Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

SKKN một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 phát triển năng lực cảm thụ văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.63 KB, 23 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn sáng kiến
Với sự phát triển bùng nổ của công nghệ thời đại mới, con người dường
như làm việc nhiều với máy móc, với kí hiệu mà ít quan tâm đến những cảm
xúc, rung động qua ngôn từ. Và chắc chắn rằng đứng trước một bài thơ, bài văn
hay, người ta cũng ít “xao xuyến, bâng khuâng, day dứt”. Tiếng Anh, tiếng
Trung và nhiều thứ ngôn ngữ khác dần dần “lấn sân” vào tiếng Việt. Trước
những biến đổi đó, những người yêu văn thơ, yêu tiếng mẹ đẻ có lẽ cũng không
ít khắc khoải, trăn trở. Họ luôn muốn được tìm về với những áng văn, thơ đong
đầy cảm xúc, tìm về với những dư vị êm đềm và ngọt ngào của tuổi thơ bên
những câu hát ru à ơi mộc mạc của bà, của mẹ nhưng thiêng liêng, đẹp đẽ của cả
dân tộc. Như chúng ta đã biết: tiếng Việt đóng vai trò to lớn trong việc hình
thành những phẩm chất quan trọng nhất của con người và trong việc thực hiện
những nhiệm vụ của hệ thống giáo dục. Học sinh tiểu học là lứa tuổi hồn nhiên,
ngây thơ, dễ xúc động như K.A.U Sinxki có nói: “Trẻ em đi vào đời sống tinh
thần của mọi người xung quanh nó, duy nhất thông qua phương tiện tiếng mẹ đẻ
và ngược lại thế giới bao quanh đứa trẻ được phản ánh trong đó chỉ thông qua
công cụ này”. Vì thế, việc phát triển tiếng Việt và bảo vệ sự trong sáng của tiếng
Việt có thể nói là một công việc lớn đặt ra cho tất cả chúng ta, là những người đã
và đang hoạt động trong ngành giáo dục. Vậy nên, môn Tiếng Việt có vai trò rất
quan trọng, nó không chỉ hình thành kĩ năng nghe, nói, đọc, viết cho học sinh
mà môn Tiếng Việt còn góp phần cùng các môn học khác phát triển tư duy, hình
thành cho các em nhu cầu thưởng thức cái đẹp, khả năng xúc cảm trước cái đẹp,
trước buồn – vui – yêu – ghét của con người. Cảm thụ văn học, chính là sự cảm
nhận những giá trị nổi bật, những điều sâu sắc, tế nhị và đẹp đẽ của văn học thể
hiện trong tác phẩm, cuốn truyện, bài văn, bài thơ hay trong cả một từ ngữ có
giá trị của một câu văn, câu thơ... Để học sinh có được các kĩ năng trên thông
qua các giờ Tập đọc, Tập làm văn, Luyện từ và câu, Chính tả và cả những giờ
Âm nhạc, Mĩ thuật hay các hoạt động ngoài giờ lên lớp... thì các em cần có năng
lực cảm thụ văn học tốt, các em sẽ cảm nhận được nhiều nét đẹp của thơ văn,
phong phú thêm về tâm hồn, nói - viết tiếng Việt thêm trong sáng và sinh động.


Bên cạnh đó cảm thụ văn học không những góp phần vào học Tiếng Việt nói
riêng mà còn giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức, thẩm mĩ cho học sinh.
Đối với học sinh tiểu học, nhiệm vụ bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học là
nhiệm vụ quan trọng và cần thiết, dưới sự gợi mở, dẫn dắt của thầy, cô giáo,
những bài văn, bài thơ hay trong sách giáo khoa sẽ đem đến cho các em bao điều
kì thú và hấp dẫn. Đặc biệt đối với học sinh lớp 5, cảm thụ văn học còn giúp các
em hiểu sâu nội dung bài đọc, vận dụng vào viết văn, làm thơ,... tạo đà tốt cho
học sinh học lên cấp Trung học cơ sở.
Các bài thơ, văn ở chương trình tiểu học mà đặc biệt là các bài thơ, bài văn
trong chương trình lớp 5 vô cùng phong phú về đề tài, thể loại… Chính vì vậy,
chúng tôi thiết nghĩ, rất cần các em khám phá, cảm nhận để thêm yêu thiên
nhiên, yêu quê hương, đất nước, yêu những gì gần gũi nhất…
1


Qua những luận điểm đó, tôi đã chọn sáng kiến: “Một số biện pháp giúp
học sinh lớp 5 phát triển năng lực cảm thụ văn học” để tìm hiểu, nghiên cứu
và đã vận dụng trong dạy học môn Tiếng Việt lớp 5 trong những năm gần đây có
nhiều biểu hiện đáng mừng.
1.2. Điểm mới của sáng kiến
Sáng kiến “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 phát triển năng lực cảm
thụ văn học” giúp cho giáo viên chủ nhiệm cũng như giáo viên bộ môn của lớp
5 nắm được các biện pháp nâng cao năng lực cảm thụ văn học cho học sinh.
Ngoài ra, sáng kiến này còn là tài liệu tham khảo cho các bậc làm cha, làm mẹ
trong quá trình phát triển kĩ năng cảm thụ văn học cho con cũng như khơi gợi
cho con vươn tới những chân trời mơ ước, xây dựng vốn ngôn ngữ văn chương
cho con, tạo tiền đề cho những cấp học cao hơn.
Ngoài ra, thông qua sáng kiến này, bạn đọc còn cảm nhận được vẻ đẹp của
các tác phẩm văn, thơ trong chương trình Tiếng Việt lớp 5. Qua đó, tiếp tục khai
phá những vẻ đẹp mới, tìm tòi, sáng tạo những bài văn hay, những bài thơ nhỏ

để mỗi giờ dạy là những rung động mới của tuổi học trò, là những dấu lặng về
tình đời, tình người chứa chan trong thế giới hiện đại này.
1.3. Phạm vi nghiên cứu và áp dụng
- Mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy môn Tiếng Việt lớp 5 tại trường
tiểu học tôi đang dạy.
- Các biện pháp giúp học sinh lớp 5A phát triển năng lực cảm thụ văn học
tại trường tiểu học tôi đang dạy.

2


2. NỘI DUNG
2.1. Thực trạng nhận thức về cảm thụ văn học của nhà trường, giáo viên và
học sinh
2.1.1. Nhà trường
- Nhà trường chỉ quản lí chương trình và chất lượng chung nên phần cảm thụ
văn học trong môn Tiếng Việt chưa thể hiện rõ, chưa có tiêu chí để đánh
giá giáo viên cũng như học sinh một cách rõ ràng, chính xác.
- Nhà trường ít có những cuộc thi về cảm thụ văn học, ít khi lập ra đội giỏi Văn
để rèn luyện, đào tạo.
2.1.2. Giáo viên
Bên cạnh những giáo viên đã có nhận thức tốt về việc cảm thụ văn học và
dạy cảm thụ văn học cho học sinh thì một số ít giáo viên giảng dạy chưa coi
trọng việc hướng dẫn học sinh cảm thụ nội dung và nghệ thuật trong tất cả các
phân môn của môn Tiếng Việt. Cho nên chưa phát triển được năng lực cảm thụ
bài văn, bài thơ, đoạn văn, đoạn thơ hay câu văn, câu thơ cho học sinh. Giáo
viên chưa vận dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp dạy học mới, chưa tìm
ra được các biện pháp dạy học có hiệu quả để áp dụng vào việc rèn kĩ năng cảm
thụ văn học cho học sinh; Nếu có cảm thụ văn học thì đa số giáo viên áp đặt
cách cảm thụ của mình, trò thừa nhận ý kiến của thầy, cảm thụ lại những điều

mà thầy cảm thụ được. Mà chúng ta đã biết rằng việc cảm thụ của người lớn có
những điểm giống nhưng cũng có những điểm khác so với cảm thụ của trẻ.
Trong các tiết học môn Tiếng Việt, có thể học sinh phát hiện được các biện
pháp nghệ thuật song chưa hiểu được tác dụng của tác giả sử dụng biện pháp
nghệ thuật đó có tác dụng gì? Bởi chính giáo viên dạy chưa tạo điều kiện để học
sinh cảm thụ văn học tốt thông qua các giờ dạy dẫn đến các tiết viết bài tập làm
văn của học sinh chưa vận dụng được khả năng cảm thụ văn học làm cho các bài
văn miêu tả chưa hay, chưa sinh động, khả năng bộc lộ cảm xúc của học sinh
còn hạn chế.
Nguyên nhân chính là do quá trình nhận thức của giáo viên về tầm quan
trọng của việc bồi dưỡng cảm thụ văn học cho học sinh chưa thật đầy đủ, kiến
thức về lĩnh vực cảm thụ văn học của giáo viên còn nhiều hạn chế, đặc biệt là
những biện pháp, kĩ năng bồi dưỡng cảm thụ văn học của giáo viên cho học sinh
còn nhiều lúng túng, hình thức tổ chức dạy học còn đơn điệu, do đó chưa thu hút
được học sinh vào hoạt động cảm thụ một cách tích cực. Giáo viên không trả lời
được mục đích tác giả viết bài này, câu chuyện này để làm gì? Một số giáo viên
có hiểu nhưng diễn đạt không rõ ràng. Số giáo viên phân tích sai cách đọc thơ
cũng không phải là ít, mà đọc sai thì sẽ hiểu sai, sẽ cảm thụ không đúng, dẫn đến
chất lượng bồi dưỡng cảm thụ văn học cho học sinh trong nhà trường Tiểu học
hiện nay còn nhiều hạn chế. Tìm hiểu thực trạng dạy học cảm thụ văn học ở lớp
5, tôi thấy rằng việc dạy học cảm thụ văn học chưa đáp ứng được mục tiêu,
nhiệm vụ môn học. Không giúp học sinh cảm nhận được cái hay, cái đẹp trong
các bài văn, bài thơ, cũng có nghĩa là không hồi đáp được văn bản, tức là việc
cảm thụ văn học thực sự chưa đạt yêu cầu.
3


Bên cạnh đó, nội dung cảm thụ văn học chưa được phân tách ra rõ ràng mà
chỉ tích hợp vào các giờ Tập đọc, Tập làm văn, Luyện từ và câu… khiến giáo
viên muốn hướng dẫn học sinh cảm thụ văn học cũng không đủ thời gian, các

câu hỏi phần tìm hiểu bài còn mang tính chất áp đặt.
2.1.3. Học sinh
Học sinh chưa thực sự hiểu từ “cảm thụ văn học”, “hình ảnh đẹp”,... Các
em chưa thấy được mỗi bài văn, bài thơ là một văn bản nghệ thuật, dù dài hay
ngắn thì nó cũng chứa lượng thông tin nhất định về ngôn từ, hình ảnh, sự kiện,
tình cảm,... cho nên những thông tin đó tác động vào tâm hồn ngây thơ, hiếu
động của các em bị hạn chế. Học sinh còn chậm trong quá trình nhận diện ngôn
ngữ trong văn bản, kĩ năng đọc thành thạo để nắm được đề tài và những từ ngữ
cần tìm nghĩa để từ đó hiểu nội dung của văn bản còn nhiều hạn chế. Đọc và
hiểu còn đang tách rời nhau học sinh đọc nhưng học sinh không hiểu, đọc nhưng
không tư duy cái được đọc, đọc mà không hiểu huống gì nói đến cảm thụ. Phần
tìm hiểu nội dung văn bản, học sinh trả lời các câu hỏi sách giáo khoa còn máy
móc, phụ thuộc quá nhiều vào từng câu, từng chữ trong văn bản, trong suy nghĩ
và trả lời học sinh chưa chủ động và chưa có tính sáng tạo. Phần đông học sinh
chỉ dừng lại ở phần tìm hiểu văn bản mà chưa chủ động trong việc diễn đạt kết
quả cảm thụ, chưa biết rút ra bài học về nhận thức, về tình cảm, hành vi sau khi
được đọc, được nghe. Đặc biệt học sinh chưa biết suy nghĩ để phê phán hay
khẳng định nội dung văn bản đưa ra, học sinh không biết quan tâm đến mong
muốn mà người viết đặt vào chính đối tượng người đọc, người nghe.
Kết quả khảo sát khả năng cảm thụ văn học của học sinh lớp 5A đầu năm
học 2018 – 2019 của giáo viên chủ nhiệm như sau:
Tổng
Điểm 1 – 2 Điểm 3 – 4 Điểm 5 - 6
số HS
26

SL
1

%

3,8

SL
%
SL
%
6 23,07 12 46,15

Điểm 7 - 8

Điểm 9 - 10

SL
3

SL
4

%
11,5

%
15,48

4


Chính vì vậy, tôi thấy trong các nhà trường tiểu học việc đưa ra sáng kiến
“Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 phát triển năng lực cảm thụ văn học”
là vấn đề cần thiết và cấp bách.

2.2. Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 phát triển năng lực cảm thụ văn học
2.2.1. Giáo viên – người truyền lửa cần có các kĩ năng về cảm thụ văn học
Để giúp học sinh có kĩ năng cảm thụ văn học thì giáo viên phải có các kĩ
năng cơ bản. Chính giáo viên là người truyền lửa, là người khơi gợi cho các em
đến với những điều đẹp đẽ nhất của văn chương mà tác giả gửi gắm. Do đó, tôi
xin nêu ra 4 kĩ năng cơ bản trong cảm thụ văn học như sau:
2.2.1.1. Kĩ năng đọc hiểu ngôn từ
Chất liệu của văn học là ngôn từ. Ở cấp độ ban đầu này, đọc hiểu ngôn từ
được xem như là “nhận ra nghĩa của chữ”. Tuy nhiên, ở mức thấp nhất này cũng
có những đòi hỏi nhất định, đó là phải hiểu đúng. Nếu không hiểu hoặc hiểu sai
sẽ dẫn đến cảm thụ sai lệch nội dung của văn bản.
Trong văn bản văn học ẩn đằng sau ngôn từ là tư tưởng, tình cảm, thái độ
của tác giả trước những vấn đề của cuộc sống. Vì vậy, ngay ở bước đầu tiên,
song song với việc nhận ra nghĩa của từ là sự rung động của người đọc qua các
phương diện ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp.
2.2.1.2 . Kĩ năng phát hiện “chỗ vấp” thẩm mĩ
Ở đây có thể hiểu “chỗ vấp” thẩm mĩ là những tín hiệu thẩm mĩ vi mô. Về
khái niệm “tín hiệu thẩm mĩ”, GS. Bùi Minh Toán cho rằng tín hiệu thẩm mĩ . là
loại tín hiệu có chức năng thẩm mĩ: biểu hiện cái đẹp, truyền đạt và bồi dưỡng
cảm xúc về cái đẹp. Nó cũng cần có hai mặt: cái biểu đạt và cái được biểu đạt,
nhưng cái được biểu đạt là ý nghĩa thẩm mĩ”. Còn thế nào là “tín hiệu thẩm mĩ
vi mô”; tác giả cũng đưa ra quan niệm “là những tín hiệu được cấu tạo trên cơ
sở một từ hay một ngữ. Thường gọi là nhãn tự”.
Trong quá trình đọc văn bản, không phải tất cả các từ, ngữ đều có hàm ý. Chỉ
những từ, ngữ nào chứa đựng lượng thông tin lớn, là cánh cửa mời gọi người
đọc mở ra để bước vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm được gọi là “chỗ vấp
thẩm mĩ”. Những từ ngữ này khiến người đọc phải dừng lại, quan sát chúng, tự
đặt ra những câu hỏi và tự lí giải. Sự khác biệt giữa từ ngữ thông thường và từ
ngữ được coi là “chỗ vấp thẩm mĩ” là gì? Cần hiểu rằng ngôn ngữ mang bản
chất kí hiệu. Bất kì một từ, ngữ nào cũng gồm hai mặt cái biểu đạt và cái được

biểu đạt. Nhưng ở tín hiệu thẩm mĩ vi mô thì cả hai mặt của từ ngữ thông
thường trở thành cái biểu đạt mới cho cái được biểu đạt mang tính thẩm mĩ cao.
Ví dụ: Trong bài thơ Cửa sông của nhà thơ Quang Huy, với khả năng liên
tưởng và sử dụng lớp từ ngữ rất “đắt” như “then khoá, không khép, mở ra” giúp
học sinh hình dung ra cửa sông như cánh cửa để học sinh dễ dàng nắm bắt. Bên
cạnh đo, tác giả đã nhẹ nhàng đưa vào các từ ngữ: ùa ra, tìm về, đến… giúp học
sinh nhận biết được hành trình về với cội nguồn, với nơi đã sinh ra của cửa sông.
Qua đó, nhắc nhở ta nhớ đến công lao, cơ đồ mà tổ tiên đã để lại.
Chỗ vấp thẩm mĩ không chỉ nằm ở từ ngữ mà còn nằm ở cấu trúc của câu thơ.
Người đọc phải tinh ý để phát hiện ra những điều khác thường của câu thơ, dòng
thơ.
5


Một tác phẩm văn học thực sự có giá trị, thực sự đem lại cho độc giả những
cảm xúc mới mẻ, những rung động sâu sắc phải có sự hài hòa giữa nội dung và
hình thức. Cái tinh, cái lí phải chứa chan, phải sâu sắc nhưng lời lẽ phải dạt dào,
lấp lánh.
Vì vậy, khi bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho học sinh tiểu học, chúng
ta không chỉ giúp các em hiểu sâu, hiểu rõ về nội dung tức là giúp các em giải
mã được cái tình ý bên trong của tác phẩm mà còn giúp các em tiếp cận được vẻ
đẹp của ngôn từ, vẻ đẹp của cách nói văn chương. Các tác phẩm văn học hay
thường chứa đựng các từ, ngữ thậm chí là một từ, một tiếng duy nhất mang tính
gợi tả, gợi cảm, là loại từ đắt nhất, có giá trị nhất. Nó giống như chiếc chìa khóa
mở cửa vào khu vườn bí mật của tác phẩm. Ở đó, đầy ắp tình người, tình đời,
chan chứa những nụ cười khi hạnh phúc, những giọt nước mắt khi đau khổ...
Chính giáo viên là người khơi gợi, kích thích, hướng dẫn học sinh đi tìm
chiếc chìa khóa mở cánh cửa kì diệu ấy. Trong thế giới ngôn từ của tác phẩm,
người đọc phải phát hiện ra các từ ngữ đặc sắc, gói kết cái hồn phách của bài thơ
– cái mà có nhà nghiên cứu gọi là “nhãn tự”. Đó có thể là lớp từ láy, tượng hình,

tượng thanh, là các tính từ tuyệt đối, là những từ được dùng với nghĩa chuyển,
với phép ẩn dụ, nhân hóa... Sử dụng hệ thống câu hỏi hoặc kĩ năng giảng bình có
thể giúp học sinh phát hiện nhanh các từ chìa khóa. Từ “phát hiện” đến “giải
mã”, giáo viên cần sử dụng các phương thức giải nghĩa từ để bóc tách các lớp
nghĩa, từ đó chuyển mức độ “hiểu” của học sinh sang “cảm thụ”. Tại đây, kết
hợp với giảng bình có thể khuyến khích các em tự phát biểu ý kiến về “cách
dùng từ”, “tác dụng của việc dùng từ” trong thơ. Chẳng hạn như khi tiếp nhận
“Hạt gạo làng ta”, điệp từ “có” chính là cái chốt của bài. “Có” ở đây là “kết
tinh”, là “hàm chứa” những gì đẹp nhất.
Phát hiện ra chỗ vấp thẩm mĩ là phát hiện ra tính nghệ thuật của ngôn ngữ văn
chương so với ngôn ngữ đời sống. Khi nào ngôn từ được sử dụng “không bình
thường” về mặt ngữ âm, từ vựng, cú pháp thì đấy là chỗ có vấn đề. Một câu thơ
toàn vần bằng, một tứ thơ dồi dào vần trắc, sự lặp lại của từ ngữ, các biện pháp
tu từ, sự ngắt nhịp, cấu trúc câu đảo vị trí của chủ ngữ vị ngữ hoặc thiếu các
thành phần câu... đấy chính là biển chỉ đường, là những con đường dẫn dắt
người đọc đến với các tầng ý nghĩa của văn bản văn học.
2.2.1.3. Kĩ năng lí giải tín hiệu thẩm mĩ
Tín hiệu thẩm mĩ có một tính chất là tính có lí do, có thể lí giải được. “Tính
có lí do, có thể lí giải được” là điểm khác với tín hiệu ngôn ngữ thông thường.
Bản chất của tín hiệu ngôn ngữ thông thường là có tính võ đoán: tức là giữa hình
thức và khái niệm không có mối tương quan bên trong nào, không thể giải thích
được lí do của mối quan hệ giữa hai mặt: cái biểu đạt và cái được biểu đạt.
Nhưng ở tín hiệu thẩm mĩ, mối quan hệ giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt có
thể cắt nghĩa được, giải thích được, bởi vì “khi lựa chọn một cái biểu đạt nào đó
để biểu đạt cho một ý nghĩa thẩm mĩ nào đó, người nghệ sĩ đã căn cứ vào một
mối quan hệ nhất định (ẩn dụ hay hoán dụ)”

6



Một trong các biện pháp nâng cao năng lực cảm thụ văn học là phát hiện,
khai thác các phép tu từ như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ... Biện pháp tu từ làm cho
tác phẩm trở nên lung linh, lấp lánh, giàu sức gợi, sức tả.
Phân môn Luyện từ và câu lớp 3 đã chuẩn bị những tri thức cơ bản cho học
sinh về so sánh và nhân hóa. Với các biện pháp khác như điệp từ ngữ, câu hỏi tu
từ, điệp kiểu câu, ẩn dụ, hoán dụ, chơi chữ... cần được định hướng rõ ràng cho
học sinh khi tiếp cận với văn bản thơ. Từ các câu hỏi “nhận diện” biện pháp tu
từ, giáo viên nên tăng cường các yêu cầu phân tích giá trị, tác dụng của các biện
pháp tu từ đó.
Vì vậy, có nhiều tín hiệu thẩm mĩ là sáng tạo riêng, mang tính cá nhân của
tác giả, lần đầu tiên xuất hiện trong văn chương nghệ thuật và rất độc đáo,
nhưng độc giả vẫn giải mã được trên cơ sở thuyết phục.
Hình thành ý nghĩa văn bản là sự tổng hợp của những lí giải: lí giải tín hiệu
thẩm mĩ, lí giải hình tượng nghệ thuật, lí giải ngữ cảnh tình huống và ngữ cảnh
văn hóa. Ý nghĩa của văn bản văn học chỉ được thuyết phục khi những lí giải
trên phù hợp với những quy luật của đời sống khách quan và quy luật của tình
cảm, cảm xúc con người.
2.2.1.4. Kĩ năng phân tích hình tượng nghệ thuật
Ở trên đã nói, bản thân ngôn từ trong văn chương đã có tính hình tượng:
biểu cảm và gợi tưởng tượng, liên tưởng. Đó là sự có mặt của các từ láy tượng
hình, từ láy tượng thanh, sự tổ chức lại ngôn từ, các biện pháp tu từ... Tổng hợp
các tín hiệu thẩm mĩ trên tạo thành hình tượng nghệ thuật của văn bản văn học.
Hình tượng nghệ thuật là một hệ thống các tín hiệu thẩm mĩ vi mô liên kết,
tích hợp tạo ra, bao trùm cả tác phẩm hay một bộ phận trong tác phẩm chứ
không tồn tại ở một câu hay một đoạn. Hình tượng người mẹ trong bài thơ Bầm
ơi của Tố Hữu: Người mẹ dãi dầu nắng mưa:
Bầm ơi, có rét không bầm?
Heo heo gió núi lâm thâm mưa phùn
Bầm ra ruộng cấy bầm run
Chân lội dưới bùn tay cấy mạ non

Nhưng lớn lao hơn là người mẹ ấy vẫn đau đáu nỗi thương con:
Mạ non bầm cấy mấy đon
Ruột gan bầm lại thương con mấy lần
Thể thơ lục bát xuyên suốt bài thơ với cách dùng từ ngữ giản dị, cách gieo
vần đặc sắc cùng lớp từ láy có một không hai đã làm nên nét đặc sắc riêng có
của thơ Tố Hữu.
Như thế, nếu chú ý nắm bắt, phân tích được bản chất của hình tượng nghệ
thuật do nhà văn sáng tạo, sẽ có cơ hội để hiểu sâu ý đồ của tác giả, mở rộng so
sánh để rút ra những nét sáng tạo riêng, tương đồng hay khác biệt với các tác
giả, hình tượng nghệ thuật khác. Phân tích hình tượng nghệ thuật phải nhận thức
được cái riêng độc đáo và cái chung mang tính cộng hưởng của hình tượng. Là
sản phẩm của trí tưởng tượng nhà văn, hình tượng nghệ thuật thể hiện rõ nét cá
tính tác giả (vùng thẩm mĩ, ngôn từ, bút pháp...). Đồng thời hình tượng phải có
tính điển hình, khái quát cho một bộ phận, một số đông trong xã hội.
7


Nếu giáo viên có cảm thụ văn học tốt cộng với năng lực tích hợp - tích hợp
văn học với ngôn ngữ, văn học với văn hóa, văn học với các ngành khoa học
khác, văn học với cuộc đời..., chắc chắn giáo viên sẽ giúp học sinh hình thành và
phát triển năng lực giao tiếp, năng lực tư duy sáng tạo, năng lực thẩm mĩ, năng
lực cảm thụ văn học và những phẩm chất tốt đẹp, những quan niệm sống và
phép ứng xử nhân văn; giúp học sinh nhận biết được ngôn ngữ là phương tiện
giao tiếp quan trọng và phương tiện tư duy của con người, là công cụ để học tốt
tất cả các môn học; văn học là loại hình nghệ thuật ngôn từ phản ánh đời sống,
xã hội và con người; từ đó có ý thức trau dồi ngôn ngữ, nuôi dưỡng hứng thú
đọc sách và khám phá tác phẩm văn học”
2.2.2. Luyện tập các thao tác trong cảm thụ văn học cho học sinh
Các thao tác sơ giản trong cảm thụ văn học bao gồm: đọc - hiểu, quan sát
– lựa chọn, phân tích, tổng hợp, so sánh – liên tưởng, kĩ năng diễn đạt…

2.2.2.1. Kĩ năng đọc – hiểu
Kĩ năng đọc – hiểu là kĩ năng đọc và lĩnh hội các thông tin từ các lớp ý
nghĩa của ngôn từ trong văn bản. Học sinh cần được rèn luyện để có khả năng
đọc – hiểu một cách chính xác và nhanh chóng.Đọc văn bản nghệ thuật, học sinh
không chỉ hiểu nội dung văn bản mà còn phải cảm thụ được một loại hình nghệ
thuật lấy ngôn ngữ làm chất liệu. Dạy đọc hiểu văn bản nghệ thuật gồm việc làm
cho học sinh nắm được nội dung văn bản, mục tiêu của văn bản, đồng thời dạy
cho học sinh cảm nhận được vẻ đẹp của ngôn từ, hình tượng văn chương làm
nên nội dung văn bản. Như vậy, với một nghĩa nào đó, dạy đọc hiểu văn bản
nghệ thuật là dạy tiếp nhận văn học, hay còn gọi là dạy cảm thụ văn học.
2.2.2.2. Kĩ năng quan sát - lựa chọn
Học sinh phải biết quan sát để tìm ra các chi tiết, lựa chọn chi tiết tiêu biểu
trước khi tái hiện chúng một cách có ý nghĩa nghệ thuật. Bồi dưỡng vốn sống là
một trong những nội dung của bồi dưỡng cảm thụ văn học. Đặc biệt là phân môn
Tập đọc, với nhiệm vụ bồi dưỡng cảm thụ văn học, có trách nhiệm lớn nhất
trong việc phát triển vốn sống, nhất là vốn kinh nghiệm sống cho học sinh.Vì
hơn bất cứ môn học nào khác, phân môn Tập đọc có khả năng đem đến cho các
em nhiều tình huống đạo đức - nhân văn. Mà ở đó, con người trong quá khứ, con
người ở nhiều nơi trên thế giới đã từng ứng xử một cách giàu trí tuệ và giàu lòng
nhân ái… Đó là những tri thức và kinh nghiệm có tác dụng làm giàu thêm vốn
sống cũng như phát triển tốt tình cảm, tâm hồn cho các em.
Hướng dẫn học sinh ghi chép những gì thu nhận được, tích luỹ lại những
điều bổ ích làm giàu thêm cho vốn sống. Rèn cho học sinh có thói quen ghi “Sổ
tay văn học”, ghi lại những từ ngữ hay, những hình ảnh đẹp, câu thơ, đoạn văn
em thích hoặc những điều em cảm nhận được để trau dồi năng lực cảm thụ văn
học cho bản thân.
2.2.2.3. Kĩ năng phân tích, tổng hợp, so sánh, liên tưởng
Là những kĩ năng thuộc tư duy lôgíc và tư duy hình tượng. Đặc biệt, các kĩ
năng, thao tác này được sử dụng để phát hiện ra đặc điểm về nội dung và nghệ
thuật của tác phẩm, chỉ ra sự khác nhau giữa hình tượng này với hình tượng

khác, từ đó làm nổi bật vẻ đẹp độc đáo của tác phẩm và tài năng của nhà văn.
8


2.2.2.4. Kĩ năng diễn đạt
Kĩ năng diễn đạt được sử dụng trong tất cả các hoạt động của cảm thụ văn
học, đó là khâu cuối cùng, diễn đạt kết quả cảm thụ bằng lời văn của mình. Khi
nói hoặc khi viết, lời văn phải đủ ý, rõ ràng, dùng từ phải chính xác và phải được
trau chuốt.
Tóm lại, luyện tập và củng cố vững chắc các thao tác trong cảm thụ văn
học cho học sinh là biện pháp tốt nhất để nâng cao hiệu quả của cảm thụ văn
học.
2.2.3. Hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm

9


Đọc diễn cảm là thể hiện sáng tạo tác phẩm văn học trong giọng đọc nhằm
tác động đến những người nghe. Nếu như các biện pháp khác thông thường tác
động đến lí trí thì đọc diễn cảm, trước hết và chủ yếu tác động đến tình cảm. Bởi
vì, về thực chất đọc diễn cảm thuộc nghệ thuật trình diễn, nó có những điểm
tương đồng với ngâm thơ hoặc trình diễn ca khúc. Nếu giáo viên đọc diễn cảm
tốt thì sẽ tạo nên bầu không khí tươi mát trong giờ học. Người học, trong chừng
mực nào đó, có thể thưởng thức giọng đọc và dễ sản sinh những ấn tượng, xúc
động tự nhiên về văn bản. Có thể thấy rất rõ rằng trên thực tế học sinh ở nhà đã
tiếp xúc với văn bản không chỉ một lần; việc lên lớp đọc lại văn bản nếu không
tạo được sự khác biệt thì dễ gây nhàm chán và mất tập trung. Do đó, bằng hình
thức đọc diễn cảm, giáo viên có thể tạo cho học sinh những bất ngờ, hoặc sự
hứng thú và có thể khiến các em bỗng nhiên có cảm nhận mới mẻ về văn bản.
Đó là chưa nói nếu như giáo viên yêu cầu học sinh trình bày thì có thể tạo cơ hội

cho các em bộc lộ bản thân. Đương nhiên, giáo viên phải gieo vào học sinh ý
thức đọc sao cho cuốn hút chứ không phải là qua chuyện, và đọc ở đây là thể
hiện sự cảm thụ và thể nghiệm sâu sắc về tác phẩm, là làm sao để người khác
cũng có thể sản sinh những ấn tượng tương tự như mình. Diễn cảm ở đây hoàn
toàn không phải là ở sự uốn éo đầu lưỡi mà thể hiện những cảm xúc nội tại của
tâm hồn. Vấn đề đang nói sẽ sáng tỏ hơn khi chúng ta làm rõ vấn đề tại sao lại
phải đọc diễn cảm. Trước hết, vì ngôn từ văn bản nghệ thuật được tổ chức đặc
biệt, nhà văn phải là nghệ sĩ ngôn từ. Ngôn từ văn học là ngôn từ mang tính hình
tượng, biểu cảm, và ở những tác phẩm thơ chúng ta có thể nói đến tính nhạc của
ngôn từ. Đọc thơ là để làm cho tác phẩm thơ vang lên như một bản nhạc làm cho
nó ngân nga trong hồn người. Giáo sư Trần Thanh Đạm cho rằng đọc diễn cảm
tác phẩm thơ là phải đọc làm sao cho tác phẩm “sáng hết hình và ngân hết
nhạc”. Tuy nhiên, một phương diện khác quan trọng hơn, đấy là nội dung cảm
hứng của văn bản, sản phẩm của việc thể hiện những rung động mãnh liệt, cảm
hứng nồng nàn, cháy bỏng của nghệ sĩ vào tác phẩm. Đọc diễn cảm là làm sao
lột tả được nội dung tình cảm của nó, phải đọc đúng giọng điệu, làm lây lan cảm
xúc của nhà văn đến người đọc, truyền cảm hứng cho độc giả. Ngay tên gọi đã
nói đúng bản chất của việc đọc diễn cảm, đó là người đọc phải thể hiện xúc cảm,
tình cảm trong giọng đọc. Những cảm xúc này không phải giả tạo mà phải là
cảm xúc chân thành, sâu sắc về văn bản. Nói đọc diễn cảm thuộc nghệ thuật
trình diễn trước hết không phải là “khoe giọng” mà là sự thể hiện xúc động của
trái tim. Chính vì thế, giáo viên sử dụng thích đáng biện pháp này sẽ tạo cho học
sinh những ấn tượng tươi mới, những xúc động mạnh mẽ về văn bản; đồng thời
nó có khả năng kích thích liên tưởng, tưởng tượng tạo sự thâm nhập thuận lợi
vào thế giới nghệ thuật của văn bản. Cho nên, đây là biện pháp có tác dụng rèn
luyện cảm thụ văn học cho học sinh. Giáo viên có thể sử dụng biện pháp này
trước khi hướng dẫn học sinh bước vào phân tích cụ thể văn bản, hoặc kết hợp
với việc phân tích; cũng hoàn toàn có thể sử dụng sau khi đã hoàn tất việc tìm
hiểu văn bản. ở mỗi thời điểm nó đều có tác dụng riêng; hoặc là tạo những ấn
tượng chung; hoặc kiểm nghiệm hay khắc sâu một sắc thái tình cảm nào đó;

hoặc củng cố, thống nhất, nâng cao mọi ấn tượng về văn bản.
10


Trong đọc diễn cảm, nhất là thơ thì việc phân tích nhịp điệu thơ cũng cần
được chú trọng. Đây là một biện pháp rất quan trọng giúp các em phát triển năng
lực cảm thụ. Với lứa tuổi nhi đồng, nhịp tim, nhịp thở của các em nhanh, khả
năng đọc và phát âm dài chưa phát triển toàn diện. Do đó, muốn các em nắm bắt
được câu, từ, nhịp điệu của bài, giáo viên đi vào phân tích nhịp điệu của thơ sao
cho phù hợp với cách cảm, cách nghĩ và tâm, sinh lí của các em. Giúp các em
nhận ra được nhịp điệu thơ là cách để giúp các em tìm thấy hứng thú khi đọc
thơ, thấy được tính nhạc, sự ngân nga, du dương ở trong từng câu, từng chữ của
bài thơ.
Thơ khác văn xuôi là ở nhịp điệu. Sự trùng điệp tạo nên nhịp điệu tương
ứng trong suốt bài thơ, những âm vang, những tiếng vọng sau mỗi tác phẩm. Có
thể nói thơ là cây đàn và mỗi từ là một nhịp, một cung bậc. Chính nhịp điệu thơ
làm cho thơ ngân vang. Nhịp điệu bao gồm nhiều yếu tố âm tiết, đoạn tiết tấu,
giai điệu, vần thơ. Sự kết hợp hài hòa tạo nên nhịp điệu thơ. Phong cách của nhà
thơ cũng lấy nhịp điệu thơ để phân biệt. Trong thơ việc sử dụng các từ tượng
hình, từ tượng thanh, các từ láy, các âm bằng, trắc... tạo nên nhịp điệu bên ngoài,
tính nhạc nổi rõ trước mắt. Thông qua nhạc điệu bên ngoài mà người đọc cảm
nhận được nhạc điệu bên trong của tác phẩm. Đây là điều làm nên sức hút của
nhà thơ, chất riêng của mỗi tác phẩm. Nhịp điệu bên trong thể hiện cái hồn, cái
nóng ấm của tâm hồn nhà thơ. Đó là cảm xúc buồn hay vui, sôi nổi hay sâu lắng,
bâng khuâng hay mạnh mẽ...
“Hành trình của bầy ong”, “Sắc màu em yêu” (Phạm Đình Ân)... là những
bài thơ được “xử lí” nhịp điệu khá kĩ lưỡng. Mỗi bài thơ có một sự ngân hưởng
riêng. “Sắc màu em yêu” có nhịp đập nhanh, sôi nổi trong khi “Hành trình của
bầy ong” lại chầm chậm phả vào hồn người cái cảm giác bâng khuâng, nhẹ
nhàng, sâu lắng như lời hát ru…

2.2.4. Trần thuật sáng tạo
Đây là biện pháp thường được dùng với học sinh THCS. Tuy nhiên, trong
quá trình dạy Tiếng Việt, đặc biệt là phân môn Tập làm văn, Tập Đọc ở lớp 5
cũng cần sử dụng ở mức đơn giản. Trần thuật sáng tạo là tự đặt mình vào một
nhân vật nào đó trong văn bản mà trần thuật lại câu chuyện của nó. Hình thức
này phát huy sáng tạo của học sinh, rèn luyện năng lực hoá thân, nhập thân vào
nhân vật. Khi trần thuật, trong chừng mực nào đó, học sinh phải đặt mình vào vị
trí nhân vật, thể nghiệm những gì mà nhân vật nếm trải trong tình huống của nó,
từ đó hiểu sâu sắc hơn về nhân vật và mở rộng kinh nghiệm đời sống. Biện pháp
này khiến học sinh hào hứng học tập, xoá bỏ khoảng cách với văn bản, phát huy
được sự sáng tạo. Giáo viên phải thực hiện biện pháp này một cách linh hoạt,
không nên rập khuôn. Việc trần thuật có thể thay cho việc đọc, hoặc thực hiện ở
phần củng cố bài học, tuỳ vào đối tượng học sinh. Giáo viên nhất thiết phải có
sự động viên khích lệ cũng như những hướng dẫn, uốn nắn cần thiết. Mục đích
chính của trần thuật sáng tạo không phải là để học sinh nắm vững hệ thống cốt
truyện của văn bản mà là con đường để cảm thụ văn bản.
2.2.5. Đặt những câu hỏi gợi cảm xúc, liên tưởng, tưởng tượng
11


Trước hết là những câu hỏi gợi cảm xúc, ở dạng đơn giản nhất chính là những
câu hỏi trắc nghiệm tình cảm. Những câu hỏi này có thể kiểm tra phản
ứng tình cảm của học sinh; mặt khác nó thúc đẩy sự đồng cảm, khuyến
khích các em lắng nghe tiếng nói của trái tim. Chẳng hạn, sau khi đọc
diễn cảm, giáo viên có thể hỏi: Em có ấn tượng thế nào về văn bản? Dạng
câu hỏi này thường được gọi là câu hỏi ấn tượng chung. Và ở dạng tương
tự, sẽ có các câu hỏi như: Em ấn tượng thế nào về (đoạn thơ, khổ thơ, câu
thơ…trong bài thơ; hay hành động, ngôn ngữ, tích cách nhân vật… trong
truyện)? Nhưng cũng có những hình thức đặt câu hỏi sáng tạo hơn, dựa
vào việc khơi gợi liên tưởng của học sinh mà tạo sự đồng cảm, thể nghiệm

văn bản. Ví dụ: Trong bài Ê – mi – li, con của nhà thơ Tố Hữu, giáo viên
có thể hỏi các câu hỏi như Em nghĩ gì về chú Mo – rin – xơn? Em sẽ nói
gì khi gặp lại con gái của chú Mo – rin – xơn?... Những câu hỏi dạng này
khiến học sinh phải huy động kinh ngiệm bản thân để soi sáng bản chất
nhân vật, dễ đồng cảm sâu sắc với tình huống và cảnh ngộ của nó. Ngoài
ra, giáo viên có thể dùng những câu hỏi khơi gợi tưởng tượng của học
sinh. Văn học dùng ngôn ngữ làm chất liệu, do tính chất phi vật thể của
ngôn ngữ nên hình tượng văn học không thể tác động trực tiếp vào giác
quan của người đọc, mà chỉ tác động gián tiếp thông qua liên tưởng,
tưởng tượng. Cho nên thưởng thức văn bản văn học đòi hỏi phải huy động
tưởng tượng, hình thức tưởng tượng để làm nổi bật lên bức tranh đời sống
trong văn bản thường được gọi là tưởng tượng tái tạo. Để huy động hình
thức tưởng tượng này của học sinh vào cảm thụ văn bản, giáo viên có thể
đặt các câu hỏi với dạng sau: Em hình dung thế nào về bức tranh (Với bài
Quang cảnh làng mạc ngày mùa của Tô Hoài) được tác giả thể hiện trong
tác phẩm? Ở đây, hoàn toàn không phải là việc phân tích bức tranh mà là
yêu cầu học sinh phải có cái nhìn bên trong thầm kín, phải hình dung thấy
bức tranh đó trong đầu mình, và trong chừng mực nhất định là sống với
nó, đồng cảm với nó. Khả năng tưởng tượng càng cao thì sự thâm nhập
vào văn bản càng sâu sắc, và người đọc có xu hướng quên đi thế giới thực
tại, sống bằng thế giới tưởng tượng do nhà văn sáng tạo nên. Nhưng
tưởng tượng trong cảm thụ văn học còn có hình thức khác đó chính là sự
nhập thân vào nhân vật, làm sống lại trên chính bản thân mình những cảm
xúc nhân vật trải qua. Với thao tác liên tưởng, học sinh vận dụng những gì
mình đã trải nghiệm để hiểu nhân vật, còn hình thức tưởng tượng lại yêu
cầu học sinh thể nghiệm những gì chưa hề trải qua. Nó tạo ra sự xúc động,
đắm say mãnh liệt đối với văn bản.
2.2.6. Dùng lời bình đúng thời điểm

12



Dùng những lời bình hấp dẫn và đúng chỗ có tác dụng rất lớn trong việc
rèn luyện cảm thụ cho học sinh. Trước hết, nó khiến học sinh có những ấn tượng
sâu sắc khó phai mờ về vẻ đẹp của văn chương; sau đến, rèn luyện khả năng
thẩm định những điểm sáng thẩm mỹ trong văn bản. Biện pháp này cho phép
giáo viên phát huy phẩm chất nghệ sĩ của mình; và cũng vì thế kích thích mầm
sáng tạo của học sinh, tạo nên sự giao lưu về tình cảm trong giờ văn. Nhưng
tuyệt nhiên giáo viên không được lạm dụng biện pháp này, bởi nhiệm vụ chính
của giáo viên là tổ chức để học sinh cảm thụ và lĩnh hội giá trị của văn bản chứ
không phải là trổ tài trình diễn để thôi miên học sinh. Do đó, giáo viên chỉ tung
ra lời bình khi học sinh cảm nhận chưa tới, đánh giá chưa xác đáng và những lời
bình lúc đó có tác dụng hỗ trợ, tiến tới khắc sâu ấn tượng cho học sinh, tạo nên
những khoái cảm thẩm mỹ. Lời bình vì thế, trước hết phải giàu cảm xúc, là sản
phẩm của sự xúc động sâu sắc trước vẻ đẹp của văn bản. Mặt khác, nó phải độc
đáo, giáo viên phải chọn cách nói ấn tượng, ưu tiên tiên những lối diễn đạt giàu
hình ảnh nhằm tác động mạnh đến học sinh. Hơn nữa, giáo viên chọn bình
những chi tiết nào là điểm sáng nghệ thuật của tác phẩm và việc bình giá nó giúp
học sinh nắm được thần thái, linh hồn của văn bản. Ví dụ bài thơ Đất nước uyễn
Đình Thi: “Trời thu thay áo mới/ Trong biếc nói cười thiết tha” làm hiện lên
gương mặt một đất nước mới dạt dào niềm vui say đắm vì được làm chủ vận
mệnh của mình. Hay Cuộc đối thoại đầy tính biểu tượng của cha – con trong
“Những cánh buồm” neo đậu bằng từ “gặp”: “Cha gặp lại mình trong những ước
mơ con” trước những câu hỏi hồn nhiên, trước khát vọng đi tới chân trời xa của
con, cha dõi ánh mắt về miền “xa thẳm” và bất chợt “gặp lại mình”, gặp lại ước
mơ chưa đạt được của chính mình. Nghĩa là phải gợi lên những tình huống của
nhân vật, liên hệ với tình huống của bản thân để từ đó có những lời bình thích
đáng, xuất phát từ những rung động sâu xa, chân thật của tâm hồn. Nó làm cho
rung động của nhà văn nay hiện hình trong tâm hồn của học sinh. Học sinh nói
về nhân vật, về văn bản là đang nói lên chính nỗi lòng mình.

2.2.7. Lồng ghép với các loại hình nghệ thuật khác

13


Một số nhà nghiên cứu khẳng định việc đối chiếu văn bản với các loại hình
nghệ thuật khác có tác dụng làm hiện hình cảm thụ của học sinh, thúc đẩy học
sinh hình thành những ấn tượng về văn bản. Thông thường, một số giáo viên
đối chiếu văn bản với nghệ thuật hội hoạ hoặc điện ảnh. Tuy nhiên, giáo viên
không được lạm dụng, việc sử dụng các hình ảnh này mang tính chất đối chiếu,
so sánh về hai cách cảm thụ, hai cách nhìn, và hướng tới khơi gợi cảm thụ chứ
hoàn toàn không được dùng hình ảnh làm tài liệu trực quan như một số người
vẫn hay làm bởi đó là biện pháp thủ tiêu trí tưởng tượng của học sinh, học sinh
dễ có xu hướng đồng nhất văn bản với các tác phẩm nghệ thuật khác. Một số
văn bản trong chương trình đã được chuyển thể thành kịch bản điện ảnh thì giáo
viên có thể cho các em xem trong giờ ngoại khoá và có thể nêu ra một số vấn đề
để các em thảo luận. Đối với những văn bản thơ đã được phổ nhạc như Hạt gạo
làng ta của Trần Đăng Khoa hay Nếu chúng mình có phép lạ của Định Hải,…
giáo viên hoàn toàn có thể cho học sinh thưởng thức những ca khúc này, chúng
sẽ có tác dụng rất lớn trong việc tạo nên những xúc động mạnh mẽ của học sinh
về văn bản. Công việc này cùng với đọc diễn cảm có khả năng đánh thức cảm
giác về nhịp điệu, giai điệu cho học sinh và cũng từ đó cảm nhận những cung
bậc của tâm hồn đang hát lên trong những giai điệu đó.
2.2.8. Trau dồi hứng thú khi tiếp xúc với thơ văn
Ngay từ khi còn nhỏ, hầu hết các em đều thích nghe ông, bà, cha, mẹ hoặc
người thân kể chuyện, đọc thơ. Bước chân tới trường tiểu học, được tiếp xúc với
những câu thơ, bài văn hay trong sách giáo khoa tiếng Việt, nhiều em muốn đọc
to lên một cách thích thú. Đó chính là biểu hiện ban đầu của hứng thú học tiếng
Việt. Có hứng thú khi tiếp xúc với thơ văn, các em sẽ vượt qua được khó khăn,
trở ngại, cố gắng luyện tập để cảm thụ học tốt và học giỏi môn Tiếng Việt. Muốn

làm được điều đó, tôi luôn kiên trì luyện tập từng bước từ dễ đến khó. Bởi vậy,
các em đã có sự cảm thụ tốt về văn học.
Ví dụ: Khi dạy bài Đất nước ( Tiếng Việt 5- Tập 2) của nhà thơ Nguyễn
Đình Thi. Để cho học sinh cảm nhận được niềm vui, niềm tự hào về đất nước tự
do, tình yêu tha thiết của tác giả đối với đất nước, với truyền thống bất khuất của
dân tộc. Bên cạnh đó, để học sinh cảm nhận được hết giá trị nghệ thuật của bài
thơ, tôi phân tích rõ cho học sinh thấy tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật
nhân hóa ở trong bài thơ; lòng tự hào về đất nước tự do được thể hiện qua những
từ ngữ được lặp lại trong bài thơ như: Trời xanh đây, núi rừng đây, của chúng
ta, của chúng ta.....”. Những hình ảnh: “ Những cánh đồng thơm mát, những
ngả đường bát ngát, những dòng sông đỏ nặng phù sa...” được miêu tả theo
cách liệt kê như vẽ ra trước mắt cảnh đất nước tự do, bao la. Tất cả điều đó sẽ
được học sinh giải đáp qua hệ thống câu hỏi gợi mở như: Tác giả sử dụng biện
pháp nghệ thuật gì? Từ ngữ nào trong bài thơ được lặp lại nhiều lần? Lặp lại như
vậy có tác dụng gì?... Dựa vào những câu hỏi gợi mở trên chắc chắn học sinh sẽ
thi đua nhau tìm hiểu, các em sẽ có hứng thú học tập, lớp học sẽ sôi nổi hơn.
Như vậy, trau dồi hứng thú khi tiếp xúc với thơ văn cũng chính là tự rèn
luyện mình để có nhận thức đúng, tình cảm đẹp, từ đó đến với văn học một cách
tự giác, say mê - ấy chính là yếu tố quan trọng nhất của cảm thụ văn học.
14


2.2.9. Tích lũy vốn hiểu biết về thực tế cuộc sống và văn học
Cảm thụ văn học là quá trình nhận thức có ảnh hưởng bởi “vốn sống” của
mỗi người. Cái vốn ấy trước hết được tích lũy bằng những hiểu biết và cảm xúc
của bản thân qua sự hoạt động và quan sát hằng ngày trong cuộc sống. Có những
con vật , con người, sự việc diễn ra quanh ta tưởng chừng như rất quen thuộc,
nhưng nếu ta không chú ý quan sát, nhận xét để có cảm xúc và ghi nhớ thì chúng
ta sẽ không thể làm giàu thêm vốn hiểu biết về cuộc sống của ta. Chính vì vậy,
để làm giàu cho các em vốn hiểu biết về cuộc sống hằng ngày, tôi tập cho các

em quan sát với những giác quan: Mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi,... Nhưng để
quan sát như thế nào mới có kết quả tốt, tôi chỉ rõ cho học sinh quan sát tìm ra
nét chính, thấy được nét riêng của sự vật. Quan sát kĩ chẳng những giúp cho các
em viết được bài văn hay mà còn tạo điệu kiện cho các em cảm nhận được vẻ
đẹp của thơ văn một cách tinh tế và sâu sắc.
Ví dụ: Các em quan sát kĩ hoạt động của con vịt đang kiếm mồi ở trong ao
mới thấy được “ Chú lạch bạch đi lại trên bờ, đuôi ngúc ngoắc trông thật buồn
cười. Chợt mắt chú sáng rực lên, hình như chú đã phát hiện ra một con cá đang
bơi...” Hay quan sát kĩ mặt biển buổi sáng khi mặt trời lên, các em mới có thể
viết : “Mặt biển như rộng ra, xanh mênh mông. Mặt trời rực rỡ chiếu những tia
nắng hồng xuống mặt biển. Biển như đỏ hơn, xanh hơn, đón nhận những tia
nắng ấm áp đó...”
Bên cạnh vốn hiểu biết về thực tế cuộc sống, các em còn cần tích lũy cả
vốn hiểu biết về văn học thông qua việc đọc sách thường xuyên. Mỗi cuốn sách
có biết bao điều bổ ích và lí thú. Nó giúp ta mở rộng tầm nhìn cuộc sống, khơi
sâu những suy nghĩ và cảm xúc, góp phần khơi dậy năng lực cảm thụ văn học ở
mỗi học sinh. Song, để học sinh đọc sách có hiệu quả, tôi đã hướng dẫn các em
lựa chọn những quyển sách hay, phù hợp với lứa tuổi, có ích cho việc học tập và
tu dưỡng. Mặt khác, tôi còn hướng dẫn cụ thể phương pháp đọc sách cho học
sinh như sau:
+ Khi đọc sách, cần tập trung tư tưởng cao, luôn suy nghĩ về những điều
đang đọc để thấy cái hay, cái đẹp của tác phẩm. Đọc sách đến say mê sẽ cảm
nhận được những hình ảnh đẹp, những câu văn hay, những chi tiết xúc động.
+ Đọc sách cần có sự ghi chép, chọn lọc những điều bổ ích, lí thú, những từ
ngữ hay, những hình ảnh đẹp, những câu thơ, đoạn văn thích thú hoặc những
điều cảm nhận được nhằm trau dồi năng lực cảm thụ văn học của bản thân.
Chăm đọc sách, đọc sách có phương pháp tốt sẽ giúp ta “tự học” được
những điều thú vị, từ đó mà “lớn lên” cả về trí tuệ lẫn tâm hồn. Càng hiểu biết
sâu sắc về thực tế cuộc sống và văn học, trí tưởng tượng và cảm xúc của các em
sẽ càng thêm phong phú, chân thực. Đó chính là điều kiện quan trọng để giúp

các em cảm thụ văn học tốt.
2.2.10. Xây dựng hệ thống bài tập nhằm nâng cao năng lực cảm thụ văn học
cho học sinh lớp 5
Cùng với việc rèn kĩ năng,chúng ta nên xây dựng một hệ thống bài tập,
nhằm bồi dưỡng, nâng cao năng lực cảm thụ văn học cho học sinh,cụ thể là:
Dạng bài tập rèn kĩ năng đọc – hiểu.
15


Dạng bài tập rèn kĩ năng đọc diễn cảm.
Dạng bài tập rèn kĩ năng cảm thụ văn học.
Từ đó giúp giáo viên thiết lập một quy trình dạy xen lồng việc bồi dưỡng
năng lực cảm thụ văn học cho học sinh trong các tiết dạy Tiếng Việt.
Hệ thống bài tập chúng ta nên xây dựng gồm có 3 nhóm, mỗi nhóm được
chia thành các dạng nhỏ khác nhau. Việc sử dụng hệ thống bài tập này giúp giáo
viên có thể chủ động trong việc bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho học
sinh, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
2.2.10.1. Bài tập rèn kĩ năng đọc - hiểu cho học sinh
a. Kiểu 1: Nhóm bài tập giúp học sinh đọc – hiểu và cảm thụ nghĩa của từ
trong câu.
Các bài tập trong nhóm này giúp học sinh phát hiện được nghĩa bóng của
từ, là nghĩa phát sinh hay các tiền giả định của từ.Tất nhiên là trong một bài đọc,
không thể soi hết để tìm nghĩa bóng của tất cả các từ. Ở đây, chúng tôi muốn nói
đến các từ chứa nghĩa bóng quan trọng và chủ yếu trong câu, trong bài mà nếu
không hiểu được nghĩa các từ đó thì sẽ ảnh hưởng đến việc hiểu nội dung bài và
việc cảm thụ bài đọc đó. Dữ kiện của bài tập là các từ mang nghĩa hàm ngôn,
lệnh của bài tập là lựa chọn cách hiểu đúng nghĩa của từ trong câu, xác định mục
đích của việc sử dụng từ, cụm từ.
b. Kiểu 2: Bài tập giúp học sinh xác định nghĩa của câu văn.
Dữ kiện để xây dựng nhóm bài tập này là các câu thông thường hoặc là các

câu hội thoại trong bài đọc mang nhiều nghĩa, lệnh của bài tập là xác định đúng
nghĩa của câu trong hoàn cảnh giao tiếp hoặc nghĩa của câu mà tác giả đưa ra
như một kết luận mà không có luận cứ giúp học sinh hiểu kĩ, hiểu sâu nội dung
bài đọc.
Bài tập minh hoạ: Hãy khoanh vào chữ cái đặt trước câu trả lời mà em cho
là đúng (hoặc đúng nhất) trong bài tập sau:
Vì sao tác giả viết: “Tôi có cảm giác mình lạc vào một thế giới thần bí.”
a. Cảnh rừng xanh đẹp đẽ đến mức kì diệu.
b. Tác giả quá say mê với cảnh đẹp của rừng xanh.
c. Cả hai ý trên.
(Kì diệu rừng xanh – Tiêng Việt 5 – Tập1)
c. Kiểu 3: Nhóm bài tập giúp học sinh xác định ý chính của đoạn văn.
Để tìm được ý chính của đoạn văn, khổ thơ, người đọc thường phải sử dụng
các thao tác tư duy, phân tích, tổng hợp, phán đoán, lập luận… tức là phải dựa
vào nghĩa của các từ ngữ, các câu trong đoạn để phân loại thành nhóm có chung
chủ đề, rồi dựa vào các nhóm câu để phân tích tìm ra ý chung của các nhóm câu
đó. Dùng thao tác tổng hợp, tổng hợp ý của các nhóm câu thành một ý chung
nhất cho cả đoạn, để từ đó rút ra ý chung dưới dạng một câu, mà cốt lõi của nó
là một phán đoán. Nhưng cũng có khi ý chính của đoạn văn, khổ thơ lại được thể
hiện một cách tường minh ngay trong đoạn dưới hình thức câu chốt đoạn.
Dữ kiện của các bài tập này là các đoạn văn trong bài tập đọc. Lệnh của bài
tập là xác định đúng đoạn văn và ý chính đoạn văn trong bài đọc.
d. Kiểu 4: Nhóm bài tập giúp học sinh xác định đại ý của bài
16


Để xác định được đại ý của bài, học sinh phải được trang bị những hiểu biết
về tác giả, mục đích viết văn bản của tác giả, hoàn cảnh xã hội mà tác giả sáng
tác văn bản. Người đọc còn phải phát hiện xem sự kiện, nhân vật nào thể hiện lí
tưởng của tác giả, trở thành công cụ để biểu đạt tư tưởng của tác giả.Yêu cầu

tình cảm mà tác giả muốn thông qua tác phẩm gửi đến người đọc là gì.
Từ nghĩa của từ, câu, ý của đoạn văn trong văn bản, học sinh tổng hợp, chắt
lọc để tìm ra đại ý của bài hay việc phát biểu cảm nghĩ, nhận xét, rút ra bài học
từ các tình tiết, sự kiện trong bài.Bên cạnh các câu hỏi mà sách giáo khoa đưa ra,
giáo viên nên chuyển thành các kiểu câu hỏi nhiều lựa chọn (dạng trắc nghiệm),
câu hỏi điền thế…giúp học sinh nắm bài nhanh hơn, hiệu quả hơn.
e. Kiểu 5: Nhóm bài tập giúp học sinh xác định được đích tác động của văn
bản
Những câu hỏi, bài tập thể hiện cụ thể việc xác định đích tác động của bài
đọc như:
Bài tập : Theo em, bài văn thể hiện tình cảm gì của tác giả đối với quê
hương?
a. Rất yêu quê hương.
b. Rất tự hào về quê hương.
c. Rất vui vì quê hương đổi mới.
(Quang cảnh làng mạc ngày mùa-Tiếng Viêt5-Tập1)
g. Kiểu 6: Nhóm bài tập giúp học sinh hiểu về các biện pháp tu từ, cách
dùng từ đặt câu, phát hiện những chi tiết hình ảnh có giá trị trong bài tập đọc.
Bài tập : Em hãy đọc kĩ các dòng thơ sau đây:
Cả công trường say ngủ cạnh dòng sông.
Những tháp khoan nhô lên trời ngẫm nghĩ.
Những xe ủi, xe ben sóng vai nhau nằm nghỉ
Biển sẽ nằm bỡ ngỡ giữa cao nguyên.
Sông Đà chia ánh sáng đi muôn ngả.
a/ Các dòng thơ trên đã sử dụng biện pháp nghệ thuật gì?
A. So sánh.
B. Nhân hoá.
C. Ví von.
b/Hãy gạch chân các từ có sử dụng biện pháp nghệ thuật đó.
(Tiếng đàn Ba-la-lai-ca trên sông Đà-Tiếng Việt5-Tập1)

2.2.10.2. Bài tập rèn đọc diễn cảm cho học sinh
a.Những yêu cầu cơ bản của việc đọc diễn cảm các văn bản thuộc thể
loại: thơ, truyện cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn.
- Đối với thơ: Cần chú ý đến vần, nhịp; đọc nhanh, đọc chậm; câu ngắn,
câu dài; lên giọng, xuống giọng, ngân giọng…
- Đối với truyện cổ tích: Chú ý phân biệt giọng người kể chuyện với giọng
nhân vật. Giọng đọc cần khơi gợi tính chất li kì, huyền bí…
- Đối với truyện cười: Giọng đọc vui tươi, hóm hỉnh, hài hước; chú ý tạo
được sự bất ngờ mang chất hài.
Đối với truyện ngụ ngôn: Giọng đọc hóm hỉnh, thông minh, sắc sảo, thể
hiện tính triết lí và sự dày dạn kinh nghiệm cuộc sống.
17


b. Hướng dẫn học sinh tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau khả năng đọc
diễn cảm các văn bản nghệ thuật trong chương trình Tập đọc lớp 5.
Đánh giá theo các gợi ý sau đây:
a. Em đã đọc đúng âm chuẩn chưa?
b. Em có đọc rõ ràng, âm lượng vừa đủ, hay to quá, nhỏ quá?
c. Em có đọc lưu loát không? Nếu chưa lưu loát thì gặp ấp úng mấy lần? Lí
do vì sao lại như vậy?
d. Em đã chú ý đến đặc trưng thể loại chưa? Nếu đọc thơ, em có chú ý dến
ngữ điệu không? Nếu đọc truyện em có chú ý phân biệt giọng kể với giọng nhân
vật không?...
e. Khi đọc, em có biểu hiện được cảm xúc, tâm trạng của tác giả, của nhân
vật và của bản thân mình không?
g. Nét mặt, cử chỉ, điệu bộ, quần áo, giọng nói của em có phù hợp với nội
dung bài đọc hay không?
Hướng dẫn đánh giá như sau:
- Thực hiện tốt các yêu cầu a, b, c: Em sẽ được xếp vào loại Trung bình

(điểm 5;6).
- Thực hiện tốt các yêu cầu a, b, c, d: Em sẽ được xếp vào loại Khá (điểm
7;8).
- Thực hiện tốt các yêu cầu a, b, c, d, e: Em sẽ được xếp vào loại Giỏi
(điểm 9).
- Thực hiện tốt các yêu cầu a, b, c, d, e, f: Em sẽ được xếp vào loại Xuất
sắc (điểm 10)
c. Bài tập hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm dòng thơ, khổ thơ.
Bài tập : Có học sinh dùng kí hiệu / để biểu thị sự ngắt, nghỉ hơi khi đọc
diễn cảm đoạn thơ sau đây:
Chắt trong / vị ngọt mùi hương
Lặng thầm thay những / con đường ong bay
Trải bao mưa nắng vơi đầy
Men trời đất đủ / làm say đất trời.
(Hành trình của bầy ong – Tiếng Việt 5 – tập 1)
Theo em, cách đọc như thế đúng hay sai?( Khoanh chữ cái trước câu trả
lời đúng)
a. Đúng
b. Sai dòng thứ nhất
c. Sai dòng thứ hai, thứ tư
d. Các dòng đều sai
Em hãy sửa lại cho đúng và đọc diễn cảm cho cả lớp nghe.
2.2.10.3. Bài tập rèn kĩ năng cảm thụ cho học sinh
a. Loại bài nhận biết các biện pháp tu từ đã học ở trong bài văn, bài thơ
Loại bài tập này giúp học sinh chỉ ra những biện pháp tu từ đã sử dụng
trong các câu văn, câu thơ, cho học sinh hiểu dấu hiệu của từng biện pháp tu từ
để học sinh nhận ra một cách chính xác. Những biện pháp tu từ đó là: So sánh,
nhân hoá, ẩn dụ, hoán dụ, điệp từ, đảo ngữ. Khi hướng dẫn học sinh nhận dạng
từng biện pháp tu từ giáo viên phải minh hoạ bằng ví dụ cụ thể.
18



Bài tập: Ngoài từ “như”, tác giả còn dùng những từ ngữ nào để so sánh
trong đoạn thơ sau đây:
Bầm ra ruộng cấy bầm run
Chân lội dưới bùn, tay cấy mạ non
Mạ non bầm cấy mấy đon
Ruột gan bầm lại thương con mấy lần
Mưa phùn ướt áo tứ thân
Mưa bao nhiêu hạt thương bầm bấy nhiêu.
(Bầm ơi – Tiếng Việt 5 – tập 2)
b. Luyện cho học sinh sử dụng các biện pháp tu từ vào việc diễn đạt viết
câu văn cho sinh động:
Bài tập : Viết lại những câu văn sau có dùng điệp ngữ nhằm nhấn mạnh và
gợi cảm xúc cho người đọc:
a) Tôi yêu căn nhà đơn sơ, khu vườn đầy hoa thơm trái ngọt và cả luỹ tre thân
mật của làng tôi.
(b) Tôi lớn lên bằng tình thương của mẹ, của bố, của bà con xóm giềng nơi tôi ở.
c. Luyện bài tập về bộc lộ cảm thụ văn chương qua đoạn văn, đoạn thơ
Bài tập: Trong bài Đất nước (Tiếng Việt lớp 5 – tập 2) nhà thơ
Nguyễn Đình Thi có viết:
Mùa thu nay khác rồi,
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi,
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha.
Hãy viết một đoạn văn ngắn cho biết các động từ và tính từ in đậm ở hai
câu thơ cuối có tác dụng gợi tả sinh động như thế nào?
Qua việc áp dụng các biện pháp trên, học sinh đã có sự chuyển biến quả bài
khảo sát năng lực cảm thụ văn học.

Kết quả khảo sát khả năng cảm thụ văn học của học sinh lớp 5A cuối kì 1 năm
học 2018 – 2019 của giáo viên chủ nhiệm như sau:

Tổng
Điểm 1 – 2 Điểm 3 – 4 Điểm 5 – 6
số HS
26

SL
0

%
0

SL
0

%
0

SL
1

%
3,8

Điểm 7 - 8

Điểm 9 - 10


SL
2

SL
23

%
7,6

%
88,6

19


3. KẾT LUẬN
3.1. Ý nghĩa của việc phát triển năng lực cảm thụ văn học cho học sinh lớp 5
Cảm thụ văn học, nói chính xác hơn - tiếp nhận văn học là quá trình nhận
thức cái đẹp được chứa đựng trong thế giới ngôn từ, hệ thống tín hiệu thứ hai
của loài người. Nói một cách đơn giản, cảm thụ văn học là quá trình tiếp nhận,
hiểu, cảm được văn chương, tính hình tượng của văn chương, đặc trưng ngôn
ngữ nghệ thuật, đặc trưng phản ánh nghệ thuật của văn chương. Kĩ năng cảm thụ
văn học của học sinh được hình thành chủ yếu trong giờ tập đọc. Các bài tập
cảm thụ văn học yêu cầu học sinh phát hiện ra tín hiệu văn chương, giải mã các
tín hiệu văn chương, đánh giá các giá trị của các tín hiệu này trong việc biểu đạt
nội dung.
Dạy cho học sinh cảm thụ văn học tốt không phải là điều dễ dàng nhưng
nếu người giáo viên có phương pháp, biện pháp dạy học tốt sẽ giúp các em cảm
thụ văn học tốt. Đó chính là khả năng khám phá cái hay, cái đẹp của văn
chương, của cuộc sống. Đó là đường nét, màu sắc, hình vị, âm thanh, nhịp

điệu... được diễn tả sinh động trong từng bài văn, bài thơ nhằm giúp cho các em
tự khám phá những năng lực sáng tạo còn tiềm ẩn ngay trong tâm hồn thông
minh và đáng yêu của bản thân mình. Thực hiện được những biện pháp nêu trên
sẽ giúp các em cảm thụ văn học tốt hơn, từ đó càng thêm yêu thích môn học
Tiếng Việt - môn học mang đến biết bao vẻ đẹp, niềm vui và hứng thú. Qua sáng
kiến này, tôi xin tóm gọn lại một số kết luận sau:
- Bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho học sinh là rất cần thiết và là
việc làm thường xuyên của mỗi giáo viên.
- Có nhiều biện pháp để bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho học sinh
tùy theo điều kiện, năng lực của học sinh, lớp học mà giáo viên áp dụng phương
pháp dạy học cho phù hợp để giúp học sinh cảm nhận tốt tác phẩm.
- Việc bồi dưỡng năng lực cảm thụ phải đi theo một trình tự nhất định,
không được nóng vội mà đốt cháy giai đoạn. Điều đó sẽ không mang lại hiệu
quả cao. Trước hết giáo viên phải rèn cho học sinh kĩ năng đọc đúng văn bản rồi
đến đọc hiểu, đọc diễn cảm. Sau khi thực hiện được những khâu này thì giáo
viên mới đi vào tìm hiểu nội dung, ý nghĩa, các biện pháp nghệ thuật được sử
dụng trong bài đọc. Ngoài ra, giáo viên phải đặt những câu hỏi gợi cảm xúc,
tưởng tượng để các em suy nghĩ và trả lời, tăng cường các hình thức tổ chức dạy
học để học sinh thêm hứng thú.
3.2. Kiến nghị, đề xuất
3.2.1. Về phía nhà trường, giáo viên
- Nhà trường cần mua thêm nhiều sách, báo tham khảo liên quan đến dạy
cảm thụ văn học cho giáo viên làm tài liệu tham khảo.
- Muốn bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho học sinh đạt hiệu quả cao
trước hết người giáo viên phải bồi dưỡng và rèn luyện cho mình năng lực cảm
thụ văn học, đồng thời phải biết dẫn dắt, hướng dẫn các em tự cảm thụ các tác
phẩm.

20



- Để học sinh có được nhận thức đúng, tình cảm đẹp đến với mỗi bài, mỗi
tác phẩm có một say mê, người giáo viên cần trau dồi hứng thú cho học sinh khi
tiếp xúc với thơ văn bằng phương pháp linh hoạt và phù hợp.
- Người giáo viên cần cho học sinh rèn luyện liên tục, có hệ thống các bài
tập cảm thụ văn học sau mỗi giờ học đặc biệt là phân môn Tập đọc.
- Để hỗ trợ cho vấn đề cảm thụ văn học đạt kết quả cao giáo viên cần chú
trọng truyền đạt đầy đủ các kiến thức cơ bản về Tiếng Việt cho học sinh thông
qua tất cả các phân môn của môn Tiếng Việt.
- Tổ chức các sân chơi về cảm thụ văn học cho học sinh.
3.2.2. Về phía học sinh
- Phải chủ động sưu tầm sách, báo để nghiên cứu phát triển khả năng cảm
thụ văn chương.
- Khi học một tác phẩm học sinh cần nắm chắc nội dung, ý nghĩa của bài,
khai thác hết các biện pháp nghệ thuật để phát huy trí tưởng tượng, sáng tạo
trong học tập cũng như nâng cao khả năng cảm thụ văn học của bản thân.
- Các em nên đọc nhiều thể loại tác phẩm khác nhau như: thơ, văn xuôi…
để có nhiều cảm nhận phong phú, thú vị về văn chương.
Trên đây là một số kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy của bản thân. Do
thời gian nghiên cứu chưa nhiều, tôi rất mong nhận được sự góp ý, bổ sung của
lãnh đạo nhà trường cũng như các đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn.

21


MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
1.1. Lí do chọn sáng kiến......................................................................................1
1.2. Điểm mới của sáng kiến.................................................................................2

1.3. Phạm vi nghiên cứu và áp dụng.....................................................................2
2. NỘI DUNG.......................................................................................................3
2.1. Thực trạng nhận thức về cảm thụ văn học của nhà trường, giáo viên và học
sinh........................................................................................................................3
2.1.1. Nhà trường...................................................................................................3
2.1.2. Giáo viên.....................................................................................................3
2.1.3. Học sinh.......................................................................................................4
2.2. Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 phát triển năng lực cảm thụ văn học.............4
2.2.1. Giáo viên – người truyền lửa cần có các kĩ năng về cảm thụ văn học........4
2.2.2. Luyện tập các thao tác trong cảm thụ văn học cho học sinh.......................7
2.2.3. Hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm..............................................................8
2.2.4. Trần thuật sáng tạo....................................................................................10
2.2.5. Đặt những câu hỏi gợi cảm xúc, liên tưởng, tưởng tượng........................10
2.2.6. Dùng lời bình đúng thời điểm...................................................................11
2.2.7. Lồng ghép với các loại hình nghệ thuật khác............................................12
2.2.8. Trau dồi hứng thú khi tiếp xúc với thơ văn..............................................12
2.2.9. Tích lũy vốn hiểu biết về thực tế cuộc sống và văn học............................13
2.2.10. Xây dựng hệ thống bài tập nhằm nâng cao năng lực cảm thụ văn học cho
học sinh lớp 5......................................................................................................14
3. KẾT LUẬN....................................................................................................18
3.1. Ý nghĩa của việc phát triển năng lực cảm thụ văn học cho học sinh lớp 5.............18
3.2. Kiến nghị, đề xuất........................................................................................18
3.2.1. Về phía nhà trường, giáo viên...................................................................18
3.2.2. Về phía học sinh........................................................................................19

22


23




×