Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

SKKN một số biện pháp giúp học sinh đóng vai xử lý tình huống trong tiết thực hành môn đạo đức lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (288.64 KB, 15 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH ĐÓNG VAI
XỬ LÍ TÌNH HUỐNG TRONG TIẾT THỰC HÀNH
MÔN ĐẠO ĐỨC LỚP 5

 

Họ và tên: Võ Thị Hồng Thái
Chức vụ: Giáo viên - TPT
Đơn vị công tác: Trường TH Thanh Thủy

Quảng Bình, tháng 11 năm 2016

1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt phản ánh theo các nguyên
tắc, yêu cầu, chuẩn mực, chi phối hành vi của con người trong các mối quan hệ
giữa con người và với tự nhiên. con người với xã hội và giữa con người với
nhau. Do đó môn đạo đức là một trong những môn học bắt buộc ở bậc tiểu học.
Nó là môn học cơ bản trang bị cho học sinh các chuẩn mực đạo đức, lối sống
lành mạnh và cách sống có lý tưởng. Ngoài ra nó còn giúp cho học sinh giải
quyết các sự việc vừa có lí vừa có tình. Từ đó giúp các em biết cách vận dụng
một cách linh hoạt các hành vi đạo đức, chuẩn mực đó vào cuộc sống để cư xử
với cha mẹ thầy cô và bạn bè.
Mục tiêu của môn Đạo Đức ở tiểu học nói chung và ở lớp 5 nói riêng là


giúp cho học sinh có những hiểu biết ban đầu hình thành chuẩn mực đạo đức
phù hợp với lứa tuổi và pháp luật, đồng thời nắm được ý nghĩa của việc thực
hiện những chuẩn mực hành vi đạo đức đó. Nó từng bước hình thành cho học
sinh kĩ năng nhận xét đánh giá hành vi của bản thân và những người xung
quanh, lựa chọn và thực hiện các chuẩn mực hành vi đạo đức trong các tình
huống cụ thể của cuộc sống. Không những thế nó còn hình thành thái độ tự
trọng tự tin, yêu thương quý trọng con người, yêu cái tốt không đồng tình với cái
xấu cái ác.
Môn Đạo đức có tác dụng giúp học sinh phát triển những hành vi cơ bản
như nội dung ý nghĩa một số chuẩn mực hành vi đạo đức và pháp luật phù hợp
với lứa tuổi học sinh lớp 5 trong quan hệ của các em với quê hương đất nước, tổ
tiên; với phụ nữ, cụ già, em nhỏ; với bạn bè và những người xung quanh; với
hành vi việc làm của bản thân; với tài nguyên thiên nhiên.
- Biết nhận xét, đánh giá các ý kiến, quan niệm, hành vi, việc làm có liên
quan đến các chuẩn mực đã học; biết lựa chọn cách ứng xử phù hợp trong các
tình huống và biết thực hiện các chuẩn mực đã học trong cuộc sống hằng ngày.
- Biết yêu quê hương, đất nước; biết ơn tổ tiên; kính trọng người già, yêu
thương em nhỏ, tôn trọng phụ nữ; đoàn kết hợp tác với bạn bè và những người

2


xung quanh; có ý thức vượt khó, vượt lên trong cuộc sống; có trách nhiệm về
hành động của mình; yêu hòa bình, có ý thức bảo vệ tài nguyên thiên nhiên,…
- Thông qua việc dạy - học môn Đạo đức các giá trị, chuẩn mực đạo đức
của xã hội được chuyển thành niềm tin, tình cảm, hành vi đạo đức của học sinh;
tạo cho học sinh được thực hành bài học trong thực tiễn cuộc sống.
Mục đích của môn Đạo đức là hình thành phẩm chất đạo đức cho học sinh.
Một phẩm chất đạo đức bao giờ cũng có 3 khía cạnh là: ý thức, thái độ, tình cảm
và hành vi, thói quen. Do đó, để đạt được mục đích đặt ra, dạy – học môn Đạo

đức phải giải quyết 3 nhiệm vụ tương ứng: hình thành ý thức, hình thành thái độ,
tình cảm và hình thành hành vi, thói quen.
- Giáo dục ý thức đạo đức:
Môn Đạo đức cung cấp cho học sinh hệ thống tri thức đạo đức sơ đẳng, trên
cơ sở đó bước đầu hình thành niềm tin đạo đức, hình thành năng lực, định hướng
các giá trị đạo đức cho học sinh tiểu học. Điều đó giúp các em phân biệt được
đúng – sai, tốt – xấu, thiện - ác … để từ đó theo cái đúng, cái tốt, tránh cái sai,
đấu tranh với những biểu hiện sai trái, xấu xa, độc ác.
- Giáo dục thái độ, tình cảm đạo đức:
Giúp học sinh có thái độ rõ ràng đối với các chuẩn mực đạo đức nói riêng, hình
thành và bồi dưỡng cho các em cảm xúc đạo đức, biến những chuẩn mực đạo
đức sơ giản thành động cơ bên trong thôi thúc các em hành động theo những
chuẩn mực đạo đức đã được quy định, trên cơ sở đó hình thành tình cảm đạo
đức trong sáng.
- Giáo dục hành vi, thói quen:
- Hình thành ở học sinh các hành vi tương ứng với ý thức thái độ tình cảm và từ
đó giúp các em có thói quen đạo đức bền vững.
Từ việc xác định vị trí, vai trò của môn đạo đức trong trường tiểu học, bản
thân tôi là một giáo viên dạy đạo đức, tôi nghĩ cần phải có một giải pháp cụ thể
để giúp học sinh thực hiện đóng vai xử lí tình huống tốt hơn trong các tiết thực
hành nhằm giúp Hs suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách tập trung vào một
sự việc cụ thể mà các em vừa thực hiện hoặc quan sát được. Việc “diễn” không
những là phần chính của phương pháp này mà học sinh còn phải thảo luận tìm ra
3


những cách giải quyết đúng, hợp lí sau phần diễn ấy. Ưu điểm của đóng vai xử lí
tình huống là: Học sinh được rèn luyện thực hành những kỹ năng ứng xử và bày
tỏ thái độ trong môi trường an toàn trước khi thực hành trong thực tiễn; Gây
hứng thú và chú ý cho học sinh; Tạo điều kiện làm nảy sinh óc sáng tạo của học

sinh; Khích lệ sự thay đổi thái độ, hành vi của học sinh theo chuẩn mực hành vi
đạo đức và chính trị – xã hội; Có thể thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói
hoặc việc làm của các vai diễn.
Do vậy, tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp học sinh đóng vai xử lí
tình huống trong tiết thực hành môn đạo đức lớp 5” để nghiên cứu, thực
nghiệm, nhằm góp phần tìm ra biện pháp khắc phục khó khăn cho bản thân, cho
đồng nghiệp cũng như giúp các em học sinh lớp 5 có thêm nhiều kĩ năng đóng
vai xử lí tình huống để làm cho tiết học hiệu quả.
2. Điểm mới của đề tài
Sáng kiến của tôi ngoài việc cung cấp cho giáo viên các yêu cầu sư phạm
tổ chức cho học sinh nhập vai vào các nhân vật trong những tình huống đạo đức
giả định còn giúp học sinh mạnh dạn, tự tin khi lên đóng vai và đưa ra những
cách ứng xử phù hợp với nội dung tình huống.
3. Phạm vi áp dụng đề tài
Nghiên cứu đề tài này, tôi nghiên cứu thực tiễn khả năng đóng vai xử lí
tình huống cho học sinh trong các tiết thực hành ở lớp 5. Từ đó đưa ra các biện
pháp để giúp giáo viên cũng như học sinh thực hiện tốt những bước cần thiết để
tổ chức phương pháp đóng vai xử lí tình huống.
PHẦN NỘI DUNG
1. Thực trạng nội dung cần nghiên cứu
Những năm qua tôi được nhà trường phân công giảng dạy môn Đạo đức
lớp 5. Qua quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy có những thuận lợi và khó khăn
như sau:
1.1. Thuận lợi
Giáo viên nhiệt tình giảng dạy, có ý thức tinh thần trách nhiệm cao, biết
nắm bắt đổi mới phương pháp và hình thức dạy học, lấy học sinh làm trung tâm.

4



Thường xuyên chăm lo học hỏi đồng chí đồng nghiệp, qua sách báo tài liệu, đặc
biệt nhanh nhạy trong việc tiếp cận với xu thế của việc dạy học mới hiện nay.
Giáo viên sử dụng các phương pháp và hình thức dạy học phù hợp, phát
huy khá hiệu quả khả năng học tập của học sinh. Sử dụng có hiệu quả các
phương tiện dạy học như băng hình, truyện kể..... giúp học sinh nắm được nội
dung bài học.
Nhà trường đang dạy học theo mô hình trường học mới VNEN, đây là
một thuận lợi rất lớn vì học sinh được phát huy tính tự tin, phát huy quyền làm
chủ trong quá trình học tập do đó, số học sinh tự ti, nhút nhát sẽ giảm đáng kể.
Học sinh khối 5 lớn nhất trường, vì vậy các em rất nhanh nhẹn trong các
hoạt động, hầu như những hướng dẫn, yêu cầu của giáo viên các em tiếp thu và
thực hiện khá tốt.
Được Ban giám hiệu nhà trường, lãnh đạo địa phương, phụ huynh học
sinh... quan tâm giúp đỡ khích lệ.
Đa số các em thích chơi trò chơi, đóng vai trong các tiết học. Học sinh xác
định được động cơ và thái độ học tập đúng đắn. Các em chăm chỉ học tập, thích
tìm hiểu và khám phá, thích được thầy cô giáo khen.
1.2. Khó khăn
* Về giáo viên: Trong quá trình dạy môn Đạo đức lớp 5, tôi nhận thấy giáo viên
gặp khó khăn khi hướng dẫn học sinh đóng vai xử lí tình huống.
- Giáo viên cho học sinh trước “kịch bản”, học sinh chỉ cần đọc thuộc rồi
lên diễn lại nên giọng nói, cử chỉ, điệu bộ còn rất cứng nhắc, chưa linh hoạt.
- Giáo viên vì sợ mất thời gian nên thường gọi hoặc chọn những em,
những nhóm nhanh nhẹn, mạnh dạn, tự tin lên thực hiện đóng vai.
- Khi tổ chức phương pháp đóng vai thì công tác chuẩn bị trang phục, đạo
cụ còn gặp khó khăn bởi giáo viên cần phải chuẩn bị nhiều đồ dùng dạy học
(trang phục, các đồ dùng cần thiết......) trong khi giáo viên còn phải dạy nhiều
môn học khác.
- Ngoài các tình huống có sẵn trong chương trình thì giáo viên cũng mất
thêm thời gian tạo ra các tình huống khác.

* Về học sinh:
5


Đối với học sinh, khi lên thực hiện đóng vai xử lí tình huống không
phải em nào cũng muốn tham gia. Hầu hết những em nhút nhát, ngoại hình
không được bắt mắt (béo quá, gầy quá,.....) không dám lên tham gia vì sợ các
bạn dưới lớp trêu chọc.
Các em thường hay quên mang theo những dụng cụ hóa trang cho nhân
vật mình đóng dù giáo viên đã nhắc nhở hoặc phân công.
1.3. Kết quả điều tra:
Số học sinh

Số học sinh được

Số học sinh thích

Số học sinh nhút

khối 5

tham gia đóng vai

tham gia đóng vai

nhát, không tự tin

Lớp SL
5A
29

5B
30
5C
29
Tổng 88

SL
20
19
20
59

TL
69 %
63,3 %
69 %
67 %

SL
15
16
15
46

TL
51,7 %
53,3 %
51,7 %
52,3 %


SL
14
10
10
34

TL
48,3 %
33 %
34,5 %
38,6 %

1.4. Những nguyên nhân:
- Giáo viên đưa ra một số tình huống không phù hợp với lớp học mình
đang dạy. Khối 5 thường có từ hai đến ba lớp, do đó không thể lấy tình huống ở
lớp này áp dụng vào lớp kia được.
- Thời gian học sinh thảo luận để lên đóng vai thường hay bị kéo dài vì
một số ít em trong nhóm chưa chú ý tập trung vào tình huống nên thời gian của
tiết học không đủ.
- Những em nào mạnh dạn, tự tin thì luôn được giáo viên gọi lên thực hiện
và được cả lớp cũng như cô giáo khen từ đó làm cho những em nhút nhát càng
không dám thể hiện mình vì sợ giáo viên nạt.
2. Một số biện pháp giúp học sinh đóng vai xử lí tình huống trong các tiết
thực hành môn đạo đức lớp 5.
Biện pháp 1: Giáo viên vần đưa ra các tình huống đóng vai phải phù hợp
với chủ đề bài học, phù hợp với lứa tuổi, trình độ học sinh và điều kiện,
hoàn cảnh lớp học.
Mỗi bài đạo đức lớp 5 là một chủ để khác nhau. Vì thế mỗi giáo viên cần
xác định nội dung đóng vai phải phù hợp, gần gũi với học sinh, làm sao giúp học
6



sinh có khả năng tự hình thành một kịch bản phù hợp để thực hiện đóng vai. Vì
thế khi đưa ra các tình huống giáo viên cần:
a) Tình huống không nên quá dài và phức tạp, vượt quá thời gian cho phép.
Khi đưa ra các tình huống, bản thân giáo viên là người trực tiếp hướng
dẫn cho học sinh thực hiện xử lí tình huống cần đưa ra tình huống phù hợp với
nội dung bài học, gắn với những hành vi ứng xử của học sinh trong cuộc sống
hằng ngày. Tình huống phải đảm bảo thời gian học sinh thực hiện và chia sẻ
trước lớp.
Ví dụ: Bài 2: Em sẽ làm gì trong các tình huống sau? Vì sao?
a) Bạn em có chuyện buồn
b) Bạn em có chuyện vui
c) Bạn em bị bắt nạt
d) Bạn em bị kẻ xấu rủ rê, lôi kéo vào những việc làm không tốt.
e) Bạn em làm điều sai trái, em khuyên ngăn nhưng bạn không nghe.
(Bài 5: Tình bạn trang 18)
Với các nội dung tình huống trên, giáo viên cần đưa ra sẵn nội dung gợi
mở cho học sinh. Trong tình huống a) Em có chuyện buồn. Bản thân tình huống
này chứa đựng nhiều nội dung liên quan. Trong cuộc sống, em đã gặp những
chuyện buồn nào? Ví dụ như gia đình em gặp chuyện không may, bố mẹ bị mất
tài sản,...
b) Tình huống phải có nhiều cách giải quyết.
Khi đưa ra tình huống, giáo viên nên cho học sinh đưa ra nhiều cách giải
quyết khác nhau. Nhóm này có thể đưa ra cách giải quyết này thì nhóm khác có
thể có những cách giải quyết khác để giải quyết vấn đề đặt ra, Như vậy bản thân
học sinh dễ dàng vận dụng.
Ví dụ: Bài 2: Em sẽ làm gì trong tình huống sau:
a) Trên đường đi học về, thấy một em bé bị lạc, đang khóc tìm mẹ.
(Bài 6: Kính già, yêu trẻ trang 21)

Giáo viên có thể chọn tình huống này để cho học sinh thảo luận đóng vai
bởi tình huống này có nhiều cách giải quyết khác nhau. Học sinh có thể thảo
luận xử lí tình huống này như sau:
7


+ Dỗ em bé và cố gắng tìm hiểu địa chỉ của em để đưa em bé về nhà.
+ Dỗ em bé và đưa em bé đến đồn công an để các chú công an có biện
pháp giúp đỡ cho em bé.
+ Đưa em bé đến nhà trưởng thôn để nhờ bác trưởng thôn giúp đỡ.
c) Tình huống cần để mở để HS tự tìm cách giải quyết, cách ứng xử phù hợp;
không cho trước “ kịch bản”, lời thoại.
Khi đưa ra tình huống, giáo viên cần để mở để học sinh biết tự tìm
phương án giải quyết tình huống đó. Học sinh tự tìm kịch bản phù hợp để đưa ra
cách giải quyết thấu đáo nhất đối với vấn đề được đưa ra.
Biện pháp 2: Cho học sinh quan sát các cách ứng xử trong đời sống hằng
ngày
Để đi đến xây dựng một kịch bản phù hợp với nội dung tình huống đưa ra,
giáo viên cần yêu cầu học sinh quan sát các hành vi ứng xử của bản thân, bạn
bè, thầy cô, gia đình để có những ngữ liệu cần thiết trong việc đưa ra cách thể
hiện của mình trước những vấn đề mà các em đã thấy hoặc đã nghe. Mỗi cách
ứng xử của mọi người chính là bài học mà học sinh có thể rút ra và làm theo.
Theo tôi, khi xây dựng một kich bản, giáo viên nên cho học sinh tập quan sát,
tập lắng nghe để học sinh biết việc làm nào đúng, việc làm nào sai và vận dụng
một cách linh hoạt trong việc tạo ra một kịch bản hay để đóng vai xử lí tình
huống.
Ví dụ : Bài 2: Xử lí các tình huống sau:
c) Phường phát động phong trào quyên góp sách vở, đồ dùng học tập, quần áo ...
ủng hộ trẻ em vùng lũ
(Bài 10: Ủy ban nhân dân xã phường em trang 33)

Ở bài tập này, tôi có thể cho học sinh thảo luận để đóng vai. Đối với tình
huống đưa ra, tôi nhận thấy đây là tình huống mà tất cả chúng ta ai cũng bắt gặp.
Việc giúp đỡ mọi người là một việc làm mà chúng ta thường xuyên thực hiện
trong đời sống hằng ngày. Như vậy, vấn đề đưa ra gần gũi với các em. Tôi
hướng các em nhớ lại cách ứng xử của mình khi giúp đỡ mọi người, được mọi
người giúp đỡ lại mình để đưa ra cách xử lí cho phù hơp. Tôi luôn nói với các
em rằng, các em mỗi ngày, hày dành cho mình một ít thời gian để quan sát, lắng
8


nghe những việc xảy ra trong cuộc sống. Việc làm đó không những giúp mình có
nhiều hiểu biết hơn mà việc làm đó còn giúp mình biết lắng nghe và chia sẻ.
Hay như bài: Kính già yêu trẻ, tình huống đưa ra như sau: Thấy hai em
nhỏ đang đánh nhau tranh giành đồ chơi. Đây là tình huống mà em nào cũng có
thể gặp trong cuộc sống. Tình huống rất gần gũi đối với các em. Các em thường
ứng xử như thế nào thì có thể đưa vào để giải quyết tình huống này. Hay như
tình huống "Đang chơi cùng các bạn thì có một cụ già đến hỏi đường". Tình
huống này thực sự là tình huống rất gần gũi đối với các em. Các em đã trải qua
trong thực tế hàng ngày. Tôi cho các em tự quan sát, tự ứng xử để áp dụng.
Biện pháp 3: Giúp học sinh xây dựng kịch bản đóng vai
Sau khi học sinh đã xác định được nội dung cần đóng vai thì người giáo
viên cần hướng dẫn cho học sinh xây dựng một kịch bản vừa giải quyết được
vấn đề, vừa áp dụng được trong cuộc sống. Để thực hiện được biện pháp này
giáo viên cần:
a) Mỗi tình huống có thể phân công một hoặc nhiều nhóm cùng đóng vai
Đối với các tình huống đưa ra, tôi luôn lựa chọn một tình huống và phân
công các nhóm xây dựng kịch bản để đóng vai. Việc làm này giúp học sinh tập
trung vào môt vấn đề nhưng đưa ra nhiều cách giải quyết khác nhau. Như vậy,
mỗi nhóm sẽ học hỏi những bài học mà các nhóm khác đưa ra và các em sẽ có
nhiều hành vi ứng xử để áp dụng vào thực tiễn cuộc sống.

Ví dụ ở bài 8: Hợp tác với người xung quanh
Em hãy cùng các bạn trong nhóm thảo luận xử lí các tình huống sau:
a) Tuần tới, lớp 5B tổ chức hái hoa dân chủ và tổ 2 được giao nhiệm vụ chuẩn bị
cho cuộc vui này.
Nếu là thành viên tổ 2, các em dự kiến thực hiện nhiệm vụ trên như thế nào?
b) Vào dịp hè, ba má Hà dự định đưa cả nhà về thăm quê ngoại.
Theo các em, bạn Hà nên làm gì để cùng gia đình chuẩn bị cho chuyến đi xa đó?
Đối với các tình huống này, tôi sẽ phân công 3 nhóm thực hiện tình huống
a, ba nhóm còn lại thực hiện nhiệm vụ b. Như vậy, sẽ có ba nhóm đưa ra các
cách giải quyết các tình huống khác nhau. Học sinh có thể dễ dàng nhận thấy tất
cả các hành vi ứng xử khác nhau để vận dụng trong cuộc sống.
9


b) Phải dành thời gian phù hợp cho HS thảo luận xây dựng kịch bản và chuẩn bị
đóng vai
Theo tôi, để học sinh xây dựng được một kịch bản hay thì giáo viên cần
cho học sinh thời gia thảo luận. Trong quá trình dạy học, tôi thường yêu cầu học
sinh tìm hiểu kĩ tình hướng trước. Các em có thể thực hiện công việc này ở nhà
và xem nó như một dự án cần thực hiện. Khi học sinh xem là dự án thì bản thân
các em sẽ tìm hiểu kĩ càng tình huống, xác định các cách giải quyết, xác định
các nhân vật tham gia xử lí các tình huống trên.
c) Cần quy định rõ thời gian thảo luận và đóng vai của các nhóm
Trong quá trình học sinh thảo luận, giáo viên cần đưa ra thời gian cụ thể
để học sinh thảo luận, tạo cho học sinh biết cách làm việc khoa học. Cần quy
định thời gian đóng vai để học sinh xây dựng kịch bản giải quyết một cách ngắn
gọn, súc tích.
d) Trong khi HS thảo luận và chuẩn bị đóng vai, GV nên đi đến từng nhóm lắng
nghe và gợi ý, giúp đỡ HS khi cần thiết.
Giáo viên không nên để cho học sinh tự thực hiện. Mỗi nhóm sẽ có tiến

độ thực hiện khác nhau. Vì thế, trong quá trình học sinh xây dựng kịch bản đóng
vai, giáo viên cần quan sát các nhóm một cách kĩ càng để phát hiện nhóm nào đã
biết xử lí, nhóm nào còn lúng tùng, chưa đưa ra được kịch bản giải quyết. Trong
quá trình dạy học, bản thân tôi xem công việc này rất quan trong. Tôi luôn luôn
theo dõi tiến độ hoàn thành để có biện pháp can thiệp kịp thời đối với các nhóm.
Biện pháp 4: Giáo dục học sinh biết cách hợp tác nhóm
Trong dạy học, giáo viên cần kết hợp phát triển tất cả các năng lực cho
học sinh. Một trong những năng lực cần cho học sinh là năng lực hợp tác nhóm.
Với mỗi tình huống khác nhau, học sinh trong nhóm phải biết cùng nhau đưa ra
cách giải quyết. Trong đó tôi luôn quan tâm bồi dưỡng cho nhóm trưởng, người
trực tiếp điều khiển các hoạt động của nhóm. Tôi luôn yêu cầu các nhóm trưởng
cắt cử người đóng vai phù hợp, có sự phân công hợp lí giữa các thành viên trong
nhóm. Mỗi cá nhân trong từng nhóm cần góp ý kiến phù hợp với nội dung, sát
với yêu câu. Trong nhóm cần phụ giúp nhau đưa ý tưởng, xây dựng và hoàn
thiện kịch bản, phân công nhân vật, chuẩn bị đạo cụ để thực hiện. Trong thực tế
10


các lớp tôi dạy, tôi thấy các nhóm đã hoạt động nhóm khá tốt. Các em đã biết
phân công công việc hợp lí giữa các thành viên.
Biện pháp 5: Cần khích lệ cả những HS nhút nhát cùng tham gia.
Trong lớp học, có những học sinh rất mạnh dạn, năng nổ nhưng cũng có
nhưng học sinh nhút nhát, chưa mạnh dạn tham gia các hoạt động. Đối với việc
diễn kịch thì càng khó hơn cho những em chưa tự tin. Tôi thấy hoạt động đóng
vai giúp cho học sinh tự tin hơn lên rất nhiều. Những em học sinh nhút nhát
được tham gia làm việc nhóm, được đóng vai cùng các bạn làm tăng khả năng
giao tiếp cho các em. Vì thế, giáo viên cần yêu cầu tất cả các học sinh cùng tham
gia. Khi đóng vai, không nên hạn chế số lượng học sinh tham gia. Giáo viên nên
quan tâm hơn đến các em học sinh thiếu tự tin, yêu cầu các nhóm phân công
nhiệm vụ, nhân vật thích hợp để các bạn đó được tham gia. Các em được tham

gia, được trao đổi đóng góp y kiến sẽ giúp các em tăng thêm các năng lực của
bản thân.
Biện pháp 6: Nên có hoá trang và đạo cụ đơn giản để tăng tính hấp dẫn của
tiểu phẩm đóng vai.
Đối với mỗi tiểu phẩm, ngoài kịch bản hay thì đạo cụ, hóa trang sẽ làm
tăng tình hấp dẫn của tiểu phẩm. Giáo viên có thể yêu cầu học sinh chuẩn bị từ
trước các đạo cụ cần thiết. Các em có thể hóa trang để hóa thân thành các nhân
vật như người già, bác trưởng thôn, bà cụ, thầy cô giáo, chú công an, anh thương
binh,... Tất cả sẽ tạo hiệu ứng rất tốt, giúp các em tự tin để diễn, và tình huống
đó sẽ sát hơn với thực tế cuộc sống của các em.
Ví dụ tình huống "Đang chơi cùng các bạn thì có một cụ già đến hỏi
đường" (Bài 6: Kính già yêu trẻ). Với kịch bản của mình, tôi nhận thấy một số
lớp tôi dạy, các em đã hóa trang thành ông cụ rất dễ thương, một số em ở các lớp
còn thêm râu, cầm thêm một cái gậy, lưng các em hơi còng xuống, các em còn
đưa thêm cái nón đội lên đầu rất ra dáng một ông cụ. Như vậy với cách diễn
xuất và phục trang đạo cụ như vậy thì việc đóng vai sẽ rất thú vị.
3. Kết quả nghiên cứu

11


Sau khi nghiên cứu và áp dụng thực hiện ở các lớp tôi dạy thì kết quả khả
quan hơn so với cách dạy thông thường và đây là kết quả thu được sau khi áp
dụng phương pháp đóng vai xử lí tình huống trong các tiết thực hành.
Số học sinh

Số học sinh được

Số học sinh thích


Số học sinh nhút

khối 5

tham gia đóng vai

tham gia đóng vai

nhát, không tự tin

Lớp SL
5A
29
5B
30
5C
29
Tổng 88

SL
29
30
29
88

TL
100 %
100 %
100 %
100 %


SL
24
25
23
72

TL
82,8 %
83,3 %
79,3 %
81,8 %

SL
6
5
6
18

TL
20,7 %
16,7 %
20,7 %
20,5 %

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Ý nghĩa của đề tài
Môn đạo đức ở trường Tiểu học sẽ giúp cho học sinh có những hiểu biết
ban đầu về một số chuẩn mực hành vi đạo đức và pháp luật phù hợp với lứa tuổi
trong các mối quan hệ của các em với bản thân, gia đình, nhà trường, cộng đồng,

môi trường tự nhiên và ý nghĩa của việc thực hiện các chuẩn mực đó. Từng bước
hình thành kĩ năng nhận xét, đánh giá hành vi của bản thân và những người
xung quanh. Theo chuẩn mực đã học, kĩ năng lựa chọn và thực hiện các hành vi
ứng xử phù hợp với chẩn mực trong các mối quan hệ và tình huống đơn giản, cụ
thể của cuộc sống. Từng bước hình thành thái độ tự trọng, tự tin, yêu thương tôn
trọng con người, yêu cái thiện, cái đúng, cái tốt, không đồng tình với cái ác, cái
sai, cái xấu. Và quan trọng hơn cả đó là người giáo viên phải là tấm gương sáng
cho học sinh noi theo.
Ở lứa tuổi học sinh tiểu học, các em đang trong quá trình hoàn thiện vốn
sống của bản thân. Người giáo viên cần có phương pháp giảng dạy làm sao để
các em dễ hiểu nhất, tìm được kết quả với con đường ngắn nhất, cải tiến góp
phần cho lớp học có chất lượng đồng đều, giảm hẳn lượng học sinh không đủ tự
tin lên tham gia đóng vai trong giờ học.
Qua việc nghiên cứu và áp dụng các biện pháp dạy học giúp học sinh
nạnh dạn, tự tin tham gia đóng vai xử lí tình huống trong các tiết thực hành môn
12


đạo đức cho thấy việc lên tham gia đóng vai đối với học sinh không khó. Sau
quá trình nghiên cứu và áp dụng các biện pháp trên vào thực tiễn thì tôi thấy học
sinh đã mạnh dạn hơn, tự giác lên tham gia đóng vai góp phần làm cho giờ học
phong phú sôi nổi, hấp dẫn và tăng hiệu quả của tiết dạy.
Với quá trình nghiên cứu, tham khảo tài liệu và ý kiến đóng góp của bạn
bè đồng nghiệp. Tôi tự tìm ra con đường để tháo gỡ những vướng mắc giúp học
sinh nắm vững bài học. Tuy các biện pháp tôi đưa ra chưa thật đầy đủ do điều
kiện về năng lực cũng như về thời gian nghiên cứu thực hành nhưng tôi hi vọng
rằng nó góp một phần không nhỏ trong việc dạy học môn đạo đức trong trường
tiểu học.
2. Kiến nghị, đề xuất
Sau khi tìm hiểu thực trạng của việc vì sao học sinh không mạnh dạn, tự

tin lên tham gia đóng vai hóa thân vào các nhân vật trong các tiểu phẩm, tình
huống cũng như xác định được một số nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó,
nhằm giúp học sinh yêu thích phương pháp đóng vai ở môn học đạo đức, tôi xin
đề xuất một số ý kiến sau:
2.1. Đối với nhà trường:
- Cần có thêm tài liệu tham khảo, nâng cao cho giáo viên và học sinh để bổ
sung phương pháp dạy, đáp ứng nhu cầu dạy – học.
- Tổ chức nhiều hơn nữa các buổi sinh hoạt chuyên môn để học hỏi kinh
nghiệm của các đồng nghiệp.
- Duy trì tốt việc thao giảng, thăm lớp, dự giờ giáo viên trong trường.
- Với yêu cầu tiết dạy môn Đạo đức sử dụng đồ dùng dạy học minh họạ
nhiều, thường xuyên để tạo cảm hứng cho học sinh học tập, tiết dạy đạt hiệu quả
cao. Vì thế nhà trường nên phân công cho giáo viên chuyên phụ trách dạy môn
học này để giáo viên có điều kiện đầu tư vào việc chuẩn bị kĩ đồ dùng dạy học,
sử dụng được cho nhiều lớp.
2.2. Đối với giáo viên:
Giáo viên phải luôn đổi mới phương pháp dạy theo mô hình trường học mới
phù hợp với đối tượng học sinh của mình: “Lấy học sinh để hướng vào hoạt

13


động học, thầy là người hướng dẫn, tổ chức, trò nhận thức chủ động trong việc
học''.
Giáo viên cần phải chịu khó tìm tòi, sưu tầm thêm nhiều tình huống xảy
ra hằng ngày trong cuộc sống để cho các em thực hiện đóng vai trong các tiết
học, ít nhất trong một bài học thì có một tình huống đóng vai.
Trong các buổi sinh hoạt ngoại khóa, giáo viên có thể chủ động lồng ghép
dạy đạo đức cho nhiều lớp, tổ chức trò chơi thi đua giữa các lớp với nhau nhằm
tạo điều kiện cho các em giao lưu, học hỏi kiến thức từ các bạn lớp khác.

Trên đây là một số biện pháp mà tôi đã và đang thực hiện. Tuy các biện
pháp này còn nhiều hạn chế, thiếu sót nhưng nếu chúng ta biết phối kết hợp và
vận dụng chúng sao cho phù hợp với thực tế đối tượng học sinh của mình thì nó
sẽ góp phần không nhỏ vào việc làm cho các em học sinh yêu thích môn học đạo
đức. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp chân thành của các bạn đồng
nghiệp. /.

14


15



×