Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.03 KB, 28 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH CỦA CÁC NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẢO LÃNH NGÂN HÀNG
1.1.1. Khái niệm bảo lãnh Ngân hàng
1.1.1.1. Bảo lãnh là gì
Trong nền kinh tế thị trường, luôn tồn tại những mối quan hệ xã hội khác
nhau, các mối quan hệ này vô cùng phong phú, đa dạng và phức tạp. Trong
quan hệ xã hội, quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi bên được quan tâm đặc biệt. Chỉ
cần một bên không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình thì chắc chắn sẽ ảnh
hưởng đến quyền lợi của đối tác, đặc biệt là trong quan hệ kinh tế. Trong khi
đó, quan hệ kinh tế chỉ diễn ra lành mạnh khi các bên thực hiện đúng nghĩa vụ
của mình. Vì vậy các bên tham gia quan hệ kinh tế đều muốn có sự đảm bảo
bằng uy tín hay tài sản của bên thứ ba về việc thực hiện nghĩa vụ của đối tác.
Sự đảm bảo của bên thứ ba đó gọi là bảo lãnh.
Có hai hình thức bảo lãnh chủ yếu:
- Bảo lãnh đối nhân được áp dụng chủ yếu đối với các quan hệ phi tài sản
trong các lĩnh vực hình sự, tố tụng hình sự, chế tài hành chính và quan hệ phi
tài sản trong dân sự.
- Bảo lãnh đối vật được áp dụng chủ yếu trong quan hệ kinh tế và dân sự có
yếu tố tài sản. Với sự đảm bảo rằng nếu người được bảo lãnh không thực hiện
nghĩa vụ thì bên bảo lãnh phải đền bù cho bên nhận bảo lãnh một số tiền thỏa
thuận từ trước.
Hiện nay, trong hệ thống pháp luật Việt Nam, các định chế về bảo lãnh cơ
bản cũng được quy định trên các nguyên tắc này. Tuy nhiên có những quy định
đặc thù hiện đang tồn tại ở hai lĩnh vực là hợp đồng dân sự và hợp đồng kinh
tế.
Theo điều 306, bộ luật Dân sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, bảo lãnh được định nghĩa như sau
“Bảo lãnh là việc người thứ ba (gọi là người bảo lãnh) cam kết với bên có
quyền (gọi là người nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có


nghĩa vụ (gọi là người được bảo lãnh) nếu đến hạn mà người được bảo lãnh
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ”
Tại điều 2 khoản 3, nghị định số 17/HĐBT ngày 16/1/1990 của Chủ tịch Hội
đồng bộ trưởng nay là Thủ tướng chính phủ quy định chi tiết thi hành pháp
lệnh hợp đồng kinh tế thì bảo lãnh được ghi:
“ Bảo lãnh tài sản là sự đảm bảo bằng tài sản thuộc quyền sở hữu của
người bảo lãnh để chịu trách nhiệm tài sản thay cho người được bảo lãnh khi
người này vi phạm hợp đồng kinh tế đã ký.”
Như vậy, bảo lãnh là sự cam kết của bên bảo lãnh đối với bên nhận bảo
lãnh về việc đảm bảo sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh khi họ
không thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ của mình.
1.1.1.2. Khái niệm về bảo lãnh Ngân hàng
Trong quy chế “Bảo lãnh ngân hàng” được ban hành kèm theo Quyết định
số 283/2000/QĐ-NHNN14 ngày 25 tháng 08 năm 2000 của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước và theo QĐ số 112/2003/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN ban
hành ngày 11/02/2003 về việc sửa đổi bổ sung một số điều của Quy chế bảo
lãnh đã chỉ rõ:
“Bảo lãnh ngân hàng” là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng (bên
bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài
chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh.
Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả
thay.
Bên bảo lãnh là các tổ chức tín dụng bao gồm Ngân hàng thương mại quốc
doanh, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng đầu tư, ngân hàng phát
triển, ngân hàng chính sách, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài tại Việt Nam, ngân hàng hợp tác, các loại hình ngân hàng khác và các tổ
chức tín dụng phi ngân hàng thành lập và hoạt động theo Luật Các tổ chức tín
dụng.
Bên được bảo lãnh là các tổ chức và cá nhân trong nước và nước ngoài bao

gồm các doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh hợp pháp tại Việt Nam như
doanh nghiệp Nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty
hợp danh, doanh nghiệp của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội,
doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam, doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh cá thể; các tổ chức tín dụng được
thành lập và hoạt động theo Luật Các tổ chức tín dụng; Hợp tác xã và các tổ
chức khác có đủ điều kiện quy định tại Điều 94 của Bộ Luật Dân sự; Các tổ
chức kinh tế nước ngoài tham gia các hợp đồng hợp tác liên doanh và tham
gia đấu thầu các dự án đầu tư tại Việt Nam hoặc vay vốn để thực hiện các dự
án đầu tư tại Việt Nam. Ngân hàng sẽ không được bảo lãnh đối với những
người như sau: Thành viên Hội đồng quản trị, ban kiểm soát, Tổng Giám đốc
(Phó Giám đốc) của các tổ chức tín dụng; Cán bộ, nhân viên của chính tổ chức
tín dụng đó thực hiện nhiệm vụ thẩm định, quyết định bảo lãnh; Bố, mẹ, vợ,
chồng, con của thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng Giám đốc
(Giám đốc), Phó Tổng Giám đốc (Phó Giám đốc);
Bên nhận bảo lãnh là các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước có quyền
thụ hưởng các cam kết bảo lãnh của các tổ chức tín dụng.
Cam kết bảo lãnh là cam kết đơn phương bằng văn bản của tổ chức tín
dụng hoặc văn bản thoả thuận giữa tổ chức tín dụng, khách hàng được bảo
lãnh với bên nhận bảo lãnh về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ taì
chính thay cho khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên
nhận bảo lãnh.
Hợp đồng bảo lãnh là văn bản thoả thuận giữa tổ chức tín dụng với khách
hàng về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên trong việc bảo lãnh và hoàn trả.
1.1.1.3. Sự ra đời và phát triển của Bảo lãnh ngân hàng
Sự ra đời và phát triển của bảo lãnh ngân hàng là một yêu cầu tất yếu
khách quan của các hoạt động kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Các doanh
nghiệp cần có sự bảo lãnh của ngân hàng để thực hiện một hợp đồng kinh tế
hoặc một nghĩa vụ kinh tế nào đó.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, các chủ thể thường xuyên phải tham

gia vào các quan hệ kinh tế mà các quan hệ này được xác lập dựa trên các hợp
đồng kinh tế. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện hợp đồng, do nguyên nhân
khách quan hay chủ quan, các chủ thể không thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đã
ký kết trong hợp đồng.
Các vi phạm này có thể phát sinh một cách chủ quan khi một bên đối tác
không thiện ý, cố tình vi phạm các điều khoản đã ký kết trong hợp đồng nhằm
trục lợi riêng cho bản thân mình và gây ra những thiệt hại không lường trước
được cho phía bên kia.
Hợp đồng kinh tế bị vi phạm có thể do các yếu tố khách quan tác động tới
các bên tham gia, dẫn đến những hậu quả không lường trước được khiến bên
kia không thể có khả năng thực hiện đúng những nghĩa vụ của mình mặc dù họ
mong muốn thực hiện đúng nghĩa vụ đã ký kết. Những yếu tố khách quan đó có
thể là biến động về kinh tế, xã hội hay thiên tai.
Đứng trước thực tế này, người ta đã sử dụng rất nhiều công cụ khác nhau
nhằm tránh và hạn chế những thiệt hại có thể xẩy ra. Như quy định các điều
khoản pháp lý giải quyết tranh chấp, sử dụng tài sản cầm cố, thế chấp để bồi
thường, hoặc nhờ một bên thứ ba có uy tín, có chuyên môn và đặc biệt là có
khả năng tài chính đứng ra bảo đảm đền bù cho các thiệt hại xảy ra. Sự đền bù
có thể dưới hình thức bảo hiểm, bảo lãnh hoặc cung cấp một phương tiện
thanh toán thuận tiện và đảm bảo an toàn (trong thương mại).
Bảo lãnh có thể do một cá nhân hay tổ chức có uy tín và khả năng tài chính
đứng ra cam kết sẽ thực hiện nghĩa vụ của mình nếu bên được bảo lãnh vi
phạm hợp đồng và được các bên tham gia giao dịch đồng ý. Nếu một bên đối
tác không đồng ý thì sẽ phải tìm người bảo lãnh khác hoặc một người bảo lãnh
có uy tín hơn để bảo lãnh cho cá nhân, tổ chức trên (bảo lãnh đối ứng). Hợp
đồng bảo lãnh có thể là một phần trực thuộc hợp đồng giao dịch và do đó có
tên gọi là bảo lãnh kèm theo hay trách nhiệm bảo lãnh của bên thứ ba, nó có
tính phụ thuộc vào hợp đồng gốc.
Trong nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển, độ phức tạp của các
giao dịch ngày càng cao, đặc biệt là với những giao dịch kinh tế có quy mô lớn,

phạm vi rộng và giao dịch lớn thì người đứng ra bảo lãnh phải có độ uy tín
nhất định, có chuyên môn cao về những lĩnh vực được đề cập trong hợp đồng.
Đồng thời, người đứng ra bảo lãnh cũng phải có tiềm lực tài chính đủ mạnh để
tạo lòng tin đối với các bên. Nhưng tất cả những điều đó thường vượt quá khả
năng của một cá nhân cụ thể. Chỉ có các định chế tài chính lớn như các công ty
bảo hiểm, công ty tài chính, các Ngân hàng mới có đủ khả năng thực hiện. Các
NHTM với thế mạnh về tài chính, nghiệp vụ và uy tín đã tạo lập một công cụ
mới, tạo ra sự đảm bảo cho các bên. Công cụ này được gọi là bảo lãnh ngân
hàng.
Bảo lãnh ngân hàng được bắt đầu sử dụng rộng rãi từ đầu thập niên 70.
Với sự giầu có nhanh chóng do bán dầu lửa, các quốc gia vùng Trung đông đã
ký kết những hợp đồng có giá trị giao dịch rất lớn với những tập đoàn Phương
tây nhằm thực hiện những dự án trong các lĩnh vực: Xây dựng cơ sở hạ tầng,
công nghiệp, an ninh quốc phòng như xây dựng đường xá, sân bay hải cảng,
nhà máy điện, mạng lưới thông tin. Do giá trị hợp đồng lớn nên để tạo lòng tin
cho đối tác, các bên cần phải có một sự đảm bảo nhất định như tài sản, uy tín
của bên thứ ba và dịch vụ bảo lãnh ngân hàng đã xuất hiện, đáp ứng nhu cầu
cho các bên, đặc biệt là bảo lãnh thanh toán ngay khi có nhu cầu đầu tiên.
Ngày nay, dịch vụ bảo lãnh của ngân hàng đã được phát triển và ngày càng
mở rộng với tổng giá trị bảo lãnh tăng lên một cách đáng kể. Có thể khẳng
định một điều chắc chắn rằng, những hoạt động kinh tế lớn trên thế giới hiện
nay không thể nào không có một dạng nào đó của bảo lãnh đi kèm. Bảo lãnh
ngân hàng cũng được sử dụng ngày càng nhiều hơn khi các hợp đồng kinh tế
phát sinh trong phạm vi một quốc gia. Sự mở rộng bắt nguồn từ một thực tế
rằng bảo lãnh ngân hàng có thể được sử dụng để hỗ trợ cho bất kỳ một hoạt
động kinh tế nào từ hợp đồng phi tài chính như hợp đồng mua bán, cho thuê
và hợp đồng xây dựng cho đến các hợp đồng tài chính như các khoản tín dụng,
cho vay theo món hay thấu chi, tham gia liên doanh, phát hành trái phiếu, tái
bảo hiểm hay các cam kết tài chính khác.
Với sự ra đời tất yếu khách quan, xuất phát từ những nhu cầu trong thực tế,

tại Việt Nam, từ năm 1994, các NHTM bắt đầu áp dụng nghiệp vụ bảo lãnh
như là một sản phẩm dịch vụ và cho đến nay dịch vụ này ngày càng phát triẻn
cả về loại hình, doanh số và chất lượng hoạt động.
1.1.2. Đặc điểm của bảo lãnh ngân hàng
1.1.2.1. Bảo lãnh ngân hàng là mối quan hệ đa phương
Để tiến hành được một nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng, thông thường không
chỉ có ngân hàng và người được bảo lãnh tham gia mà còn có cả người nhận
bảo lãnh. Giữa các chủ thể này tồn tại những mối quan hệ đan xen nhau được
thể hiện qua các hợp đồng kinh tế. Do vậy, ta có thể hiểu rằng bảo lãnh ngân
hàng không chỉ là mối quan hệ song phương mà là mối quan hệ đa phương.
- Mối quan hệ giữa bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh thông qua hợp
đồng mua bán hàng hoá, hợp đồng thi công xây dựng. Đây chính là hợp đồng
gốc tạo nên các hợp đồng khác.
- Mối quan hệ giữa ngân hàng phát hành và bên nhận bảo lãnh thông qua
cam kết bảo lãnh dưới hình thức thư bảo lãnh, thư L/C trả chậm hay các hình
thức khác. Giữa các hợp đồng này có sự khác biệt nhau song giữa chúng luôn
có sự liên kết chặt chẽ với nhau từng đôi một. Trong một số trường hợp, hoạt
động bảo lãnh ngân hàng còn phức tạp hơn với sự tham gia của một số bên
trung gian như ngân hàng phát hành bảo lãnh đối ứng hay ngân hàng hướng
dẫn trong loại hình bảo lãnh gián tiếp.
1.1.2.2. Bảo lãnh ngân hàng mang tính độc lập
Mặc dù ngân hàng sẽ bồi thường cho người thụ hưởng những thiệt hại gây
ra do không thực hiện đúng như trong hợp đồng gốc với người được bảo lãnh,
song việc thanh toán một bảo lãnh chỉ căn cứ vào các điều khoản và điều kiện
quy định trong cam kết bảo lãnh. Tức là, bên nhận bảo lãnh chỉ được quyền đòi
tiền bảo lãnh đối với ngân hàng nếu những điều kiện ghi trong cam kết bảo
lãnh xảy ra và Ngân hàng cũng không thể viện ra các điều khoản trong hợp
đồng gốc để từ chối thực hiện nghĩa vụ của mình.
Tính độc lập còn được thể hiện ở chỗ ngân hàng có quyền truy đòi khoản
tiền bảo lãnh đã trả thay cho khách hàng ngay sau khi ngân hàng thực hiện

yêu cầu thanh toán từ bên nhận bảo lãnh mà không hề bị ảnh hưởng bởi các
điều khoản của hợp đồng gốc.
1.1.2.3. Bảo lãnh ngân hàng là một hoạt động ngoại bảng của ngân
hàng
Khi ngân hàng phát hành một cam kết bảo lãnh thì ngân hàng chưa thực
sự phải bỏ ra số tiền bảo lãnh, ngân hàng chỉ tiến hành thu phí bảo lãnh do bên
được bảo lãnh đóng. Bảng cân đối tài sản chưa hề bị thay đổi. Do vậy, nghiệp
vụ bảo lãnh được coi là một hoạt động ngoại bảng. Bảng cân đối tài sản chỉ
thay đổi khi ngân hàng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối với bên nhận bảo lãnh,
khi đó ngân hàng sẽ phải chuyển một phần nguồn vốn dùng để cho vay sang
hay phải huy động từ các nguồn khác như bán chứng khoán hay đi vay trên thị
trường mở. Nếu bên được bảo lãnh chưa hoàn trả ngay số tiền ngân hàng trả
thay thì sẽ phải tiến hành nhận nợ. Hay nói cách khác là ngân hàng cấp một
khoản tín dụng cho bên được bảo lãnh.
1.1.3. Vai trò và chức năng của bảo lãnh ngân hàng
1.1.3.1. Chức năng của bảo lãnh ngân hàng
1.1.3.1.1. Bảo lãnh được dùng như công cụ bảo đảm
Mục đích quan trọng của hoạt động bảo lãnh ngân hàng đó chính là cung
cấp cho người nhận bảo lãnh một khoản bồi hoàn tài chính trong trường hợp
bên được bảo lãnh vi phạm điều khoản được ghi nhận trong cam kết bảo lãnh.
Đó là một hình thức bảo đảm cho người nhận bảo lãnh và thường do bên nhận
bảo lãnh yêu cầu bên được bảo lãnh phải đề nghị ngân hàng bảo lãnh. Trong
thực tế, người nhận bảo lãnh không mong muốn nhận được tiền bảo lãnh. Họ
mong muốn người được bảo lãnh thực hiện đúng nghĩa vụ. Họ chỉ coi bảo lãnh
ngân hàng như một công cụ để bảo đảm an toàn cho mình khi có biến cố vi
phạm hợp đồng của người được bảo lãnh. Và bản thân người được bảo lãnh
cũng không muốn chuyện đó xảy ra vì nhiều khi thiệt hại do không thực hiện
đúng hợp đồng tác động rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của họ.
Tóm lại, bảo lãnh ngân hàng được dùng như một công cụ bảo đảm hữu hiệu
hơn rất nhiều so với các hình thức bảo đảm khác.

1.1.3.1.2. Bảo lãnh được dùng như công cụ đôn đốc hoàn thành hợp đồng
Sau khi ngân hàng phát hành cam kết bảo lãnh đối với bên nhận bảo lãnh,
nếu trong quá trình thực hiện hợp đồng, chỉ cần bên được bảo lãnh vi phạm
một điều khoản nào đó trong hợp đồng thì bên nhận bảo lãnh có quyền truy
đòi số tiền bảo lãnh. Số tiền này ngân hàng sẽ cho vào khoản tín dụng bắt buộc
và chắc chắn rằng bên được bảo lãnh đã gây ấn tượng không tốt với ngân
hàng. Điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn tới việc xin vay, xin bảo lãnh sau này.
Nhiều khi thiệt hại do thực hiện không đúng hợp đồng có thể lớn hơn rất nhiều
so với khoản đền bù do vậy có thể nói bảo lãnh ngân hàng đã tạo áp lực đốc
thúc bên được bảo lãnh phải hoàn thành nghĩa vụ của mình đúng như đã cam
kết.
1.1.3.1.3. Bảo lãnh được dùng như công cụ tài trợ
Trong hợp đồng thầu hoặc hợp đồng mua bán có giá trị lớn, thời gian thực
hiện kéo dài, nhu cầu tài trợ cho dự án là rất cần thiết. Các nhà đầu tư hoặc
người bán sẽ gặp nhiều khó khăn về mặt tài chính và chịu nhiều rủi ro nếu như
phải hoàn tất các hạng mục hoặc toàn bộ hợp đồng mới được thanh toán. Do
vậy, để công trình tiến hành thuận lợi, chủ thầu hoặc người mua thường tạm
ứng trước cho từng công đoạn với điều kiện nhà thầu có một bảo lãnh do một
ngân hàng có uy tín đứng ra cam kết sẽ hoàn trả lại số tiền ứng trước đó. Vì
thế ngân hàng được coi như là một công cụ tài trợ.
Chức năng tài trợ cũng được thể hiện rõ trong việc ngân hàng cấp các
khoản bảo lãnh để cho các doanh nghiệp vay vốn, mua thiết bị trả chậm.
1.1.3.1.4. Bảo lãnh được dùng như một công cụ đánh giá
Bảo lãnh ngân hàng giúp bên nhận bảo lãnh có những đánh giá nhất định
về năng lực tài chính và hoạt động của bên đối tác thông qua việc ngân hàng
có chấp thuận hay không chấp thuận bảo lãnh. Bởi vì ngân hàng là một định
chế tài chính có chuyên môn cao, có khả năng phân tích đánh giá được tình
trạng khách hàng của mình. Do vậy, việc ngân hàng không sẵn sàng chấp
thuận bảo lãnh cho đối tác chứng tỏ rằng họ có điều gì đó không ổn về mặt tài
chính hoặc năng lực sản xuất kinh doanh.

Trên đây là những chức năng quan trọng nhất của bảo lãnh ngân hàng. Nó
có tác động to lớn đến tất cả các chủ thể tham gia hoạt động bảo lãnh trên cả
phương diện nghĩa vụ và quyền lợi.
1.1.3.2. Vai trò của bảo lãnh ngân hàng
1.1.3.2.1. Vai trò đối với nền kinh tế
Với những chức năng của mình, bảo lãnh ngân hàng được coi là một công
cụ quan trọng được sử dụng ngày càng rộng rãi để trợ giúp cho các hoạt động
kinh tế. Bảo lãnh ngân hàng đáp ứng nhu cầu về vốn của nền kinh tế để phát
triển kinh tế đất nước.
Bảo lãnh ngân hàng tạo điều kiện cho các chủ đầu tư thực hiện vay vốn
trong nước và nước ngoài, đáp ứng nhu cầu về vốn, phục vụ cho đầu tư phát
triển. Đối với một doanh nghiệp không phải là khách hàng truyền thống, thì
việc xin vay vốn đặc biệt là với số vốn xin vay lớn, rất ít khi được ngân hàng
hay một tổ chức nào đó đồng ý cho vay. Do họ chưa chắc chắn được rằng liệu
doanh nghiệp có khả năng trả được nợ hay không. Trong khi việc dùng tài sản
cầm cố, thế chấp để xin vay không phải là lúc nào cũng dễ dàng đối với các
doanh nghiệp. Do vậy, dịch vụ bảo lãnh ngân hàng ra đời đã đảm bảo việc
hoàn trả vốn vay còn bên có nhu cầu vay vốn sẽ có nhiều cơ hội có được nguồn
vốn phù hợp nhất với nhu cầu của mình vì bên cho vay thấy khả năng xảy ra
rủi ro tín dụng là rất ít và họ sẵn lòng cung cấp tín dụng hơn. Trong trường
hợp này, bảo lãnh ngân hàng đóng vai trò là phương tiện bảo đảm cho món
vay có hiệu quả hơn nhiều so với hình thức cầm cố hay thế chấp. Khi đó nhờ có
các khoản vốn vay mà doanh nghiệp có thể đầu tư đổi mới thiết bị, xây dựng
các dự án đầu tư có tính khả thi và đem lại hiệu quả kinh tế cao, tạo ra công ăn
việc làm góp phần ổn định xã hội và đem lại phồn vinh cho nền kinh tế đất
nước.
Riêng đối với hình thức bảo lãnh dự thầu đã góp phần giúp các nhà thầu
tham gia đấu thầu các dự án quan trọng mà nếu trúng thầu thì sẽ đem lại cho
doanh nghiệp cũng như xã hội rất nhiều lợi ích không chỉ về mặt kinh tế mà
còn về cả mặt xã hội. Còn bảo lãnh thực hiện hợp đồng đảm bảo tính đúng đắn

khách quan và công bằng cho tất cả các doanh nghiệp tham gia đấu thầu,
tránh được những gian lận trong quá trình đấu thầu gây thiệt hại cho chủ đầu
tư.
1.1.4.2. Vai trò đối với ngân hàng
Các NHTM hiện nay hoạt động theo hướng đa năng tổng hợp, không ngừng
tạo lập và phát triển các loại hình dịch vụ ngân hàng nhằm đa dạng hoá hoạt
động, nâng cao thu nhập. Hoạt động tín dụng thường gắn liền với rủi ro rất
cao do ngân hàng phải xuất vốn ra để cho vay, trong khi đó thì nghiệp vụ bảo
lãnh chủ yếu là dùng uy tín của mình để khách hàng thực hiện một hoạt động
nào đó, ví dụ đi vay vốn ngân hàng khác nên ngày nay, tất cả các ngân hàng
đều hướng vào việc tăng doanh thu từ các dịch vụ trong đó có dịch vụ bảo
lãnh.
Bảo lãnh ngân hàng góp phần tăng cường mối quan hệ chặt chẽ giữa ngân
hàng và khách hàng truyền thống đồng thời giúp ngân hàng tìm kiếm thêm
những khách hàng mới. Thông qua việc cung cấp dịch vụ bảo lãnh cho các
khách hàng, ngân hàng sẽ có điều kiện cung cấp cho doanh nghiệp thêm nhiều
dịch vụ ngân hàng đồng bộ phù hợp (như dịch vụ thanh toán trong nước và
thanh toán quốc tế…) nhờ đó tạo lập mối quan hệ lâu dài với khách hàng, mở
rộng thị trường, nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.
Khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh, ngân hàng sẽ có những mối quan hệ với
nhiều doanh nghiệp cũng như các ngân hàng trong và ngoài nước, do vậy bảo
lãnh ngân hàng giúp nâng cao vị thế của ngân hàng, nhất là trong các mối
quan hệ đối ngoại, tăng cường quan hệ đại lý giữa các ngân hàng (thông qua
các hoạt động bảo lãnh vay vốn nước ngoaì, bảo lãnh đối ứng…)
1.1.4.3. Vai trò đối với khách hàng
Bảo lãnh ngân hàng giúp khách hàng giảm thiểu được rủi ro, đảm bảo lợi
ích kinh tế chống lại những thiệt hại do việc vi phạm hợp đồng gây ra; nó đáp
ứng nhu cầu về vốn, thúc đẩy cạnh tranh, mở rộng phát triển xản xuất kinh
doanh. Cụ thể là:
- Với bên nhận bảo lãnh: Giúp doanh nghiệp yên tâm hơn khi ký kết và thực

hiện hợp đồng, tiết kiệm thời gian và chi phí vào việc tìm hiểu đối tác và đặc
biệt là không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Nếu có rủi ro xẩy ra, bảo lãnh ngân hàng
đảm bảo bù đắp thiệt hại nhanh nhất.
- Với bên được bảo lãnh: Nhờ có bảo lãnh, các doanh nghiệp có điều kiện
tiếp cận với những nguồn vốn rẻ, hiệu quả ở cả trong nước và nước ngoài. Bảo
lãnh cũng tạo điều kiện cho những doanh nghiệp có khả năng thực hiện hợp
đồng song lại chưa có đủ uy tín đối với bên đối tác có thể tham gia đấu thầu
những công trình lớn. Ngoài ra, với sự kiểm tra và giám sát của ngân hàng
trước và sau khi đồng ý bảo lãnh buộc doanh nghiệp phải quan tâm tới hơn
việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh để không làm mất uy tín đối với
ngân hàng cũng như với bên đối tác. Như vậy, chính bảo lãnh ngân hàng đã
thúc đẩy cho doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc hơn, có trách nhiệm hơn và
hoàn thành hợp đồng theo đúng quy định. Do đó, nó giúp doanh nghiệp tăng uy
tín trong quan hệ sản xuất kinh doanh, mở rộng quan hệ với các doanh nghiệp
trong và ngoài nước.

×