I- PHẦN MỚ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Giáo dục Mầm non là giai đoạn đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, là bộ phận
quan trọng trong sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ thành những con người mới có ích. Một
trong những mục tiêu cải cách giáo dục của nước ta là: Làm tốt việc chăm sóc giáo dục thế
hệ trẻ ngay từ thời thơ ấu nhằm tạo ra cơ sở quan trọng của con người Việt nam mới, người
lao động làm chủ tập thể, phát triển toàn diện nhân cách và giáo dục mầm non đã góp phần
thực hiện mục tiêu này. Ngày nay, chúng ta không chỉ đào tạo những con người có tri
thức, có khoa học, có tình yêu thiên nhiên, yêu Tổ quốc, yêu lao động mà còn tạo nên
những con người biết yêu nghệ thuật, yêu cái đẹp, giàu mơ ước và sáng tạo. Những phẩm
chất ấy của con người phải được hình thành từ lứa tuổi mầm non, lứa tuổi hứa hẹn biết bao
điều tốt đẹp trong tương lai.
Trẻ em là niềm hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lai của dân tộc. Bảo vệ chăm sóc và
giáo dục trẻ em là trách nhiệm, nghĩa vụ của toàn xã hội và của mỗi gia đình. Trong đó,
nhà trường có vai trò quan trọng trong việc giáo dục hình thành và phát triển nhân cách
toàn diện của trẻ. Trong những năm gần đây bậc học Mầm non đang thực hiện chương
trình giáo dục trẻ mầm non theo thông tư 28, trong đó đặc biệt coi trọng việc tổ chức các
hoạt động với sự phát triển của từng cá nhân trẻ, khuyến khích trẻ hoạt động một cách chủ
động tích cực, hồn nhiên, vui tươi. Đồng thời tạo điều kiện cho giáo viên phát huy khả
năng sáng tạo trong việc lựa chọn và tổ chức các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ một
cách linh hoạt, thực hiện phương châm “ Học mà chơi- chơi mà học” đáp ứng mục tiêu
phát triển trẻ một cách toàn diện. Trong quá trình phát triển toàn diện nhân cách, ngôn
ngữ có vai trò là một phương tiện hình thành và phát triển nhận thức của trẻ về thế giới
xung quanh, ngôn ngữ giúp trẻ tìm hiểu, khám phá và nhận thức về môi trường xung
quanh,thông qua cử chỉ và lời nói của người lớn trẻ làm quen với các sự vật hiện tượng có
trong môi trường xung quanh, trẻ hiểu những đặc điểm, tính chất, công dụng của các sự
vật cùng với từ tương ứng với nó. Như Bác Hồ đã dạy: “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng
lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc, chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó”. Ngôn
ngữ có vai trò to lớn trong sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ em. Ngôn ngữ là
phương tiện giữ gìn bảo tồn, truyền đạt và phát triển những kinh nghiệm lịch sử và phát
triển xã hội của loài người. Trẻ em sinh ra đầu tiên là những cơ thể sinh học, nhờ có ngôn
ngữ là phương tiện giao lưu bằng hoạt động tích cực của mình dưới sự giáo dục và dạy học
của người lớn trẻ em dần chiếm lĩnh được những kinh nghiệm lịch sử - xã hội của loài
người và biến nó thành cái riêng của mình. Trẻ em lĩnh hội ngôn ngữ sẽ trở thành những
chủ thể có ý thức, lĩnh hội kinh nghiệm của loài người xây dựng xã hội ngày càng phát
triển hơn. Nhờ có ngôn ngữ trẻ nhận biết ngày càng nhiều các sự vật, hiện tượng mà trẻ
được tiếp xúc trong cuộc sống hàng ngày. Ngoài ra, ngôn ngữ còn là phương tiện phát triển
tình cảm, đạo đức, thẩm mĩ.
Đăc biệt với trẻ 24- 36 tháng tuổi, khả năng hiểu lời nói, vốn từ tăng nhanh, cấu trúc
từ hoàn thiện, chúng dễ dàng bắt chước các kết hợp âm, các câu ngắn, vốn từ của trẻ phần
lớn là những danh từ và động từ, các loại từ khác như: tính từ, đại từ, trạng từ xuất hiện rất
ít và được tăng dần theo độ tuổi của trẻ. Trẻ ở độ tuổi này không chỉ hiểu nghĩa các từ biểu
thị các sự vật, hành động cụ thể mà có thể hiểu nghĩa các từ biểu thị tính chất màu sắc, thời
gian và các mối quan hệ. Tuy nhiên mức độ hiểu nghĩa của các từ này ở trẻ còn rất hạn chế
và có nét đặc trưng riêng, khả năng phát âm của trẻ chưa chuẩn; trẻ sử dụng các từ biểu thị
thời gian chưa chính xác, trẻ nhận thức về công cụ ngữ pháp và sử dụng nó còn rất hạn
chế, chúng ta cần phải giúp trẻ phát triển mở rộng các loại từ trong các từ, biết sử dụng
nhiều loại câu, bằng con đường giao tiếp thường xuyên, có hệ thống của trẻ với người
lớn về những sự vật, sự việc trẻ được nhìn thấy trong sinh hoạt hằng ngày. Đây là giai đoạn
quan trọng nhất trong sự phát triển ngôn ngữ của trẻ. “ Trẻ lên ba cả nhà học nói”, điều này
thật đúng. Do đặc điểm và nhu cầu giao tiếp mà giai đoạn ba tuổi, lời nói của trẻ phát triển
với tốc độ mạnh mẽ nhất. Chính yếu tố này đòi hỏi người lớn phải hướng trẻ vào thế giới
xung quanh, phát triển ở trẻ năng lực quan sát, nhận biết các đồ vật, hiện tượng khác nhau,
đồng thời cho trẻ làm quen với hoạt động của người lớn. Có như vậy mới phát triển được
mặt hiểu ý nghĩa của lời nói, khả năng phát âm, các chức năng giao tiếp và điều quan trọng
nhất là ở chỗ làm sao cho trẻ không những nắm vững từ mà còn học sử dụng chúng theo ý
mình. Điều này không tự đến, nhu cầu sử dụng ngữ liệu vào giao tiếp cần phải được giáo
dục, quan hệ của người lớn đối với trẻ có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển kịp
thời lời nói cho trẻ, thái độ quan tâm, thận trọng, hết mình của cô giáo tạo ra sự phát triển
những tình cảm tích cực và những phản ứng khác nhau, thiếu những thứ đó không thể tạo
ra được mối quan hệ chặt chẽ và phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Những tác động sư phạm
phải được tiến hành thường xuyên và hướng vào tất cả các mặt phát triển thần kinh- tâm lý
của trẻ, chỉ có sự phát triển toàn diện như vậy ở trẻ mới hình thành được ngôn ngữ. Song
để làm được điều đó quả thực không đơn giản.
Là một giáo viên trực tiếp dạy trẻ 24 - 36 tháng tuổi bản thân tôi nhận thức được tầm
quan trọng của ngôn ngữ, ngôn ngữ có sự ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển nhân
cách toàn diện của trẻ cho trẻ song với trẻ 24-36 tháng thì ngôn ngữ còn rất nhiều hạn chế
như phát âm chưa chuẩn, vốn từ còn ít….nên tôi đã rất băn khoăn trăn trở làm thế nào để
trẻ dạy 24-36 tháng tuổi phát triển được tốt nên tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp
trẻ 24-36 tháng tuổi phát triển ngôn ngữ” làm đề tài nghiên cứu.
2. Điểm mới của đề tài sáng kiến kinh nghiệm: Đây là đề tài được nhiều người quan
tâm nên đã có nhiều đồng nghiệp nghiên cứu về lĩnh vực này, song mỗi đề tài đề cập đến
những hệ thống các biện pháp khác nhau. Với đề tài của tôi có điểm mới đó là tôi đã xác
định “Ngôn ngữ” là phương tiện để giao tiếp quan trọng nhất đặc biệt là đối với trẻ nhỏ, đó
là phương tiện giúp trẻ giao lưu cảm xúc với những người xung quanh hình thành những
cảm xúc tích cực. Nhờ có những lời chỉ dẫn của người lớn mà trẻ dần dần hiểu được những
quy định chung của cộng đồng mà mọi thành viên trong cộng đồng phải thực hiện, mặt
khác trẻ cũng có thể dùng ngôn ngữ để bày tỏ những nhu cầu mong muốn của mình với
các thành viên trong cộng đồng điều đó giúp trẻ hoà nhập với mọi người. Từ đó tôi đã đi
sâu nghiên cứu và áp dụng các biện pháp: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua việc tổ
chức tốt các hoạt động học như hoạt động nhận biết tập nói, hoạt động văn học, hoạt động
âm nhạc, hoạt động vận động; hoạt động ngoài trời, hoạt động góc và các hoạt động đón
trả trẻ; phát huy hiệu quả biện pháp dạy cho trẻ cá biệt tức là có biện pháp đặc biệt đối với
trẻ nói ngọng, nói chớt, nói lắp; làm tốt công tác phối kết hợp với phụ huynh để phát triển
ngôn ngữ cho trẻ; tận dụng việc xây dựng môi trường trong và ngoài lớp để làm phương
tiện cho việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
3. Phạm vi áp dụng:
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một nội dung rất cần thiết. Qua nghiên cứu và vận dụng
vào thực tế đã giúp đơn vị tôi làm tốt nội dung phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng nơi
tôi công tác. Với hệ thống các giải pháp có tính khả thi cao nên đề tài của tôi đã được áp
dụng rộng rãi trong đơn vị và đã được các đơn vị bạn áp dụng. Đề tài này có thể áp dụng
được cho các đơn vị trong tỉnh và ngoài tỉnh.
II- PHẦN NỘI DUNG:
1. Thực trạng:
Năm học 2018 - 2019 bản thân tôi được phân công dạy nhóm trẻ 24-36 tháng tuổi, qua
khảo sát thực tế bản thân tôi gặp một số thuận lợi và khó khăn như sau:
1.1 Thuận lợi:
Lớp được phân chia theo đúng độ tuổi quy định. Đa số trẻ đi học rất đều, có khả năng
tiếp thu khá nhanh. Giáo viên nhiệt tình làm đồ dùng đồ chơi sáng tạo phục vụ cho việc
cung cấp và phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho việc phát triển
ngôn ngữ cho trẻ phong phú về mầu sắc và hình ảnh, hấp dẫn thu hút trẻ. Giáo viên nắm
vững phương pháp dạy của bộ môn, được bồi dưỡng thường xuyên và tham gia học tập các
lớp chuyên đề do nhà trường, cụm và Phòng giáo dục tổ chức. Giáo viên trong lớp có sự
phối hợp nhau trong công tác giảng dạy đặc biệt là chú ý phát triển vốn từ cho trẻ. Luôn
được sự ủng hộ của phụ huynh. Bản thân luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của
Ban giám hiệu nhà trường
1.2. Khó khăn
Nhóm trẻ 24 - 36 tháng do tôi phụ trách là độ tuổi còn non nớt, có nhiều trẻ nhút nhát
rụt rè, nhiều cháu phát âm chưa chuẩn. Trẻ bắt đầu đi học năm đầu tiên nên chưa quen xa
mẹ, khóc nhiều, chưa quen với cô và các bạn, chưa thích nghi với điều kiện sinh hoạt và
các hoạt động ở lớp. Một số trẻ phát âm chưa chuẩn.
Đa số phụ huynh chưa nhận thức đúng về tầm quan trọng của ngôn ngữ. Hầu hết phụ
huynh do bận rộn công việc kiếm sống nên chưa thực sự quan tâm đến việc phát triển ngôn
ngữ vốn từ cho trẻ mà giao phó hoàn toàn cho cô giáo ở trường.
1.3. Điều tra thực tiễn:
Thời
Nội dung
Số trẻ đạt
gian
Tỷ lệ
Số trẻ
%
chưa
Tỷ lệ %
đạt
Khả năng nghe hiểu
8
32%
17
68%
Vốn từ của trẻ
8
32%
17
68%
Khả năng nói đúng ngữ
4
16%
21
84%
4
16%
21
84%
ngôn ngữ và phát âm
8/2018
pháp
Khả năng giao tiếp
2. Các biện pháp thực hiện:
2.1. Biện pháp 1: Làm tốt công tác bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho bản thân
Để có thể thực hiện tốt “Một số biện pháp giúp trẻ 24-36 tháng phát triển ngôn ngữ”
trước hết bản thân tôi xác định mình phải nghiên cứu để nắm chắc kiến thức và nghiên cứu
các biện pháp thực hiện cũng như các điều kiện để thực hiện có hiệu quả nội dung phát
triển ngôn ngữ cho trẻ giúp trẻ lĩnh hội kiến thức một cách nhẹ nhàng, không bị gò bó, áp
đặt. Để làm được điều đó thì bản thân tôi phải luôn tận dựng mọi cơ hội, thời gian làm tốt
công tác tự bồi dưỡng chuyên môn cho bản thân để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp
vụ, kỹ năng nghề nghiệp cho bản thân như:
- Tham gia tốt các đợt bồi dưỡng chuyên môn do nhà trường, cụm và Phòng tổ chức.
- Tìm đọc tham khảo qua tài liệu để nắm vững những nội dung, biện pháp dạy trẻ 24-36
tháng về phát triển ngôn ngữ.
- Qua dự giờ đồng nghiệp và trao đổi trong các buổi hội thảo về chuyên đề. Qua dự giờ
và trao đổi trong các buổi hội thảo, hội thoại giúp cho bản thân học hỏi thêm về kinh
nghiệm từ các đồng nghiệp đi trước. Nhờ làm tốt công tác tự bồi dưỡng chuyên môn
nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp nên tôi đã nắm vững được nội dung cũng như hình thức
và phương pháp để dạy trẻ 24-36 tháng nội dung phát triển ngôn ngữ.
2.2.Biên pháp thứ 2: Giáo dục ngôn ngữ thông qua các hoạt động học.
* Thông qua giờ nhận biết tập nói:
Thông qua hoạt động “ Nhận biết tập nói”. Ở hoạt động nhận biết tập nói, trẻ được quan
sát hình ảnh mà cô giáo cung cấp. Đối tượng này đã được cô giáo chuẩn bị trước, sắp xếp
chúng từ đơn giản đến phức tạp dần, khi quan sát cô gợi mở để trẻ nói được điều trẻ đang
quan sát, trong khi trẻ trả lời cô hướng dẫn trẻ nói đúng từ, đủ câu, không nói lắp. Ví dụ:
Ở đề tài: “Nhận biết con mèo”
Mục đích yêu cầu cần đạt được ở đề tài này là:
- Rèn khả năng phát âm, phát triển lời nói cho trẻ.
- Trẻ biết và gọi được tên con mèo
- Biết được một số bộ phận của con mèo: Đầu, mình, chân, đuôi.
- Biết và giả được tiếng kêu của con mèo
- Biết được lợi ích của con mèo
- Giáo dục trẻ yêu thương chăm sóc các con vật nuôi trong gia đình
Đồ dùng dạy học cho đề tài này là: hình ảnh về con mèo, ghi hình các vận động: đi, chạy,
nhảy, leo trèo, bắt chuột của con mèo để trẻ được quan sát cùng với từng vận động là kèm
theo từ để trẻ hiểu và biết cách sử dụng chúng sau này.
Ví dụ:“Mèo đang chạy” trẻ vừa quan sát vừa phát âm được từ “chạy”. Tôi cho những trẻ
phát âm rõ lời phát âm trước sau đó tập cho những trẻ phát âm chưa rõ, những cháu chậm
nói được phát âm nhiều lần, luân phiên nhau. Ở hoạt động Nhận biết tập nói, trẻ được phát
âm nhiều, được nói nhiều và cũng dễ bộc lộ ý tưởng của mình muốn nói, cũng chính trong
hoạt động này cô giáo phát hiện ra những cháu phát âm chuẩn, những cháu phát âm chưa
chuẩn để sửa sai kịp thời.
* Thông qua hoạt động văn học
- Trong tiết học khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học là phát triển ngôn ngữ nói cho
trẻ và còn hình thành phát triển ở trẻ kỹ năng nói mạch lạc mà muốn làm được như vậy trẻ
phải có vốn từ phong phú hay nói cách khác là trẻ cũng được học thêm được các từ mới
qua giờ học thơ, truyện. Để giờ hoạt động thơ, truyện đạt kết quả cao cũng như hình thành
ngôn ngữ cho trẻ thì đồ dùng phục vụ cho tiết học phải đảm bảo:
+ Đồ dùng phải đẹp, màu sắc phù hợp đảm bảo tính an toàn và vệ sinh cho trẻ.
+ Nếu là tranh vẽ phải đẹp, phù hợp với câu chuyện, phía dưới phải có chữ to giúp cho
việc phát triển vốn từ của trẻ được thuận lợi.
+ Bản thân giáo viên phải thuộc truyện, ngôn ngữ của cô phải trong sáng, giọng đọc, kể
phải diễn cảm, thể hiện đúng ngữ điệu của các nhân vật.
Ví dụ 1: Trẻ nghe câu chuyện “Đôi bạn nhỏ”. Tôi cung cấp vốn từ cho trẻ đó là từ “Bới
đất”. Cô có thể cho trẻ xem tranh mô hình một chú gà đang lấy chân để bới đất tìm giun và
giải thích cho trẻ hiểu từ “Bới đất”. (Các con ạ, những chú gà là mỗi khi đi kiếm ăn các
chú phải lấy chân để bới đất, đào đất lên để tìm thức ăn cho mình, khi kiếm được thức ăn
chú gà sẽ lấy mỏ để ăn đấy). Sau khi giải thích tôi cũng chuẩn bị một hệ thống câu hỏi
giúp trẻ nhớ được nội dung truyện và từ vừa học:
+ Hai bạn Gà và Vịt trong truyện cô kể rủ nhau đi đâu? (Đi kiếm ăn ạ)
+ Vịt kiếm ăn ở đâu? (Dưới ao)
+ Thế còn bạn Gà kiếm ăn ở đâu? (Trên bãi cỏ)
+ Bạn Gà kiếm ăn như thế nào? (Bới đất tìm giun)
+ Khi hai bạn đang kiếm ăn thì con gì xuất hiện đuổi bắt Gà con? (Con Cáo)
+ Vịt con đã cứu Gà con như thế nào? (Gà nhảy lên lưng Vịt, Vịt bơi ra xa).
+ Qua câu chuyện con thấy tình bạn của hai bạn Gà và Vịt ra sao? (Thương yêu nhau)
+ Nếu như bạn gặp khó khăn thì các con phải làm gì? (Giúp đỡ bạn ạ).
- Cô kể 1-2 lần cho trẻ nghe giúp trẻ hiểu thêm về tác phẩm và qua đó lấy nhân vật để giáo
dục trẻ phải biết yêu thương và giúp đỡ bạn trong lúc gặp khó khăn.
Ví dụ: Trong câu truyện “Cháu chào ông ạ” ngoài việc giúp trẻ thể hiện ngữ điệu, sắc thái
tình cảm của các nhân vật trong truyện tôi còn sửa sai những từ trẻ hay nói ngọng để giúp
trẻ phát âm chuẩn và động viên những trẻ nhút nhát mạnh dạn hơn khi trả lời. Mỗi khi trẻ
nói sai tôi dừng lại sửa sai luôn cho trẻ bằng cách: tôi nói mẫu cho trẻ nghe 1-2 lần sau đó
yêu cầu trẻ nói theo.
Hay khi dạy chuyện “Thỏ ngoan” thể hiện sắc thái, ngữ điệu nhân vật sẽ cuốn hút rất nhiều
trẻ tham gia đặc biệt những trẻ nhút nhát qua đó cũng mạnh dạn hơn. Đối với những trẻ đó
tôi động viên, khích lệ trẻ kịp thời.
- Tôi cho trẻ thể hiện ngữ điệu của các nhân vật trong truyện “Thỏ ngoan”
+ Giọng Bác Gấu bị mưa rét thì ồm ồm và run, nét mặt buồn.
+ Giọng con Cáo thì gắt gỏng, nét mặt kênh kiệu.
+ Giọng Thỏ thì ân cần, niềm nở.
- Như vậy thơ truyện không những kích thích nhận thức có hình ảnh của trẻ mà còn phát
triển ngôn ngữ cho trẻ một cách toàn diện. Trẻ nhớ nội dung câu truyện và biết sử dụng
ngôn ngữ nói là phương tiện để tiếp thu kiến thức.
- Bên cạnh hoạt động làm quen các bài thơ, câu chuyện thì những bài đồng dao, ca dao rất
gần gũi, quen thuộc với trẻ, những động tác
kết hợp với lời thơ( lời ca) trẻ vừa đọc, vừa vận động sẽ là cơ hội để bộ máy phát
âm được làm việc
Ví dụ: Bài “Kéo cưa lừa xẻ”
Kéo cưa lừa xẻ
Ông thợ nào khỏe
Thì ăn cơm vua
Ông thợ nào thua
Về bú tí mẹ
Hai trẻ ngồi đối mặt nhau, chạm chân vào nhau, nắm tay nhau vừa đọc, vừa
làm động tác kéo cưa, kéo qua kéo lại. Trẻ rất thích thú trẻ đang học mà như đang
chơi vậy.
Hoặc bài “Dung dăng dung dẻ”
Dung dăng dung dẻ
Dắt trẻ đi chơi
Đến cổng nhà trời
Lạy cậu lạy mợ
Cho cháu về quê
Cho dê đi học
Cho cóc ở nhà
Cho gà bới bếp
Ù à ù ụp
Ngồi thụp xuống đây
Trẻ nắm tay nhau vừa đi vừa dung dăng theo nhịp đọc của bài đồng dao, đến
câu cuối “Ngồi thụp xuống đây” thì tất cả trẻ ngồi xuống đất. Khi trẻ chơi cô chú ý
sửa sai phát âm cho trẻ.
*Thông qua giờ âm nhạc:
Đối với tiết học âm nhạc trẻ được tiếp xúc nhiều đồ vật (Trống, lắc, phách tre, xúc
xắc, xắc xô… và nhiều chất liệu khác) trẻ được học những giai điệu vui tươi kết hợp với
các loại vận động theo bài hát một cách nhịp nhàng. Để làm được như vậy đó là nhờ sự
hiểu biết, nhận thức vốn từ, kỹ năng nhất là sự giao tiếp bằng ngôn ngữ của trẻ được tích
luỹ và lĩnh hội, phát triển tính nghệ thuật, giúp trẻ yêu âm nhạc. Qua những giờ học hát,
vận động theo nhạc, trẻ đã biết sử dụng ngôn ngữ có mục đích, biết dùng ngôn ngữ và
động tác cơ bản để miêu tả những hình ảnh đẹp của bài hát.
Ví dụ: Hát và vận động bài “đôi dép”
Đôi dép xinh
Đôi dép xinh xinh.
Cháu giữ cho
Hai chân trắng tinh
Đôi dép xinh
Đôi dép xinh xinh.
Chân cháu trắng tinh
Đôi dép xinh xinh.
(Trẻ nhún đong dưa theo nhịp)
* Phát triển ngôn ngữ thông qua một số trò chơi phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Đối với trẻ nhà trẻ, được phát triển ngôn ngữ thông qua trò chơi là một biện pháp tốt
nhất. Trò chơi đã trở thành phương tiện để cung cấp, tích luỹ được nhiều vốn từ và trên cơ
sở hiểu biết đầy đủ ý nghĩa của những từ đó trẻ biết sử dụng “số vốn từ” đó một cách thành
thạo.
Qua trò chơi trẻ sẽ được giao tiếp mạnh dạn hơn, ngôn ngữ cũng lưu loát hơn, vốn
từ của trẻ cũng được tăng lên. Và tôi nhận thấy rằng khi trẻ chơi trò chơi xong sẽ gây sự
hứng thú lôi cuốn trẻ vào bài học. Như vậy trẻ sẽ tiếp thu bài một cách nhẹ nhàng và thoải
mái.
Bản thân tôi đã tìm tòi, tham khảo, đọc những tài liệu sách và tôi thấy rằng trò chơi
này thực sự có hiệu quả làm tăng thêm vốn từ cho trẻ, từ đó ngôn ngữ của trẻ ngày càng
phong phú.
Trò chơi: “Cái gì? Dùng để làm gì?”
Mục đích của trò chơi này là tôi muốn trẻ nhận biết được một số đồ dùng quen
thuộc và biết tác dụng của những đồ chơi từ đó ngôn ngữ của trẻ cũng được phát triển:
Chuẩn bị:
+ Đồ dùng để ăn uống (Bát, thìa, cốc, ca…)
+ Đồ dùng để mặc (Quần, áo, khăn, mũ…)
+ Mỗi trẻ một tranh lô tô đồ dùng khác nhau.
Tiến hành:
Tôi cho trẻ ngồi xúm xít xung quanh cô. Cô nhắc tên đồ dùng nào thì trẻ phải nói nhanh đồ
dùng đó dùng để làm gì? Cô nói:
+ Cái bát dùng để làm gì? (Cái bát đựng cơm)
+ Cái cốc dùng để làm gì? (Dùng để uống nước)
+ Cái mũ để làm gì? (Cái mũ để đội)
+ Cái áo để làm gì? (Cái áo để mặc)
Sau khi hỏi trẻ xong tôi vận dụng trò chơi này để rèn sự nhanh nhẹn và tư duy của trẻ. Tôi
phát cho mỗi trẻ một lô tô đồ dùng khác nhau. Tôi yêu cầu trẻ gọi tên đồ dùng và xác định
nơi cất đồ dùng đó trong lớp. Sau đó tôi hô: 1,2,3 yêu cầu trẻ chạy nhanh về đúng nơi đồ
dùng.
* Thông qua giờ vận động:
Trong góc vận động của lớp tôi đã sử dụng những thùng bìa để làm thành tàu hoả
cho trẻ chơi. Mỗi thùng làm thành một toa tàu. Trong khi chơi trẻ có thể vừa chơi vừa kết
hợp âm nhạc hát: “Đoàn tàu tí hon”, “Tàu vào ga”...vận dụng vào phát triển ngôn ngữ cho
trẻ.
Tôi còn phân loại màu xanh, đỏ, vàng của những chiếc vòng để khi trẻ phân biệt
màu không bị nhầm lẫn. Khi trẻ chơi với vòng tôi có thể hỏi trẻ giúp ngôn ngữ của trẻ
thêm mạch lạc, rõ ràng hơn:
+ Cái vòng này có màu gì hả con? (Màu đỏ ạ)
+ Thế còn cái vòng này có màu gì đây? (Màu vàng ạ)
+ Cái vòng dùng để làm gì con có biết không? (để học, để chơi trò chơi ạ)
+ Con sẽ chơi gì với vòng? (Con lái ô tô ạ)
2.3.Biện pháp 3: Phát triển ngôn ngữ thông qua một số hoạt động khác trong ngày
*Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động góc.
Hoạt động vui chơi chiếm thời gian nhiều nhất trong thời gian trẻ ở nhà trẻ, là thời gian trẻ
được chơi thỏa mái nhất. Giờ chơi có tác dụng rất lớn trong việc phát triển vốn từ, đặc biệt
là tích cực hóa vốn từ cho trẻ, trong quá trình chơi trẻ có điều kiện học và sử dụng các loại
từ khác nhau. Để phát triển giao tiếp ngôn ngữ, việc tổ chức trẻ chơi cùng nhau có ý nghĩa
rất quan trọng, tôi dạy trẻ dần dần, không áp đặt: bắt đầu quan sát bạn chơi, sau đó từ từ
đưa trẻ tham gia vào đó, từ đó xuất hiện khả năng chuyển trò chơi từ độc lập sang hợp tác
cùng nhau, tự trẻ lôi kéo nhau vào việc mở rộng quá trình chơi. “ chúng mình sẽ xây công
viên”, “ bạn xây cổng, mình xây tường rào” ,giúp đỡ những bạn còn lúng túng “ bạn cần
phải xây như thế này” đánh giá hoạt động của bạn và của mình “bạn xây sai rồi, mình
biết xây đây này”, ngăn chặn thực hiện một hành động “ đừng làm ngã, đừng đụng vào
đây”. Dần dần trẻ học được không chỉ yêu cầu hay giúp đỡ mà còn liên kết các hành động
của mình với hành động của trẻ khác, lôi cuốn chú ý của chúng vào một cái gì đó, thú vị,
đặc biệt, thỏa thuận nhau cùng chơi, nhờ bạn giúp đỡ hay giúp đỡ bạn đều tự bộc phát
trong khi chơi. Điều quan trọng là lời nói của trẻ trong khi thực hiện chức năng giao tiếp ở
mức độ nào đó bắt đầu thực hiện chức năng điều chỉnh hành vi.Trong trò chơi trẻ luôn gặp
những sự vật, hành động mới, trẻ bắt đầu làm quen với các hiện tượng, sự kiện mới, tất cả
những gì có liên quan đến trẻ tôi đều gọi ra bằng lời ( các từ), nhưng để hiểu đúng một tên
gọi đơn giản thì chưa đủ, vì thế cần phải đưa ra sự giải thích tỉ mỉ để chỉ ra ý nghĩa sự vật,
hành động đó ( để làm gì?), so sánh cái trẻ đang nhìn thấy với cái trẻ đã nhìn thấy từ trước.
Ví dụ: Khi trẻ chơi lắp ráp, trẻ dùng các khối vuông, chữ nhật, tròn để ghép thành chiếc ô
tô, tôi cho trẻ gọi tên “ô tô”, vô tình trẻ đụng tay vào chiếc ô tô làm cho ô tô chạy thì tôi
cho trẻ gọi ra bằng từ “ô tô chạy” và giải thích cho trẻ hiểu Trò chơi “Gặp gỡ bạn mới”:
Trẻ đóng vai chủ và khách, khách đến nhà, chủ mời khách vào nhà. Trò chơi này củng cố
thói quen giao tiếp ngôn ngữ, sử dụng các từ chào hỏi, mời mọc... Bên cạnh đó những trò
chơi học tập cũng góp phần không nhỏ trong việc phát triển vốn từ cho trẻ. Ví dụ: Trò chơi
bắt chước tiêng kêu của các con vật.
Cô nói
Trẻ kêu
Con chó
gâu gâu
Con vịt
cạp cạp
Con gà trống
òóo
Con gà mái
cục cục cục tác
Con gà con
chíp chíp
Trò chơi nói nhanh các đặc điểm các con vật
Con gà mái
có hai chân
Có bốn chân
con lợn, con mèo, con chó
Đẻ trứng
con gà mái, con vịt
Trong quá trình chơi, giúp trẻ hiểu nghĩa của từ, trẻ phải vận dụng vốn từ để
đối đáp một cách nhanh nhẹn, kích thích trẻ sử dụng ngôn ngữ và phát triển lời nói
mạch lạc, đúng ngữ pháp.
* Qua giờ đón, trả trẻ
Sự ân cần niềm nở của cô giáo khi đón trẻ sẽ là niềm tin, sự an tâm từ phía
phụ huynh và cũng là chỗ dự an toàn khi trẻ vào lớp, cũng ngay lúc này đây cô
giáo hướng dẫn trẻ để cặp, xếp dép ngăn nắp đúng nơi qui định vừa trò chuyện
cùng trẻ.
Sáng nay mẹ cho con ăn gì?
Sáng nay ai đưa con đi học?
Mẹ/ ba đưa con đi học bằng xe gì? ( xe máy )
Xe máy kêu như thế nào? ( xe máy kêu pim pim)
Xe máy có mấy bánh? ( xe máy có 2 bánh)
Trò chuyện với trẻ là hình thức đơn giản nhất để cung cấp vốn từ và phát triển
ngôn ngữ cho trẻ, đặc biệt là phát triển ngôn ngữ mạch lạc, bởi qua trò chuyện cô
cung cấp và mở rộng vốn từ cho trẻ, khi trẻ mạnh dạn trò chuyện cùng với cô có
nghĩa là trẻ đã tự tin vào vốn từ của mình, ngôn ngữ của trẻ nhờ đó mà được mở
rộng và phát triển hơn
* Qua giờ ăn
Trước khi ăn, cô và trẻ cùng hát bài “ Mời bạn ăn”, để mau lớn các con phải
ăn đầy đủ chất dinh dưỡng, thế trong bài hát có những loại thức ăn nào? ( cho trẻ
kể: thịt, rau, trứng, đậu, cá, tôm), bữa trưa hôm nay các con được ăn cơm với món
gì nhỉ?, thế là tôi chia cơm và giới thiệu món ăn
Ví dụ: Món mặn là “ Thịt kho trứng”, món canh “ Canh tôm mồng tơi”
Hôm nay các con được ăn cơm với món ăn mặn là “Thịt kho trứng”
Vậy thịt, trứng cung cấp cho chúng ta chất dinh dưỡng gì? (chất đạm), canh rau
cung cấp cho chúng ta chất gì? (vi ta min, chất xơ), tôi luôn trò chuyện với trẻ
trước khi ăn để tạo không khí vui vẻ, giúp trẻ ăn ngon miệng vừa cung cố vốn từ
cho trẻ
* Qua giờ ngủ
Khi trẻ đã vào sạp tôi mở những ca khúc nhẹ nhàng, có lời ru êm ái, có nội
dung nhắc nhở trẻ những quy tắc trong giờ ngủ để trẻ nghe
Ví dụ: Bài hát “ Giờ đi ngủ” trẻ nghe và nằm đúng tư thế, không nằm sấp,
không nói chuyện
*Phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động dạo chơi tham quan
Hoạt động dạo chơi tham quan, trẻ được trực tiếp quan sát các sự vật, hiện
tượng phong phú trong cuộc sống, mục đích của dạo chơi tham quan là mở rộng
tầm hiểu biết của trẻ, trên cơ sở đó cung cấp, củng cố một số lượng lớn vốn từ cho
trẻ. Để dạo chơi, tham quan đạt hiệu quả, tôi chuẩn bị tốt nội dung cho trẻ quan sát,
những từ, câu cần dạy trẻ; những câu hỏi yêu cầu trẻ trả lời, những phương pháp,
biện pháp cần tích cực hóa ngôn ngữ cho trẻ
Ví dụ: Cho trẻ quan sát cây xanh
Tôi chọn được vị trí để trẻ quan sát tổng thể cây xanh, chuẩn bị hệ thống câu
hỏi như:
+ Đây là cây gì? (Ngay lúc này đây trẻ đã được được quan sát, trãi nghiệm
thực tế nên trẻ sẽ trả lời được: Cây sung ), tôi cho nhiều trẻ trả lời hoặc đồng thanh
từ mới này
+ Cây sung gồm có những bộ phận nào? (rễ, thân, cành, lá)
+ Rễ ở đâu? Các con có thấy được phần rễ không? ( rễ bám sâu vào lòng đất)
+ Lá sung như thế nào? ( lá sung to)
+ Ich lợi của cây sung? ( cho ta bóng mát, vẻ đẹp thiên nhiên)
Sau thời gian tham quan về, cô và trẻ cùng đàm thoại về nội dung tham quan
nhằm củng cố kiến thức thu được trong buổi dạo chơi tham quan, củng cố và tích
cực hóa vốn từ cho trẻ, cô thường xuyên sữa sai câu nói của trẻ ở mọi lúc mọi nơi
để giúp trẻ có nguồn vốn từ phong phú và đa dạng
2.4.Biện pháp 4: sử dụng biện pháp giáo dục đặc biệt cho những cháu chậm nói, phát
âm chưa rõ lời.
Trong lớp có một số cháu chậm nói, phát âm chưa rõ lời, tôi chú ý đến những
cháu này trong tất cả các hoạt động hằng ngày ở lớp như cháu: Nữ Kiều, Ngọc Huân,
Tường An, Anh Thư, Đình Bách …Vào những giờ hoạt động góc, tôi chia những cháu này
chơi cùng nhóm với các bạn phát âm rõ lời, tôi chỉ việc theo dõi, giúp đỡ khi có tình huống
xảy ra.Vì thế những cháu này rất an tâm khi chơi cùng các bạn, cháu chơi đến lúc gần hết
giờ, tôi gọi: “Các con ơi! Giờ chơi sắp hết rồi”, thế là những cháu phát âm rõ lời “Dạ” một
cách to rõ, còn những cháu chậm nói, phát âm chưa rõ lời thì cũng ngẩng ngay đầu lên
nhìn tôi và “ạ”.Tôi nghĩ ngay đến từ “dạ” và bắt đầu tập cho những cháu này “dạ” theo tôi.
Tôi gọi tên từng cháu như “Nữ kiều ơi!” rồi tập cho cháu dạ” nhiều lần.... Sau đó tôi gọi
“Các cháu ơi!” thì những cháu này cùng “dạ”, cháu nào phát âm đúng thì được cô khen.
Cứ thế, tôi tập cho các cháu trong bất cứ tình huống nào thuận lợi nhất trong mỗi ngày ở
lớp. Vào giờ ăn tôi gọi cháu lại chỗ tôi để tôi cho cháu ăn, tôi gọi: “Nữ Kiều ơi” rồi tập
cháu nói “dạ”, hoặc giờ vệ sinh tôi cũng gọi “Nữ Kiều ơi!” lại đây cô lau mặt cho và tập
cháu nói “dạ”. Cùng với hai cô giáo trong lớp, chúng tôi kiên trì trong suốt một tuần lễ, thế
là các cháu đã phát âm được từ “dạ”. Bây giờ không sử dụng theo tình huống nữa, tôi bắt
đầu tập cho cháu bắt chước những âm thanh đơn giản. Dựa vào sự bắt chước của trẻ mà
tôi cho chúng phát âm các các âm vị với những kết hợp khác nhau Ví dụ: Bà bế bé, bé bế
búp bê, bé bồng búp bê. Mẹ thơm bé nhé ! Cứ như vậy, tôi lặp đi lặp lại những âm vị đơn
giản đó để các cháu luyện
tập, tôi trao đổi với phụ huynh để luyện các cháu lúc ở nhà. Khi các cháu đã phát
âm được những âm thanh đơn giản, tôi tiếp tục tập cho các cháu phát âm những âm khó
dần. Đặc biệt chú ý đến các âm mà trẻ phát âm không chính xác hoặc hoàn toàn không
phát âm (các nguyên âm đôi: ie, uô, ươ ; vần có âm đệm u; các phụ âm: s, x, kh...)
Ví dụ: Bé hông (không) thích ăn cả (quả) chối ( chuối)
Các mẫu phát âm luôn đặt trong hoạt động ngôn ngữ giao tiếp, có những mẫu mô
phỏng âm thanh khác nhau để trẻ luyện phát âm. Chẳng hạn ở góc chơi học tập, trò chơi
“Gọi hình”. Mỗi cháu một bộ tranh lôtô “Phương tiện giao thông đường bộ”, một cháu
phát âm rõ chọn một phương tiện giao thông đưa lên và gọi to “xe máy”, sau đó tất cả cùng
cầm tranh “xe máy” đưa lên và gọi to “ xe máy” rồi xếp tranh “xe máy” ra tấm bìa, tiếp
tục trẻ khác cầm tranh “ xe đạp” đưa lên , các bạn còn lại tìm tranh “ xe đạp” đưa lên và
gọi từ “ xe đạp” rồi xếp xuống tấm bìa. Trò chơi cứ tiếp tục, các cháu phát âm được các từ:
ô tô, xe đạp, ô tô tải, ô tô khách, tàu hỏa, xe xích lô..., cũng với cách chơi này các cháu
được chơi ở các chủ đề khác như: cây và những bông hoa đẹp, những con vật đáng yêu, tết
và mùa xuân trong năm học.
Dần dần, tôi tập cho những cháu, chậm nói, phát âm chưa rõ lời này nói
những câu dài hơn trong các trò chơi khác.
Ví dụ: trong trò chơi phân vai: “Tập làm bác tài xế”. Tôi cho một cháu phát
âm rõ lời đóng vai: Bác tài xế, một cháu phát âm rõ lời đóng vai: Nguời phụ xe,
các cháu chậm nói, phát âm chưa rõ lời đóng vai hành khách. Bác tài xế hai tay
giả cầm vô lăng chạy quanh lớp, miệng kêu “pim, pim”, người phụ xe ôm eo bác
tài chạy sau, đến chỗ hành khách thì bác tài phanh lại, miệng kêu: “kít”, người phụ
xe bước xuống hỏi: “Các bạn có đi xe buýt không?”
Tôi tập cho những cháu chậm nói, phát âm chưa rõ trả lời: “cho tôi đi xe
buýt với”.
Tôi tập từng cháu phát âm, cháu nào nói được theo cô thì lần lượt lên xe, thế
là tất cả các cháu đều cố gắng nói theo cô, và bước lên xe ôm eo bạn. Xe chạy tất
cả các cháu cùng kêu “pim, pim”. Bằng nhiều hình thức tôi luôn tạo cơ hội cho
những cháu chậm nói, phát âm chưa rõ lời được nói nhiều.
2.5.Biện pháp thứ 5: Tận dựng tối đa việc xây dựng môi trường học tập trong và
ngoài lớp học.
Như chúng ta đã biết: Đối với trẻ nhà trẻ thì từ và hình ảnh trực quan sẽ đi vào nhận
thức của trẻ cùng một lúc. Trẻ nhà trẻ hoạt động với đồ vật, việc trang trí lớp học, các góc
chơi, làm đồ dùng đồ chơi theo từng chủ đề phong phú, bắt mắt, hấp dẫn trẻ là một nội
dung quan trọng để từ đó thông qua việc cùng trẻ chơi với các đồ chơi đồ vật sẽ phát triển
vốn từ, ngôn ngữ cho trẻ.
Nên tôi đã tận dụng tất cả những nguyên vật liệu có thế sử dụng làm đồ dùng đồ
chơi như lịch cũ, ống lon, chai nhựa ... làm ra những đồ dùng chơi như bức tranh, mũ, dép,
bát, chén, bình hoa, cây xanh.... khi trẻ chơi tôi luôn đến chơi cùng trẻ và trò chuyện hỏi
trẻ về tên các đồ dùng đó để qua đó cung cấp vốn từ thêm cho trẻ. Dựa vào từng chủ đề lên
kế hoạch làm đồ dùng, đồ chơi một cách cụ thể để sắp xếp vào từng góc chơi và trong mọi
thời điểm trong ngày tôi luôn tận dụng những đồ dùng đó để phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
2.6. Biện pháp thứ 6: Làm tốt công tác phối hợp tuyên truyền với phụ huynh.
Với phương châm “Trường học là nhà, nhà là trường học” thì việc phối kết hợp với các
bậc phụ huynh là một trong những biện pháp rất cần thiết để giáo dục trẻ. Gia đình giáo
dục tốt, trẻ sẽ có điểm xuất phát tốt và nề nếp tốt. Ngược lại, trẻ sẽ không có gì khi nếu
không được gia đình quan tâm giáo dục. Như vậy, xuất phát điểm của trẻ là chưa công
bằng. Vì vậy, Giáo viên và phụ huynh đều phải tiến hành giáo dục trẻ song song với nhau.
Trong buổi họp phụ huynh đầu năm tôi mạnh dạn trao đổi với phụ huynh về tầm quan
trọng của ngôn ngữ đối với sự phát triển cảu trẻ, để phụ huynh nhận thức rõ ý nghĩa vấn
đề để cùng nhà trường giáo dục trẻ.
Thông qua bảng tuyên truyền với phụ huynh. Đây là nơi trao đổi thông tin với phụ
huynh rất hiệu quả. Theo từng chủ đề tôi có đánh máy nội dung phát triển ngôn ngữ cho trẻ
mà cô đang dạy trẻ ở trên lớp.
Thông qua các buổi hợp phụ huynh, tôi cũng đã chủ động lồng ghép nội dung phát triển
ngôn ngữ cho trẻ đến các bậc phụ huynh.
Thông qua giờ đón trẻ, tôi đã trao đổi với phụ huynh về tình hình sức khoẻ, vệ sinh cá
nhân, những phản ứng kém linh hoạt cũng như những kỹ năng của trẻ để cùng phụ huynh
giáo dục trẻ, giúp trẻ chủ động trong các hoạt động.
Trao đổi tuyên truyền với phụ huynh cố gắng dành thời gian để trò chuyện, tâm sự
với trẻ và lắng nghe trẻ nói. Khi trò chuyện với trẻ phải nói rõ ràng, mạnh lạc, tốc độ vừa
nghe để trẻ nghe cho dễ. Cha mẹ, người thân cố gắng phát âm đúng, không nên bắt trước
những từ trẻ nói ngọng mà cần phải sửa sai ngay những từ trẻ nói sai cho trẻ để trẻ bắt
chước được cho đúng.
Khuyến khích hoặc tuyên truyền với phụ huynh cung cấp kinh nghiệm sống cho trẻ.
Tránh không nói tiếng địa phương, tập cho trẻ nói ở mọi lúc mọi nơi, cần tránh cho trẻ
nghe những hình thái ngôn ngữ không chính xác...
Ví dụ: Bố mẹ khi đón trẻ về nhà thường xuyên trò chuyện cùng trẻ như: Hôm nay
con đi học cô cho con ăn gì? Đến lớp con có ngoan không? Hôm nay cô dạy con bài thơ
gì?....Từ những câu hỏi trò chuyện đơn giản như vậy cũng đã góp phần phát triển ngôn ngữ
cho trẻ.
3.Kết quả đạt được:
Qua quá trình nghiên cứu và áp dụng những biện pháp trên tôi đã thu được kết quả
đáng phấn khởi như sau:
*Đối với giáo viên:
Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ trong
trường mầm non thông qua các hoạt động, các bài thơ, câu chuyện, các trò chơi và bằng
trải nghiệm thực tế. Luôn tìm tòi các kiến thức chăm sóc - giáo dục trẻ để nắm vững các
nội dung, phương pháp, kỹ năng để truyền đạt cho trẻ giúp trẻ lễ phép, tự tin, tự lập và biết
hợp tác với cô giáo và các bạn.
Linh hoạt và sáng tạo hơn trong việc sử dụng các phương pháp và hình thức tổ chức
hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
*Đối với trẻ:
Trẻ đã mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp với cô và các bạn trong lớp, với mọi
người xung quanh. Vốn từ của trẻ đã phong phú hơn rất nhiều so với đầu năm học. Trẻ đã
phát âm được cả câu trọn vẹn. Khả năng nghe, hiểu, trả lời câu hỏi của cô đã tốt hơn rất
nhiều. Trẻ có ý thức trong các giờ học. Trẻ có thái độ tích cực, đoàn kết…thích tham gia
vào các hoạt động cùng cô. Trẻ mạnh dạn, tự tin hơn trong khi giao tiếp. Khả năng nghe,
hiểu, trả lời câu hỏi của trẻ đã tiến bộ rõ rệt.
Nội dung
Số trẻ đạt
Tỷ lệ
Số trẻ
%
chưa
Tỷ lệ %
đạt
Khả năng nghe hiểu
23
92%
02
8%
Vốn từ của trẻ
23
92%
02
8%
Khả năng nói đúng ngữ
21
84%
04
16%
21
84%
4
16%
ngôn ngữ và phát âm
pháp
Khả năng giao tiếp
* Đối với phụ huynh:
Phụ huynh có nhận thức đúng đắn về chuyên đề. Phụ huynh rất phấn khởi, yên tâm khi
thấy con em mình lễ phép, tự tin, biết tự phục vụ bản thân không những ở trường cũng như
ở nhà nên đã đóng góp tranh ảnh, một số trang thiết bị cơ bản cho cô và trẻ có tương đối
đầy đủ đồ dùng học tập, thực hành tốt hơn.
III- KẾT LUẬN
1. Ý nghĩa của đề tài:
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở trường mầm non và đặc biệt là ở lứa tuổi nhà trẻ là vấn đề rất
quan trọng và cần thiết, mức độ phát triển ngôn ngữ của trẻ còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố
khác nhau. Tôi nhận thấy việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ là cả quá trình liên tục và có hệ
thống đòi hỏi giáo viên phải kiên trì, bền bỉ khắc phục khó khăn để tìm ra phương tiện,
điều kiện cần thiết cho sự phát triển toàn diện của các cháu. Điều này đã góp phần bồi
dưỡng thế hệ măng non của đất nước, thực hiện mục tiêu của ngành. Muốn có được kết
quả trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua quá trình thực hiện tôi rút ra bài học kinh
nghiệm như sau: - Giáo viên cần phải hiểu rõ tầm quan trọng của ngôn ngữ với việc hình
thành và phát triển nhân cách trẻ, không ngừng học tập và nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ, tự rèn luyện ngôn ngữ của mình để phát âm chuẩn tiếng Việt
- Để phát triển ngôn ngữ cho trẻ giáo viên cần phải phối hợp chặt chẽ ba nội
dung sau để góp phần tạo điều kiện cho trẻ lĩnh hội những điều mới lạ về thế giói
xung quanh
+ Làm giàu vốn từ cho trẻ qua việc hướng dẫn trẻ quan sát, đàm thoại, hướng
dẫn trẻ chơi, kể chuyện và đọc chuyện cho trẻ nghe
+ Củng cố vốn từ cho trẻ
+ Tích cực hóa vốn từ cho trẻ
- Tổ chức nhiều trò chơi sử dụng ngôn ngữ
- Giáo viên luôn tạo không khí vui tươi, thoải mái cho trẻ, động viên trẻ đi
học đều, luôn quan tâm đến trẻ nhút nhát, dành thời gian trò chuyện với trẻ để trẻ
mạnh dạn, tự tin tham gia các hoạt động tập thể giúp trẻ được giao tiếp nhiều hơn
- Giáo viên tạo điều kiện cho trẻ tiếp cận và làm quen với thiên nhiên và phát
triển khả năng quan sát của trẻ, giúp trẻ củng cố và tư duy hóa các biểu tượng ngôn ngữ.
- Làm tốt công tác phối hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường để có kế hoạch phát
triển ngôn ngữ cho trẻ.
2. Kiến nghị, đề xuất:
* Đối với các cấp lãnh đạo:
Tạo điều kiện hỗ trợ cho nhà trường kinh phí để nâng cấp khuôn viên sân trường và trang
bị thêm cho nhà trường một số đồ chơi ngoài trời tạo điều kiện cho việc tổ chức các hoạt
động tham quan và vui chơi ngoài trời.
*Đối với Nhà trường:
Nhà trường tăng cường tổ chức các buổi hội thảo về chuyên đề phát triển ngôn ngữ để giáo
viên được trao đổi những vướng mắc trong việc thực hiện.
Tạo điều kiện cho giáo viên được tham quan các trường trong tỉnh và ngoài tỉnh để
học tập.
* Đối với giáo viên:
Trong quá trình tổ chức các hoạt động giáo dục trẻ, giáo viên phải linh hoạt, sáng
tạo. Thường xuyên thay đổi các hình thức và sử dụng các thủ thuật, giúp trẻ hứng thú và
hoạt động một cách tích cực.
Biết vận dụng biện pháp lồng ghép tích cực các hình thức tổ chức một cách khoa
học, nhẹ nhàng, thoải mái để khai thác tối đa hoạt động phát triển ngôn ngữ.
Bản thân mỗi giáo viên không ngừng học tập, trau dồi kiến thức để nâng cao chuyên
môn nghiệp vụ và trình độ nhận thức.
* Đối với phụ huynh:
Đưa đón con em đi học đúng giờ và chuyên cần để đảm bảo trẻ được tiếp thu kiến
thức một cách có hệ thống, liên tục.
Phụ huynh cần tạo điều kiện giúp đỡ cho giáo viên trong việc sưu tầm các nguyên
vật liệu sẵn có ở địa phương để giáo viên làm đồ dùng đồ chơi nhằm phát triển ngôn ngữ
cho trẻ.
Cần quan tâm đến trẻ hơn nữa và phối hợp với giáo viên để thực hiện tốt việc phát
triển ngôn ngữ cho trẻ ở nhà.
Trên đây là một số biện pháp giúp trẻ 24-36 tháng phát triển ngôn ngữ mà tôi đã rút
ra được trong quá trình thực hiện. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ tốt nhằm góp phần giúp trẻ
phát triển về mọi mặt đạo đức, nhân cách, phẩm chất, thẩm mỹ, trí tuệ và ngôn ngữ. Song
trong quá nghiên cứu vẫn còn những thiếu sót nhất định, bản thân tôi rất mong được sự
góp ý xây dựng của hội đồng khoa học các cấp để sáng kiến kinh nghiệm của tôi hoàn
thiện hơn góp phần nâng cao chất lượng nội dung phát triển ngôn ngữ cho trẻ nơi tôi công
tác nói riêng và phát triển ngôn ngữ cho trẻ lứa tuổi 24-36 ở các trường mầm non nói
chung.
XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC NHÀ TRƯỜNG