Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

vai trò của Hành lang kinh tế Côn Minh –Lào Cai – Hà Nội –Hải Phòng – Quảng Ninh trong hợp tác thương mại giữa hai nước Việt –Trung.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (391.19 KB, 59 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Ngày nay trên thế giới xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa đang diễn ra hết
sức mạnh mẽ, đòi hỏi các quốc gia tham gia vào hội nhập, mở rộng mối quan hệ
với các nước nhằm tăng cường hợp tác phát triển kinh tế vì vậy đã có nhiều hình
thức liên kết kinh tế được sử dụng nhằm đẩy nhanh quá trình tự do hóa thương mại
song phương và đa phương. Các hình thức liên kết đó có thể là liên kết toàn cầu,
liên kết kinh tế khu vực hoặc liên kết tiểu vùng.
Vì vậy Việt Nam đã chủ động tham gia hội nhập vào các Tổ chức Thương
mại trên thế giới (WTO), tham gia vào tổ chức Liên Hiệp Quốc (UN), khu vực
(ASEAN) cũng như các nước láng giềng trong đó có mối quan hệ Việt Nam–Trung
Quốc . Đây là mối quan hệ lâu đời và đang phát mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực văn
hóa, kinh tế chính trị, an ninh quốc phòng.
Trong đó quan hệ kinh tế giữa hai nước luôn được coi trọng. Hai bên đã đưa
ra tuyên bố chung, công bố nhiều thỏa thuận hợp tác thương mại và nhiều vấn đề
khác. Hai bên khẳng định sẽ tiếp tục tăng cường phối hợp và hợp tác trong khuôn
khổ đa phương: tăng cường hợp tác trong các thể chế khu vực, liên khu vực và
quốc tế, thúc đẩy hợp tác toàn diện ASEAN–Trung Quốc nhanh chóng triển khai
“Hiệp định về mở rộng và đi sâu hợp tác song phương” đẩy nhanh tiến trình xây
dựng “Hai hành lang, một vành đai kinh tế”.
Hành lang kinh tế: Côn Minh–Lào Cai–Hà Nội–Hải Phòng–Quảng Ninh và
Nam Ninh –Lạng Sơn –Hà Nội –Hải Phòng, đây là tuyến huyết mạch nối liền giữa
các tỉnh miền núi phía bắc của Việt Nam và các tỉnh miền Tây Trung Quốc nhằm
khai thác lợi thế của các tỉnh vùng biên giới, cải thiện đời sống nhân dân vùng
biên, đồng thời thống nhất hoạt động biên giới với chiến lược phát triển chung.
Hành lang kinh tế: Côn Minh–Lào Cai–Hà Nội–Hải Phòng–Quảng Ninh đã và
đang thu hút được sự quan tâm của nhiều học giả các nhà nghiên cứu trong và
ngoài nước. Hành lang này có vai trò như thế nào đối với sự phát triển của đất
1
nước ta, nó đã phát triền ra sao ? và chúng ta phải làm gì để hành lang này phát
triển mạnh mẽ hơn nữa. Đây là lý do em chọn đề tài “vai trò của Hành lang kinh


tế: Côn Minh –Lào Cai – Hà Nội –Hải Phòng – Quảng Ninh trong hợp tác thương
mại giữa hai nước Việt –Trung ”. Đề tài của em đã có nhiều người đi trước nghiên
cứu và dựa trên những nghiên cứu đó em tiếp thu, tham khảo ý kiến của các
chuyên gia và đặt nó vào bối cảnh hiện nay để thấy được tầm quan trọng của nó
đối với quan hệ thương mại của hai nước nói riêng và với nước khác nói chung.
Ngoài phần mở đầu, kết luận thì khóa luận được kết cấu thành 3 chương :
 Chương 1: Hành lang kinh tế Côn Minh–Lào Cai–Hà Nội–Hải Phòng
Quảng Ninh và vai trò của nó.
 Chương 2: Thực trạng phát triển của hành lang Côn Minh–Lào Cai–Hà
Nội–Hải Phòng –Quảng Ninh
 Chương 3: Các giải pháp và triển vọng của hành lang kinh tế Côn Minh –
Lào Cai –Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh
2
CHƯƠNG 1
HÀNH LANG KINH TẾ CÔN MINH–LÀO CAI–HÀ NỘI–
HẢI PHÒNG–QUẢNG NINH VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ
1.1. KHÁI NIỆM HÀNH LANG
1.1.1 khái niệm chung:
Hành lang kinh tế là một tuyến đường nối liền về mặt địa lý tự nhiên các
vùng lãnh thổ của một hoặc nhiều quốc gia nhằm mụch đích liên kết hỗ trợ lẫn
nhau để khai thác có hiệu quả lợi thế so sánh của các khu vực địa –kinh tế nằm trên
một dải theo trục giao thông thuận lợi nhất đối với sự lưu thông hàng hóa và liên
kết kinh tế giữa các vùng biên trong cũng như các vùng cận kề hành lang này [1
(Tr.19-20)].
Tuyến liên kết này được hình thành trên cơ sở hệ thống kết cấu hạ tầng đa
dạng có khả năng tạo ra sự phát triển của nhiều ngành nghề kinh tế, từ đó làm thay
đổi căn bản diện mạo kinh tế của một vùng nhất định thuộc một hoặc nhiều quốc
gia mà hành lang kinh tế đi qua và góp phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế của
những quốc gia đó.
Thực chất thuật ngữ “hành lang kinh tế” được dùng chủ yếu để chỉ một khu

vực rộng lớn trải dài hai bên trên một tuyến giao thông huyết mạch đó là (đường
cao tốc, đường sắt, đường thủy) đã có hoặc chuẩn bị được xây dựng. Ở tuyến
đường trục này cho phép giao thông một cách thuận tiện từ điểm đầu đến điểm
cuối và ngay cả bên trong hành lang phát triển đó, có vai trò đặc biệt quan trọng để
liên kết toàn khu vực và thúc đẩy phát triển kinh tế dọc theo hành lang này.
Hành lang phát triển có thể là trục đường giao thông, đường bộ, đường biển,
các mạch ống dẫn dầu, mạng viễn thông và trong nhiều trường hợp thì mục tiêu
xây dựng hành lang phát triển nhằm phát triển một ngành nào đó như hành lang
dược phẩm, hành lang du lịch. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp hai khái niệm
này được
3
sử dụng như nhau dùng để chỉ sự phát triển của một khu vực địa lý nhất định liên
kết bởi một trục tuyến giao thông[nguồn
1.1.2. Giải thích hành lang kinh tế Côn Minh–Lào Cai–Hà Nôi–Hải Phòng
Quảng Ninh
Hành lang kinh tế này nằm trong chiến lược giữa hai nước Việt–Trung về
hợp tác xây dựng “Hai hành lang, một vành đai” đã được Việt Nam đưa ra tháng
5/2004, trong chuyến thăm Trung Quốc của nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải. Đó
là hành lang kinh tế “Côn Minh –Lào Cai –Hà Nội–Hải Phòng”; hành lang “Nam
Ninh–Lạng Sơn–Hà Nội–Hải Phòng” và một “vành đai kinh tế vịnh Bắc Bộ” nó
hình thành trên cơ sở lấy trục giao thông và các hoạt động kinh tế làm nòng cốt,
phát huy tác động lôi kéo và lan toả ra bên ngoài trong quá trình phát triển. Mục
đích trong tương lai là: Tăng tốc các tuyến đường cao tốc và hệ thống đường sắt
tiêu chuẩn quốc tế. Về không gian lãnh thổ, vành đai kinh tế vịnh Bắc Bộ giữa Việt
Nam và Trung Quốc bao gồm thành phố Hải Phòng, Quảng Ninh của Việt Nam và
tỉnh Hải Nam, khu vực tự trị dân tộc choang (Quảng Tây) của Trung Quốc .Hành
lang kinh tê “Côn Minh –Lào Cai –Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh”(tên tếng
Anh: Kuming –Lao Cai –Ha Noi –Hai phong – Quang Ninh economic corridor) là
tuyến trục giao thông liên kết kinh tế giữa vùng Tây Nam Trung Quốc rộng lớn với
các tỉnh phía Bắc của Việt Nam là cầu nối khu vực này với khu vực khác của vùng

Đông Nam Á và khu vực khác trên thế giới. Trục giao thông này bao gồm tuyến
đường sắt, đường bộ, đường thủy kết nối các trung tâm kinh tế như Côn Minh
(Vân Nam Trung Quốc) thông qua cửa khẩu quốc tế Hà Khẩu, đến trung tâm kinh
tế Hà Nội (Việt Nam) và qua cảng Hải Phòng, cảng Cái Lân (Quảng Ninh) thông
thương với các khu vực khác. Đây là hành lang tạo thành một khu vực tăng trưởng
kinh tế theo chiều sâu có hai cực tăng trưởng kinh tế là Côn Minh, Hà Nội, có điểm
lan toả là cảng Hải Phòng cảng Cái Lân (Quảng Ninh) và có tuyến lan toả, có cảng
nội địa và hải cảng. Khu vực kinh tế theo mô hình này rất dễ thích ứng, thuận lợi
cho giao thông buôn bán giữa các quốc gia bên ngoài và sự phân công ngành nghề
thuân lợi. Do vậy việc xây dựng và phát triển hành lang này là rất cần thiết và phù
4
hợp với thời kỳ hội nhập. Việc xây dựng tuyến hành lang này đã dựa trên những
điều kiện thuận lợi sẵn có của nó như về điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế xã
hội và kết cấu hạ tầng.
1.1.3. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên.
Một là, vị trí địa lý
Vị trí địa lý của các tỉnh nằm trong tuyến hành lang kinh tế Côn Minh – Cai –
Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh mang sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các địa
phương phát triển thương mại, đẩy mạnh hợp tác đầu tư.
Mặc dù các tỉnh trên hành lang có trình độ phát triển khác nhau, nhưng sự phát
triển này mang tính liên kết và được sự hỗ trợ của các trung tâm kinh tế Côn Minh,
Hà Nội, Hải Phòng. Các trung tâm kinh tế này sẽ là trụ cột chính thúc đẩy sự phát
triển của toàn hành lang và đóng vai trò liên kết các tỉnh trên toàn tuyến.
Một điều thuận lợi nữa là, tuyến hành lang này mở tiếp giáp với các khu vực
Đông Nam Á và có khả năng vươn ra những khu vực thị trường xa hơn. Một mặt là
cửa ngõ thông thương với Trung Quốc rộng lớn, các nước trong khu vực như Lào,
Thái Lan, Mianma. Mặt khác có thể tiếp cận với các khu vực khác trên thế giới.
Như vậy vị trí thuận lợi đó sẽ giúp cho hai bên Việt –Trung có thể tiếp cận
thị trường, đẩy mạnh hoạt động buôn bán hai nước đồng thời hàng hoá có thể thâm
nhập vào các thị trường khác.

Hai là, tài nguyên thiên nhiên
Hành lang kinh tế này là khu vực có nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng
phong phú và đa dạng tạo điều kiện phát triển nhiều ngành nghề cũng như tạo nên
môi trường thuận lợi thu hút đầu tư từ các tỉnh của hai nước cũng như nước ngoài cụ
thể :
Tài nguyên khoáng sản: Vân Nam có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong
phú, được coi là “vương quốc kim loại” bao gồm 92 loại kim loại khác nhau, trong
đó có 54 loại có mặt trong danh sách về trữ lượng lớn nhất của Trung Quốc. Vân
Nam có các mỏ thiếc, đồng, nhôm, kẽm, chì có trữ lượng rất lớn. Ngoài ra có các loại
tài nguyên phục vụ cho công nghiệp hóa chất. Đây là kiện thuận lợi cho nền công
5
nghiệp chế biến kim loại và công nghiệp hoá chất của Vân Nam phát triển sớm [1
(Tr.44)].
Còn đoạn hành lang phía Việt Nam tập trung rất nhiều tài nguyên khoáng
sản, rải khắp từ Lào Cai cho đến Vĩnh Phúc với các nhóm khoáng sản kim loại bao
gồm: Quặng sắt, quặng Mangan, mỏ đồng có trữ lượng rất lớn. Ngoài ra còn có các
mỏ chì, kẽm, vàng, bạc, thuỷ ngân. Khoáng sản phi kimloại như Apatit (Lào Cai)
có trữ lượng lớn nhất tập trung ở Cam Đường (1,4 tỷ tấn) các mỏ đá vôi ở (Hải
Phòng, Ninh Bình, Hòa Bình), đá Granit, cao lanh ở (Thanh Hoá, Hòa Bình). Vùng
đồng bằng Bắc Bộ đã phát hiện hơn 500 mỏ và điểm quặng gần 40 loại khoáng sản
khác nhau. khoáng sản cháy cứng có than đá (Quảng Ninh) than nâu, than bùn.
Khoáng sản kim loại màu, khoáng sản kim loại quí như vàng, khoảng sản nguyên
liệu sứ như: Fenspat, Kaolin, sét. Khoáng sản kim loại lỏng có nước khoáng. Với
khu vực giàu tài nguyên khoáng sản cả về trữ lượng lẫn số lượng cho phép phát
triển mạnh ngành công nghiệp chế biến và khai thác khoáng sản [1 (Tr.46)].
Tài nguyên sinh vật và đa dạng sinh vật: Hành lang này trải dọc lưu vực
sông Hồng và nằm trên các khu vực địa hình chia sẻ phức tạp nên sở hữu nhiều
vùng đất thổ nhưỡng và khí hậu khác nhau, do đó có thảm động thực vật rất đa
dạng và phong phú. Vì vậy nơi đây có khả năng phát triển nền nông nghiệp đa
ngành, đa sản phẩm hết sức độc đáo và đặc trưng.

1.1.4. Điều kiện kinh tế -xã hội
Mặc dù khu vực biên giới còn nhiều khó khăn, tuy nhiên cực đầu và cực
cuối của hành lang là những trung tâm kinh tế lớn của hai nước như Hải Phòng, Hà
Nội, Ngọc Khuê, Côn Minh. Sự phát triển nhanh của các trung tâm kinh tế này sẽ
là động lực phát triển toàn hành lang, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh ở các
vùng khác khó khăn hơn. Chẳng hạn như trước đây Vân Nam chưa đưa ra chính
sách về biên mậu tự do thông thoáng thì vùng biên cương lúc đó còn nghèo nàn
heo hút nhưng kể từ khi tỉnh Vân Nam đưa ra chính sách về biên mậu theo đúng
tinh thần tự do thông thoáng thì kinh tế của các tỉnh tăng trưởng khá, bộ mặt vùng
biên cương đóng cửa trước đây đã thay đổi căn bản. Mậu dịch Vân Nam gần đây
6
được đánh giá là “phát triển chưa từng có” và “thời kỳ hoàng kim đang đến”
[1(Tr.47)]. Sự phát triển nhanh chóng ở khu vực này có thể tác động tích cực đến
vùng núi khó khăn phía bắc Việt Nam. Trong những năm gần đây, vùng hành lang
phía Tây Bắc Việt Nam đã có những bước phát triển căn bản về kinh tế, đời sống
của nhân dân được cải thiện rõ rệt, quá trình đô thị hoá được đẩy mạnh do nhà
nước Việt Nam có những chủ trương đầu tư, dành ưu đãi đáng kể trong chiến lược
phát triển khu vực này.
Vùng Đồng Bằng Bắc Bộ của Việt Nam thuộc hành lang kinh tế này là một
trong những khu vực có nền kinh tế phát triển cao nhất trong cả nước với thủ đô
Hà Nội là một trong những trung tâm kinh tế nơi có hoạt động thương mại sôi
động và chứa đầy tiềm năng phát triển dồi dào. Vùng này sẽ là thị trường có sức
mua lớn nhất trong hành lang và là đầu mối thương mại từ đó tạo luồng hàng đi nơi
khác để thúc đẩy sự cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường của các quốc gia khác
cũng như các khu vưc vực khác trên thế giới. Đây cũng là vùng tập trung tiềm
năng về lao động và khoa học kỹ thuật nên có ảnh hưởng tích cực đối với các vùng
khác trên hành lang.
Nhìn chung tình hình phát triển kinh tế của các vùng trên hành lang có nhiều
thuận lợi để tạo ra mối liên kết bền vững, hỗ trợ cho nhau thúc đẩy phát triển
chung của toàn tuyến.

1.1.5. Kết cấu hạ tầng:
Kết cấu hạ tầng là điều kiện quan trọng nhất đối với một hành lang kinh tế
hay hành lang phát triển. Các yếu tố như hệ thống giao thông, thông tin liên lạc,
năng lượng, cảng biển, khu mậu dịch biên giới, khu kinh tế cửa khẩu ..là những
yếu tố có ý nghĩa rất lớn đến sự thúc đẩy tốc độ trao đổi thương mại trên hành lang
kinh tế Côn Minh–Lào Cai–Hà Nội–Hải Phòng–Quảng Ninh. Hành lang này nằm
trên những tuyến đường sắt, đường bộ, đường thuỷ và có những cảng biển nước
sâu rất thuận lợi cho hoạt động thương mại giữa hai nước phát triển hơn nữa cụ
thể:
Về tuyến đường sắt:
7
Đường sắt Vân Nam –Việt Nam là đường sắt duy nhất của tỉnh Vân Nam
thông với các nước xung quanh. Đường sắt khổ 1m Vân Nam, phía Bắc nối liền
với các tuyến đường sắt tiêu chuẩn (1,435m) Qúy Dương–Côn Minh–Thành Đô và
Nam Ninh–Côn Minh. Còn phía nam thông với đường sắt khổ 1m của Việt Nam là
đường đi chính cho việc đẩy mạnh phát triển kinh tế địa phương, mở rộng thương
mại với Việt Nam từ trước tới nay và thông qua Việt Nam để đưa hàng hóa sang
nước khác. Trung Quốc đã xây dựng tuyến đường mới tiêu chuẩn quốc tế khổ 1,4m
từ Côn Minh–Hà Khẩu hoàn thành vào năm 2007. Hạ tầng giao thông là một trong
những vần đề trọng tâm và cấp bách nhất, nhằm là nâng cao năng lực vận tải
đường sắt. Phía Việt Nam, Lào Cai đã xúc tiến xây dựng mới ga hàng hóa và một
cảng cạn với công suất 1.000 container/ngày. Từ cuối năm 2004, Tổng công ty
Đường sắt Việt Nam và Tổng công ty Hàng hải Việt Nam đã tổ chức đôi tàu
chuyên chở container tốc hành Hải Phòng–Lào Cai làm giảm thời gian lưu lượng
toa xe và container từ 7 ngày xuống còn 1 ngày. Năm 2006, ga quốc tế Lào Cai sẽ
được tách thành ga hàng hóa và ga hành khách. Đồng thời Việt Nam ưu tiên nâng
cấp, cải tạo tuyến đường sắt hiện có dài 260 Km từ Hà Nội đi Lào Cai, tuyến này
sẽ nâng năng lực vận tải lên 4 triệu tấn vào năm 2007tuyến [16]. Tiếp đến là nâng
cấp tuyến đường sắt từ Yên Viên –Hải Phòng. Năm 2010 Việt Nam cũng có kế
hoạch xây mới tuyến đường sắt từ Lào Cai đi Hải Phòng đạt tiêu chuẩn kết nối

[16].
Theo số liệu ước tính của Trung Quốc, nhu cầu vận tải qua tuyến đường sắt
Vân Nam –Việt Nam từ năm 2005 sẽ tăng đến 3-4 triệu tấn/năm và đến năm 2010,
sẽ khoảng 7-8 triệu tấn/năm và chủ yếu là hàng quá cảnh [16].
Về đường bộ:
Hiện phía Trung Quốc đã xây dựng tuyến đường khá hiện đại từ Côn Minh
đến Hà Khẩu (giáp Lào Cai ) và thông suốt vào năm 2008. Đây là tuyến giao thông
vận tải quan trọng nhất của Vân Nam sang Việt Nam, cùng với đường bộ Hà Khẩu
–Lào Cai thông xe vào tháng 1 năm 2001 đã tạo điều kiện tăng tốc quá cảnh cho xe
cộ và người hai nước Việt Nam –Trung Quốc. Ngoài ra cửa khẩu Thiên Bảo và
8
Kim Thủy của Vân Nam đều có đường ô tô thông vào biên giới và đi sâu vào nội
địa Việt Nam.
Hợp tác vận tải đường bộ giữa Lào Cai và Hà Khẩu đã có những thuận lợi
quan trọng với chính sách cho phép ô tô chở hàng hóa của Việt Nam vào sâu nội
địa Trung Quốc tới 250km, thời gian mở cửa khẩu cũng kéo dài tới 10 giờ đêm.
Tỉnh Lào Cai đang kiến nghị Bộ Giao Thông Vận tải Trung Quốc cho phép xe Việt
Nam được đi và về trong toàn bộ phạm vi Châu Hồng Hà (cách Lào Cai 300km )
và xe chở mặt hàng tươi sống được đi thẳng đến thành phố Côn Minh (thủ phủ Vân
Nam ) cách Lào Cai 460km. Như vậy hàng hóa Việt Nam qua các cửa khẩu sẽ
không phải chuyển tải, giảm tối đa chi phí.
Phía Việt Nam, chính phủ đang khẩn trương nâng cấp quốc lộ 70. Quốc lộ
70 bắt đầu từ Đoan Hùng (Phú Thọ ) qua làng Đát (địa phận tỉnh Yên Bái), phố
Ràng và kết tại Bản Phiệt (thuộc địa phận tỉnh Lào Cai ) dài 190 Km đang được
nâng cấp mặt đường, mở rộng một số đoạn cua trong giai đoạn 2006-2010. Quốc lộ
này được sử dụng vốn trái phiếu chính phủ. Từ đầu năm 2005, bắt đầu khởi công
xây dựng cầu mới qua sông Hồng nối liền khu thương mại Kim Thành của Việt
Nam với khu thương mại Hà Khẩu của Trung Quốc vvv….sẽ đẩy mạnh tuyến
đường cao tốc như Hà Nội – Lạng Sơn, Hạ Long – Móng Cái, Lào Cai – Hà Nội –
Hải Phòng. Nhiều đoạn trong các tuyến đường nêu trên, như Hà Nội –Hải Phòng –

Hạ Long, theo Quyết định 412/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, tuyến cao tốc
Hà Nội – Hải Phòng sẽ được đầu tư bằng hình thức BOT (xây dựng, vận hành và
chuyển giao) được khởi công năm 2008. Đoạn còn lại, Nội Bài – Hạ Long và Hải
Phòng bắt đầu từ Thăng Long, Nội Bài sẽ được đầu tư tiếp sau trong giai đoạn
2010 –2020 cùng với việc phát triển quy mô hàng qua cảng Cái Lân và cụm cảng
Hải Phòng, đoạn Nội Bài –Uông Bí sẽ được xây dựng với quy mô 4 đến 6 làn xe
[3]. Theo dự kiến, sau năm 2010, sẽ tiếp tục đầu tư thêm đoạn Hạ Long – Mông
Dương – Móng Cái với tổng chiều dài là 175 km và sẽ cho nâng cấp tiếp đoạn Cửa
Ông – Móng Cái đạt tiêu chuẩn cấp III [3], để nhằm phục vụ việc vận chuyển hàng
hóa theo dọc tuyến hành lang, thúc đẩy trao đổi buôn bán với các nước khác.
9
Cùng với phát triển giao thông là phát triển chuỗi đô thị dọc hành lang này,
nhất là các điểm cửa khẩu đầu nối với Trung Quốc. Việt Nam cần phải hình thành
các đô thị -cửa khẩu đối đẳng với Trung Quốc, tạo thành các điểm kết nối mạnh,
làm khởi điểm lan tỏa phát triển cho toàn bộ tuyến hành lang và vùng kinh tế phía
sau.
Tuyến đường cao tốc Hà Nội –Lào Cai: giai đoạn I tổng mức đầu tư là 1.217
triệu USD tương đương với 20.000 tỷ đồng được đầu tư bằng các nguồn vốn vay
của ADB ( vay ưu đãi ADF và vay tín dụng thông thường OCR) và vốn đối ứng từ
ngân sách nhà nước (NSNN). Đoạn Nội Bài –Yên Bái (123Km) 4 làn xe, đoạn
Yên Bái –Lào Cai (121Km) 2 làn xe có vận tốc tổi thiếu 80 Km [14].
Giai đoạn II dự kiến đầu tư 19 Km còn lại đoạn Bến Đền- Cầu Kim Thành
(Cầu Kim Thành được khởi công bằng vốn ngân sách nhà nước, tổng mức khoảng
96.52 tỷ đồng ). Đồng thời đoạn đường Nội Bài –Lào Cai sẽ được mở rộng toàn
tuyến 4-6 làn xe.
Về đường hàng không: Sân bay quốc tế Nội Bài của Việt Nam được Phát
triển thành điểm trung chuyển hành khách, hàng hóa có sức cạnh tranh trong khu
vực đạt tiêu chuẩn quốc tế với năng lực 15 triệu hành khách/ năm. Việt Nam còn
dự kiến nâng cấp sân bay Cát Bi (Hải phòng ) xây dựng sân bay Vân Đồn (Quảng
Ninh ).

Đường hàng không mới chỉ đưa vào khai thác tuyến Hà–Nội–Côn Minh. Để
nâng cao năng lực giao thông nói chung và tiến tới khai thác vận tải đa phương tiện
trong hành lang kinh tế, chính phủ cho phép tỉnh Lào Cai phối hợp với tổng cục
hàng không Việt Nam nghiên cứu xây dựng sân bay Lào Cai để thành lập tuyến
bay Côn Minh – Lào Cai –Hà Nội năm 2012[16].
Về đường thủy:
Hai bên đang triển khai nghiên cứu thực hiện dự án cải tạo, khai thác tuyến
đường thủy dọc theo sông Hồng theo khuôn khổ hiệp định hợp tác tiểu vùng sông
MêKông.
Về cảng biển:
10
Cảng Hải Phòng bao gồm 4 cảng: Hoàng Diệu, Vật Các, Chùa Vẽ và Đoạn
xá, là thương cảng tổng hợp quan trọng nhất ở khu vực phía Bắc.
Đến năm 2010, tập trung chỉ đạo, nạo vét luồng vào cảng, bảo đảm loại tàu 1
Vạn tấn ra vào cảng thường xuyên; tập trung đầu tư theo chiều sâu, đổi mới trang
thiết bị bốc. Mở rộng nâng cấp cảng Hải Phòng, tiếp tục xây dựng các bến bãi
Container đồng thời phát triển vận tải đa phương thức chủ yếu là đường bộ và
đường sắt. Năm 2008, Việt Nam khởi công xây dựng cảng nước sâu Lạch Huyện
Hải Phòng, đảm bảo công suất 25 triệu tấn/năm 2010 và 40 triệu tấn vào năm 2020
[116 ].

Cảng Hải Phòng cùng với cảng Cái Lân (Quảng Ninh) tạo thành cụm cảng
có qui mô ngày càng lớn góp phần đưa hàng hóa đi các vùng khác trên thế giới
cũng như tham gia vào vận tải quá cảnh cho phía nam Trung Quốc. Cảng Cái Lân
đã được xây dựng là cảng nước sâu ở phía Bắc, hiện nay đã triển khai nạo vét
luồng vào cảng đoạn từ Hòn Một đến Cửa Lục đảm bảo đón tàu có trọng tải đến 5
vạn tấn vào cảng và tiếp tục gọi vốn đầu tư các bến còn lại [22] .
Như vậy hệ thống giao thông của Quảng Ninh đã cơ bản đáp ứng được yêu
cầu vận tải và thương mại đối với tuyến hành lang Côn Minh –Lào Cai – Hà Nội –
Hải Phòng – Quảng Ninh cho cỡ tàu tới 50.000DWT vào làm hàng; cảng Cái Lân

sẽ đóng vai trò là cảng trung tâm là cửa ngõ chính cho hành lang Côn Minh –Lào
Cai – Hà Nội –Hải Phòng–Quảng Ninh. Tuy nhiên cảng Cái Lân đi đôi với việc
bảo vệ cảnh quan môi trường khu du lịch và di sản thiên nhiên Hạ Long và vùng
Bái Tử Long.
Về cảng nội địa; Việt Nam đã tiến hành khởi công dự án đầu tư xây dựng
cảng nội địa ICD Lào Cai tại cụm công nghiệp Đông Phố Mới, thành phố Lào Cai,
tỉnh Lào Cai. Dự án được thực hiện thành các giai đoạn trong đó giai đoạn đầu có
tổng mức đầu tư là 78 tỷ đồng trên diện tích khoảng 4.7 ha

[18]. Cụm cảng nội địa
ICD Lào Cai sẽ đóng vai trò một trung tâm phân phối hàng hóa, cung cấp dịch vụ
Logistics tổng hợp, dịch vụ vận tải, giao nhận; là điểm thông quan nội địa để xuất,
nhập khẩu; nhận,gửi hàng hóa bằng container; và là một đầu mối giao thông vận
tải hàng hóa quan trọng.
11
Hình 2.2. Cửa khẩu quốc tế Lào Cai là cửa ngõ quan trọng với hành
trình ngắn nhất nối Việt Nam, ASEAN với Vân Nam và từ Vân Nam đi các
tỉnh miền Tây Nam – Trung Quốc.
Có thể nói với những điều kiện thuận lợi như đã phân tích ở trên thì hành
lang kinh tế Côn Minh –Lào Cai –Hà Nội –Hải Phòng –Quảng Ninh có vai trò to
lớn trong quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước Việt –Trung cũng như trong
bối cảnh hội nhập.
1.2. VAI TRÒ CỦA HÀNH LANG KINH TÊ CÔN MINH-LÀO
CAI-HÀ NỘI-HẢI PHÒNG-QUẢNG NINH
1.2.1 Vai trò thúc đẩy hội nhập của hai nước Việt Nam –Trung Quốc
Hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới là một trong những định hướng
chiến lược quan trọng của Việt Nam và Trung Quốc nhằm tận dụng cơ hội toàn
cầu hóa để phát triển kinh tế, rút ngắn khoảng cách so với các nước trên thế giới.
Chính vì vậy việc xây dựng hành lang kinh tế này sẽ thúc đẩy quá trình hội nhập
của hai nước ngày càng sâu.

Tuyến hành lang huyết mạch có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy trao
đổi hàng hóa giao lưu kinh tế giữa các khu vực khác nhau. Hàng hóa của hai nước
Việt Nam và Trung Quốc có thể dễ dàng thâm nhập ra thị trường thế giới. Không
chỉ dừng lại ở việc trao đổi hàng hóa mà hành lang còn đóng vai trò là cầu nối
12
thương mại giữa các nước lại với nhau, chẳng hạn như nối liền ASEAN –Trung
Quốc, tạo lực mạnh phát triển kinh tế, thúc đẩy hợp tác với các nước trong một
châu lục và các châu lục khác. Ngoài ra còn góp phần đẩy nhanh quá trình hội
nhập trong bối cảnh tự do hóa thương mại ở mỗi nước. Chẳng hạn ở Việt Nam mỗi
tỉnh đều có một lợi thế riêng của mình đây là điều kiện cần để phát triển kinh tế
của từng vùng miền, vùng biên giới. Vì vậy các tỉnh đã biết liên kết lại phối hợp
với nhau để khai thác lợi thế cũng như tiềm năng của các tỉnh. Do đó khi tuyến
hành lang được xây dựng nó đã tạo ra các mạch giao thông và trên cơ sở đó hình
thành nên các cụm dân cư. Đây là cơ sở hình thành thị trường trao đổi hàng hóa,
góp phần phát triển kinh tế hàng hóa. Và cũng chính các tuyến trên hành lang này
sẽ liên kết các cụm dân cư trở thành những khu vực thị trường rộng lớn, thúc đẩy
phát triển thương mại.
Trong bài phát biểu khai mạc tại hội nghị hợp tác hành lang kinh tế Vân
Nam –Lào Cai –Hà Nội –Hải Phòng –Quảng Ninh lần thứ 3 do UBND thành phố
Hải Phòng tổ chức chính thức ngày 19/11/2007, chủ tịch UBND thành phố Trịnh
Quang Sử đã khẳng định: “Hành lang kinh tế Côn Minh –Lào Cai –Hà Nội –Hải
Phòng –Quảng Ninh là bước đi quan trọng nhằm thúc đẩy tiến trình tự do hóa
thương mại của khu vực, là bộ phận quan trọng của khu mậu dịch tự do ASEAN-
Trung Quốc, trong đó Hải Phòng được xác định là cực tăng trưởng của vùng kinh
tế động lực phía Bắc Hà Nội –Hải Phòng –Quảng Ninh”. Hành lang này là bước đi
quan trọng là vì việc xây dưng và phát triển hành lang kinh tế không chỉ đầu tư xây
dựng kết cầu hạ tầng mà còn khai thác tối đa nguồn lực cũng như nguồn tài nguyên
thiên nhiên của khu vực toàn hành lang. Tạo điều kiện thuận lợi để hòa mình vào
dòng chảy chung của hội nhập.
Hành lang kinh tế Côn Minh –Lào Cai –Hà Nội –Hải Phòng –Quảng Ninh

tạo mối liên kết của vùng lãnh thổ nhất định với khu vực khác. (1) liên kết song
phương giữa Việt Nam và Trung Quốc; (2) liên kết các nước Tiểu vùng sông Mê
Kông mở rộng (3) liên kết khu vực các nước ASEAN với Trung Quốc. Ngoài ra,
hành lang kinh tế này sẽ góp phần đẩy mạnh sự hợp tác kinh tế, tự do hóa thương
13
mại trong khuôn khổ hợp tác APEC, ASEAN +3 (Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật
Bản)... Do vậy việc hình thành và phát triển hành lang kinh tế Côn Minh–Lào Cai–
Hà Nội–Quảng Ninh là hết sức cần thiết, mang lại lợi ích to lớn cho Việt Nam và
Trung Quốc cũng như các nước trong và toàn khu vực.
Hành lang kinh tế Côn Minh–Lào Cai–Hà Nội–Hải Phòng là cầu lục địa nối
liền miền Tây Nam Trung Quốc với Đông Nam Á và Nam Á. Hành lang kinh tế
Côn Minh–Lào Cai–Hà Nội–Hải Phòng–Quảng Ninh là tuyến hành lang mở, tiếp
giáp với các khu vực phát triển của vùng Đông Nam Á và có khả năng vươn ra
những khu vực thị trường khác xa hơn. Hành lang này một mặt là cửa ngõ thông
thương với thị trường Trung Quốc rộng lớn, các nước trong khu vực như Lào, Thái
Lan, Myanmar, mặt khác, qua cảng Hải Phòng, tiếp cận với các khu vực thị trường
khác của thế giới.
1.2.2. Thúc đẩy sự phát triển của hai nước Việt Nam –Trung Quốc
Việc xây dựng hành lang kinh tế sẽ khơi thông lĩnh vực hợp tác kinh tế Vân
Nam và Việt Nam, làm cho các nhân tố về tài nguyên, sản xuất công nghiệp được
luân chuyển dễ dàng, tăng thêm giá trị thông qua sự hợp tác quốc tế về các lĩnh
vực: thương mại, công nghiệp, nông nghiệp, khai khoáng, du lịch, dịch vụ. Xoá bỏ
đi những khó khăn, hình thành cơ cấu kinh tế thương mại lớn, bổ sung ưu thế cho
nhau, để cùng nhau phát triển. Như vậy hành lang kinh tế Côn Minh –Lào Cai –Hà
Nội –Hải Phòng –Quảng Ninh nó có vai trò và ý nghĩa rất quan trọng thúc đẩy hoạt
động xuất nhập khẩu hai nước đặc biệt thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
khu vực xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại, xóa bỏ thời kỳ đóng cửa vùng biên mà
thay bằng thời kỳ hội nhập với bên ngoài. Hợp tác xây dựng tuyến hành lang giữa
hai nước Việt Nam–Trung Quốc nhằm phát triển kinh tế hai nước, nâng cao đời
sống của nhân dân, rút ngắn khoảng cách giữa các vùng miền góp phần vào tăng

trưởng chung của kinh tế mỗi nước.
1.2.2.1. Thúc đẩy mở rộng thị trường và lưu thông hàng hóa giữa hai nước
và thế giới.
14
Việc xây dựng hành lang kinh tế, lấy việc xây dựng hạ tầng giao thông làm
nòng cốt sẽ khắc phục được hạn chế về ách tắc giao thông cản trở trong sự hợp tác
kinh tế thương mại giữa Vân Nam và Việt Nam. Đồng thời kết hợp chặt chẽ các
hoạt động kinh tế như xây dựng giao thông phát triển sản xuất, đầu tư và thương
mại trong khu vực, thúc đẩy lưu thông hàng hoá, lưu thông kỹ thuật, để sự hợp tác
kinh tế của hai đi vào chiều sâu.
Hành lang kinh tế tạo điều kiện để các địa phương trong vùng mở rộng thị
trường xuất nhập khẩu, giảm chi phí trung gian do đó nâng cao sức cạnh tranh của
hàng hóa và dịch vụ trao đổi. Hành lang kinh tế Côn Minh –Lào Cai –Hà Nội –Hải
Phòng –Quảng Ninh thúc đẩy quá trình chuyển dịch nền kinh tế từ tự cung tự cấp,
trước đây sang sản xuất hàng hóa chỉ phục vụ trong vùng nhưng hiện nay một số
mặt hàng đã xuất khẩu ra bên ngoài đem lại lợi nhuận và hiện đại hóa nông thôn.
Trong quan hệ buôn bán trên tuyến hành lang kinh tế hai bên Việt Nam –
Trung Quốc có điểm tương đồng về nhu cầu đối với mặt hàng, cụ thể là các yêu
cầu về chất lượng, phù hợp với yêu cầu sản xuất, chi phí vận tải thấp, thanh toán
bằng việc sử dụng đồng nội tệ.
Sự phát triển của thị trường do tuyến hành lang kinh tế tạo ra có tác động
thúc đẩy nhanh quá trình phân công lao động xã hội, tạo thêm nhiều ngành nghề
mới góp phần giải quyết việc làm cho các tỉnh miền núi phía Bắc (Việt Nam) và
các vùng lân cận. Đặc biệt phát triển những ngành công nghiệp khai thác và chế
biến khoáng sản là rất quan trọng để thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
Hơn nữa việc trao đổi thương mại trên hành lang kinh tế còn tạo ra sự biến
đổi mạnh mẽ về cơ cấu kinh tế của các tỉnh phía Bắc Việt Nam. Và các ngành đã
có sự thay đổi từ tình trạng tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hóa.
1.2.2.2 Thúc đẩy phát triển kinh tế -xã hội của các vùng thuộc hành lang

kinh tế.
Một là, thúc đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn
15
Hành lang kinh tế là sự hợp tác giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc trên
nhiều lĩnh vực vì vậy khi hành lang này phát triển kéo theo sự hợp tác trao đổi kinh
nghiệm khoa học kỹ thuật tiên tiến hiện đại từ đó áp dụng khoa học kỹ thuật vào
trong nông nghiệp để cải tạo con giống, cây trồng, vật nuôi, tăng năng suất lao
động thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông thôn. Thông qua các hoạt đông của
hành lang sản phẩm nông nghiệp có được thị trường tiêu thụ, hạ giá thành và nâng
cao chất lượng.
Qua hợp tác Việt Nam có điều kiện nhập máy móc thiết bị hiện đại, vật tư,
giống cây trồng vật nuôi cần thiết học hỏi được kinh nghiệm trồng trọt, chăn nuôi
của Trung Quốc để phát triển vùng nông nghiệp.
Sự phát triển hành lang kinh tế Côn Minh –Lào Cai –Hà Nội –Hải Phòng –
Quảng Ninh còn tạo điều kiện thúc đẩy quá trình đô thị hoá nông thôn, tạo thêm
nhiều ngành nghề công nghiệp, dịch vụ thu hút lao động nông nghiệp giải quyết
việc làm. Chẳng hạn như ở Quảng Ninh đã thu hút lao động trong ngành nông
nghiệp, trong những năm gần đây giải quyết việc làm mới cho 2,4 vạn lao động
[10]. Góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá ở vùng núi phía Bắc nước ta.
Hai là, thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp
Hành lang kinh tế Côn Minh –Lào Cai –Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh
sẽ tạo ra môi trường thuận lợi để các địa phương trong vùng thu hút đầu tư, chuyển
giao công nghệ, khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên và nhân lực để phát triển các
ngành công nghiệp địa phương cũng như có khả năng hợp tác để phát triển các
ngành công nghiệp mới như bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin, các ngành
chế tạo, các ngành chế biến.
Bên cạnh đó thì việc phát triển các khu kinh tế cửa khẩu, các trung tâm
thương mại và chợ biên giới cũng là động lực chủ đạo phát triển đô thị, công
nghiệp, thương mại và dịch vụ nằm trên tuyến hành lang Côn Minh –Lào Cai –Hà
Nội –Hải Phòng –Quảng Ninh. Khu kinh tế bao gồm khu cửa khẩu quốc tế Lào

Cai: Khu thương mại Kim Thành; cụm công nghiệp Bắc Duyên Hải; cụm công
nghiệp Đông Phố Mới.
16
Khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai được Thủ tướng chính phủ Vịêt Nam ra quyết
định thành lập ngày 26/05/1998. Khu kinh tế này bao gồm các phường Lào Cai,
Cốc Lếu, Duyên Hải, Phố Mới, Kim Tân và các xã Vạn Hòa, Đông Tuyển thuộc
thành phố Lào Cai; thôn Na Mo xã Bản Phiệt thuộc huyện Bảo Thắng; xã Mường
Khương thuộc huyện Mường Khương [Nguồn về Động lực phát triển khu kinh tế
cửa khẩu www. baolaocai.vn ]
Với sự phát triển sôi động của khu kinh tế này sẽ hình thành những khu
trung tâm thương mại buôn bán, thúc đẩy nhiều ngành nghề phát triển, thu hút
nhiều lao động sử dụng tốt nguồn nhân lực, để đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế của
vùng và những khu vực lân cận.
Khu kinh tế cửa khẩu Móng Cái (Quảng Ninh), đây là khu được áp dụng
chính sách thí điểm đầu tiền đối với khu kinh tế cửa khẩu từ năm 1996. Sau khi
hành lang kinh t ế Côn Minh –Lào Cai –Hà Nội –Hải Phòng – Quảng Ninh đi qua
Móng Cái đã trở thành cửa ngõ giao lưu kinh tế giữa Việt Nam với Trung Quốc và
các nước trong khu vực, trở thành một trong hai trung tâm thương mại lớn nhất
Quảng Ninh hiện nay.
Các nghị quyết số 54/NQ-TW ngày 14-9-2005 của Bộ chính trị, số 19/NQ-
TU ngày 9-6-2004 của tỉnh ủy đều xác định: xây dựng Móng Cái trở thành thành
phố cửa khẩu quốc tế quan trọng trong quy hoạch vành đai kinh tế ven biển Quảng
Tây – Móng Cái –Hạ Long –Đồ Sơn để đẩy mạnh xuất nhập khẩu giữa Việt Nam
và Trung Quốc. Mới đây, trong Quyết định số 52/2008/ QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt đề án quy hoạch phát triển các khu kinh tế cửa khẩu của nước
ta đến năm 2020 xác định sẽ xây dựng đồng bộ về kết cấu hạ tầng, mô hình tổ chức
quản lý, cơ chế, chính sách cho khu kinh tế cửa khẩu Móng Cái để đưa thành phố
Móng Cái thành vùng kinh tế động lực nhằm đẩy nhanh sự phát triển hoạt động
thương mại, xuất nhập khẩu, sản xuất công nghiệp, du lịch, dịch vụ. Để đạt mục
tiêu này, Thủ tướng Chính phủ đặt ra các nhiệm vụ, biện pháp cụ thể như: xây

dựng khu kinh tế cửa khẩu Móng Cái thành trung tâm thương mại, dịch vụ, du lịch
của vùng và là đầu mối của các hành lang kinh tế nối với Trung Quốc; hình thành
17
hệ thống đô thị, điểm dân cư nông thôn; phát triển hệ thống giao thông nối với các
khu kinh tế cửa khẩu của Trung Quốc; hoàn thiện kết cấu hạ tầng cho khu kinh tế
cửa khẩu này... Sở dĩ thành phố Móng Cái được ưu ái như vậy bởi khu kinh tế cửa
khẩu này là đầu mối của hành lang kinh tế liên vùng và quốc tế, có ý nghĩa động
lực trong giao thương kinh tế và dịch vụ thương mại quốc gia, cửa ngõ của tuyến
kinh tế Hà Nội – Móng Cái – Phòng Thành (Trung Quốc) và vành đai kinh tế vịnh
Bắc Bộ.
Đây là những cơ chế, chính sách quan trọng tạo điều kiện để cho thành phố
Móng Cái phát triển về lâu về dài. Còn trong tương lai gần, theo đồng chí Nguyễn
Văn Trung, Bí thư Thành ủy Móng Cái thì “Tương lai của Móng Cái đang hiện
hữu” [10]. Nói như vậy bởi theo ông thì cơ sở hạ tầng phục vụ cho sự phát triển
của Móng Cái đang được tập trung ưu tiên đầu tư rất lớn và rất nhanh... Cụm, khu
công nghiệp, khu đô thị của thành phố đang được hoàn thiện và lấp đầy và tới đây
khi cầu Bắc Luân II được xây dựng, khu hợp tác kinh tế biên giới phi thuế quan
Móng Cái – Đông Hưng được hình thành, chắc chắn Móng Cái sẽ phát triển với
tốc độ nhanh hơn nữa.
Ba là, thúc đẩy phát triển kết cấu hạ tầng của các tỉnh trong hành lang kinh
tế.
Quá trình phát triển hành lang kinh tế Côn Minh – Lào Cai – Hà Nội – Hải
Phòng –Quảng Ninh sẽ tạo điều kiện cải thiện đáng kể hệ thống kết cấu hạ tầng
của các địa phương nhất là các tỉnh nằm trên tuyến hành lang của hai nước. Trong
chương trình dự án hành lang do ADB tài trợ và đầu tư của chính phủ hai nước, hệ
thống giao thông đường bộ đường sắt, đường hàng không, cảng biển, thông tin liên
lạc, cung cấp năng lượng sẽ từng bước được hiện đại hoá. Điều kiện kết cấu hạ
tầng được cải thiện sẽ thúc đẩy phát triển thương mại, đầu tư, nâng cao đời sống
vật chất tinh thần cho các tỉnh trên hành lang.
Bốn là, góp phần tăng trưởng kinh tế

Việc xây dựng hành lanh kinh tế sẽ hình thành ưu thế mang tính khu vực,
thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế. Sự tăng trưởng kinh tế này sẽ sinh ra các khả
18
năng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế giữa Vân Nam và miền Bắc Việt
Nam: Một là, khả năng mở rộng sự tăng trưởng về sản lượng; Hai là, khả năng dẫn
dắt việc ưu tiên bố trí nguồn tài nguyên; Ba là, khả năng thu hút sự tập trung đầu
tư; Bốn là, khả năng xúc tiến điều chỉnh cơ cấu công nghiệp; Năm là, khả năng
thúc đẩy mở cửa đối ngoại.
Trao đổi kinh tế thương mại trên hành lang góp phần quan trọng vào việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các tỉnh theo hướng phát triển công nghiệp – xây
dựng và thương mại–dịch vụ, khơi dậy tiềm năng, thế mạnh tiềm ẩn của các tỉnh
trong vùng hành lang, tạo điều kiện giảm bớt những khó khăn trong sản xuất kinh
doanh, giúp đỡ các địa phương cải thiện cơ bản tình hình kinh tế - xã hội, thúc đẩy
sự ra đời trong tương lai một số trung tâm kinh tế quan trọng.
Hoạt động của hành lang kinh tế còn tạo điều kiện để các tỉnh thu hút đầu tư
phát triển các ngành kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa, phát triển các
ngành dịch vụ. Góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các tỉnh.
Năm là, góp phần xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống vật chất tinh thần
cho nhân dân các tỉnh trên hành lang kinh tế.
Việc hình thành và phát triển hành lang kinh tế thúc đẩy trao đổi thương
mại, phát triển ngành nghề sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế do đó kích thích
tăng trưởng kinh tế và thu nhập dân cư.
Buôn bán trên dọc hành lang góp phần làm giảm bớt tỷ lệ đói nghèo, đời
sống nhân dân được nâng cao từng bước.
Sự hình thành của hành lang kinh tế còn tạo điều kiện hình thành khu dân cư
tập trung dọc biên giới, phát triển kết cấu hạ tầng các tuyến đường giao thông, hệ
thống bưu chính viễn thông, mạng lưới cung cấp điện, hệ thống chợ …góp phần
cải thiện đời sống văn hóa tinh thần của dân cư nhất là dân cư các địa phương vùng
biên, đẩy mạnh giao lưu kinh tế văn hóa, đẩy lùi các tệ nạn xã hội, giữ vững an
ninh quốc phòng khu vực biên giới, thắt chặt tình hữu nghị giữa hai nước, góp

phần phát triển kinh tế xã hội và hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
19
Hợp tác kinh tế trên hành lang Côn Minh –Lào Cai –Hà Nội – Hải Phòng –
Quảng Ninh sẽ là cơ sở thúc đẩy phát triển quan hệ hợp tác về khoa học, đào tạo và
các lĩnh vực khác mà hai bên cùng quan tâm. Hai phía sẽ có điều kiện trao đổi
nghiên cứu khoa học, phối hợp đào tạo dưới sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế.
Trong một vài năm gần đây hợp tác khoa học giữa Vân Nam và Việt Nam đã được
đẩy mạnh một bước trong các lĩnh vực kỹ thuật nông nghiệp, kỹ thuật chế biến sản
phẩm, công nghiệp khai thác tài nguyên và hương liệu thiên nhiên. Các đơn vị của
hai bên còn trao đổi học thuật và qui hoạch công trình về khôi phục và xử lý môi
trường sinh thái ở tiểu vùng sông Hồng.
Hợp tác kinh tế trên hành lang cũng tạo điều kiện để hai nước Việt Nam và
Trung Quốc tăng cường hợp tác văn hóa và bảo tồn các khu di tích, thắng cảnh,
phát triển kết cấu hạ tầng du lịch như đường sá, khách sạn, dịch vụ y tế, vui chơi
giải trí.
Bên cạnh đó hai nước còn tăng cường hợp tác trong việc bảo vệ môi trường
–xã hội như bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài nguyên nước, rừng, ngăn chặn tình
trạng gây ô nhiễm môi trường qua biên giới, tăng cường hợp tác chống ma túy, phá
bỏ các đường dây buôn bán ma túy qua biên giớ; hợp tác chống buôn lậu và gian
lận thương mại, bảo vệ sức khỏe cộng đồng, ngăn ngừa các dịch bệnh lây lan qua
biên giới…
Như vậy việc hợp tác trên hành lang kinh tế Côn Minh –Lào Cai –Hà Nội –
Hải Phòng –Quảng Ninh phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế của Trung Quốc
và Việt Nam thúc đẩy kinh tế thương mại giữa hai nước, tạo điều kiện phát triển
kinh tế vùng miền núi khó khăn. Đồng thời tạo ra mối liên kết kinh tế giữa các
vùng có hành lang đi qua, mở rộng thị trường, thúc đẩy giao lưu kinh tế thương
mại. Hành lang kinh tế này còn phát triển các ngành dịch vụ nhằm nâng cao hiệu
quả trao đổi thương mại. Tạo dựng môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư , rút
ngắn khoảng cách của vùng trên hành lang với các vùng khác, tạo điều kiện cho
quá trình tự do hóa thương mại trên phạm vi lớn hơn.

20
Ngoài ra hành lang là cầu nối hai nước mở rộng thương mại với các nước
khu vực, hành lang sẽ đưa lại những lợi ích nhất định, đáp ứng nguyện vọng cơ
bản và lâu dài của nhân dân hai nước là hữu nghị và cùng nhau phát triển.
Tóm lại hành lang kinh tế Côn Minh –Lào Cai –Hà Nội –Hải Phòng –
Quảng Ninh có vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế của hai nước Việt Nam –
Trung Quốc. Nó còn là đòn bẩy quan trọng để lực thúc đẩy kinh tế cho các vùng
hành lang nâng cao đời sống của nhân dân, dần dần cải thiện và hiện đại hóa nông
nghiệp nông thôn.
21
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN HÀNH LANG KINH TẾ
CÔN MINH –LÀO CAI –HÀ NỘI –HẢI PHÒNG –QUẢNG
NINH
2.1. KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRÊN HÀNH
LANG CÔN MINH –LÀO CAI –HÀ NỘI -HẢI PHÒNG -QUẢNG NINH
Hành lang kinh tế Côn Minh – Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng –Quảng Ninh
là khu vực nằm trên tuyến đường sắt, đường bộ từ Côn Minh đến Hải Phòng dọc
theo lưu vực sông Hồng.
Diện tích toàn hành lang là 130.049 km
2
, dân số 26, 944 triệu người. Trong
đó: Phía tỉnh Vân Nam Trung Quốc bao gồm 4 đơn vị hành chính là: Thành phố
Côn Minh, Thành phố Ngọc Khê, châu Hồng Hà, châu Văn Sơn, có diện tích
101.100 km
2
, dân số 14, 494 triệu người, với 16 dân tộc. Phía Việt Nam gồm 9
tỉnh, thành phố: Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Hưng Yên, Hải
Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh, diện tích 29.049 km
2

, dân số 12,5 triệu người, với
26 dân tộc. Nếu tính cả vùng lân cận có liên quan trực tiếp đến Hành lang thì tổng
diện tích Hành lang mở rộng là 452.876,5 km
2
, dân số 61,98 triệu người. Trong đó
phía Trung Quốc là toàn bộ tỉnh Vân Nam có diện tích 394.000 km
2
, dân số 44,152
triệu người. Phía Việt Nam bao gồm 15 tỉnh, thành phố (mở rộng thêm 6 tỉnh: Lai
Châu, Hòa Bình, Thái Bình, Tuyên Quang, Hà Giang và Bắc Ninh) có diện tích
58.846,5 km
2
, dân số 17,828 triệu người [23].
Tình hình phát triển kinh tế của các tỉnh, thành phố thuộc hành lang trong
những năm gần đây đã có nhiều chuyển biến tích cực. Giai đoạn 2001- 2005. Tốc
độ tăng trưởng GDP cao và tương đối ổn định với mức từ 8,5 – 14,7%/năm. Năm
2004, toàn Hành lang đạt 167,5 tỷ USD ( trong đó phía Trung Quốc đạt 166,5 tỷ
USD, phía Việt Nam đạt 10 tỷ USD). Đặc biệt là hai đầu Hành lang có các trung
tâm kinh tế lớn Côn Minh, Ngọc Khê, Hà Nội, Hải Phòng và Quảng Ninh thực sự
là động lực thúc đẩy toàn Hành lang phát triển.
22
Các tinh thuộc khu vực hành lang kinh tế đều có tốc độ tăng trưởng (GDP)
tăng [24..].
*Hà Nội: Là thủ đô của Việt Nam, nằm trung tâm Đồng Bằng Bắc Bộ.
Thành phố Hà Nội tiếp giáp 5 tỉnh : phía Bắc giáp với Thái Nguyên, phía Đông
giáp với Bắc Ninh, Hưng Yên; phía Tây giáp tỉnh Vĩnh Phúc và phía Nam giáp Hà
Tây. GDP của Hà Nội năm 2007 là 12,1% [25] trong khi đó GDP của Việt Nam
năm 2007 là 8,44% tăng 3,662% so với GDP cả nước. Theo số liệu khảo sát mức
sống hộ gia đình Hà Nội mới nhất do Cục thống kê Hà Nội công bố ngày
31-12-2007 cho thấy, GDP bình quân đầu người của cư dân Hà Nội đạt 28,6 triệu

đồng/năm (gấp 2,4 lần toàn quốc) [26]. Gía trị sản xuất công nghiệp 4 tháng đầu
năm 2008 tăng 12,5% so với năm 2007 [27]. Tổng kim ngạch xuất khẩu (XK) trên
địa bàn thành phố năm 2008 đạt khoảng 6.936 triệu USD, tăng 35,5% so với thực
hiện năm 2007 và tăng 26,5% so với chỉ tiêu kế hoạch do UBND thành phố đề ra
[27] Năm 2008 tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 10,58%/năm, giá trị sản xuất nông
nghiệp tăng trưởng từ 2 - 3%/năm và chiếm 5,53% trong cơ cấu kinh tế của Thành
phố. Cơ cấu kinh tế trong nông thôn chuyển dịch theo hướng tích cực: Năm 2008
tỷ trọng giá trị sản xuất ngành công nghiệp - xây dựng chiếm 41,28%, dịch vụ là
52,17%, nông nghiệp là 6.55%[28]. Hà Nội năm 2007 số dự án là 234 triệu USD,
tổng số vốn đăng ký la 200,6 triệu USD trong đó: vốn cấp mới 161,7 triệu USD;
vốn cấp thêm là 38,9 triệu USD [29].
*Hải Phòng: Là thành phố có quy mô lớn thứ 3 của Việt Nam sau thành
phố Hồ Chí Minh và thủ đô Hà Nội. Thành phố nằm ở phía Đông Bắc Việt Nam,
trên bờ biển thuộc Vịnh Bắc Bộ; phía Bắc giáp tỉnh Quảng Ninh, phía Nam giáp
tỉnh Thái Bình, phía Tây giáp tỉnh Hải Dương và phía Đông là vịnh Bắc Bộ. Hải
Phòng là thành phố cảng biển có tổng diện tích tự nhiên là 1.519 Km
2
[1( Tr.88)]
bao gồm cả hai huyện đảo (Cát Hải và Bạch Long Vĩ). Địa hình Hải Phòng đa
dạng, có đất liền (chiếm diện tích lớn ) và vùng biển hải đảo, có Đồng Bằng ven
biển, có núi có bờ biển dài 125 Km thuận lợi cho phát triển du lịch.
23
Trong 6 tháng đầu năm 2008, GDP của Hải Phòng đạt gần 9.200 tỷ đồng,
tăng 12,2%, so với cùng kỳ. Đồng thời cũng là mức tăng trưởng cao nhất từ năm
2005 đến nay (6 tháng đầu năm 2007, tăng trưởng 12,17%).
Hải Phòng thu hút vốn đầu tư nước ngoài đạt hơn 400 triệu USD, tăng 3,35
lần; tổng thu ngân sách khoảng hơn 10.000 tỷ đồng, đạt 68,9% kế hoạch năm. Tốc
độ tăng trưởng này tuy chỉ đạt 45% kế hoạch năm nhưng cao hơn mức 6,5% của cả
nước và đứng đầu trong số những thành phố trực thuộc Trung ương [13 ].
Theo tính toán, để năm 2008 đạt được mức tăng trưởng kinh tế trên 13% thì

trong 6 tháng cuối năm, GDP của Hải Phòng phải đạt mức tăng trưởng ít nhất là
13,68%. Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm có lợi thế về hệ thống cảng biển nên
trong cơ cấu GDP của Hải Phòng, ngành dịch vụ chiếm hơn 50%, công nghiệp-xây
dựng chiếm 39% và nông-lâm-thuỷ sản chiếm 11%. Hai nhóm ngành công nghiệp-
xây dựng và dịch vụ đang có mức tăng trưởng rất cao, đặc biệt là dịch vụ cảng
biển, đóng góp phần lớn vào GDP của thành phố. Từ đầu năm đến nay đã có
khoảng 13,6 triệu tấn hàng hoá qua cảng, tăng 26,9% và dự kiến hết năm sẽ có
khoảng gần 30 triệu tấn hàng hoá thông qua [13].
٭ Quảng Ninh: Tốc độ tăng trưởng GDP của Quảng Ninh trong giai đoạn
1996-2000 đạt bình quân 9,6%/năm; từ năm 2001 đến 2003, tăng trưởng kinh tế
luôn đạt mức khá, GDP tăng bình quân 12%. Hai năm 2006, 2007 GDP tăng bình
quân 13,45%, ước tính 6 tháng đầu năm 2008 tăng 12,5% [13].
Năm 2008, tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ ước đạt trên 18.000 tỷ
đồng, tăng 33 % so với cùng kỳ; Do lợi thế về cửa khẩu, cảng biển nên hoạt động
dịch vụ thương mại phát triển mạnh. Tổng kim ngạch hàng hoá xuất khẩu qua các
cửa khẩu của tỉnh đạt 2,87 tỷ USD, tăng 4,4% so với cùng kỳ, trong đó xuất khẩu
qua biên giới 1,35 tỷ USD; Kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn tỉnh đạt 1.750 triệu
USD bằng 122,35% kế hoạch, tăng 35,86% so với cùng kỳ. Nhiều mặt hàng có giá
trị xuất khẩu tăng so với cùng kỳ như xuất khẩu than tăng 44% về giá trị, cao su
tăng 10%, đóng tàu tăng gần 2 lần, dầu thực vật tăng 8,7%, đá tấn mài tăng 27%,
ngọc trai tăng 35,14%, giấy vàng mã tăng 26%...[29].
24
*Lào Cai: Là tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, có diện tích tự nhiên 8.044 Km
2
[1(Tr.95)], phía Bắc giáp tỉnh Vân Nam –Trung Quốc; phía Nam giáp tỉnh Yên
Bái; phía Đông giáp tỉnh Hà Giang; phía Tây giáp tỉnh Sơn La và Lai Châu. Thị xã
Lào Cai nằm sát biên giới Việt –Trung, cách thủ đô Hà Nội 354Km và cách thành
phố Côn Minh - thủ phủ tỉnh Vân Nam 420 Km. Từ khi khu kinh tế cửa khẩu quốc
tế Lào Cai đi vào hoạt động, đã góp phần tăng trưởng kinh tế của vùng: Tốc độ
tăng trưởng GDP bình quân hàng năm 10,5%, trong đó: nông - lâm nghiệp tăng

6%, công nghiệp - xây dựng 16% và dịch vụ 10%.
- GDP bình quân đầu người (năm 2006) 9 triệu đồng, gấp 1,8 lần so với năm
2005.
- Tỷ trọng các ngành kinh tế trong GDP: nông - lâm nghiệp 27%; công nghiệp -
xây dựng 31%; dịch vụ 42%
- Tổng sản phẩm lương thực có hạt: 200 ngàn tấn.
- Giá trị sản xuất trên 1 ha canh tác: 20 triệu đồng.
- Giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn: 2.055 tỷ đồng, bình quân tăng
26,2%/năm.
- Giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu của tỉnh: 70 triệu USD, bình quân tăng
14,9%/năm; trong đó xuất khẩu: 25 triệu USD, bình quân tăng 8%/năm [30]
Các chợ vùng cao được hình thành và phát triển rất nhanh ở nhiều điểm khu dân
cư nông thôn. Thông qua hoạt động trợ đã đã có tác dụng kích thích sản xuất hàng
hóa.
*Vân Nam (Trung Quốc): Vân Nam nằm ở biên cương Tây Nam của
Trung Quốc, diện tích là 394,000 Km
2
, chiếm khoảng 1,4 tổng diện tích Trung
Quốc. Phía Nam của Vân Nam giáp với Lào và Việt Nam ( tỉnh Hà Giang, Lào
Cai, Lai Châu). Tổng giá trị sản xuất trong nước, năm 2006 tổng giá trị sản xuất
của tỉnh Vân Nam (GDP) đạt 400,187 tỷ NDT, tăng 11,9% so với năm trước. GDP
bình quân đầu người đạt 8961 NDT, tăng 11,1% so với năm trước. Tỉ trọng của các
khu vực kinh tế trong GDP, khu vực có giá trị gia tăng là 75,115 tỷ NDT, tăng
25

×