Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CHO NGHIỆP VỤ TÍN DỤNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (88.64 KB, 17 trang )

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CHO NGHIỆP VỤ TÍN DỤNG CỦA CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
1. Thực trạng cơ chế tín dụng của ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện
nay
Để có được những đánh giá chính xác và tổng quát về cơ chế tín dụng ở Việt
Nam, trước hết chúng ta phải nhìn nhận một cách khách quan về vấn đề này qua
một số ví dụ cụ thể sau:
• Thực hiện cơ chế tín dụng ở các khu công nghiệp Đồng Nai
(Trích dẫn từ bài: Giải pháp hoàn thiện cơ chế tín dụng phục vụ phát triển
kinh tế các khu công nghiệp Đồng Nai_ThS. Trần Quốc Tuấn )
Thực tế hiện nay, ngân hàng chưa có cơ chế tín dụng riêng phục vụ phát triển
các khu công nghiệp (KCN). Việc cho vay vẫn thực hiện theo Quy chế cho vay của
Ngân hàng nhà nước (NHNN) và các quy định hướng dẫn các ngân hàng thương
mại (NHTM).
Thực tiễn hoạt động tín dụng ngân hàng cho thấy, cơ chế cho vay vừa thông
thoáng, vừa chặt chẽ, phù hợp với pháp luật kinh tế, dân sự có liên quan, góp phần
làm tăng trưởng tín dụng, thay đổi cơ cấu tín dụng phù hợp với thay đổi cơ cấu
kinh tế và cơ cấu đầu tư. Vốn tín dụng đã tập trung cho nhiều chương trình kinh tế
trọng điểm, có tác dụng thúc đẩy phát triển sản xuất.
NHNN đã thay đổi, bổ sung Quy chế cho vay tạo hành lang pháp lý cơ bản, tạo
nhiều quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho TCTD, nhưng vẫn đảm bảo an toàn về
vốn và đã tiếp cận những thông lệ quốc tế, đơn giản thủ tục cho vay phù hợp với
hoạt động thực tế vầ các quy định của pháp luật có liên quan.
Tuy nhiên, NHNN chưa có Quy chế cho vay riêng đối với các doanh nghiệp
trong KCN, mặc dù đây là một thị trường rất lớn, điều này làm nảy sinh những tồn
tại, vướng mắc trong quá trình cho vay:
-. Ngân hàng chưa có quy định nhận bảo lãnh của các tổ chức, cá nhân nước
ngoài để cho vay vốn đối với các doanh nghiệp là công ty “con”, chi nhánh của công
ty “mẹ” ở nước ngoài.
-. NHNN cũng chưa có hướng dẫn cho vay góp vốn liên doanh.
- Vì máy móc thiết bị gắn liền với nhà xưởng, đất đai, chưa có cơ quan đăng ký


giao dịch bảo đảm và việc định giá, đánh giá tài sản khó khăn nên việc cho vay bảo
đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay cũng rất khó vì một số máy móc đã lạc
hậu ở nước ngoài nhưng so với thị trường trong nước vẫn còn giá trị, cán bộ ngân
hàng chưa đủ trình độ để đánh giá.
- Công ty xây dựng và kinh doanh hạ tầng KCN bảo lãnh bằng nguồn thu từ
các hợp đồng cho thuê đất, cung ứng dịch vụ cho doanh nghiệp. Đây là quyền tài
sản phát sinh từ các hợp đồng kinh tế, nhưng các TCTD chọn bảo lãnh cầm cố các
quyền từ tài sản của công ty xây dựng hạ tầng thì cũng vướng vì tài sản của cng ty
chủ yếu là đất đai được Nhà nước giao để hoạt động và có thu tiền xử dụng đất.
Vì thế, không thể thực hiện nghĩa vụ cho ngân hàng được.
- Việc bảo đảm tiền vay bằng vốn vay chỉ mới áp dụng trong trường hợp cho
vay trung, dài hạn và mức vốn tự có hoặc vốn tự có và tài sản cầm cố, thế chấp,
bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba tối thiểu bằng 15% tổng mức vốn đầu tư dự
án. Trong khi các doanh nghiệp trong KCN có khối lượng sản xuất rất lớn, nhu cầu
vốn ngắn hạn rất cao thì cơ chế cho vay chưa quy định, và hướng dẫn.
- Trong chỉ thị số 07/CT-NHNN ngày 30/10/2001 của Thống đốc NHNN về mở
rộng tín dụng có hiệu quả đối với doanh nghiệp trong KCX, KCN có nêu các doanh
nghiệp nước ngoài bị lỗ theo kế hoạch do mới hoạt động tại Việt Nam chưa qua ba
năm được các TCTD xem xét cho vay không có đảm bảo bằng tài sản, nhưng cũng
không hướng dẫn rõ cụ thể làm cơ sở cho vay hay không, với điều kiện, tiêu chuẩn
thế nào, nên trong thực tế các TCTD cũng chưa dám cho vay.
- Thống đốc NHNN đã ban hành Quy chế đồng tài trợ của các TCTD số
154/1998/QĐ ngày 29/4/1998 nhưng trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, cũng chưa thể
áp dụng bởi khó thống nhất phương thức thẩm định dự án, phức tạp trong thành
lập hội đồng thẩm định, quản lý dự án. Mặc dù trong thực tế nhu cầu vay vốn của
các doanh nghiệp vay rất lớn, thường vượt quá tỷ lệ 15% vốn tự có của MHTM
Nhà nước. Các chi nhánh chỉ được cho nay 1 khách hàng từ 50- 100 tỷ đồng, do
đó, tính tự chủ của NHTM và chi nhánh bị hanh chế.
- Các doanh nghiệp nước ngoài trong KCN thường có thói quen tiếp cận cới các
dịch vụ hiện đại, phong phú, tiện ích, thủ tục đơn giản, tác phong làm việc dứt

khoát và có nhiều đòi hỏi trong cách vay, hồ sơ cho vay mà cơ chế quy định của ta
quá cẩn thận và chặt chẽ cho nên khó tiếp cận.
- Chúng ta chưa có chính sách chi hoa hồng, chi thưởng... để cạnh tranh thu
hút các doanh nghiệp trong dịch vụ mới như sử dụng công nghệ thẻ, máy rút tiền
tự động....
-Quy định của NHTM khi cho vay yêu cầu kiểm tra trước, trong và sau khi cho
vay nhưng trình độ cán bộ ngân hàng còn nhiều hạn chế như ngoại ngữ, chuyên
môn khi tiếp cận cách quản lý, hạch toán của các doanh nghiệp. Để thu hút mạnh
đầu tư vào các KCN, tỉnh Đồng Nai đã có quy chế về thanh,kiểm tra. Mỗi năm chỉ
kiểm tra một lần và phải được Chủ tịch tỉnh quyết định.
• Tín dụng trong lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản ở Quảng Ngãi
(Trích dẫn từ bài:Thực trạng và giải pháp mở rộng tín dụng nuôi trồng thuỷ
sản_Võ Mười )
Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế nông
nghiệp nông thôn nói chung, nuôi trồng thuỷ sản (NTTS) nói riêng đang ngày càng
được phát huy mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp nông thôn tạo điều kiện khai thác tốt các tiềm năng, nhân lực tài nguyên.
Nhưng triển khai tín dụng cũng gặp nhiều khó khăn:
- Mức vay theo tỷ lệ không đáp ứng được nhu cầu cần thiết cho các hộ vay vốn,
các tổ chức kinh tế nông thôn vì: thứ nhất, họ chưa có đủ giấy tờ hợp pháp để làm
thủ tục thế chấp vay vốn ngân hàng; thứ hai, khung giá đất theo quy định của
UBND tỉnh thấp hơn nhiều so với giá thị trường.
- Phần lớn các chủ dự án đều không đủ điều kiện vay vốn, mặc dù các dự án
nuôi hay bán thâm canh tôm, cá lồng bè mang lại hiệu quả kinh tế cao vì: theo
điểm d, Điều 15 Nghị định 178/1999/NĐ_CP quy định “có mức vốn tự có tham gia
vào dự án giá trị tài sản bảo đảm tiền vay bằng các biện pháp cầm cố thế chấp tối
thiểu bằng 50% vốn đầu tư của dự án” là quá cao.
- Nghị định 178/CĐ-CP quy định “Tài sản hình thành vốn vay dùng bảo đảm
tiền vay phải xác định được quyền sở hữu”, nhưng trong tài sản như máy móc,
thiết bị gắn liền với nhà xưởng được hình thành từ vốn vay không phải đăng ký

quyền sở hữu theo quy định của pháp luật. Do vậy, các TCTD không thể mạnh dạn
cho vay đối với các chủ dự án cầm cố, thế chấp máy móc, thiết bị hình thành từ
vốn vay.
.-Trong cho vay NTTS, phần lớn tài sản thế chấp tại các TCTD là quyền sử dụng
đất và tài sản gắn liền với đất, nhưng các thủ tục thế chấp giá trị quyền sử dụng
đất và bất động sản theo quy định hiện hành còn phức tạp, thiếu sự phối hợp
đồng bộ giữa các ngành chức năng, và việc bán tài sản trên phải được sự chấp
thuận của UBND tỉnh, thành phố nên hạn chế quá trình đầu tư tín dụng.
- Trình độ khoa học kỹ thuật, năng lực quản lý kinh tế của các hộ NTTS còn
hạn chế dẫn đến sản xuất kém hiệu quả, rủi ro trong vay cao nên các TCTD chưa
mạnh dạn đầu tư.
• Hoạt động tín dụng của Ngân hàng Công thương Việt Nam.
(Trích dẫn từ bài: Ngân hàng Công thương đổi mới cơ cấu tín dụng thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá_Hà Huy
Hùng).
Chuyển dịch cơ cấu tín dụng của Ngân hàng Công thương (NHCT) thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá như sau:
- Tốc độ tăng tưởng tín dụng nhanh: Tổng dư nợ tín dụng năm 1988 là 601 tỷ
đồng thì đến năm 2002 đạt tới 55.182 tỷ đồng (tăng gấp 92 lần năm 1988). Dư nợ
tín dụng với tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm là 39%.
- Chuyển dịch cơ cấu đầu tư tín dụng trung, dài hạn cho các dự án: Dư nợ
trung, dài hạn năm 1988 chỉ có 18 tỷ đồng chiếm 3% tổng dư nợ, 10 năm sau
(1998) đạt 2.540 tỷ đồng chiếm 30% tổng dư nợ và 15 năm sau (2002) lên tới
21.539 tỷ đồng chiếm 43% tổng dư nợ (tăng 1.197 lần năm 1988).
- Chuyển dịch cơ cấu đầu tư tín dụng trung, dài hạn theo nhóm ngành kinh tế :
Dư nợ nhóm ngành công nghiệp tăng từ 160 tỷ đồng năm 1988 lên 27.111 tỷ
đồng năm 2002, đưa tỷ trọng cho vay nhóm ngành này từ 27% lên 49% trong
tổng dư nợ.
Dư nợ nhóm ngành dịch vụ và khác tăng từ 414 tỷ đồng lên 23.325 tỷ đồng
năm 2002 (chiếm 42,7% tổng dư nợ).

Dư nợ nhóm nghành nông nghiệp tăng từ 26 tỷ đồng năm 1988 lên 4.104 tỷ
đồng năm 2002 (tăng 1157 lần ); chiếm tỷ trọng 9,3% tổng dư nợ.
- Chuyển dịch cơ cấu đầu tư tín dụng theo thành phần kinh tế.
Như vậy, qua phân tích cơ chế tín dụng ở các vùng khác nhau, các lĩnh vực
khác nhau, và cả trong hoạt động cụ thể ở một ngân hàng cho ta thấy rằng, hoạt
động tín dụng đã có những bước phát triển vượt bậc, là nghiệp vụ chủ yếu mang
lại lợi nhuận cho toàn hệ thống. Tuy nhiên, đây cũng là nghiệp vụ chứa đựng
nhiều rủi ro, và thực tế trong hoạt động vẫn còn gặp nhiều khó khăn trở ngại do
cả yếu tố khách quan lẫn chủ quan. Vì vậy, bất cứ lúc nào chúng ta luôn luôn phải
quan tâm đến chất lượng tín dụng, có định hướng phát triển an toàn và hiệu quả
hoạt động này.
2. Thuận lợi và khó khăn.
Các tổ chức tín dụng hiện nay hoạt động trong nền kinh tế thị trường cạnh
tranh hết sức quyết liệt. Vì thế các TCTD cần có một môi trường hoạt động thuận
lợi, bình đẳng, có quyền tự chủ cao...Nhưng trên thực tế, các TCTD lại gặp khó
khăn bởi chính những yếu tố vĩ mô do nhà nước tạo ra.
2.1. Thuận lợi.
Mặc dù còn nhiều khó khăn đối với hoạt động tín dụng do môi trường pháp lý,
do tính cạnh tranh của thị trường, do chính những yếu tố nội tại của mỗi tổ chức
tín dụng. Song chúng ta không thể phủ nhận rằng hoạt động tín dụng của nước ta
có thể phát triển được như hiện nay là nhờ một phần ở những thuận lợi đối với
hoạt động tín dụng. Những thuận lợi này do nhiều yếu tố tạo nên.
Những thuận lợi xuất phát từ quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với
khách hàng do thống đốc ngân hàng nhà nước ban hành. Hiện nay chúng ta có
một quy chế cho vay vừa thông thoáng, vừa chặt chẽ và tương đối phù hợp với hệ
thống pháp luật có liên quan. Một quy chế như vậy đã tạo điều kiện giúp cho tín
dụng tăng trưởng nhanh chóng về số lượng và phát triển về chất lượng như sự
thay đổi cơ cấu tín dụng phù hợp với cơ cấu kinh tế và cơ cấu đầu tư.

×