Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

SKKN dạy học về giải toán có lời văn ở lớp 2 theo hướng tiếp cận và phát triển năng lực học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.98 KB, 18 trang )

PHẦN 1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1 Lí do chọn đề tài
Mục tiêu giáo dục Tiểu học là GD học sinh phát triển toàn diện, có những kiến
thức và kỹ năng cơ bản để làm tiền đề cho việc phát triển bền vững và học lên các cấp
học cao hơn. Giáo dục phải hướng tới phát triển các năng lực chung và năng lực đặc thù
liên quan đến từng lĩnh vực giáo dục/môn học/hoạt động trải nghiệm sáng tạo mà mọi
học sinh đều cần có trong cuộc sống, đồng thời tạo điều kiện phát triển tốt tiềm năng
của mỗi học sinh. Cấp tiểu học hướng tới hình thành và phát triển các năng lực chung
như: Tự phục vụ, tự quản; Giao tiếp, hợp tác; Tự học và giải quyết vấn đề. Ngoài những
năng lực chung, các năng lực đặc thù môn học được nêu ở các chương trình môn học và
hoạt động trải nghiệm sáng tạo như: năng lực Toán, năng lực Âm nhạc, năng lực Mĩ
thuật,…
Toán học là môn học chiếm vị trí quan trọng trong các môn học ở nhà trường phổ
thông. Toán học được xem là cần thiết không chỉ vì cung cấp nền tảng cho việc học các
môn học khác hoặc là công cụ để giải quyết các vấn đề trong đời sống thực tế, mà còn
bởi lẻ nó đóng góp nhiều nhất cho sự phát triển trí tuệ của mỗi cá nhân học sinh. Chúng
ta cần nhớ rằng, giáo dục Toán học không chỉ là giáo dục về các công cụ toán học, mà
còn là giáo dục về “tư duy toán học”, tức là khả năng suy luận logic, độc lập, sâu sắc, có
hệ thống. “Tư duy toán học” đó là cái cần thiết cho mọi người, ở mọi ngành nghề khác
nhau, kể cả những người mà trong công việc không phải đụng chạm đến “toán”.
Môn Toán là môn học được dạy ở tất cả các khối lớp cấp Tiểu học, do đó vai trò, vị
trí môn Toán có nhiệm vụ không nhỏ trong phát triển nhận thức và tư duy học sinh.
Giúp học sinh nhận thức sự vật qua việc học toán, từ đó hiểu biết hơn, biết cách vận
dụng kiến thức toán vào thực tiễn cuộc sống phù hợp với khả năng học sinh ở mỗi khối
lớp học.
Thực tế qua nhiều năm trực tiếp giảng dạy ở khối lớp 2, tôi nhận thấy học sinh
khi giải các bài toán có lời văn thường rất chậm so với các dạng bài tập khác. Các em
thường lúng túng khi đặt câu lời giải cho phép tính, có nhiều em làm phép tính chính
xác và nhanh chóng nhưng không làm sao tìm được lời giải đúng hoặc đặt lời giải
1



không phù hợp với đề toán đặt ra. Chính vì thế nhiều khi dạy học sinh đặt câu lời giải
còn vất vả hơn nhiều so với dạy trẻ thực hiện các phép tính ấy để tìm ra đáp số.
Việc đặt lời giải ngay từ lớp 1, 2 sẽ là một khó khăn lớn đối với mỗi giáo viên
trực tiếp giảng dạy ở lớp 1, 2 nhất là những tuần đầu dạy toán có lời văn ngay ở việc
giúp các em đọc đề, tìm hiểu đề…Một số em mới chỉ đọc được đề toán chứ chưa hiểu
được đề, chưa trả lời các câu hỏi thầy nêu: Bài toán cho biết gì ?...Đến khi giải toán thì
đặt câu lời giải chưa đúng, chưa hay hoặc không có câu lời giải…Những nguyên nhân
trên không thể đổ lỗi về phía học sinh 100% được mà một phần lớn đó chính là các
phương pháp, cách áp dụng, truyền đạt của những người thầy. Có thể nói, đây quả thực
là một khó khăn đối với học sinh khi học giải toán có lời văn. Đọc một đề toán đang còn
là khó đối với các em vậy mà còn tiếp tục phải: Tìm hiểu đề toán, tóm tắt đề, đặt câu lời
giải, phép tính, đáp số…Với một vài kinh nghiệm về dạy học môn Toán đã góp phần
nâng cao chất lượng học toán của học sinh lớp 2. Đây cũng là lý do mà tôi chọn đề tài
“Dạy học về giải toán có lời văn ở lớp 2 theo hướng tiếp cận và phát triển năng lực
học sinh”, mong tìm ra những giải pháp nhằm góp phần nâng cao kĩ năng giải toán có
lời văn cho học sinh lớp 2 nói riêng và trong môn Toán 2 nói chung. Để từ đó, các em
có thể thành thạo hơn với những bài toán có lời văn khó và phức tạp ở các lớp trên.
1.2. Điểm mới của đề tài:
Đề tài “Dạy học về giải toán có lời văn ở lớp 2 theo hướng tiếp cận và phát triển
năng lực học sinh” đưa ra các giải pháp nhằm giúp cho giáo viên hướng dẫn hs có kĩ
năng thành thạo trong việc giải toán trong từng thao tác hướng dẫn học sinh giải toán có
lời văn ở lớp 2.
- Giúp giáo viên có kĩ năng tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm khi giải các bài
toán có lời văn theo hướng tiếp cân học sinh nhằm trợ giúp học sinh tự học, tự giải
quyết vấn đề và phát triển năng lực toán học cho các em thông qua việc rèn luyện các kĩ
năng tư duy, phân tích, tổng hợp; kĩ năng giao tiếp ngắn gọn, logic toán học...
- Đề tài cũng đưa ra giải pháp giúp giáo viên hướng dẫn học sinh có năng lực Tự
học và giải quyết vấn , trên cơ sở kiến thức, kĩ năng được hình thành, phát triển khả
năng thực hiện các hành động có ý nghĩa đối với người học.

2


1.3. Phạm vi áp dụng của đề tài
Trong đề tài này, tôi tiến hành nghiên cứu, áp dụng trong phạm vi tại trường Tiểu
học nơi tôi công tác và các đơn vị bạn thông qua sinh hoạt chuyên môn liên trường. Các
giải pháp dạy học, những kinh nghiệm của bản thân trong quá trình giảng dạy. Đề tài có
thể áp dụng cho tất cả giáo viên đang dạy lớp 2 ở các trường tiểu học.
PHẦN 2. PHẦN NỘI DUNG
2. 1 Thực trạng của việc học toán phần giải toán có lời văn của học sinh hiện nay:
Tính tới thời điểm hiện tại, học sinh đã quen và thực hiện tương đối tốt mô hình
học tập mới này. Qua thời gian thực hiện , bản thân tôi nhận thấy những mặt thuận lợi
và khó khăn sau :
1. Thuận lợi:
- Giáo viên luôn được sự quan tâm của Ngành cấp trên, đặc biệt là của ban Giám
hiệu nhà trường, thường xuyên động viên, khuyến khích giáo viên áp dụng phương
pháp mới vào giảng dạy. Ban Giám hiệu luôn cố gắng tạo điều kiện để giáo viên an tâm
công tác và thực hiện nhiệm vụ được giao.
- Cơ sở vật chất của nhà trường đảm bảo cho học sinh thực hiện hoạt động học
tập theo hướng tiếp cận học sinh .
- Học sinh chăm ngoan, có ý thức cố gắng vươn lên trong học tập. Đa số phụ
huynh qua tâm đến việc học hành của học sinh.
- Giáo viên được tập huấn nhiều về các phương pháp dạy học, các buổi sinh
hoạt chuyên môn cũng bổ trợ nhiều cho việc sử dụng các phương pháp dạy học hiệnđại.
2. Khó khăn:
- Kĩ năng đọc văn bản của học sinh lớp 2 còn hạn chế nhưng ngay từ đầu năm
học, các em đã học giải toán có lời văn. Một số em mới chỉ đọc được đề toán chứ chưa
hiểu được đề, chưa trả lời các câu hỏi thầy nêu: Bài toán cho biết gì ?.
Có thể nói, đây quả thực là một khó khăn đối với học sinh khi học giải toán có lời văn.
Đọc một đề toán đang còn là khó đối với các em vậy mà còn tiếp tục phải: Tìm hiểu đề

toán, tóm tắt đề, đặt câu lời giải, phép tính, đáp số…
3


- Để tiếp cận học sinh, hình thức tổ chức dạy học chủ yếu là học nhóm. Nhưng
các em chưa ý thức được việc học theo nhóm.Chia các nhóm nhỏ, lời nói xì xào nhiều
khi lại là cơ hội để các em trò chuyện , lãng phí thời gian. Cũng không tránh khỏi tình
trạng các em chỉ thảo luận một cách đối phó nếu giáo viên không tiếp cận , trợ giúp.
Lúc này nhìn bề ngoài có vẻ học tích cực chủ động. Nhưng trong tư duy các em thì
chưa chắc. Vậy làm thế nào để các em thật sự hành động trong tư duy? Làm sao kiểm
soát được tư duy của các em? Đó là câu hỏi đặt ra vẫn chưa có lời giải. Vì vậy hầu hết
quá trình học tập theo nhóm còn mang tính chất hình thức, chưa thật sự hiệu quả.
- Số học sinh khá, giỏi thường muốn quyết định quy trình, hình thức, nội dung
làm việc của nhóm, chưa thật sự đề cao sự tương tác bình đẳng và tầm quan trọng của ý
kiến từng thành viên trong nhóm. Chính vì vậy gây tâm lý bất hợp tác, chán nản cho các
thành viên còn lại, dẫn đến nhiều em chưa có ý thức hợp tác nhóm.
3. Thực trạng lớp tôi giảng dạy:
Đầu năm học 2019 -2020 tôi được phân công giảng dạy và chủ nhiệm lớp 2C. Qua thực tế việc
làm bài của học sinh, tôi nhận thấy kết quả việc giải toán có lời văn và các năng lực của học sinh lớp
2C có 19 học sinh như sau:

Nội dung khảo sát
Tóm tắt bài toán
Giải và trình bày được
Có lời giải hay,sáng tạo hơn, ngắn gọn
hơn
Năng lực tự học, tự khám phá, giải quyết
vấn đề(T).
Năng lực hợp tác(T)


Đầu năm học 2019 - 2020
SL
%
5
26,3
7
36,8
2

10,5

6

31,5

7

26,3

* Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trong giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2:
- Về phía nhà trường:
+ Cơ sở vật chất của nhà trường: Tuy nhà trường đã có đủ phòng học nhưng thiết
bị nhà trường còn có nhiều hạn chế.
+ Về đội ngũ giáo viên: Nhà trường có đội ngũ giáo viên nhiệt tình giảng dạy song
còn gặp nhiều khó khăn do trình độ giáo viên còn chưa đồng đều.
- Về phía gia đình học sinh:
4


+ Là một xã địa bàn rộng, có 2 khu vực, khu vực lớp tôi thuộc khu vực lẽ thường

bị lũ lụt, ngập nước, dân cư chủ yếu sống bằng nghề nông, nghề chài đời sống kinh tế
còn nhiều khó khăn. chính điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập cũng như
chất lượng học tập của các em.
+ Nhiều gia đình đi làm ăn xa gửi con cho ông bà chăm sóc do ông bà đã già yếu
nên không quán xuyến được việc học hành của các cháu.
+ Một số phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến con em mình còn có quan điểm ''

khoán trắng '' cho nhà trường.
+ Do tâm lý chung của học sinh tiểu học còn ham chơi nên việc học hành của các
em nếu không có sự giám sát chặt chẽ của gia đình thì khó có hiệu quả cao.
-Vê phía học sinh:
+ Việc đọc đề, tìm hiểu đề đang còn nhiều khó khăn đối với học sinh lớp 2. Vì kĩ
năng đọc thành thạo của các em chưa cao, nên các em đọc được đề toán và hiểu đề còn
thụ động, chậm chạp…
+ Thực tế trong một tiết dạy 35- 40 phút, thời gian dạy kiến thức mới mất nhiều –
phần bài tập hầu hết là ở cuối bài nên thời gian để luyện nêu đề, nêu câu trả lời không
được nhiều mà học sinh chỉ thành thạo việc đọc đề toán.
+ Việc dạy học nhóm ở lớp 1 chưa được sử dụng nhiều, học sinh chưa biết cách
hợp tác để giải quyết vấn đề nên các năng lực của học sinh còn hạn chế.
2.2 Các giải pháp để giúp học sinh hoàn thành tốt dạng toán có lời văn.
2.2.1 Chuẩn bị cho việc giải toán.:
Để giúp cho học sinh có kĩ năng thành thạo trong việc giải toán thì chúng ta
không chỉ hướng dẫn học sinh trong giờ toán mà một yếu tố không kém phần quan
trọng đó là luyện kĩ năng nói trong giờ Tiếng việt.
* Chúng ta đã biết, học sinh lớp 2 còn thụ động, rụt rè trong giao tiếp. Chính vì
vậy, để các em mạnh dạn tự tin khi phát biểu, trả lời người giáo viên cần phải: luôn luôn
gần gũi, khuyến khích các em giao tiếp, tổ chức các trò chơi học tập, được trao đổi,
luyện nói nhiều trong các giờ Tiếng việt giúp các em có vốn từ lưu thông; trong các tiết
học các em có thể nhận xét và trả lời tự nhiên, nhanh nhẹn mà không rụt rè, tự ti. Bên
5



cạnh đó, người giáo viên cần phải chú ý nhiều đến kĩ năng đọc cho học sinh: Đọc
nhanh, đúng, tốc độ, ngắt nghỉ đúng chỗ giúp học sinh có kĩ năng nghe, hiểu được
những yêu cầu mà các bài tập nêu ra.
* Theo chương trình sách giáo khoa mới đến tuần 23 học sinh lớp 1 mới tập giải
toán có lời văn. Ở lớp 1 yêu cầu học sinh nhìn tranh nêu phép tính, tập nêu tiếp câu hỏi
để hoàn chỉnh đề toán, tập viết câu lời giải ở dạng đơn giản và chưa yêu cầu lời giải hay,
chính xác. Trong khi thời gian dành cho cả tiết học là không quá 40 phút, với nhiều yêu
cầu kiến thức khác nhau nên các em chưa được rèn luyện nhiều. Vì vậy, khi lên lớp 2
những tuần đầu khi học đến phần giải toán có lời văn, nhiều em lúng túng kể cả một số
em có lực học khá. Mặc dù giáo viên đã hướng dẫn các em nêu đề toán, tìm hiểu đề và
gợi ý nêu miệng lời giải nhưng cách trình bày, sự trau chuốt lời giải của các em chưa
được thành thạo. Hiểu được những thiếu sót đó của các em, ở những tiết toán có bài
toán giải tôi thường đến tận từng đối tượng học sinh để hướng dẫn kĩ và kết hợp trình
bày mẫu nhiều bài giúp các em ghi nhớ và hình thành kĩ năng.
Ví dụ1: Sau khi đọc đề toán ở trang 11 SGK Toán 2:
“ Lớp 2A có 18 học sinh đang tập hát, lớp 2B có 21 học sinh đang tập hát. Hỏi cả
hai lớp có bao nhiêu học sinh đang tập hát?”.
- Học sinh tập nêu bằng lời để tóm tắt bài toán(Theo cặp đôi và từng cặp chia sẻ
trước lớp):
Lớp 2A có :

18 học sinh.

Lớp 2B có :

21 học sinh.

Hỏi có tất cả :


? học sinh.

- Học sinh nêu miệng câu lời giải:
Cả hai lớp có tất cả số học sinh đang tập hát là:
Học sinh nêu miệng phép tính: 18 + 21 = 39 (bạn)
Ví dụ 2:

- Học sinh được làm quen với việc tóm tắt rồi nêu đề toán bằng lời sau

đó nêu cách giải rồi tự giải. Ở dạng bài này, giáo viên cũng cần cho học sinh luyện nêu
miệng đề toán nhiều lần để các em ghi nhớ một bài toán.

6


Bài tập 2 (trang 25 - SGK toán 2)
An có:

11 bưu ảnh.

Bình nhiều hơn An: 3 bưu ảnh.
Bình có:

…bưu ảnh.

- Cho học sinh đọc thầm, đọc miệng tóm tắt rồi nêu đề toán bằng lời theo yêu
cầu theo cặp đôi sau đó chia sẻ trước lớp: An có 11 bưu ảnh.Bình có số bưu ảnh nhiều
hơn số bưu ảnh của An là 3 cái. Hỏi Bình có tất cả có bao nhiêu cái bưu ảnh?
Sau đó cho các em luyện cách trả lời miệng:

Số bưu ảnh của Bình có là: 11 + 3 = 14 (bưu ảnh)
Rồi tự trình bày bài giải:
Bài giải
Số bưu ảnh của Bình có là:
11 + 3 = 14 (bưu ảnh)
Đáp số: 14 bưu ảnh.
2.2.2 Định hướng các bước giải bài toán có lời văn:
a) Đọc kỹ bài toán:
*Tìm hiểu nội dung bài toán
Phần này rất quan trọng, vì vậy khi dạy giáo viên cần tạo điều kiện học sinh đọc kĩ
càng, đọc nhiều lần (đọc thầm trong nhóm) để hiểu rõ đề toán cho biết gì? Bài toán hỏi
gì? Bài toán thuộc dạng nào?
Ví dụ 3: Một băng giấy màu tím dài 34 dm, băng giấy màu xanh ngắn hơn băng
giấy màu tím 16 dm. Hỏi băng giấy màu xanh dài bao nhiêu đề xi mét?
Học sinh đọc đề, nắm kĩ yêu cầu đề (tự hỏi đáp nhau trong nhóm).
+ Bài toán cho biết gì? (Băng giấy màu tím dài: 34 dm, băng giấy màu xanh ngắn
hơn băng giấy màu tím 16 dm).
+ Bài toán hỏi gì? ( Băng giấy màu xanh dài bao nhiêu dm?)
Có thể cho học sinh phân tích ngược (đối với học sinh nhanh):
+ Bài toán hỏi gì? (Băng giấy màu xanh dài bao nhiêu dm?)

7


+ Bài toán cho biết gì? (Băng giấy màu tím dài: 34 dm, băng giấy màu xanh ngắn
hơn băng giấy màu tím 16 dm).
* Nếu trong bài toán có từ nào mà học sinh chưa hiểu rõ thì tôi hướng dẫn cho học
sinh hiểu được ý nghĩa và nội dung của từ đóở trong bài toán đang làm, sau đó giúp học
sinh tóm tắt đề toán bằng cách đăt câu hỏi đàm thoại:
“ Bài toán cho gì? Bài toán hỏi gì?” và dựa vào tóm tắt để nêu đề toán…

Đối với những học sinh kĩ năng đọc hiểu còn chậm, tôi dùng phương pháp giảng
giải kèm theo các đồ vật, tranh minh hoạ để các em tìm hiểu, nhận xét nội dung, yêu
cầu của đề toán. Qua đó học sinh hiểu được yêu cầu của bài toán và dựa vào câu hỏi của
bài, các em nêu miệng câu lời giải, phép tính, đáp số của bài toán rồi cho các em tự
trình bày bài giải vào vở bài tập.
b, Nhận dạng và phân tích bài toán để lựa chọn cách giải.
*Dạng toán nhiều hơn, ít hơn
Đề học sinh nhận diện được dạng toán này, yêu cầu đầu tiên là học sinh đọc bài
toán, xem xét một số từ ngữ quan trọng để nhận diện dạng toán này.
Ví dụ 1:
*) Bố Hà 45 tuổi, mẹ Hà ít hơn bố 7 tuổi. Hỏi mẹ Hà bao nhiêu tuổi?
**) Anh hơn em 5, tuổi biết em 8 tuổi. Hỏi anh bao nhiêu tuổi.
***) Bố 45 tuổi, mẹ 38 tuổi. Hỏi bố hơn mẹ mấy tuổi (hoặc mẹ ít hơn bố mấy
tuổi?).
Hướng dẫn học sinh xác định bài toán:
Ở bài *) là dạng toán về it hơn. GV hướng dẫn học sinh nhận biết bằng cách: Biết
tuổi của ai? Chưa biết tuổi của ai? (Tuổi bố đã biết 45. Mẹ chưa biết, nhưng lại cho biết
mẹ ít hơn bố 7 tuổi). Từ trên ta có thể hướng dẫn học sinh tập tóm tắt bài toán:
Bố: 45 tuổi
Mẹ ít hơn bố 7 tuổi
Mẹ:……tuổi

8


Ở bài **) là dạng toán về nhiều hơn. GV hướng dẫn tương tự học sinh nhận biết
bằng cách: Tuổi ai đã biết? Tuổi ai chưa biết? (Biết tuổi em là 8 tuổi. Tuổi anh chưa
biết, nhưng tuổi anh hơn em 5 tuổi). Từ đây ta có thể giúp học sinh biết tốm tắt bài toán:
Em: 8 tuổi
Anh hơn em: 5 tuổi

Anh:……tuổi
Ở ví dụ ***) cũng là dạng toán nhiều hơn/ít hơn. Hướng dẫn học sinh xác định rõ
yêu cầu bài để từ đó hiểu được yêu càu và đặt lời giải đúng (Đã biết tuổi bố và tuổi mẹ,
tìm số tuổi nhiều hơn của bố hoặc số tuổi ít hơn của mẹ.
* Dạng toán giải liên quan về yếu tố hình học và đo lường:
- Toán hình: Ở lớp 2 tập trung chủ yếu giới thiệu và cách tìm chu vi của hình tam
giác và hình tứ giác. Yêu cầu học sinh biết tính tổng các cạnh đã biết hoặc tìm 1 cạnh
chưa biết khi biết tổng các cạnh và số đo những cạnh đã cho.
Ví dụ: 1) Tính độ dài 4 cạnh quyển vở của em.
2) Tính độ dài cạnh còn lại của một hình tứ giác biết tổng độ dài 4 cạnh là
25cm, tổng độ dài 3 cạnh là 19cm.
- Toán đo lường: Các bài toán liên quan các đơn vị đo thời gian (giờ, phút, ngày,
tháng, năm), đơn vị lường lít, cân nặng.
Cần cho học sinh đọc kĩ đề toán giúp học sinh hiểu chắc chắn một số từ khoá
quan trọng nói lên những tình huống toán học bị che lấp dưới cái vỏ ngôn từ thông
thường như: “ ít hơn”, “ nhiều hơn”, “tất cả”…
c,Chọn phép tính giải thích hợp
Khi đã xác định được bài toán cái gì đã biết, cái gì phải tìm cần giúp học sinh chọn
phép tính thích hợp.
Chẳng hạn, với dạng toán “nhiều hơn/ít hơn” thì việc xác định lựa chọn phép tính
cho phù hợp, Ví dụ ở *, **) chắc chắn phải sử dụng dấu trừ. Tuy nhiên một số bài chỉ
có đảo một số từ ngữ và dữ kiện thì không phải là phép trừ mà là phép cộng. Ví dụ: Em
8 tuổi, em ít hơn anh 5 tuổi. Hỏi anh bao nhiêu tuổi?

9


Trong quá trình giảng dạy tôi quan sát, nếu có một nhóm đưa thẻ cứu trợ thì tôi
đến nhóm đó để hướng dẫn. Trường hợp nếu nhiều nhóm cùng đưa thẻ một lúc thì tôi
cho các em quay mặt lên bảng để hướng dẫn chung. Giáo viên nên hướng dẫn cho học

sinh suy luận từ câu hỏi bài toán đến dữ kiện đã cho.
Ở ví dụ 3 (mục 2.2. điểm a) GV có thể gợi mở: Bài toán hỏi gì? (Băng giấy màu
xanh dài bao nhiêu dm?); trong đó cái gì đã biết ? (băng giấy màu xanh ngắn hơn. Như
vậy muốn biết băng giấy màu xanh dài bao nhiêu dm ta thực hiện phép tính gì?( Thực
hiện phép tính trừ 34 trừ 16).
Khuyến khích học sinh tự tìm nhiều lời giải khác nhau sẽ gây hứng thú học tập cho
học sinh, sáng tạo và suy nghĩ linh hoạt, độc lập.
Trong bài toán này học sinh có thể nêu lời giải và thực hiện phép tính như sau:
Băng giấy màu xanh dài số dm là (Số dm băng giấy màu xanh dài là / Chiều dài
băng giấy màu xanh là / Độ dài băng giấy màu xanh là...)
34 – 16 = 18 (dm)
Đáp số : 18 dm
Với kết quả này tôi hướng dẫn học sinh làm phép tính thử lại, kiểm tra xem băng
giấy màu xanh có phải là dài 18dm. Lấy 18dm của băng giấy màu xanh cộng với 16dm
băng giấy màu tím dài hơn có bằng với chiều dài băng giấy màu tím không? Lúc này ta
xét tính hợp lí của đáp số.
Khuyến khích học sinh tự nhận xét bài của nhau để khắc sâu kiến thức.
Đối với những bài toán khó học sinh cần phải đọc đi đọc lại nhiều lần, trao đổi,
suy nghĩ tìm ra cách giải.
d ,Trình bày bài giải:
Như chúng ta đã biết, các dạng toán có lời văn học sinh đã phải tự viết câu lời giải,
phép tính, đáp số, thậm chí cả tóm tắt nữa.
Chính vì vậy, việc hướng dẫn học sinh trình bày bài giải sao cho khoa học, đẹp mắt
cũng là yêu cầu lớn trong quá trình dạy học. Muốn thực hiện yêu cầu này trước tiên
người dạy cần tuân thủ cách trình bày bài giải theo hướng dẫn, quy định.

10


- Đầu tiên là tên bài (Viết sát lề bên trái có gạch chân), tiếp đó ghi tóm tắt, sau gần

tóm tắt là trình bày bài giải. Từ: “Bài giải” ghi ở giữa trang vở (có gạch chân), câu lời
giải ghi cách lề khoảng 2 -> 3 ô vuông, chữ ở đầu câu viết hoa, ở cuối câu có dấu hai
chấm (:), phép tính viết lùi vào so với lời giải khoảng 2 -> 3 chữ, cuối phép tính là đơn
vị tính được viết trong dấu ngoặc đơn. Phần đáp số ghi sang phần vở bên phải ( có gạch
chân) và dấu hai chấm rồi mới viết kết quả và đơn vị tính (không phải viết dấu ngoặc
đơn nữa).
Song song với việc hướng dẫn các bước thực hiện, tôi thường xuyên trình bày bài
mẫu trên bảng và yêu cầu học sinh quan sát, nhận xét về cách trình bày để từ đó học
sinh quen nhiều với cách trình bày. Bên cạnh đó, tôi còn thường xuyên nhận xét và sửa
lỗi cho những học sinh trình bày chưa đẹp; tuyên dương trước lớp những học sinh làm
đúng, trình bày sạch đẹp, cho các em đó lên bảng trình bày lại bài làm của mình để các
bạn cùng học tập…
Bên cạnh việc hướng dẫn cách trình bày như trên, tôi cũng luôn luôn nhắc nhở, rèn
luyện cho học sinh kĩ năng viết chữ - viết số đúng mẫu - đẹp. Việc kết hợp giữa chữ viết
đẹp và cách trình bày đúng cũng là một yếu tố góp phần tạo nên sự thành công trong
vấn đề giải toán có lời văn của các em.
2.2.3. Rèn tính độc lập, năng lực tự học, tự giải quyết vấn đề cho học sinh:
Học sinh lớp 2 bắt đầu làm quen học theo nhóm theo mô hình trường học mới, do
đó giáo viên cần quan tâm việc tự đọc bài toán (kể cả bài toán là một phép tính cụ thể
hay bài toán có lời văn), từ đó tự mình hiểu theo cách của mình thông qua trải nghiệm
cuộc sống đã có mà các em tự biết (qua mạng, đài, báo, ti vi,…). Có thể nói đây là việc
làm rất tốt nhằm tạo tính chủ động của người học khi tiếp cận một vấn đề toán học nào
đó thì đầu tiên phải biết đề toán, bài toán ấy đang nói lên những sự kiện nào và ta có thể
trao đổi tìm ra cách giải. Sau bước tự đọc bài toán là bước đệm quan trọng cho việc thảo
luận. Các em tự hiểu để từ đó đưa cái tự hiểu của mình cùng bạn trong nhóm trao đổi để
làm rõ nội dung và tìm ra lời giải bài toán chính xác nhất.
Từ việc nắm được mục tiêu bài học; tự thực hiện đúng nhiệm vụ học tập theo tài
liệu hướng dẫn; chia sẻ kết quả học tập với bạn, với nhóm; đánh giá kết quả học tập,
11



báo cáo kết quả học tập với nhóm, thầy cô giáo; tìm kiếm sự trợ giúp kịp thời của bạn
bè, thầy cô giáo và bố mẹ; vận dụng những điều đã học để giải quyết nhiệm vụ học tập,
cuộc sống; phát hiện những tình huống mới liên quan tới bài học và tìm cách tự giải
quyết.
Tính độc lập được quan tâm nhiều ở hoạt động thực hành: thể hiện rõ các bài
tập vận dụng kiến thức-kỹ năng vừa học để tự giải quyết các bài tập theo yêu cầu của
GV. Đây là việc làm có tính đặc trưng của rèn kiến thức-kỹ năng giải toán cho học sinh
một cách thành thục hoặc tương đối thành thục, góp phần làm bước đệm cho việc giải
quyết các bài toán ứng dụng trong cuộc sống tại gia đình của các em đang ở.
Ví dụ như bài: Bài toán về nhiều hơn. Ở bài này các em được tìm hiểu kiến thức
trọng tâm từ Hoạt động cơ bản sau đó các em được vận dụng vào Hoạt động thực hành.
2.2.4. Tạo điều kiện để học sinh trao đổi, chia sẻ càng nhiều càng tốt:
Mỗi bài toán có lời văn học sinh sau khi tìm hiểu để có hướng giải quyết đúng đắn,
các em ngoài yêu cầu phải độc lập suy nghĩ, tìm ra lời giải và đáp số thì việc tạo cơ hội
cho các em chia sẻ, tranh luận là rất cần thiết. Chia sẻ trao đổi nhằm giúp các em biết
được điểm mạnh, điểm yếu của bản thân khi làm bài toán, được nói lên những điều theo
quan điểm cá nhân và bảo vệ ý kiến cá nhân hoặc đúc rút điều hay từ bạn bè khi mình
được bạn bè trong nhóm chỉ rõ điểm chưa đúng trong khi thực hiện giải một bài toán có
lời giải và đáp số.
Không những thế, qua trao đổi, tranh luận một cách dân chủ, giúp học sinh mạnh
dạn trong nói năng, trau dồi ngôn ngữ và đặc biệt các từ ngữ có tính chất toán học chính
xác, tường minh góp phần phát triển tư duy cho học sinh.
Chẳng hạn: Khi giao việc cá nhận về tự đặt ra bài toán liên quan yếu tố hình học và
các em tự giải, sau đó đưa ra tranh luận trong nhóm: Em tự nghĩ ra đồ vật (vườn rau,
vườn cây, sân nhà em,….có hình dạng hình tứ giác. Em tự ước lượng độ dài mỗi cạnh.
Hãy tính chu vi mảnh vườn đó?
2.2.5 Chú trọng rèn kỹ năng trình bày bài toán trước nhóm và trước toàn lớp:
- Rèn kỹ năng trình bày cẩn thận vào vở làm bài tập:


12


Đối với cách rèn này, yêu cầu bài làm đưa ra cho tất cả học sinh ở mức tối thiểu để
tất cả học sinh trong lớp hoàn thành bài giải trong một đơn vị thời gian tương ứng và
bảo đảm đạt các yêu cầu: Làm được bài toán, trình bày gọn gàng, sạch sẽ, không cẩu
thả.
- Rèn kỹ năng tư duy nhanh, làm toán nhanh:
Những bài toán được đưa ra chủ yếu ở phần khởi động và phần trò chơi học tập.
Do đó yêu cầu học sinh có phản ứng nhanh và có tư duy tốt khi trả lời. Phần này không
yêu cầu học sinh ghi chép nhiều mà chỉ sử dụng vở nháp hoặc không để có thể đưa ra
kết quả nhanh. Với cách rèn luyện này tạo ra ở học sinh sự phản ứng nhanh kèm theo tư
duy toán nhanh; đồng thời tạo không khí thi đua học toán sôi nổi, làm bước đệm cho
việc tính nhẩm sau này của học sinh sau này.
- Rèn kỹ năng tập trung, mạnh dạn, tự tin trước tập thể:
GV cũng có thể thay đổi bài toán bằng ký hiệu hoặc tóm tắt ở bảng phụ, hoặc là
đọc thật nhỏ bài toán ứng dụng thực tế để học sinh cố gắng im lặng để lắng nghe thông
tin đề bài. Các bài toán dễ (mức độ 1 và 2) thì việc ưu tiên học sinh tiếp thu chậm, rụt rè
có thể tự làm bảng nhóm và trao cơ hội cho những học sinh này trình bày trước nhóm
và có thể trước lớp. Cách rèn luyện này giúp các em rụt rè sẽ tự tin, mạnh dạn và làm
toán nhanh nhẹn hơn.
- Rèn năng lực hợp tác nhóm để giải quyết vấn đề: Để giúp học sinh hợp tác tốt,
giáo viên giao nhiệm vụ và giải thích rõ ràng mục tiêu làm việc cho từng nhóm để mỗi
thành viên trong nhóm hiểu được công việc cần phải làm đưa ra những câu hỏi, ý kiến
để giải quyết nhiệm vụ học tập, biết kiểm tra kết quả lẫn nhau và đi đến thống nhất câu
trả lời. Việc hợp tác thành công hay không phụ thuộc vào tinh thần hợp tác của từng
thành viên và sự chỉ đạo của nhóm trưởng.
2.2.6. Rèn kỹ năng trình bày bài toán thông qua hướng dẫn học sinh tự làm
phiếu học tập để trưng bày theo nhóm trước lớp.
Để học sinh làm được phiếu học tập thì điều không thể thiếu đó là hướng dẫn học

sinh tự đọc các bài học theo dạng ôn tập. Các em sẽ tự viết tên bài toán lên tờ giấy có
dòng kẻ ô ly số bài tùy thuộc đề chuẩn bị cho các giờ học của các tiết ôn tập. Từ đó các
13


em tự trang trí phiếu các em tự làm ở nhà để có thể tự giải trong giờ học và trưng bày
trước nhóm, lớp để có thể đưa vào góc sản phẩm học tập của nhóm lớp các em. Đây có
thể xem là giải pháp rất tốt về rèn ý thức tự chuẩn bị bài và năng lực trình batf bài học
của học sinh. Cũng từ đây học sinh cảm thấy học môn toán rất thú vị.
2.2.7. Khích lệ học sinh tạo hứng thú khi học tập.
Đặc điểm chung của học sinh tiểu học là thích được khen hơn chê, hạn chế chê các
em trong học tập, rèn luyện . Tuy nhiên, nếu ta không biết kết hợp tâm lý từng học sinh
mà cứ quá khen sẽ không có tác dụng kích thích. Đối với những em chậm tiến bộ,
thường rụt rè, tự ti, vì vậy tôi luôn luôn chú ý nhắc nhở, gọi các em trả lời hoặc lên bảng
làm bài. Chỉ cần các em có một “tiến bộ nhỏ” là tôi tuyên dương ngay, để từ đó các em
sẽ cố gắng tiến bộ và mạnh dạn, tự tin hơn. Đối với những em học khá, giỏi phải có
những biểu hiện vượt bậc, có tiến bộ rõ rệt tôi mới khen.Chính sự khen, chêđúng lúc,
kịp thời và đúng đối tượng học sinh trong lớp đã có tác dụng khích lệ học sinh trong
học tâp.
Ngoài ra, việc áp dụng các trò chơi học tập giữa các tiết học cũng là một yếu tố
không kém phần quan trọng giúp học sinh có niềm hăng say trong học tập, mong muốn
nhanh đến giờ học và tiếp thu kiến thức nhanh hơn, chắc hơn. Vì chúng ta đều biết học
sinh tiểu học nói chung, học sinh lớp hai nói riêng có trí thông minh khá nhạy bén, sắc
sảo, cóóc tưởng tượng phong phú. đó là tiền đề tốt cho việc phát triển tư duy toán học
nhưng các em cũng rất dễ bị phân tán, rối trí nếu bịáp đặt, căng thẳng hay quá tải. Hơn
nữa cơ thể của các em còn đang trong thời kì phát triển hay nói cụ thể hơn là các hệ cơ
quan còn chưa hoàn thiện vì thế sức dẻo dai của cơ thể còn thấp nên trẻ không thể ngồi
lâu trong giờ học cũng như làm một việc gìđó trong một thời gian dài. Vì vậy muốn giờ
học có hiệu quả thìđòi hỏi người giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học tức là
kiểu dạy học:“ Lấy học sinh làm trung tâm”, hướng tập trung vào học sinh, trên cơ sở

hoạt động của các em.
2.3: Kết quả đạt được:
Sau khi áp dụng đề tài, qua thực tế việc làm bài của học sinh, tôi nhận thấy kết quả việc giải toán
có lời văn và các năng lực của học sinh lớp 2C có 19 học sinh như sau:
14


Nội dung khảo sát

Đầu năm học 2019 - 2020

Tóm tắt bài toán
Giải và trình bày được
Có lời giải hay,sáng tạo
hơn, ngắn gọn hơn
Năng lực tự học, tự
khám phá, giải quyết
vấn đề(T).
Năng lực hợp tác(T)

Cuối kì I năm học
2019-2020

SL
5
7

%
26,3
36,8


SL
12
14

%
63,2
73,7

2

10,5

8

42,1

6

31,6

12

63,2

7

36,8

13


68,4

So sánh bảng khảo sát ta thấy được kết quả đáng ghi nhận của đề tài. Với sự nổ
lực cố gắng của giáo viên và ý thức vươn lên trong học tập của các em, kết quả học tập
phần giải toán có lời văn của các em đã có chuyển biến tích cực rõ rệt. Các em biết chủ
động tự đọc bài toán không đợi giáo viên nhắc. Sau bài làm các em thực sự tự trao đổi
bài với bạn cùng nhóm, được tự làm ra các phiếu học toán và trình bày bài toán chủ
động, trưng bày bài toán để có thể tham gia nhận xét bài học các nhóm, trong nhóm
giúp học sinh phát triển năng lực và phẩm chất theo tinh thần đổi mới của Thông tư 22.
PHẦN III: KẾT LUẬN:
3.1 Ý nghĩa của đề tài:
Đề tài đã thực sự làm cho bản thân thấy rõ sau khi áp dụng các giải pháp nêu trên
đã thực sự đem lại cho học sinh thêm niềm say mê, yêu thích học toán. Học sinh nắm
vững kiến thức và kỹ năng thực hành, vận dụng các dạng toán giải có lời văn từ cách tự
đọc bài toán, tóm tắt bài toán, tìm lời giải và đáp số của bài toán yêu cầu. Cũng từ đây,
học sinh càng đọc tốt và nhanh hơn, hiểu kỹ hơn ngôn ngữ tiếng Việt nói chung, trong
đó có ngôn ngữ Toán học. Các năng lực toán học được phát triển một cách toàn diện,
đồng đều.
Để việc dạy học giải toán có lời văn đạt hiệu quả, theo tôi trước hết người giáo
viên cần phải thực sự đặt cái tâm vào công việc giảng dạy của mình bởi vì có tài mà
không có tâm cũng trở nên vô dụng, bởi thế mà bản thân tôi trong giảng dạy ngoài kiến
15


thức ra phải luôn luôn yêu nghề, yêu học sinh, luôn tự học tự rèn và học hỏi kinh
nghiệm của đồng nghiệp để nâng cao năng lực về chuyên môn nhằm tìm ra được
phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học sinh.
Nắm rõ đặc điểm của từng đối tượng để có biện pháp và phương pháp dạy học
thích hợp, đồng thời chú trọng rèn các kĩ năng cần thiết cho học sinh đặc biệt là kĩ năng

sống. Cách dạy học hướng phát triển năng lực giúp các em có điều kiện phát huy hết
khả năng của mình trong việc bàn bạc, trao đổi tìm ra cách giải quyết để đi đến kết quả.
Trong dạy học toán luôn có các trò chơi khởi động nhằm giúp cho các em khắc sâu
kiến thức, gây hứng thú học tập đem lại kết quả cao.
3.2 Kiến nghị đề xuất
* Với Phòng GD và ĐT: Duy trì thường xuyên các cụm sinh hoạt chuyên môn, chuyên
đề về đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh.
* Với gia đình, địa phương : quan tâm hơn nữa đến việc học tập của con em mình, nhất
là phần hoạt động ứng dụng, trải nghiệm thực tế.
* Với giáo viên: Dạy học phân loại đối tượng, quan tâm đến tất cả các đối tượng đặc
biệt là học sinh trung bình, yếu thường xuyên phụ đạo. Giáo viên luôn đầu tư, nghiên
cứu về đổi mới phương pháp dạy học rèn luyện kĩ năng dạy học theo hướng tiếp cận
học sinh và phát triển năng lực học sinh.
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ về cách“Dạy học về giải toán có lời văn ở lớp
2 theo hướng tiếp cận và phát triển năng lực học sinh”. Những vấn đề mà tôi đã nêu ở
trên chắc chắn không tránh khỏi hạn chế. Bởi mỗi cá nhân, mỗi điều kiện môi trường
học tập đều có những giải pháp riêng. Tuy nhiên, đó là những kinh nghiệm quý báu của
bản thân đã đúc rút được trong quá trình giảng dạy để từng bước khắc phục hạn chế,
nâng cao hiệu quả giảng dạy mà bản thân đảm nhiệm. Tôi rất mong nhận được sự đóng
góp ý kiến của các cấp lãnh đạo,của các bạn đồng nghiệp để giải pháp này được hoàn
thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!

16


17


18




×