu
được trong quá trình sản xuất không phải từ việc sở hữu tài sản mà là từ việc
sử dụng tài sản. Do đó, phương án thuê tài chính là một giải pháp tín dụng
thay thế cho việc vay vốn ngân hàng để mua tài sản,...
a. Đặc điểm của giao dịch cho thuê tài chính:
- Theo Uỷ ban tiêu chuẩn kế toán quốc tế (IASC)
Hiện nay phần lớn các nước đưa ra các tiêu chuẩn dựa trên các tiêu
chuẩn mà Uỷ ban tiêu chuẩn kế toán quốc tế đã quy định để xác định một giao
dịch được gọi là thuê tài chính.
Uỷ ban tiêu chuẩn kế toán quốc tế đã đưa ra 4 tiêu chuẩn mà bất cứ một
giao dịch nào thoả mãn ít nhất 1 trong 4 tiêu chuẩn đó đều được gọi là thuê
tài chính. Bốn tiêu chuẩn đó như sau:
1- Quyền sở hữu tài sản được giao khi hết thời hạn hợp đồng.
2- Hợp đồng có quy định quyền mặc cả mua.
3- Thời hạn hợp đồng bằng phần lớn thời hạn hoạt động của tài sản.
4- Hiện giá của các khoản tiền thuê lớn hơn hoặc gần bằng giá trị của tài sản
Nguồn: International Accounting Standards Conrittee, IAS 17, 1993/1994,
P236.
- Theo Hội đồng tiêu chuẩn kế toán tài chính Mỹ (FASB)
Ở Mỹ hội đồng tiêu chuẩn kế toán tài chính (FASB) đã quy định 4 tiêu
chuẩn như sau:
1- Quyền sở hữu của tài sản thuê được chuyển giao cho người đã thuê khi
chấm dứt hợp đồng thuê
2- Hợp đồng thuê cho phép người thuê được quyền lựa chọn mua tài sản
thuê với giá thấp hơn ở thời điểm nào đó hoặc đến khi chấm dứt thời hạn thuê.
3- Thời hạn thuê bằng 75% hoặc cao hơn so với đời sống hoạt động ước
tính của tài sản thuê.

4- Hiện giá của các khoản thanh toán tiền thuê tối thiểu là 90% so với giá
trị tài sản thuê.
- Theo quyết định 1205 – CT/CĐKT ngày 14/12/1996 của Bộ trưởng Bộ
Tài Chính.
Ở Việt Nam, theo quyết định này, một giao dịch được gọi là thuê tài chính
phải thoả mãn 1 trong 4 tiêu chuẩn sau:
1- Quyền sở hữu tài sản thuê cố định được chuyển giao cho bên đi thuê khi
hết hạn hợp đồng.
2- Hợp đồng cho phép bên đi thuê lựa chọn mua tài sản cố định thuê với
giá trị thấp hơn giá trị của tài sản cố định tại một thời điểm nào đó hoặc vào
lúc kết thúc hợp đồng.
3- ký hợp đồng ít nhất phải bằng 3/4 thời gian hoạt động của tài sản
thuê.
4- Giá trị tài sản cố định hiện tại của các khoản chi theo hợp đồng ít nhất
bằng 90% giá trị của tài sản cố định thuê.
Trên đây cụm từ “ Giá trị tài sản cố định hiện tại của các khoản chi ” được
hiểu như là giá trị hiện tại và gọi tắt là hiện giá ( The present Value ), có nghĩa
là 1 khoản tiền trong tương lai được quy đổi về hiện tại được tính theo lãi
suất.
Trong trường hợp thuê giá trị tương lai (Future Value) là số tiền mà
người thuê phải thanh toán theo hợp đồng. Hiện giá của khoản thanh toán tiền
thuê được tính theo công thức sau:

n1-n2
) i 1 (
f
) i (1
f
) i 1 (
f

) i 1 (
f
P
+
+
+
+
+
+
+
=
.......
1
Trong đó:
P - Hiện giá
f - Số tiền thuê phải trả mỗi kỳ
n - Số kỳ thanh toán tiền thuê tới khi kết thúc hợp đồng.
- Theo quy định số 16/2001/NĐ-CP của chính phủ về Tổ chức và hoạt
động của Công ty cho thuê
Cho thuê là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê
máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp
đồng cho thuê giữa bên cho thuê với bên thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy
móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của
bên thuê và nắm quyền sở hữu đối với các tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng
tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên
thoả thuận. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua lại
tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã được thoả thuận trong
hợp đồng cho thuê. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp động
cho thuê ít nhất phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký
hợp đồng cho thuê.

Qua việc xem xét một giao dịch như thế nào được coi là một giao dịch cho
thuê tài chính ta có thể thấy việc đưa ra những tiêu chuẩn nhận dạng cụ thể, rõ
ràng về giao dịch cho thuê tài chính là rất cần thiết. Một hệ thống tiêu chuẩn
chính xác sẽ góp phần phân định rõ ràng giao dịch cho thuê tài chính với các
giao dịch thương mại cũng như các hoạt động tài chính khác.
b. Phân biệt cho thuê tài chính với Vay vốn Ngân hàng
Xét về bản chất, cho thuê tài chính là một hình thức tín dụng trung và dài
hạn, nhưng nó có những điểm khác cơ bản so với hình thức Vay vốn ngân hàng.
Về lãi suất: lãi suất tài trợ của phương thức cho thuê tài chính thường
cao hơn so với lãi suất cho vay trung, dài hạn của ngân hàng do nó được tính
trên cơ sở lãi suất cho vay trung, dài hạn cộng với một tỷ lệ phần trăm nhất
định để bù đắp các chi phí phát sinh đối với tài sản cho thuê cũng như chi phí
quản lý của Công ty cho thuê.
Về công cụ tài trợ: trong hoạt động tín dụng trung, dài hạn ngân hàng tài
trợ cho các doanh nghiệp bằng tiền và doanh nghiệp sẽ sử dụng số tiền đó để
mua máy móc, thiết bị phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhưng đối
với phương thức cho thuê tài chính, bên cho thuê tài trợ trực tiếp bằng các tài
sản như máy móc, thiết bị, dây truyền công nghệ....
Về tính an toàn: đối với nhà tài trợ của phương thức cho thuê tài chính
cao hơn so với tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng vì các nguyên nhân
sau:
- Cho vay bằng tiền so với cho vay bằng tài sản khó đảm bảo tính mục đích
của khoản vay hơn vì: Với cho vay bằng tài sản, công ty CTTC biết chắc khoản
tiền mà cho thuê cho vay đã đầu tư vào tài sản - tài sản do công ty CTTC mua
và công ty CTTC vẫn là chủ sở hữu tài sản trong suốt thời gian cho thuê nên họ
hiểu rõ về tài sản cho thuê, có điều kiện kiểm soát tài sản cho thuê tài chính.
Với cho vay bằng tiền thì khác hẳn, người đi vay vẫn là chủ sở hữu của tài sản
nên khách hàng của NHTM có thể cầm cố, thế chấp, bán tài sản này cho người
khác, trong khi khách hàng của công ty CTTC chỉ là người thuê tài sản nên
không có quyền này.

- Tính chủ động của NHTM đối với khoản cho vay kém hơn: Khách hàng
của công ty CTTC không được huỷ ngang hợp đồng hay chấm dứt hợp đồng
trước thời hạn mà hai bên đã kýý kết. Nếu bên đi thuê tự ý huỷ bỏ hợp đồng
thuê thì bên đi thuê co trách nhiệm phải thanh toán toàn bộ tiền thuê còn lại
cho công ty CTTC, trường hợp không thanh toán được tiền thuê còn lại, công
ty CTTC có quyền thu hồi tài sản cho thuê và có thể bán hay cho thuê tài sản
này cho người khác, đồng thời, bên thuê phải bồi thường toàn bộ thiệt hại của
công ty CTTC do việc phá vỡ hợp đồng gây ra. Trong khi đó khách hàng vay
vốn để mua tài sản của NHTM có quyền chủ động trả tiền gốc và lãi vay trước
thời hạn mà chỉ phải kèm theo một khoản phí trả tiền vay trước hạn.
- Khi khách hàng bị phá sản, đối với khách hàng của NHTM, tài sản thuộc
quyền sở hữu của khách hàng nên được coi là tài sản xử lý để trả nợ như các
tài sản khác của khách hàng, ngược lại với tài sản đi thuê tài chính, khách
hàng người đi thuê không có quyền sở hữu tài sản, do vậy khi khách hàng phá
sản, tài sản đi thuê tài chính không được coi như tài sản thuộc diện xử lý để
trả nợ
Về chủ thể tham gia giao dịch: trong cho thuê tài chính ngoài sự tham gia
của bên thuê và bên cho thuê còn có sự tham gia của các chủ thể kinh tế khác
như các nhà cung cấp,.... còn đối với giao dịch tín dụng trung, dài hạn của
ngân hàng chỉ có sự tham gia của hai bên là người đi vay và ngân hàng.
c. Phân biệt Cho thuê tài chính với Cho thuê vận hành
Cho thuê có hai loại chính: cho thuê vận hành ( operating leases ) và cho
thuê tài chính ( financial lease ).
Cho thuê vận hành là loại cho thuê ngắn hạn và bên đi thuê có thể huỷ bỏ
hợp đồng và bên cho thuê có trách nhiệm bảo trì, đóng bảo hiểm và thuế tài
sản.
Xuất phát từ các đặc điểm trên dẫn đến tổng chi phí tiền thuê của một
hợp đồng nhỏ hơn nhiều so với giá trị của tài sản. Thông thường khi kết thúc
hợp đồng bên cho thuê có thể gia hạn hợp đồng, ký hợp đồng mới hoặc tìm
một khách hàng thuê khác.

Như vậy, cho thuê vận hành và cho thuê tài chính có những điểm giống
nhau cơ bản sau:
Quyền sở hữu: Có sự tách biệt giữa quyền sở hữu pháp lý và quyền sở hữu
kinh tế.
Ưu đãi về thuế: Người cho thuê hưởng và khấu trừ vào tiền thuê.
Bồi thường bảo hiểm: Người cho thuê được hưởng tiền bồi thường bảo
hiểm.
Tuy nhiên, cho thuê vận hành và cho thuê tài chính còn có những điểm
khác nhau cơ bản sau:
STT
TIÊU THỨC
CHO THUÊ VẬN
HÀNH
CHO THUÊ TÀI
CHÍNH
1 Thời hạn thuê Ngắn hạn Trung và dài hạn
2
Quyền huỷ bỏ hợp
đồng
Hợp đồng cho thuê
có thể được huỷ bỏ
Bên cho thuê và
bên thuê không
được phép huỷ bỏ
hợp đồng
3
Trách nhiệm bảo trì,
đóng bảo hiểm và
thuế tài sản
Bên cho thuê Bên đi thuê

4
Mức thu hồi vốn của
một hợp đồng thuê
Tổng số tiền thuê
của một hợp đồng
nhỏ hơn nhiều so
với giá trị tài sản
(Tổng số tiền tài
trợ)
Tổng số tiền thuê
gần bằng hoặc
lớn hơn giá trị tài
sản.
5
Chuyển quyền sở
hữu hoặc bán tài sản
Không có thoả
thuận chuyển
quyền sở hữu hoặc
bán lại tài sản cho
bên đi thuê
Trong hợp đồng
thuê thường có
điều khoản thoả
thuận chuyển
quyền sở hữu
hoặc bán hoặc
cho thuê tiếp
6
Trách nhiệm về rủi

ro liên quan đến tài
sản
Bên cho thuê chịu
phần lớn các rủi
ro, chỉ trừ rủi ro do
bên đi thuê gây ra
Bên đi thuê chịu
phần lớn các rủi
ro, kể cả rủi ro
không phải do
mình gây ra
d. Hợp đồng cho thuê tài chính
Các giao dịch cho thuê tài chính đều được thực hiện thông qua một hợp đồng cho thuê
tài chính, trong hợp này phải thể hiện đầy đủ các thông tin về bên cho thuê, bên thuê, tài sản
cho thuê, thời hạn cho thuê, tiền thuê, quyền chọn mua, các trường hợp và cách xử lý việc
chấm dứt hợp đồng trước thời hạn và một số thông tin khác theo từng hợp
đồng cho thuê tài chính cụ thể.
Hợp đồng cho thuê tài chính là một loại hợp đồng kinh tế được ký kết
giữa bên cho thuê và bên đi thuê về việc cho thuê tài sản trong một thời gian
nhất định thoã mãn điều kiện là cho thuê tài chính.
Hợp đồng cho thuê tài chính sẽ bao gồm các nội dung sau:
Bên thuê là người nắm quyền sử dụng tài sản thuê, là các cá nhân, các
doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật, trực tiếp sử dụng
tài sản thuê trong thời hạn thuê.
Quyền và nghĩa vụ của bên thuê được lập theo quy định của pháp luật
và một số thoả thuận riêng của hai bên (nếu có).
Bên cho thuê là người nắm quyền sở hữu hợp pháp đối với tài sản cho
thuê, là các công ty cho thuê có tư cách pháp nhân, được cấp giấy phép hoạt
động.
Quyền và nghĩa vụ của bên cho thuê được lập theo quy định của pháp

luật và kèm theo một số thoả thuận riêng của hai bên (nếu có).
Tài sản cho thuê là động sản như máy móc, thiết bị, ... và bất động sản
như văn phòng, nhà cửa. Tuy nhiên, theo khoản 3, điều 2 Nghị định 64/CP ngày
09/10/1995 của Việt Nam thì tài sản thuê chỉ có máy móc, thiết bị và các động
sản khác đạt tiêu chuẩn kỹ thuật tiên tiến, có thời gian sử dụng hữu ích trên
một năm được sản xuất trong nước hoặc nhập khẩu.
Thời hạn thuê là thời gian bên thuê sử dụng tài sản thuê và trả tiền
thuê, được bên cho thuê và bên thuê thoả thuận trong hợp đồng cho thuê tài
chính.
Trong hoạt động cho thuê tài chính, thời hạn cho thuê có thể chia thành
hai giai đoạn theo sự thoả thuận của hai bên, gồm:
- Thời hạn cho thuê cơ bản là thời hạn mà các bên không được huỷ
ngang hợp đồng nếu không có sự chấp thuận của bên kia. Trong suốt thời gian
này bên cho thuê kỳ vọng thu hồi đủ số tiền bỏ ra ban đầu cộng với một khoản
tiền lãi tính trên số vốn đã bỏ ra ban đầu.
- Thời hạn cho thuê gia hạn tuỳ chọn là thời hạn cho thuê mà bên thuê
có thể tiếp tục thuê tài sản tuỳ theo ý muốn của họ. Tiền thuê trong giai đoạn
này thường rất thấp so với tiền thuê trong thời hạn thuê cơ bản, thường chiếm
tỷ lệ 1-2% so với tổng số vốn đầu tư ban đầu cho tài sản cho thuê của bên cho
thuê.
Tiền thuê là khoản tiền bên thuê phải thanh toán cho bên cho thuê theo
thoả thuận trong hợp đồng.
Các yếu tố hình thành tiền thuê
- Chi phí mua thiết bị: đây là khoản chi phí lớn nhất, tác động đến mức tiền
thuê mạnh mẽ nhất. Nó chiếm phần tỷ trọng lớn trong cơ cấu vốn đầu tư vào tài sản
cho thuê, nó là điều kiện để quyết định thời hạn cho thuê cơ bản và phần chi phí sử
dụng vốn tài trợ mà bên thuê phải trả. Phần chi phí này có thể tính theo mức lãi suất
cố định hoặc thả nổi tuỳ theo sự lựa chọn và thoả thuận giữa người cho thuê và
người thuê. Thoả thuận này xuất phát từ các yếu tố tình hình thị trường, lạm phát,
công nghệ, cạnh tranh và nhiều yếu tố khác.

- Chi phí marketing: bao gồm tất cả chi phí giúp cho việc mua thiết bị cho thuê, chi
phí công chứng đối với những tài sản có giá trị cao và chi phí trả hoa hồng môi giới (nếu
có).
- Chi phí quản trị chung: bao gồm tất cả các loại chi phí cố định và chi phí biến
đổi trong quản lý của văn phòng công ty cho thuê, được phân bổ cho thiết bị thuê
và một tỷ lệ nhất định để dự phòng cho khoản tiền đã chi tiêu cho giao dịch cho
thuê đó.
- Khoản dự phòng trong trường hợp không thu được vốn tài trợ: Độ
lớn của khoản dự phòng cho sự thiệt hại do không thu được vốn tài trợ được
xác định trên cơ sở kinh nghiệm hoạt động cho thuê trước đó. Đối với những
hợp đồng có giá trị lớn tỷ lệ này thường có giá trị thấp hơn so với các hợp
đồng có giá trị nhỏ.
- Lợi nhuận mong đợi trong tương lai : Lợi nhuận chịu sự chi phối của
yêu tố cạnh tranh tại phu vực thị trường đang diễn ra giao dịch. Do đó, người
cho thuê thường chấp nhận xác định mức tiền thuê thấp hơn đối với việc tài
trợ cho những khách hàng lớn nếu thấy trong tương lai còn có thể thu được
lợi nhuận từ khách hàng này và tài sản thuê chỉ là một phần của các dịch vụ hỗ
trợ kèm theo. Đây là một chiến lược thu hút khách hàng của các công ty cho
thuê.
- Giá trị còn lại của tài sản cho thuê khi kết thúc hợp động cho thuê:
Tuỳ theo giá trị còn lại của tài sản cho thuê khi kết thúc thời hạn cho thuê mà
người cho thuê tính toán mức tiền thuê cho phù hợp. Nếu tài sản được chuyển
giao cho người thuê vào thời điểm kết thúc hợp đồng với mức giá tượng trưng
hay hoàn toàn miễn phí thì người cho thuê thường xác định mức tiền thuê cao
hơn so với giá thị trường của tài sản được chuyển giao hay trả lại cho người
thuê.
Ngoài những yếu tố trên người cho thuê còn cung cấp các loại phụ tùng,
các thiết bị kỹ thuật hay các loại dịch vụ bảo trì khác theo hình thức tài trợ cho
thuê tài chính trọn gói thì chi phí này cũng được tính vào tiền thuê. Trong
trường hợp không phải là hợp đồng tài trợ trọn gói những chi phí này không

được tính vào tiền thuê mà phải được hai bên ký kết những phụ kiện hợp đồng
để cung cấp và thanh toán riêng rẽ.
Một số phương pháp tính tiền thuê:
Tuỳ theo từng loại khách hàng cũng như tuỳ theo từng đối tượng của hợp
đồng cho thuê tài chính mà bên cho thuê có thể lựa chọn phương pháp thích
hợp áp dụng trong hợp đồng cho thuê tài chính để đem lại hiệu quả cao nhất.
Sau đây là một số phương pháp tính tiền thuê cơ bản:
- Nếu khi kết thúc hợp đồng thuê, người cho thuê chuyển quyền sở hữu tài
sản cho người thuê miễn phí: có 3 phương pháp tính
+ Phương pháp tính tiền thuê vào cuối kỳ với số tiền bằng nhau:
u =
1i)(1
i)p.i(1
n
n
−+
+
p: Tổng số tiền tài trợ
n: Số kỳ thanh toán
i: Lãi suất
u: Số tiền thanh toán mỗi kỳ
Khi nhận được tiền thuê do khách hàng trả mỗi kỳ thì người cho thuê sẽ
xác định:
Tiền lãi trong kỳ = GTCL của tài sản cho thuê tính đến kỳ thanh toán * Lãi
suất
Vốn gốc còn lại = Số tiền bên thuê trả từng kỳ - Tiền lãi
+ Phương pháp tính tiền thuê vào cuối kỳ với số tiền giảm dần:
Nếu gọi
1
u

,
2
u
,...
n
u
là số tiền thanh toán mỗi kỳ và g là số tiền giảm mỗi kỳ
kế tiếp. Khi đó
2
u
=
1
u
- g
3
u
=
2
u
- g
...
n
u
=
1-n
u
- g
Khi đó kỳ thanh toán tiền được tính như sau:
n
n

n2
n
i)i.(1
1i)(1
i)(1i
n.i1i)(1
g.p
u
+
−+
+
−−+
+
=
+ Phương pháp tính tiền thuê cuối kỳ với số tiền tăng dần:
Tuy nhiên nếu giả thiết tiền thuê thanh toán tăng tuyến tính, trả vào cuối
kỳ thì khi đó
2
u
=
1
u
+ g
3
u
=
2
u
+ g
...

n
u
=
1-n
u
- g
Công thức tính tiền thuê ở trên trở thành:
n
n
n2
n
i)i.(1
1i)(1
i)(1i
n.i1i)(1
g.p
u
+
−+
+
−−+

=
- Nếu khi kết thúc hợp đồng thuê, người cho thuê sẽ bán lại tài sản cho
người thuê theo một giá tượng trưng được xác định trước.
+ Công thức tính tiền thuê có giá bán ấn định khi kết thúc hợp đồng, thanh
toán cuối kỳ.
Khi đó gọi s là giá bán tài sản thuê khi hết hạn hợp đồng thuê thì các kỳ
thanh toán được tính như sau:
[ ]

1)i1(
i.s)i1.(p
1n
n
u
−+
−−
=
+
+ Công thức tính tiền thuê có giá bán ấn định khi kết thúc hợp đồng, thanh
toán đầu kỳ.
[ ]
1)i1(
i.s)i1.(p
1n
n
u
−+
−+
=
+
(Nguồn: Sách tìm hiểu và sử dụng thị trường tín dụng thuê mua của Trần Tô Tử và Nguyễn Hải San)
Các trường hợp chấm dứt hợp đồng trước hạn
- Công ty cho thuê có thể kết thúc hợp đồng trước khi kết thúc thời
hạn thuê nếu:
+ Bên thuê không trả tiền thuê theo quy định trong hợp đồng.
+ Bên thuê vi phạm một trong các điều khoản của hợp đồng.
+ Bên thuê mất khả năng thanh toán, phá sản, giải thể.

×