Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

SKKN một số biện pháp thực hiên rèn kĩ năng nói viết trong phân môn tập làm văn lớp 3b

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.73 KB, 19 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

MỘT SỐ BIỆN PHÁP THỰC HIÊN RÈN KĨ NĂNG NÓI- VIẾT
TRONG PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN LỚP 3

Lệ Thủy, tháng 5 năm 2019


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Môn Tiếng Việt cùng các môn học khác có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh
bốn kỹ năng: “nghe - nói - đọc - viết”. Tập làm văn là phân môn thực hành và rèn
luyện tổng hợp bốn kỹ năng đó, có tính chất tích hợp các phân môn khác trong
môn Tiếng Việt. Qua tiết Tập làm văn, học sinh có khả năng xây dựng một văn bản
nói hoặc viết.
Ngôn ngữ giữ vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển xã hội. Chính
vì vậy, hướng dẫn cho học sinh nói đúng, viết đúng là hết sức cần thiết. Nhiệm vụ
đó phụ thuộc phần lớn vào việc dạy Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm
văn nói riêng.
Qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy Tập làm văn là phân môn khó trong các
phân môn của môn Tiếng Việt. Trong quá trình tham gia vào các hoạt động học tập,
do vốn từ còn hạn chế nên học sinh còn ngại nói, vì vậy tiết học chưa đạt hiệu quả
cao.
Xuất phát từ thực tế đó, tôi tiến hành nghiên cứu và đưa ra một số kinh
nghiệm: “Rèn kỹ năng nói - viết qua phân môn Tập làm văn lớp 3, góp phần nâng
cao chất lượng môn Tiếng Việt” để áp dụng trong giảng dạy.
Với những điểm đổi mới vừa nêu trên, trong thực tế, có lúc giáo viên chưa
nhận thức triệt để nên phương pháp dạy một số bài tập làm văn vẫn còn nặng nề về
thuyết trình, giảng giải, chú trọng hoạt động của giáo viên, chưa đề cao vai trò chủ



động tích cực của học sinh. Do đó, trong giờ Tập làm văn, chỉ một số ít học sinh
được luyện nói và phát biểu ý kiến về nội dung bài. Quy trình dạy Tập làm văn
chưa hợp lí, nhiều khi còn sa đà vào nhiệm vụ chuẩn bị bài của học sinh. Khâu
luyện nói, viết bị coi nhẹ. Khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài, giáo viên cũng
nặng nề về cách viết bài, chưa chú ý tổ chức cho học sinh hoạt động để rèn kĩ năng
nói, viết.
Từ những vấn đề nhận thức trên, tôi thấy trong những năm qua, việc thực
hiện đổi mới PPDH ở trường tôi đang còn rất hạn chế, chưa thực sự đáp ứng được
yêu cầu trong việc đổi mới PPDH. Chính vì vậy, tôi muốn tìm ra một số giải pháp
cơ bản để thực hiện có hiệu quả việc đổi mới PPDH cho phân môn Tập làm văn
trong môn học Tiếng Việt (lớp 3) mà tôi đang thực hiện giảng dạy, với mong muốn
góp phần nhỏ bé của mình vào việc đổi mới PPDH đạt hiệu quả cao.
2. Điểm mới của sáng kiến.
Qua tìm hiểu thực tế, tôi nhận thấy các giáo viên trực tiếp dạy môn Tiếng
Việt, trong đó có phân môn Tập làm văn, trong PPDH, mặc dù đã thực hiện giảng
dạy theo hướng đổi mới nhưng còn ở mức độ đơn giản. Và cũng chưa có giáo viên
nào nghiên cứu để đưa ra những sáng kiến, tìm ra những giải pháp hữu hiệu áp
dụng vào việc đổi mới phương pháp giảng dạy phân môn Tập làm văn. Tôi muốn
đưa ra cách thực hiện đổi mới PPDH phân môn Tập làm văn (Lớp 3), đặc biệt là
dạy học theo hướng VNEN - PPDH hiện nay đang được toàn ngành Giáo dục Đào tạo chú trọng để áp dụng vào giảng dạy một cách hiệu quả, góp phần nâng cao
chất lượng cho học sinh trong việc rèn kĩ năng nói - viết, những kĩ năng sử dụng


tiếng Việt để học sinh học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa
tuổi, nhằm đạt được mục tiêu của môn Tiếng Việt ở bậc Tiểu học.
Việc nghiên cứu để xây dựng đề tài sáng kiến kinh nghiệm này đã tiến hành
trong thời gian dài, được bản thân rút kinh nghiệm qua quá trình giảng dạy các
môn học, đặc biệt là phân môn Tập làm văn. Những kinh nghiệm tích luỹ được
trong giảng dạy trong đó có sự tiến bộ của học sinh ở phân môn Tập làm văn, được

giáo viên ghi chép vào nhật kí dạy học. Những kết quả giảng dạy được bản thân
thường xuyên cập nhật để so sánh, rút kinh nhiệm vào từng thời điểm trong năm
học và so sánh kết quả với những năm học trước. Từ đó đề ra những biện pháp để
giảng dạy đạt kết quả cao hơn.

PHẦN NỘI DUNG
1.Thực trạng.
a. Thuận lợi:
- Chương trình, SGK: Phân môn Tập làm văn của toàn cấp học nói chung và
trong chương trình Tiếng Việt lớp 3 nói riêng, bên cạnh kế thừa những ưu điểm của
SGK cũ, SGK mới còn đưa vào một số bài tập làm văn với kiểu loại phong phú:
nghe kể, nói, viết về các chủ điểm... giúp học sinh biết được nhiều kiểu loại văn
bản. Có nhiều văn bản vui, khôi hài giúp trẻ phát triển trí tuệ, óc thông minh, khiếu
hài hước. Các chủ điểm được chia nhỏ, mở rộng và nâng cao qua mỗi lớp. Văn bản
có tính nghệ thuật cao. Câu hỏi khai thác bài có khả năng phát triển tư duy.
- Đối với giáo viên:


Trong việc thực hiện đổi mới Chương trình sách giáo khoa bậc Tiểu học, do
đặc trưng phân môn Tập làm văn với mục tiêu cụ thể là: hình thành và rèn luyện
cho học sinh khả năng trình bày văn bản nói - viết ở nhiều thể loại khác nhau. Vì
vậy, giáo viên luôn không ngừng học hỏi, cải tiến phương pháp dạy học phù hợp
mục tiêu dạy và học để dẫn dắt rèn luyện học sinh thực hành nói, viết một cách độc
lập, sáng tạo.
Giáo viên luôn ý thức quan tâm, chăm chút học sinh trong từng tiết học. Với
mỗi loại bài tập, giáo viên đã nghiên cứu kĩ kế hoạch bài dạy để lựa chọn và tổ
chức những hình thức luyện tập sao cho phù hợp với đối tượng học sinh. Bên cạnh
đó, giáo viên luôn động viên khuyến khích, khơi gợi ở học sinh trí tưởng tượng, óc
sáng tạo. Từ đó kích thích được sự tìm tòi ham học hỏi ở học sinh, hình thành thói
quen học tập tốt phân môn Tập làm văn.

Để giúp học sinh viết được những bài văn hay, ý tưởng phong phú, sáng tạo,
giáo viên luôn chú trọng rèn kĩ năng nói cho học sinh vì học sinh nói tốt sẽ trình
bày bài viết tốt.
Qua các phương tiện thông tin đại chúng: xem đài, đọc sách báo, tài liệu…
giáo viên thường xuyên được tiếp cận với việc đổi mới phương pháp.
- Đối với học sinh:
Ở lứa tuổi học sinh lớp ba, các em rất ham tìm tòi học hỏi.
Nội dung chương trình môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn
nói riêng rất phong phú; kênh hình Sách giáo khoa được trình bày đẹp, phù hợp
tâm sinh lí lứa tuổi các em.


Học sinh đã nắm vững kiến thức, kĩ năng tạo lập ngôn bản, kĩ năng kể
chuyện, miêu tả từ các lớp dưới. Đây là cơ sở giúp các em học tốt phân môn Tập
làm văn lớp ba.
b. Khó khăn:
Tập làm văn là phân môn khó so với các phân môn khác của môn Tiếng
Việt, vì vậy việc dạy - học phân môn này có những hạn chế nhất định.
Trong việc rèn kĩ năng nói - viết cho học sinh, giáo viên có đầu tư nghiên
cứu mục tiêu các tiết dạy để lựa chọn các phương pháp và hình thức tổ chức dạy
học sao cho phù hợp từng đối tượng học sinh, nhưng sự đầu tư chưa sâu nên hiệu
quả dạy học phân môn Tập làm văn chưa cao.
Một số bài trong chương trình đề ra chưa gần gũi với học sinh như: Lễ hội,
tin thể thao…Dụng cụ trực quan thiếu, nên học sinh còn mơ hồ, việc nắm bắt được
thông tin còn hạn chế, vì vậy bài làm không đạt hiệu quả cao.
Chất lượng phân môn Tập làm văn đầu năm rất thấp, học sinh chưa biết viết
đoạn văn có ý tưởng phong phú, sáng tạo mà chỉ biết trả lời theo câu hỏi gợi ý.
Đấy là vấn đề nan giải đòi hỏi giáo viên phải có biện pháp thích hợp để từng bước
giảng dạy đạt kết quả.
c.Nguyên nhân :

Một số phụ huynh chưa quan tâm, chưa có biện pháp và thời gian hướng
dẫn các em học tập. Một số phụ huynh chưa biết cách hướng dẫn các em học ở nhà
do không có kiến thức. Mặt khác một vài phụ huynh ngại đi họp do con học yếu, vì
thế mà việc trao đổi tình hình học tập của học sinh giữa giáo viên chủ
nhiệm và phụ huynh còn gặp khó khăn.


d. Số liệu khảo sát đầu năm:

Nội dung khảo sát
Biết viết câu, dùng từ hợp lí
Biết nói, viết thành câu
Biết dùng từ, câu văn có hình ảnh
Biết trình bày đoạn văn
Bài viết đạt trung bình trở lên

Kết quả khảo sát
Số lượng

Tỉ lệ

10
12
6
15
20

41,7%
50,0%
25,0%

62,5%
83,3%

2. Một số giải pháp thực hiện rèn kĩ năng nói - viết đạt hiệu quả trong
phân môn Tập làm văn lớp 3.
Biện pháp thứ nhất: Trang bị kiến thức cho học sinh luôn chú trọng việc
lồng ghép kiến thức giữa các phân môn Tiếng Việt:
Với thể loại nói - viết trong phân môn Tập làm văn lớp 3, học sinh được rèn
luyện kĩ năng nói dựa trên những gợi ý ở sách giáo khoa và viết một đoạn văn
ngắn khoảng 5 đến 6 câu với các chủ đề: nói về quê hương, gia đình, người lao
động, kể vể lễ hội, trận thi đấu thể thao, bảo vệ môi trường…
Do khả năng tư duy của học sinh còn hạn chế, óc quan sát, trí tưởng tượng
không phong phú lại chưa chịu khó rèn luyện, nên đa số các em chỉ biết trình bày
đoạn văn một cách hạn hẹp theo nội dung đã gợi ý. Từ đó bài văn nói - viết nghèo
nàn về ý, gò ép, thiếu sự hồn nhiên. Ví dụ “Kể lại việc em đã làm để bảo vệ môi
trường”, các em chỉ kể: “Trên đường đi học, em thấy một cây xanh còn non bị ngã,
em đỡ cho cây đứng dậy. Trưa tan học về thấy cây xanh tốt, em rất vui mừng vì đã
bảo vệ môi trường”, hoặc “Hằng ngày em nhặt rác ở sân trường đổ vào hố rác, khi
rác đầy, em cùng bạn đốt rác. Em vui vì em biết bảo vệ môi trường”…Bên cạnh


đó, đôi lúc các em còn trình bày lệch lạc, thiếu chính xác do ít kiến thức về vốn
sống. Ví dụ kể về trận thi đấu thể thao, có một học sinh nói “Trận đấu bóng đá giữa
hai đội Việt Nam – Thái Lan diễn ra ở sân vận động Mỏ Cày”.
Việc sử dụng và mở rộng vốn từ còn nhiều hạn chế, các em chưa chú ý cách
sử dụng từ hoặc trau chuốt thế nào cho từ đó hay hơn trong câu văn. Có một số từ
do được nghe và nói trong sinh hoạt hằng ngày thành quen thuộc, các em vẫn vô tư
sử dụng trong bài văn của mình. Ví dụ: Kể về người lao động trí óc, có học sinh
viết: “Em rất coi trọng thầy vì thầy dạy học cho em” hoặc “Khi đến lớp, cô em
thích mặc đồ xanh”…

Như vậy, để khắc phục những hạn chế trên, giáo viên cần hiểu rõ tính tích
hợp kiến thức giữa các phân môn Tiếng việt để từ đó giúp các em trang bị vốn kiến
thức cơ bản cần thiết cho mỗi tiết học. Khi dạy các phân môn: Tập đọc, Chính tả,
Tập viết, Luyện từ và câu có nội dung phù hợp tiết Tập làm văn sắp học, giáo viên
cần dặn dò hướng dẫn học sinh quan sát tìm hiểu kĩ đối tượng cần nói đến và ghi
chép cụ thể hình ảnh, hoạt động ấy vào sổ tay; với những sự việc hoặc hoạt động
các em không được chứng kiến hoặc tham gia, giáo viên khuyến khích các em
quan sát qua tranh ảnh, sách báo, trên tivi,…hoặc hỏi những người thân hay trao
đổi với bạn bè. Khi được trang bị những kiến thức cơ bản như thế, học sinh sẽ có
những ý tưởng độc lập, từ đó các em có thể trình bày được bài văn chân thực, sinh
động và sáng tạo.
Trong việc trang bị kiến thức cho học sinh, giáo viên không nên áp đặt các
em vào một khuôn mẫu nhất định như chỉ định học sinh phải quan sát một bức
tranh, một sự vật, con người hay một công việc cụ thể, như thế sẽ hạn chế năng lực


sáng tạo của các em. Vì vậy, với bất cứ một đề tài nào của một tiết Tập làm văn,
giáo viên cần cho học sinh liên hệ mở rộng để các em phát huy được năng lực sáng
tạo trong bài văn của mình.
Biện pháp thứ hai: Tìm hiểu nội dung đề bài:
Bước.1.Xác định rõ yêu cầu các bài tập:
Ở mỗi đề tài của loại bài Tập làm văn nói - viết, giáo viên cần cho học sinh
tự xác định rõ yêu cầu các bài tập bằng cách thảo luận nhóm, giáo viên giúp học
sinh tự xác định đúng yêu cầu bài tập để khi thực hành các em sẽ không chệch
hướng, đảm bảo đúng nội dung đề tài cần luyện tập.
Bước.2. Nắm vững hệ thống câu hỏi gợi ý:
Sách giáo khoa lớp 3, bài Tập làm văn nói - viết thường có câu hỏi gợi ý, các
câu hỏi này sắp xếp hợp lí như một dàn bài của một bài Tập làm văn; học sinh dựa
vào gợi ý để luyện nói, sau đó viết thành một đoạn văn ngắn. Giáo viên cần cho
học sinh đọc toàn bộ các câu gợi ý để hiểu rõ và nắm vững nội dung từng câu; từ

đó giúp các em trình bày đoạn văn rõ ràng, mạch lạc đủ ý, đúng từ, đúng ngữ pháp.
Giúp học sinh nắm vững nội dung từng câu hỏi gợi ý sẽ hạn chế được việc trình
bày ý trùng lặp, chồng chéo, không có sự liên kết giữa các ý với nhau trong đoạn
văn.
Ví dụ: Với đề bài: Kể lại buổi đầu em đi học.
Luyện nói: Yêu cầu học sinh nhớ lại buổi đầu đi học của mình để lời kể
chân thật, có cái riêng.
Giáo viên cho học sinh nắm hệ thống câu hỏi gợi ý để luyện nói như:
- Cần nói rõ buổi đầu em đến lớp là buổi sáng hay buổi chiều?


- Thời tiết thế nào?
- Ai dẫn em đến trường?
- Đi bộ hay xe đạp, xe máy?
- Ngôi trường ấy thế nào?
- Có đông người không?
- Các phụ huynh, các bạn học sinh cùng buổi đầu đi học như em, các anh chị
học lớp trên, các thầy giáo, cô giáo?
- Lúc đầu, em bỡ ngỡ ra sao?
- Buổi học đã kết thúc thế nào?
- Cảm xúc của em về buổi học đó?
Luyện viết: Viết những điều em vừa kể thành một đoạn văn ngắn (từ 7
đến 10 câu).
Giáo viên hướng dẫn học sinh viết đoạn văn đủ ý theo các nội dung đã luyện
nói, không nhất thiết phải viết theo cách trả lời thứ tự các câu hỏi gợi ý. Giáo viên
giúp các em biết viết đoạn văn có mở và kết đoạn, biết dùng từ liên kết câu, dùng
câu liên kết đoạn một cách hợp lí và sáng tạo. Có thể viết thành đoạn văn như sau:
Năm nay, em lên 9 tuổi. Đã ba năm rồi, nhưng ngày đầu tiên vào lớp Một là
một kỉ niệm sâu sắc in đậm mãi trong tâm hồn em.
Mẹ dẫn em đến trường bằng xe máy. Buổi sáng mùa thu hôm ấy rất đẹp, bầu

trời trong xanh mênh mông. Con đường liên xã nhộn nhịp hẳn lên. Xe máy, xe đạp,
người lớn, trẻ em đi lại đông vui, tấp nập. Các anh, các chị, các em nhỏ, đầu đội
mũ, vai mang cặp sách rảo bước tới trường. Mặt mày hớn hở, chuyện trò râm ran,
áo quần mới, ái cũng cảm thấy như mình đang đi trẩy hội.


Em đội chiếc mũ vải tím, mặc chiếc váy sọc màu đỏ, áo sơ mi trắng, đi đôi
dép quai hậu. Em cảm thấy đàng hoàng. Mẹ chở em đi vừa bảo ban mọi chuyện.
Đia qua một cánh đồng láu đang uốn câu, vượt khỏi chiếc cầu bê tông và cây đa
cỏ thụ là đến trường.
Từ xa, em đã nhìn thấy biển trường với dòng chữ: Trường TH . Ngôi trường
hai tầng, tường vôi trắng xóa. Sân trường rộng mênh mông. Có rất nhiều cờ, khẩu
hiệu. Các thầy, cô giáo, phụ huynh và hàng trăm học sinh tấp nập bước vào
trường. Ai cũng mặc đẹp đẽ, khuôn mặt tươi cười rạng rỡ. Tiếng cười nói xôn xao
cả sân trường. Nhiều bạn nhỏ nép vào bố mẹ. Em thì nắm chặt tay mẹ, trống ngực
cứ đánh liên hồi.
Một hồi trống vang lên. Học sinh các lớp xếp hàng đi vào lớp. Cô Lê xinh
đẹp, tươi tắn trong bộ quần áo dài trắng đón chúng em vào lớp 1C. Có tất cả 25
bạn, Cô gọi tên, xếp chỗ ngồi và kiểm tra sách vở, dụng cụ học tập.
Trường mới, lớp mới, cô giáo mới. Em vừa cảm thấy lạ vừa cảm thấy thân
quen. mẹ vẫn đứng đợi ở cổng trường. Em là học sinh lớp Một trường Tiểu học
rồi mà cảm thấy như mơ.
Bước.3. Tìm hiểu các câu gợi ý:
Trước khi học sinh thực hành bài tập luyện nói, giáo viên cần giúp các em
hiểu nghĩa của các từ ngữ có trong câu hỏi để học sinh hiểu và trình bày đúng yêu
cầu, các từ ngữ này có thể là các từ khó hoặc từ địa phương. Nếu là từ địa phương,
giáo viên có thể cho học sinh sử dụng từ địa phương mình để học sinh làm bài dễ
dàng hơn. Ví dụ kể về người lao động trí óc, cần cho học sinh hiểu những nghề nào



thuộc về lao động trí óc; hay nói về lễ hội, học sinh phải biết những hoạt động diễn
ra trong phần lễ và phần hội; hoặc nói về việc làm để bảo vệ môi trường, cần giúp
học sinh hiểu bảo vệ môi trường là làm gì? Những việc làm đó có gần gũi với các
em không? Các em đã thực hiện hằng ngày như thế nào?
Bước 4. Chia thành nhiều câu gợi ý nhỏ:
Trong các câu gợi ý có một số câu dài hoặc ngắn gọn khiến học sinh lúng
túng khi diễn đạt ý, do đó, ý không trọn vẹn, bài văn thiếu sinh động sáng tạo. Giáo
viên cần chia thành nhiều câu gợi ý nhỏ để giúp các em có những ý tưởng phong
phú, hồn nhiên. Việc chia thành nhiều câu gợi ý nhỏ sẽ có nhiều học sinh được rèn
kĩ năng nói, giúp các em thêm tự tin và giáo viên dễ dàng sửa chữa sai sót cho học
sinh. Ví dụ: Kể về người lao động trí óc, giáo viên có thể gợi ý thêm những nét đặc
trưng về tuổi tác, tính cách, hình dáng của người đó. Hay nói về quê hương, cần
gợi ý cho học sinh nêu cảnh đẹp ở quê hương em là gì, vì sao em yêu quê hương
em?
Như vậy qua hệ thống câu hỏi, giúp học sinh bày tỏ được thái độ, tình cảm,
ý kiến nhận xét đánh giá của mình về vấn đề nêu ra trong bài học. Song song với
quá trình đó giáo viên cần hỏi ý kiến nhận xét của học sinh về câu trả lời của bạn
để học sinh rút ra được những câu trả lời đúng cách ứng xử hay. Từ đó giúp học
sinh mở rộng vốn từ, rèn lối diễn đạt mạch lạc, lô gíc, câu văn có hình ảnh, có cảm
xúc. Trên cơ sở đó, bài luyện nói của các em sẽ trôi chảy, sinh động, giàu cảm xúc
đồng thời hình thành cho các em cách ứng xử linh hoạt trong cuộc sống.
Biện pháp thứ ba: Hướng dẫn tìm ý:


Do đặc điểm tâm lí lứa tuổi nên đa số bài văn của học sinh lớp 3 có ý tưởng
chưa phong phú, sáng tạo, các em thường trình bày hạn hẹp trong khuôn khổ nhất
định. Giáo viên cần giúp các em tìm ý để thực hành một bài văn nói - viết hoàn
chỉnh về nội dung với những ý tuởng trong sáng, giàu hình ảnh và ngây thơ, chân
thật. Để thực hiện được điều đó, giáo viên sẽ hướng dẫn học sinh một cách chặt
chẽ từ sự liên tưởng về các sự vật, các hoạt động. Từ đó học sinh dễ dàng tìm ý và

diễn đạt bài văn rõ ràng, mạch lạc hơn.
Bước1. Giúp học sinh hồi tưởng:
Trong một tiết Tập làm văn với một đề tài nào đó, học sinh có thể quên một
số hình ảnh, sự việc… mà các em đã quan sát hoặc tìm hiểu qua thực tế. Giáo viên
khơi gợi cho học sinh nhớ lại bằng những câu hỏi nhỏ có liên quan đến yêu cầu bài
tập, phù hợp thực tế và trình độ học sinh để các em dễ dàng diễn đạt. Ví dụ: Kể về
trận đấu thể thao, giáo viên gợi ý: Đó là môn thể thao nào? Do hai đội nào thi đấu?
Trận đấu diễn ra vào lúc nào? Ở đâu?... hoặc kể về người lao động trí óc, giáo viên
gợi ý: Người em kể là ai? Làm nghề gì? Người ấy độ bao nhiêu tuổi?...
Bước 2. Giúp học sinh tưởng tượng, liên tưởng:
Nếu trong một bài Tập làm văn, học sinh chỉ biết diễn đạt nội dung bằng
những gì đã quan sát; hoặc thực hành một cách chính xác theo các gợi ý; bài làm
như thế tuy đủ ý nhưng không có sức hấp dẫn, lôi cuốn người đọc, người nghe. Vì
vậy, với từng đề bài giáo viên nên có những câu hỏi gợi ý, khuyến khích học sinh
liên tưởng, tưởng tượng thêm những chi tiết một cách tự nhiên, chân thật và hợp lí
qua việc sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hoá, để từ đó học sinh biết trình bày
bài văn giàu hình ảnh, sinh động, sáng tạo.


Ví dụ: Khi giới thiệu về tổ em, học sinh nói: “Tổ em bạn nào cũng chăm
ngoan, riêng bạn Lan học giỏi Toán lại hát hay như chim Sơn ca”; hoặc nói về
người lao động trí óc, học sinh nói: “Cô giáo em có mái tóc dài, đen mượt như
nhung”,….
Trí tưởng tượng, liên tưởng ở học sinh lứa tuổi này rất hồn nhiên ngây thơ
và ngộ nghĩnh, cho nên để rèn luyện kĩ năng này cho học sinh, giáo viên có thể
chuẩn bị những câu, đoạn văn hay cho học sinh tham khảo, học hỏi làm phong phú
thêm vốn kiến thức cho các em.
Biện pháp thứ tư: Hướng dẫn diễn đạt:
Như đã nói, do tâm lí lứa tuổi nên bài văn thực hành của học sinh lớp Ba
tuy có ý tưởng, nhưng vẫn còn nhiều sai sót về diễn đạt như: dùng từ chưa chính

xác, ý trùng lặp, các ý trong đoạn văn chưa liên kết nhau nên trình bày chưa rõ
ràng mạch lạc. Vì vậy, khi học sinh trình bày, giáo viên phải hết sức chú ý lắng
nghe, ghi nhận những ý tưởng hay, ý có sáng tạo của học sinh để khen ngợi; đồng
thời phát hiện những sai sót để sửa chữa. Giáo viên cần đặt ra tiêu chí nhận xét thật
cụ thể để học sinh làm cơ sở lắng nghe bạn trình bày; phát hiện những từ, ý, câu
hay của bạn để học hỏi và những hạn chế của bạn để góp ý, sửa sai.
Bước 1. Hướng dẫn sửa chữa từ:
Trường hợp học sinh dùng từ chưa chính xác như các từ ngữ chưa phù hợp,
nghĩa từ chưa hay hoặc từ thông dụng địa phương… Ví dụ: “Thầy em rất chăm chỉ
trong giảng dạy”, “cô em thường mặc đồ xanh”… khi học sinh phát hiện sai sót đó,
giáo viên giúp các em sửa chữa thay đổi từ phù hợp. Đối với từ học sinh dùng
trùng lặp nhiều lần trong một câu, ví dụ: “Bác Ba là người hàng xóm của em, bác


Ba rất tốt với em, bác Ba luôn giúp em học bài…”, giáo viên hướng dẫn học sinh
lượt bớt từ hoặc dùng từ phù hợp để thay thế. Trong trình bày bài văn, học sinh vẫn
thường dùng từ ngôn ngữ nói, giáo viên nên hướng dẫn học sinh thay thế bằng từ
ngôn ngữ viết trong sáng hơn.
Bước 2. Hướng dẫn sửa chữa đặt câu:
Học sinh nói viết câu chưa hay, chưa đủ ý, giáo viên cần hướng dẫn học sinh
sửa chữa bổ sung ý vào cho đúng; câu dài dòng, ý chưa rõ ràng mạch lạc cần cho
học sinh sửa sai lượt bỏ ý dư, ý trùng lặp. Giáo viên khuyến khích học sinh tự sửa
câu văn chưa hay của mình bằng những câu văn hay của bạn.
Bước 3. Hướng dẫn sửa chữa đoạn văn:
Với mỗi chủ đề của bài Tập làm văn, nếu học sinh trình bày đủ nội dung
theo gợi ý đã cho thì bài văn của các em xem như hoàn chỉnh. Nhưng để có một
đoạn văn mạch lạc rõ ràng, ý tưởng liên kết chặt chẽ nhau thu hút được người đọc;
giáo viên cần giúp các em biết viết đoạn văn có mở và kết đoạn, biết dùng từ liên
kết câu, dùng câu liên kết đoạn một cách hợp lí và sáng tạo. Ví dụ: Với gợi ý kể về
trận thi đấu thể thao, từng gợi ý phần mở đoạn có rời rạc, giáo viên có thể hướng

dẫn học sinh liên kết các ý với nhau, khi kể không theo trình tự từng ý nhưng vẫn
đảm bảo nội dung và làm cho phần mở đoạn sinh động lôi cuốn người đọc hơn.
Hoặc hướng dẫn học sinh dùng những câu mở đầu đoạn văn để nói hoặc kể một
cách sáng tạo. Ví dụ: Kể về một buổi biểu diễn nghệ thuật: “Tối chủ nhật vừa qua,
tại nhà Văn hóa xã có tổ chức buổi ca nhạc mừng xuân mới”; hay Kể về người lao
động trí óc: “Cô Hoa ở cạnh nhà em là một y sĩ trẻ tuổi, cô làm việc ở trạm xá xã”.
Hoặc “Cô em là giáo viên, suốt chín năm qua cô luôn gắn bó với nghề dạy học”.


Khi kể về một việc làm một hoạt động nào đó, giáo viên cần khuyến khích
học sinh sử dụng những từ liên kết câu thể hiện trình tự diễn biến của sự việc như:
“đầu tiên”; “kế tiếp”; “sau đó”; “cuối cùng”… để đoạn văn gắn kết chặt chẽ liên
tục từng ý với nhau. Do đặt điểm lứa tuổi và trình độ từng đối tượng học sinh
không đồng đều nhau nên các em chưa hiểu nhiều về từ, câu liên kết trong đoạn
văn viết, vì vậy, giáo viên cần hướng dẫn bằng những gợi ý giản đơn dễ hiểu, có
thể cho học sinh khá giỏi làm mẫu để giúp các em trình bày tốt hơn đoạn văn viết
của mình.
Trong việc hướng dẫn học sinh sửa chữa bài viết, giáo viên cần đưa ra tiêu
chí đánh giá cụ thể giúp học sinh phát hiện những đoạn văn hay, ý tưởng phong
phú sáng tạo đồng thời phát hiện những hạn chế còn vấp phải trong bài viết. Từ đó
học sinh có sự suy nghĩ để sửa chữa cách diễn đạt ý tưởng trong bài viết của mình
một cách hợp lí và sáng tạo.
* 3. Kết quả đạt được:
Qua quá trình nghiên cứu, thực hiện đề tài, việc dạy học phân môn Tập làm
văn ở lớp chủ nhiệm đạt được kết quả khả quan: Học sinh mạnh dạn tự tin hơn
trong học tập, vốn từ của học sinh phong phú hơn, câu văn rõ ràng mạch lạc và
giàu hình ảnh.
Trong quá trình giảng dạy Tập làm văn (lớp 3), thực hiện áp dụng
PPDH theo hướng mới VNEN, các em học tập tích cực hơn. Các em trở nên mạnh
dạn, tự tin, chủ động trong các bước của tiết Tập làm văn. Những em kĩ năng nói,

viết yếu đã có kĩ năng nói, viết tốt hơn như biết viết câu, dùng từ hợp lí; biết nói,
viết thành câu; biết dùng từ, câu văn có hình ảnh; biết trình bày đoạn văn.


*Kết quả thu được cuối năm 2017-2018 như sau:

Nội dung khảo sát
Biết viết câu, dùng từ hợp lí
Biết nói, viết thành câu
Biết dùng từ, câu văn có hình ảnh
Biết trình bày đoạn văn
Bài viết đạt trung bình trở lên

Kết quả khảo sát
Số lượng

Tỉ lệ

22
25
22
25
25

91,7%
100%
91,7%
100%
100%


PHẦN KẾT LUẬN

1. Ý nghĩa của đề tài:.
Trong Giáo dục tiểu học - bậc học cơ sở của giáo dục phổ thông, việc học
tập của học sinh phụ thuộc rất nhiều vào việc dạy của giáo viên. Tất cả các môn
học, tiết học nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng, việc thực hiện đổi mới
PPDH là nội dung hết sức quan trọng trong việc nâng cao chất lượng dạy và học.
Nếu giáo viên phải xác định rõ và thực hiện tốt các vấn đề: Dạy thế nào để đạt mục
tiêu bài học, phù hợp đối tượng học sinh, hình thành được năng lực tự học, tự đánh
giá cho các em, tạo hứng thú cho các em trong quá trình học tập. Giáo viên biết
phối kết hợp nhiều phương pháp, tạo được không khí để học sinh có khả năng hợp


tác, chia sẻ trong công việc. Là một giáo viên chủ nhiệm trong quá trình giảng dạy
tôi thu được những kinh nghiệm sau:
Một là, trang bị kiến thức cho học sinh luôn chú trọng việc lồng ghép kiến thức
giữa các phân môn Tiếng Việt
Hai là, tìm hiểu nội dung đề bài
Ba là, hướng dẫn tìm ý
Bốn là,hướng dẫn diễn đạt
Đề tài là cơ sở để giáo viên nghiên cứu và thực hiện trong giảng dạy phân
môn Tập làm văn. Giúp giáo viên từng lúc san bằng trình độ học sinh trong lớp
học; giúp học sinh tự tin hơn trong học tập, trong giao tiếp để các em hoàn thành
nhiệm vụ học tập và tiếp tục học tập ở các lớp cao hơn.
*Trên đây là một số biện pháp rèn kĩ năng nói, viết qua phân môn Tập làm
văn lớp 3 hiệu quả. Tuy nhiên, thời gian áp dụng chưa nhiều, kinh nghiệm và trình
độ bản thân còn hạn chế nên bài viết còn nhiều điểm thiếu sót.
Kính mong Hội đồng Khoa học đóng góp ý kiến bổ sung để sáng kiến của tôi
được hoàn chỉnh hơn, áp dụng tốt hơn trong quá trình giảng dạy.
Xin trân trọng cám ơn





×