Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

SKKN góp phần giáo dục tình cảm học sinh qua giảng dạy ca dao trong chương trình ngữ văn 7

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (689.77 KB, 17 trang )

GÓP PHẦN GIÁO DỤC TÌNH CẢM HỌC SINH QUA GIẢNG DẠY CA DAO TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 7

1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Năm tháng qua đi với mọi nỗ lực và tham vọng, Tần Thủy Hoàng không thể nào ngăn
cản dấu ấn của thời gian trên Vạn Lý Trường Thành. Gạch đã mục, cỏ hoang đã mọc,
trường thành kia chỉ còn là “vang bóng của một thời huy hoàng lộng lẫy”. Trong dòng chảy
thời gian hàng trăm, hàng ngàn năm có bao sự kiện, bao chuyện đời bị phủ mờ, lãng quên.
Thời gian có thể phá hủy tất cả nhưng dường như có một nơi thời gian không bao giờ bước
tới. Nơi ấy là “trường thành” trong tâm khảm người Việt Nam. Nhất là những câu nói dân
gian từ ngàn xưa vọng lại vẫn đậu mãi trong lòng mỗi người con đất Việt, gợi nhớ gợi
thương. Điều đó thể hiện rõ hơn cả qua mảng ca dao dân ca trong chương trình Ngữ văn
lớp 7.
Xã hội biến động không ngừng, lòng người luôn đổi thay, đến một phút giây nào đó
trước những trắc trở, tình huống gai góc trong cuộc sống, những vấn đề cần giải đáp thì bất
chợt nhứng áng ca dao ấy lại ùa về trong ta làm sáng lên bao ý tưởng đẹp, bao gợi ý hay. Vì
sao ca dao lại có sức hút lạ kỳ như vậy? Phải chăng thơ ca trữ tình dân gian được sáng tác,
nuôi dưỡng, lưu truyền bởi tập thể nhân dân lao động, những người chân lấm tay bùn, một
đời “bán mặt cho đất bán lưng cho trời”. Nhân vật trữ tình trong thơ ca dân gian là những
con người bình dị, những người dân lao động chân chính. Qua con mắt suy nghĩ và trái tim
của họ, cuộc sống được phản ánh một cách chân thật và đa dạng. Vì thế các nhà nghiên cứu
đã từng đánh giá rất cao giá trị nhiều mặt của thơ ca dân gian “là tiếng tơ đàn muôn điệu
của tâm hồn quần chúng”.
Nằm trong dòng văn học dân gian, ca dao như dòng suối đậm đà hồn thiêng dân tộc,
ngọt ngào hương sắc đồng quê. Xuân Diệu trong lời bạt cho sách dân ca miền Nam Trung
Bộ có viết “Những câu ca dao từ Nam chí Bắc như có đất, như có nước, như có cát, như có
biển, như có mồ hôi người, chúng ta sẽ cảm thấy dần dần tụ lại nơi khoé mắt một giọt ướt
sáng ngời. Đó là một giọt tinh tuý chắt ra từ ruột già của non sông”.
Những bài ca dao là dòng sữa ngọt lành nuôi dưỡng tâm hồn và bồi đắp năng khiếu thẩm
mỹ cho thế hệ trẻ. Là sáng tác của quần chúng nhân dân, những bài ca dao có tác dụng giáo
dục và giáo dưỡng to lớn đối với các thế hệ học sinh phổ thông. Ca dao đem lại cho ta


những hiểu biết phong phú và đa dạng về cuộc sống của nhân dân qua các thời đại. Đó là
những kinh nghiệm sản xuất, không tìm đến với ca dao - Những tác phẩm nghệ thuật của
cha ông được lưu truyền qua trường kỳ lịch sử, như cuộc trường chinh vạn dặm. Ca dao có
tác dụng giáo dục nhiều mặt nhưng chủ yếu và cốt lõi nhất là “bối đắp tâm hồn dân tộc cho
thế hệ trẻ”. Bởi vì ca dao cùng với văn học dân gian chính là hồn dân tộc, là bản sắc Việt
Nam. Ca dao chính là nơi thể hiện những cung bậc tình cảm của người Việt Nam. Các bài
ca dao của nhân dân ta tràn đầy lòng nhân ái và lấp lánh ánh sáng của trí tuệ. Với tiềm
năng và sức mạnh đó, ca dao sẽ góp phần tích cực vào việc bồi đắp tâm hồn dân tộc cho
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------1


GÓP PHẦN GIÁO DỤC TÌNH CẢM HỌC SINH QUA GIẢNG DẠY CA DAO TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 7

thế hệ trẻ, giúp họ không tự đánh mất mình mà phát huy đầy đủ năng lực, nội sinh của dân
tộc trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Phát huy được sức mạnh đó
trong giảng dạy ca dao ở nhà trường THCS là mong muốn của các nhà Sư phạm và các
thầy, cô giáo đang trực tiếp giảng dạy, các bậc phụ huynh học sinh.
Dạy học tốt phần ca dao sẽ không chỉ giúp học sinh hiểu về đời sống tình cảm phong
phú, đẹp đẽ của ông cha mà qua đó còn giáo dục cho học sinh tình cảm, thái độ đúng đắn
về gia đình, quê hương, đất nước, có cách nhìn nhận, phê phán về cái xấu, tốt trong xã hội.
học tốt ca dao học sinh sẽ có một tâm hồn phong phú, có lời ăn tiếng nói trong sáng, tế nhị,
sâu sắc.
* Điểm mới của đề tài
Đã có nhiều đề tài viết về phương pháp giảng dạy ca dao, chủ yếu thiên về nội dung và
thi pháp ca dao. Làm thế nào để có thể giúp học sinh tiếp cận những bài ca dao một cách
hiệu quả nhất, đó là mong muốn của mỗi giáo viên trực tiếp đứng lớp như tôi. Bản thân tôi
qua nhiều năm giảng dạy ngữ văn 7 đã phát hiện ra rằng giáo dục thái độ tình cảm cho học
sinh qua ca dao cũng không kém phần quan trọng trong mục tiêu dạy học. Vì thế tôi tiếp
tục nghiên cứu đề tài “Góp phần giáo dục tình cảm học sinh qua giảng dạy ca dao trong
chương trình ngữ văn 7”. Với mong muốn đưa luồng gió mới được đóng góp một phần

kinh nghiệm cùng với đồng nghiệp nhằm bồi đắp tình cảm, giáo dục kỹ năng sống về tình
yêu gia đình và tình yêu quê hương đất nước cho học sinh.
1.2. Phạm vi của đề tài
Trong chương trình ngữ văn lớp 7, phần cao dao chiếm một vị trí khá quan trọng, nội
dung đa dạng, phong phú như những câu hát than thân, những câu hát về tình cảm gia đình,
những câu hát về tình yêu quê hương đất nước con người, những câu hát châm biếm ...
Song điều kiện thời gian có hạn, với đề tài này tôi chỉ nghiên cứu trong phạm vi nội dung
Những câu hát về tình cảm gia đình và những câu hát về tình yêu quê hương đất nước con
người.
Sáng kiến kinh nghiệm được áp dụng nghiên cứu thực hiện tại lớp 7A, 7B trường THCS
nơi tôi đang giảng dạy.

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------2


GÓP PHẦN GIÁO DỤC TÌNH CẢM HỌC SINH QUA GIẢNG DẠY CA DAO TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 7

2. NỘI DUNG
2.1. Thực trạng trong việc dạy và học văn học dân gian ở lớp 7
2.1.1. Về phía người dạy
Một bộ phận giáo viên hiện nay vẫn dạy ca dao với tiềm thức là văn học viết, không đặt
nó vào vốn văn học dân gian trữ tình truyền thống để khai thác, tiếp cận.
Mỗi bài ca dao thường có nội dung và nghệ thuật lại đặt trong một chùm ca dao được
khai thác trong một tiết học, bởi vậy giáo viên thường bị thiếu thời gian để khai thác sâu
sắc các bài ca dao.
Phổ biến nhất là cách “diễn nôm ca dao”. Với cách này, người dạy nói lại nội dung trực
tiếp của ca dao. Bằng cách giảng này thường không đem lại hào hứng học tập cho học sinh
vì nội dung giảng không có gì mới mẻ.
Có người lại phức tạp hóa sự giản dị của ca dao, lôi cuốn học sinh bằng những lời lẽ
bóng bẩy, những thuật ngữ chuyên môn khiến học sinh không có những cảm xúc thực sự

cần thiết, xa rời trọng tâm.
Có người lấy ca dao làm điểm xuất phát để từ đó liên hệ, liên tưởng dẫn dắt học sinh
sang những câu thơ trong tác phẩm văn học theo sở trường, cảm hứng tự do của mỗi giáo
viên. Cách này lôi cuốn cả thầy và trò, có lúc quên cả giờ giấc nhưng đích cuối cùng học
sinh không cảm nhận được cái hay của bài ca dao.
Tôi thiết nghĩ phần nhiều giáo viên chú trọng đến khai thác nội dung, nghệ thuật của bài
ca dao mà quên mất việc giáo dục tình cảm yêu thương, kính trọng ông bà, cha mẹ, tình
anh em, lòng tự hào về quê hương đất nước, để từ đó giúp học sinh biết liên hệ và có
những rung cảm thực sự khi đến với ca dao.
2.1.2. Về phía người học
Khi tìm hiểu cụ thể từng đối tượng học sinh chúng tôi thấy đa số học sinh chưa yêu thích
môn văn, hiểu tác phẩm văn học không sâu sắc.
Tâm hồn khô khan, thờ ơ lạnh nhạt với mọi người xung quanh, các em ít quan tâm đến
người khác, kể cả người thân.

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------3


GÓP PHẦN GIÁO DỤC TÌNH CẢM HỌC SINH QUA GIẢNG DẠY CA DAO TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 7

Không vâng lời bố mẹ, ham thích trò chơi điện tử
Các em không muốn hòa mình vào thiên nhiên, khép mình trước xu thế hòa nhập, không
ham thích khám phá, tìm hiểu danh thắng, di tích lịch sử văn hóa của quê hương, đất nước.
Kỹ năng diễn đạt còn vụng, chưa thuộc nhiều ca dao.
Điều kiện học tập còn nhiều hạn chế do hoàn cảnh gia đình còn vất vả, khó khăn.
Dẫu biết rằng “có bột mới gột nên hồ” nên ngay từ khi nhận lớp tôi đã phân loại đối
tượng học sinh. Kết quả khảo sát về chất lượng và yêu thích học tập môn Văn vào đầu năm
như sau:

a. Học sinh yêu thích môn học

Yếu thích: 25%

Bình thường: 33,21%

Không thích: 41,79%

b. Kết quả khảo sát chất lượng phần ca dao:
Kết quả
TT Lớp
Giỏi
Khá
TB
Yếu
số SL %
SL
%
SL
%
SL
%
1 7A 38 01 2,6 11 28,9 17 44,7
09
23,7
2 7B 39 02 5,1 10 25,6 19 48,7
08
20,5
Tổng
77 03 3,9 21 27,3 36 46,8
17
22,1

Qua khảo sát tôi thấy phần ca dao các em cũng đã được học ở chương trình tiểu học, nhưng


mới dừng lại ở mức độ làm quen.
Từ việc khảo sát đó tôi đã vạch ra kế hoạch:
Yêu cầu học sinh phải nắm chắc nội dung, ý nghĩa và nghệ thuật của từng bài ca dao.
Hiểu được tâm tư, tình cảm và những nguyện vọng của người dân gửi gắm trong từng
bài ca dao.
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------4


GÓP PHẦN GIÁO DỤC TÌNH CẢM HỌC SINH QUA GIẢNG DẠY CA DAO TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 7

Thấy được vẻ đẹp về tâm hồn, của người dân qua nghệ thuật "Tứ " của các bài ca dao.
Từ đó các em hiểu và cảm nhận được tình yêu quê hương đất nước, con người Việt Nam,
biết tự hào về truyền thống của nhân dân. Biết kính trọng cha mẹ, ông, bà, tổ tiên, thầy cô,
biết yêu thương bạn bè. Biết cảm thông chia sẽ với những số phận bất hạnh. Chọn cách
ứng xử có tình, có nghĩa.
Yêu cầu cao hơn, các em biết sưu tầm theo chủ đề, vận dụng, tập sáng tác ca dao theo
thể thơ đã được học, từ đó bộc lộ tình cảm của mình.
2.2. Giải pháp
2.2.1. Tạo hứng thú học tập cho học sinh
Để giờ dạy ca dao đạt được hiệu quả, trước hết người giáo viên phải tạo được hứng thú
học tập cho học sinh, cuốn hút các em vào giờ học, để từ đó các em yêu thích môn Văn
hơn.
Ca dao - dân ca cũng như tác phẩm văn học dân gian khác, nó là những sáng tác nghệ
thuật truyền miệng của nhân dân. Ca dao là những áng thơ ca trữ tình diễn tả đời sống, tình
cảm, tâm hồn của nhân dân. Ca dao là người bạn thân thuộc với mỗi người trong suốt cuộc
đời. Khi chào đời được nghe những lời hát ru à ơi của mẹ, của bà, để khi lớn lên lại gửi
gắm tình cảm của mình qua lời ca, các em cảm nhận được những tâm hồn tình cảm của

người dân Việt. Trong ca dao, những cảm xúc, những suy nghĩ và tình cảm được biểu hiện
đều gắn liền với những cảnh ngộ sống, đều do hoàn cảnh, những cảnh ngộ đời sống đó tạo
ra, gợi lên. Vì vậy khi giảng dạy phần này với từng bài ca dao cụ thể, tôi đã cố gắng gợi ra
đưa các em vào từng hoàn cảnh, từng lời ca của mỗi bài.
Qua mỗi bài tôi đã phát huy ưu thế của ca dao bằng cách tạo tâm thế cho giờ học qua
giọng đọc diễn cảm, có thể hát dân ca để mở rộng thêm vốn hiểu biết của học sinh.
2.2.2. Xây dựng hệ thống câu hỏi
Đặc trưng trong phân môn Văn là đi từ văn đến ý, từ phân tích đến giảng bình. Giáo viên
phải xác định được hệ thống câu hỏi phù hợp với đặc trưng thể loại. Như chúng ta đã biết
phần lời của những câu hát dân gian thiên về tình cảm và biểu hiện lòng người, thường đan
xen ở các cách thể hiện: phú, tỉ hoặc hứng. Nó sống được đến ngày nay là nhờ dân ca.
Nhưng khi đưa vào nhà trường đã được văn bản hoá và vì vậy nó cũng được nghiên cứu
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------5


GÓP PHẦN GIÁO DỤC TÌNH CẢM HỌC SINH QUA GIẢNG DẠY CA DAO TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 7

như một tác phẩm nghệ thuật. Nhưng trong quá trình dạy học nó cũng cần được làm sống
dậy môi trường dân gian ở dạng tinh, đơn giản, đủ để kích thích cảm thụ. Vì ca dao thuộc
thể loại trữ tình dân gian cho nên trong quá trình phân tích giáo viên cần tăng cường câu
hỏi cảm xúc, hình dung tưởng tượng và các câu hỏi về chi tiết nghệ thuật. Tạo điều kiện
cho các em chóng thuộc và tiếp nhận những cách thể hiện độc đáo của ca dao. Ca dao
thường nghiêng về vẻ đẹp trang trọng trong đời thường con người. Câu hỏi cảm xúc nghệ
thuật cần cố gắng huy động với một khối lượng đáng kể.
Hệ thống câu hỏi cảm xúc là hệ thống câu hỏi tìm ra phản ứng trực giác của người đọc
bị tác động bởi nội dung và hình thức của tác phẩm ở mức độ ấn tượng ban đầu. Nó đi sâu
vào cảm xúc thẩm mĩ. Trả lời hệ thống câu hỏi này, người đọc xác định được cảm xúc của
mình khi đọc xong tác phẩm, thể hiện ấn tượng ban đầu của mình trước hình thức nghệ
thuật hay nội dung trực tiếp có tính chất vật chất của tác phẩm. Ngay trong hệ thống nhỏ
thứ nhất của loại câu hỏi cảm xúc đó cũng luôn xét đến sự chi phối của thể loại và lứa tuổi

để có những câu hỏi vừa sức và không bị "nhàm sáo", luôn luôn bám sát văn bản. và rõ
ràng, để có được câu hỏi thoả mãn yêu cầu đó người dạy cũng như người đọc không thể
hời hợt với tác phẩm ngay từ phút đầu.
Ví dụ:
Hỏi: Kết cấu câu tám "Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu" có gì đáng chú ý?
Trả lời: Có kết cấu "Bao nhiêu … bấy nhiêu" là cách nói tăng cấp thường gặp trong ca
dao.
Hỏi: Qua nhạc điệu, vần điệu của bài ca "Công cha như núi ngất trời" đã để lại cho em
cảm giác gì?
Trả lời: Bài ca mang âm điệu ngọt ngào, du dương làm cho em cảm thấy lời nhắc nhở
nhẹ nhàng mà sâu lắng.
Hỏi: Hình thức thể loại của bài ca "Ở đâu năm cửa nàng ơi" có gì đặc biệt?
Trả lời: Đây là thể loại đối đáp thường gặp trong ca dao trữ tình giao duyên cổ truyền
Việt Nam.
Hỏi: Các điệp ngữ, đảo ngữ : Đứng bên ni đồng, đứng bên tê đồng, mênh mông bát ngát,
bát ngát mênh mông gợi cho người đọc, người nghe cảm giác và ấn tượng gì?
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------6


GÓP PHẦN GIÁO DỤC TÌNH CẢM HỌC SINH QUA GIẢNG DẠY CA DAO TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 7

Trả lời: Gợi cho chúng ta như đang đứng trước một cánh đồng rộng, nhìn hút tầm mắt,
từ bên nào nhìn ra đều thấy sự rộng lớn của cánh đồng lúa đang thì con gái.
Những hình tượng có nội dung phong phú, có màu sắc xúc cảm là chỗ dựa tốt để nắm
vững bài học … Vai trò của giáo viên trong việc giáo dục năng lực tưởng tượng của học
sinh là rất quan trọng, khéo léo dùng các biện pháp và phương pháp kích thích học sinh tạo
nên các hình ảnh của những cái chưa bao giờ thấy "tránh chủ quan và bịa đặt".
Hệ thống câu hỏi tích hợp, rèn luyện kỹ năng sống
Tình cảm gia đình là một tình cảm thân quen thể hiện thường xuyên trong quan hệ của
học sinh với cha mẹ, ông bà, anh em, cô chú, … Các em thường xuyên sống trong tình cảm

đó, thấm thía hạnh phúc của tình cảm gia đình. Vì vậy liên hệ với các quan hệ tốt hay chưa
tốt của học sinh với gia đình là điều cần thiết. Cũng có thể bằng cách để cho học sinh kể về
gia đình mình, tình cảm của mình đối với gia đình mình. Hoặc từ thực tế các lỗi của học
sinh đối với gia đình như không vâng lời cha mẹ, không kính trọng ông bà, anh em không
thương yêu nhau.
Ví dụ, khi dạy bài

“Công cha như núi ngất trời

Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông
Núi cao biển rộng mênh mông
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!”.
Hỏi: Câu nào trong bài ca dao nói lên lời khuyên tha thiết?
Trả lời: Hai câu cuối là lời nhắn nhủ ân tình thiết tha. Hai tiếng “con ơi” làm cho lời ru
trở nên ngọt ngào, thấm thía. Sử dụng từ Hán Việt “Cù lao chín chữ” để nói công lao sinh
thành, nuôi dưỡng, dạy bảo con cái vất vả khó nhọc nhiều bề. Do đó các em phải “ghi
lòng” tạc dạ công ơn to lớn của cha mẹ, sống có hiếu làm tròn bổn phận đạo làm con …
Hỏi: Trong cuộc sống gia đình có bao giờ em lỡ lời với cha mẹ, làm trái với lời khuyên
của bài ca dao không?
Trả lời: Học sinh kể một sự việc đã phạm lỗi với cha mẹ. Qua câu chuyện của học sinh
kể, giáo viên tích hợp giáo dục kỹ năng sống, phải biết quan tâm giúp đỡ cha mẹ từ những
việc nhỏ như quét nhà, nấu cơm, rửa bát, … Chính những việc làm đó, góp phần giữ trọn
đạo làm con …
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------7


GÓP PHẦN GIÁO DỤC TÌNH CẢM HỌC SINH QUA GIẢNG DẠY CA DAO TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 7

Ví dụ khác, khi dạy bài


“Anh em nào phải người xa,

Cùng chung bác mẹ, một nhà cùng thân.
Yêu nhau như thể tay chân
Anh em hòa thuận hai thân vui vầy”.
Hỏi: So sánh tình cảm anh em với tay chân khẳng định được điều gì?
Trả lời: Con người hoàn chỉnh không thể thiếu tay hoặc chân. Cũng như anh em ruột
thịt, phải biết yêu thương, gắn bó, đùm bọc, nhường nhịn nhau. Đó là tình cảm huyết thống
gia đình.
Hỏi: Qua câu ca dao giúp em có cách cư xử đối với anh chị em của mình như thế nào?
Trả lời: Học sinh tự nói lên suy nghĩ của mình như hòa thuận, đoàn kết, thương yêu, chia
sẻ, …
Biết liên hệ với cuộc sống, chúng ta sẽ giúp học sinh tiếp cận được tác phẩm dễ dàng
hơn, đồng thời các em sẽ được hiểu về những trạng thái tình cảm khác nhau. Trên cơ sở đó
học sinh được bồi dưỡng những tình cảm cao đẹp có tính nhân văn cao như lòng yêu
thương con người, biết quan tâm người khác, lòng vị tha và tinh thần đoàn kết.
Chương trình giảng dạy ca dao lớp 7 không chỉ giáo dục tình cảm gia đình mà còn chú
trọng giáo dục lòng yêu quê hương đất nước.
Ví dụ, khi dạy bài ca dao

- Ở đâu năm cửa nàng ơi

Sông nào sáu khúc nước chảy xuôi một dòng?

- Thành Hà Nội năm cửa chàng ơi
Sông Lục Đầu sáu khúc nước chảy xuôi một dòng.

Những câu hát về tình yêu quê hương đất nước con người thường gợi nhiều hơn tả, hay
nhắc đến tên núi, tên sông, tên vùng đất với những nét về cảnh trí, lịch sử, văn hóa của
từng địa danh. Đằng sau những lời đối đáp, lời mời, lời nhắn gửi là tình yêu chân chất, tinh

tế và lòng tự hào đối với con người và quê hương đất nước Việt Nam. Khi dạy bài này, giáo
viên nên sử dụng tranh ảnh và bản đồ để giúp học sinh thấy được vẻ đẹp của các danh lam
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------8


GÓP PHẦN GIÁO DỤC TÌNH CẢM HỌC SINH QUA GIẢNG DẠY CA DAO TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 7

thắng cảnh đất nước. Từ đó giáo dục thái độ trân trọng giữ gìn, bảo tồn những di sản văn
hóa của dân tộc đồng thời tích hợp giáo dục môi trường cho học sinh.

Đền Sòng

Cầu Thê Húc

Ta xét thêm ví dụ: Khi dạy bài dân ca về quê hương đất nước, con người (tiết 10)
Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng mênh mông bát ngát
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------9


GÓP PHẦN GIÁO DỤC TÌNH CẢM HỌC SINH QUA GIẢNG DẠY CA DAO TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 7

Đứng bên tê đồng ngó bên ni đồng bát ngát mênh mông.
Thân em như chẽn lúa đòng đòng
Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai ....
Hai câu thơ đầu học sinh dễ dàng nhận vẻ đẹp rộng lớn bao la, các cánh đồng lúa, đó là
vẻ đẹp “Cò bay mỏi cánh sao không thấy bờ” nhưng câu lục bát cuối.
Thân em như chẽn lúa đòng đòng
Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai.
Học sinh chưa hiểu được, vì một lẽ đơn giản: Xã hội ta ngày nay có sự bình đẳng, tự do
hôn nhân, không còn cảnh ép duyên như xưa nữa, hơn nữa các em mới là học sinh lớp 7,

tuổi còn nhỏ làm sao hiểu được"Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai" là nói về tương
lai- tương lai cuộc đời, tình yêu và hôn nhân. Vì vậy khi giảng bài này tôi đã giới thiệu cho
học sinh thấy cuộc sống của người phụ nữ trong xã hội cũ " Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy"
Nhiều cô gái đến ngày cưới mới biết mặt chồng. Chính vì thế đứng trước cảnh đồng lúa
đang làm đòng, rộng mênh mông, đẹp vẻ đẹp của ấm no, cô gái chạnh lòng nghĩ về số
phận, tương lai của mình.
Thân em như chẽn lúa đòng đòng
và hướng về tương lai.
Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai .
Tương lai được diễn tả bằng cụm từ: " Nắng hồng ban mai" một tương lai đẹp, một tình
yêu đẹp, hạnh phúc lứa đôi đang chờ đón. Đó là cái nhìn lạc quan của nhân dân ta nói
chung và người phụ nữ trong xã hội xưa nói riêng.
Hỏi: Qua bài ca dao em hiểu gì về số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến? Hãy
liên hệ với phụ nữ trong xã hội ngày nay?
Trả lời: Biết cảm thương sâu sắc cho số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Liên hệ với người phụ nữ ngày nay …
2.2.3. Luyện tập để giáo dục tình cảm gia đình tình yêu quê hương đất nước
Luyện tập là một khâu quan trọng trong quá trình giảng dạy môn Ngữ văn.
Khi tìm hiểu tác phẩm văn học thì phần luyện tập không có nghĩa là làm bài tập mà đây
là phần giúp học sinh nắm bắt tác phẩm sâu hơn cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Thông qua
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------10


GÓP PHẦN GIÁO DỤC TÌNH CẢM HỌC SINH QUA GIẢNG DẠY CA DAO TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 7

phần luyện tập: Đọc, hát, ca dao dân ca, học sinh có thể rung cảm trước những hình ảnh
đẹp, những câu ca dao hay, từ đó bày tỏ được những ý kiến đánh giá của mình về tác phẩm
một cách đầy đủ, chính xác hơn.
Tuy nhiên trong quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy đôi khi giáo viên chúng ta hay bỏ qua
phần này vì cho rằng phần này không quan trọng hoặc lướt qua do thiếu thời gian.

Những quan niệm đó hết sức sai lầm cần phải phê phán. Bởi thực tế giảng dạy đã cho ta
thấy rất rõ không có bộ môn khoa học nào là không có phần luyện tập, thực hành. Chỉ
thông qua thực hành luyện tập, học sinh mới nắm bắt bài học sâu sắc hơn. Với bộ môn
Ngữ văn, phần dạy ca dao dân ca thì khâu luyện tập lại càng quan trọng. Nếu chỉ đơn thuần
dạy cho các em hiểu nội dung và nghệ thuật của bài ca dao thì dễ rơi vào tình trạng
nhàm chán, bởi những bài ca dao có cùng chung chủ điểm thường giống nhau về nội dung
và nghệ thuật có những nét khái quát tương tự như nhau. Nhưng cũng vẫn là những bài ca
dao đó, khi các em đựơc cất lên bằng những làn điệu dân ca các miền khác nhau, thì nó trở
nên gần gũi, quen thuộc, dễ nhớ, dễ thuộc biết bao. Âm thanh của lời ca kết hợp với nền
nhạc dân gian đã giúp các em cảm thụ tác phẩm dân gian nhanh hơn, dễ dàng hơn trong
học tập. Đồng thời thông qua đó giáo viên đã rèn cho học sinh mạnh dạn hơn trong học tập,
giao tiếp, giúp các em bộc lộ những khả năng khác của bản thân như năng khiếu văn nghệ,
năng khiếu thuyết trình ...
Thông qua luyện tập, học sinh rèn luyện được kỹ năng cảm thụ văn bản, kỹ năng luyện
viết đoạn văn, bộc lộ tình cảm một cách chân thành, mộc mạc về gia đình và tình yêu quê
hương đất nước.
Ví dụ, khi học xong phần ca dao về quê hương đất nước con người học sinh luyện tập 35 phút theo yêu cầu viết một đoạn văn biểu cảm về quê hương mình. Các em phải biết chọn
nét đẹp về cảnh vật và con người để lại trong lòng ấn tượng sâu sắc.
2.2.4. Giáo dục tình cảm học sinh qua hoạt động ngoại khóa
Ngoại khoá là một trong những khâu thực hành khá quan trọng, bởi thông qua những
buổi ngoại khoá, giáo viên giúp học sinh cảm thụ văn học tốt hơn, đồng thời phát hiện,
bồi dưỡng năng khiếu, diễn xuất văn nghệ, giúp các em mạnh dạn hơn trong quá trình học
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------11


GÓP PHẦN GIÁO DỤC TÌNH CẢM HỌC SINH QUA GIẢNG DẠY CA DAO TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 7

tập. Hơn thế nữa thông qua buổi ngoại khoá học sinh thêm yêu hơn bộ môn Ngữ văn - vốn
là bộ môn mà các em thường ngại học bởi cho rằng nó trừu tượng dài dòng ...
Thực tế những buổi ngoại khoá văn học do tổ Văn đảm nhiệm trong nhiều năm qua đã

giúp tôi nhận thấy ngoại khoá văn học thực sự là một việc làm cần thiết. Những giọt nước
mắt đồng cảm với số phận của các nhân vật trong hoạt cảnh, những tiếng cười sảng khoái
trước những điệu nhảy vui nhộn và cả những tiếng vỗ tay theo nhịp múa rộn ràng của các
bạn trên sân trường, đã gieo vào lòng mỗi em học sinh những ấn tượng khó phai. Không
phải ngẫu nhiên mà sau những buổi ngoại khoá, không khí học tập của các em học sinh
trong trường lại nhộn nhịp hẳn lên.
Để tiến hành một buổi ngoại khoá văn học đạt hiệu quả tốt. Người giáo viên phải tung
ra những yêu cầu cụ thể cho học sinh. Bản thân giáo viên phải là người hướng dẫn, đạo
diễn giúp các em hát, múa theo đúng làn điệu dân ca các miền. Đặc biệt khâu lựa chọn
trang phục cũng hết sức quan trọng bởi nó giúp các em hiểu thêm về phong tục tập quán
của mỗi miền và cả giúp các em tự tin hơn, biểu diễn trên sân khấu góp phần đáng kể vào
thành công của buổi ngoại khóa.
Qua các hoạt động văn nghệ chào mừng các ngày lễ lớn, qua cuộc thi “Em yêu tiếng hát
dân ca” là cơ hội rất tốt để giáo dục tình cảm học sinh qua điệu hò, tiếng hát lời ca, đặc biệt
thêm yêu điệu hò khoan Lệ Thủy. Từ đó các em càng thêm yêu gia đình, yêu quê hương đất
nước của mình.
2.2.5. Sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy ca dao
Tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả giờ dạy theo yêu cầu đổi mới phương pháp dạy
học. Với định huống không “dạy chay, dạy suông” làm cho người học phát huy được tính
tích cực trong học tập. Vì vậy việc giáo dục tình cảm cho học sinh qua giảng dạy ca dao có
liên quan gì đến đồ dùng trực quan? Ông cha ta có câu “Trăm nghe không bằng mắt thấy”
nghĩa là giáo viên sử dụng đồ dùng dạy học nhằm minh họa cho nội dung bài giảng như
tranh ảnh, bản đồ, băng hình, đĩa hát, … Thông qua đồ dùng trực quan học sinh tiếp thu
được tri thức, thiết lập mối quan hệ giữa nội dung kiến thức với thực tế cuộc sống. Các em
biết vận dụng kiến thức vào cuộc sống, tạo hứng thú, gây xúc cảm, biết yêu thương, phân
biệt phải trái …
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------12


GÓP PHẦN GIÁO DỤC TÌNH CẢM HỌC SINH QUA GIẢNG DẠY CA DAO TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 7


Ví dụ, khi dạy văn bản “Những câu hát về tình cảm gia đình” trong quá trình khai thác
tôi đưa các bức tranh vào bài giảng.

Biết chăm sóc người thân khi đau ốm

Chị ngã em nâng
Qua hình ảnh giáo dục kỹ năng sống, biết thương yêu giúp đỡ người khác, phát huy
truyền thống đạo lí của người Việt Nam “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”,
“Bầu ơi thương lấy bí cùng
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------13


GÓP PHẦN GIÁO DỤC TÌNH CẢM HỌC SINH QUA GIẢNG DẠY CA DAO TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 7

Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”.
Hoặc cho các em xem băng hình câu chuyện “Vì sao hoa cúc có nhiều cánh nhỏ” của
một em bé với mong ước mẹ của mình nhanh khỏi bệnh và sống lâu.
2.2.6. Sưu tầm, sáng tác ca dao theo chủ đề tương tự
Học văn, bên cạnh việc cung cấp cho học sinh những kiến thức và kỹ năng cơ bản, một
trong những nội dung khá quan trọng là bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học, có những
rung cảm thẩm mỹ. Góp phần khám phá “cái chất” còn ẩn dấu, tìm cái riêng, cái độc đáo,
sáng tạo của học sinh.
Để nâng cao năng lực cảm thụ ca dao cho học sinh, trong quá trình giảng dạy tôi đã lồng
ghép các câu ca dao có nội dung tương tự để khắc sâu kiến thức.
Ví dụ, khi dạy bài ca dao “Công cha như núi ngất trời” giáo viên nên yêu cầu học sinh
tìm những bài, những câu ca dao có nội dung tương tự, như:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha

Cho tròn chữ hiếu, mới là đạo con.
Hoặc
Ơn cha nặng lắm ai ơi!
Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang.
Trong phần hướng dẫn về nhà, tôi luôn yêu cầu học sinh sưu tầm vào sổ tay văn học các
câu ca dao có nội dung tương tự theo từng chủ đề khác nhau. Để hiểu rõ hơn về các làn
điệu dân ca của quê hương, tôi đã đưa hò khoan Lệ Thủy vào phần liên hệ thực tế. Học
sinh dễ cảm thụ hơn, từ đó phát hiện năng khiếu mới giới thiệu vào câu lạc bộ hò khoan Lệ
Thủy của nhà trường.
Trong quá trình giảng dạy, tôi cũng đã hướng cho học sinh tập sáng tác ca dao theo chủ
đề, tập làm quen cách làm thơ lục bát và ôn luyện các thể thơ được học từ lớp 6. Giúp học
sinh bộc lộ tình cảm hết sức tự nhiên, tinh tế về quê hương, gia đình. Học sinh sẽ có “sản
phẩm tinh thần đầu tay” nhớ mãi. Trên cơ sở đó bồi dưỡng những tình cảm cao đẹp, đậm
tính nhân văn về tình yêu thương, lòng nhân ái, tự hào về quê hương đất nước và con người
Việt Nam.
Để kiểm nghiệm hiệu quả các giải pháp trên sau khi học phần ca dao về tình cảm gia
đình, tình yêu quê hương đất nước con người, tôi đã tiến hành kiểm tra kết quả học tập của
học sinh. Các em làm bài khá tốt, số lượng học sinh khá giỏi tăng. Sau đây là bảng đối
chứng về kết quả học tập của các em:

a. Học sinh yêu thích môn học
Yêu thích: 45%

Bình thường: 49,7%

Không thích: 5,3%

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------14



GÓP PHẦN GIÁO DỤC TÌNH CẢM HỌC SINH QUA GIẢNG DẠY CA DAO TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 7

b. Kết quả khảo sát chất lượng phần ca dao:
Kết quả
TT Lớp
Giỏi
Khá
TB
Yếu
số SL %
SL
%
SL
%
SL
%
1 7A 38 07 18,4 16 42,1 11 28,9
04
10,5
2 7B 39 08 20,5 16 41,0 13 33,3
02
5,1
Tổng
77 15 19,5 32 41,6 24 31,2
06
7,8
Qua nhiều năm dạy môn Ngữ văn lớp 7 tôi đã có thêm những kinh nghiệm mới để
hướng dẫn các em học sinh nắm được khái niệm, đặc điểm của ca dao - dân ca. Giáo viên
từng bước giúp các em có kĩ năng và chủ động trong việc thưởng thức tác phẩm văn
chương thuộc thể loại trữ tình dân gian. Nhiều em đã thực sự yêu thích môn Ngữ văn, có

em đã sưu tầm được khá nhiều bài ca dao theo chủ đề và chép vào sổ tay văn học.


3. KẾT LUẬN
3.1. Ý nghĩa, phạm vi áp dụng của đề tài
Trong cuộc sống có vô vàn điều ta phải phám phá, tìm hiểu. Cũng như trong ca dao vốn
từ thật phong phú mà tế nhị, sâu sắc. Hơn ai hết, người giáo viên đứng lớp phải biết chắt
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------15


GÓP PHẦN GIÁO DỤC TÌNH CẢM HỌC SINH QUA GIẢNG DẠY CA DAO TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 7

lọc, tìm tòi, khám phá, phải trải qua một quá trình chọn, mài dũa “người thợ kim hoàn” ấy
mới tìm được “những viên ngọc” sáng ngời. Từ đó ta càng hiểu sâu sắc của nhà thơ
Maiacopxki:
Phải tốn phí ngàn câu quặng chữ
Mới thu về một chữ mà thôi.
“Một chữ” ấy đem soi vào phần ca dao, theo tôi người giáo viên thành công nhất chính là
bồi đắp được tình cảm nhân văn cao đẹp trong tâm hồn mỗi học sinh chúng ta. Đúng như
lời dạy của Bác Hồ “Người giáo viên không chỉ dạy chữ mà còn dạy học sinh cách làm
người.
Ca dao đã đánh thức trong tâm hồn các em những tình cảm chân thành, biết ước mơ cao
đẹp, sống nhân hậu, có tình người, đặc biệt qua thực tế cuộc sống các biết vâng lời ông bà,
cha mẹ, thầy cô, chăm ngoan học giỏi, sống có trách nhiệm, biết quan tâm đến người khác.
Ca dao đã gieo vào lòng học sinh tình yêu quê hương đất nước, từ những điều giản dị của
cuộc sống xung quanh như xóm làng, cây đa, giếng nước, mái đình. Chính những bài ca
dao này phần nào đã minh hoạ cụ thể, sinh động cho kiểu văn bản biểu cảm giúp các em dễ
dàng tiếp nhận và thực hành kiểu văn bản này để bộc lộ tình cảm, cảm xúc của mình.
Giảng dạy ca dao - dân ca là một hoạt động hội tụ được nhiều kĩ năng và tri thức, trong
đó hạt nhân là kiến thức và kĩ năng xử lí những văn bản ca dao - dân ca (một thể loại trữ

tình dân gian) cụ thể với một kĩ năng tổ chức dạy học - kĩ năng sư phạm trước một đối
tượng là học sinh THCS. Tùy theo những bài ca dao - dân ca với đặc trưng thể loại và đề
tài của nó (bởi vì văn bản chỉ tồn tại trong thể loại), mà người giáo viên tổ chức cho học
sinh đọc tác phẩm, chỉ ra phương pháp phát hiện, sưu tập, lựa chọn, phân tích, sử dụng
sáng tạo như tư liệu nguồn để có thể khám phá ý nghĩa, giá trị của tác phẩm. Trên cơ sở đó
mà tích hợp giá trị của nhân cách. Sự tích hợp này sẽ vừa mang bản sắc cá nhân, vừa có sắc
thái cộng đồng - một điểm có thể trở nên rất mạnh, tuỳ thuộc vào tài năng, đức độ của
người giáo viên và môi trường sư phạm.
3.2. Những kiến nghị, đề xuất
Để giảng dạy ca dao có hiệu quả, giáo viên phải thực sự yêu nghề bài giảng mới có hồn,
mới truyền tải hết cái hay cái đẹp của ca dao, của cuộc sống đến với học sinh. Khi giảng
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------16


GÓP PHẦN GIÁO DỤC TÌNH CẢM HỌC SINH QUA GIẢNG DẠY CA DAO TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 7

dạy văn học dân gian cần xác định đúng đặc trưng thể loại, ý nghĩa của lời ca. Người dạy
cần bám sát chuẩn kiến thức kỹ năng, xác định được trọng tâm bài giảng. Tùy từng nội
dung mà giáo viên vận dụng phương pháp một cách linh hoạt đồng thời rèn cho các em kỹ
năng nghe, đọc, viết thành thạo; tích lũy vốn ca dao thường xuyên, với nội dung phong
phú, đa dạng. Cần chú trọng giáo dục tư tưởng tình cảm, hình thành nhân cách của người
học sinh trong thời đại mới.
Tóm lại, với nhận thức của mình trong một thời gian ngắn, tôi đã nỗ lực tìm tòi, suy nghĩ
vừa đúc rút kinh nghiệm qua quá trình dạy học của mình. Có lẽ, những quan điểm dạy học
dẫ nêu ra chưa hẳn là giải pháp tối ưu trong dạy học ca dao dân ca. Kính mong hội đồng
khoa học góp ý, giúp đỡ để đề tài này trở thành cẩm nang dạy học sâu rộng đến mọi người,
góp phần nâng cao chất lượng dạy học vừa thực hiện tốt mục tiêu đào tạo con người “vừa
hồng vừa chuyên”.
Xin chân thành cảm ơn!
Xác nhận của HĐKH nhà trường

CHỦ TỊCH

Hưng Thủy, ngày tháng 01 năm 2014
Người viết

Phan Thị Dự

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------17



×