Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (85.31 KB, 2 trang )
Thực trạng về quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước
ngoài
I. Thực trạng về hoạt động FDI tại Việt Nam trong thời gian qua.
1. Thực trạng thu hút FDI
Đến hết năm 2003 đã co 4986 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp
giây phép đầu tư vào Việt Nam, với tổng số vốn đăng ký là 44.533 triệu USD.
Tính bình quân mỗi năm Việt Nam cấp phép cho 311 dự án với mức binh quân 1
dự án 2.783,3 triệu USD vốn đăng ký.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong 16 năm qua biểu hiện khá
rõ nét của một động thái thiếu ổn định: Từ khi bắt đầu triển khai (1988) vận
đông theo xu hướng tăng nhanh đến 1995, 1996 ( cả về số dự án cũng như vốn
đăng ký). Nhưng bắt đầu từ năm 1997, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt
Nam lại vận động theo xu hướng giảm dần, cho đến năm 1999 là năm có lượng
vốn FDI đăng ký ở mức thấp nhất kể từ năm 1992. Đến năm 2000, năm 2001
tình hình FDI vào Việt Nam tuy đã có sự chuyển biến theo chiều hướng tốt hơn,
nhưng sang năm 2002 thì chiều hướng đó không những không được duy trì mà
lại diễn biến xấu đi một cách khá rõ. Năm 2002 tuy là năm đạt đỉnh cao về số
lượng dự án nhưng lại là đạt điểm “cực tiểu” về lượng vốn đầu tư. Vì vậy đây
cũng là năm có qui mô bình quân của dự án ở mức cực tiểu kể từ trước tới nay.
Vốn FDI đăng ký đầu tư vào Việt Nam năm 2002 bằng 49,55% mức bình
quân của cả thời ký 16 năm (1998-2003) và chỉ bằng 16,2% của năm có mức
vốn đăng ký cao nhất ( 1996). Nếu theo số lượng vốn đăng ký thì qui mô dự án
bình quân của thời kỳ 1998-2003 là hơn 8,93 triệu USD /1 dự án. Mặc dù đây
cũng chỉ thuộc loại qui mô trung bình nhưng lại có vấn đề rất đáng quan tâm là
qui mô bình quan dự án theo vốn đăng ký của nhiều năm vẫn ở mức thấp hơn,
đặc biệt qui mô bình quân của các dự án được phê duyệt năm 2002 lại nhỏ đi
một cách đột ngột (1,99 triệu USD/ 1dự án). Về qui mô của các dự án FDI năm
2002, bằng 22,35% qui mô bình quân của thời kỳ 1988-2003 và chỉ bằng 7,6%
mức bình quân của năm cao nhất (1996).
Năm 2003 tình hình đã có chuyển biến khả quan hơn năm 2002 (tuy số dự
án có giảm đi, nhưng số vốn đầu tư đã tăng lên), nhưng cũng chưa đạt được mức