Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

SKKN một số biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 5 bru vân kiều ở trường bán trú thông qua các môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.47 MB, 19 trang )

1. PHẦN MỞ ĐẦU
1. 1. Lý do chọn đề tài:
Mục tiêu của giáo dục tiểu học là nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban
đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kỹ
năng cơ bản, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Yêu
cầu về nội dung giáo dục tiểu học phải đảm bảo cho học sinh có hiểu biết đơn giản, cần
thiết về tự nhiên, xã hội và con người; có kỹ năng cơ bản về nghe, đọc, nói, viết và tính
toán; có thói quen rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh; có hiểu biết ban đầu về nghệ thuật.
Tuy nhiên, nội dung giáo dục trong các nhà trường tiểu học trong thời gian qua còn
xem trọng việc dạy chữ, chưa chú trọng đúng mức dạy cho học sinh có những kĩ năng cơ
bản trong cuộc sống thường ngày, nhất là việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Thế
nên việc giáo dục kĩ năng chỉ được mang tính chất lồng ghép vào các môn học và chỉ
thực hiện đối với cấp học trung học cơ sở.
Những năm gần đây, ngoài vấn đề dạy các môn văn hóa cơ bản thì giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh tiểu học cũng đang được các bậc phụ huynh và các nhà giáo dục chú
trọng trong quá trình giáo dục học sinh. Rèn kĩ năng sống cho học sinh tiểu học nói
chung và học sinh lớp 5 nói riêng là một mặt giáo dục cần đặc biệt coi trọng đòi hỏi
thường xuyên của công tác giáo dục và cũng là đòi hỏi cấp thiết của việc hình thành nhân
cách của học sinh. Qua việc rèn kĩ năng sống sẽ trang bị tri thức, hành vi cho các em.
Đồng thời nó định hướng cho học sinh tiểu học rèn luyện hành vi và thói quen ứng xử
tốt. Trong sự phát triển nhân cách của học sinh, việc rèn luyện kĩ năng sống là đảm bảo
cho học sinh có được bản lĩnh rõ ràng về nhân cách toàn diện. Nếu không rèn kĩ năng
sống thì không những sự ứng xử trong các tình huống sẽ phức tạp, gặp khó khăn, thậm
chí mắc phải sai lầm, mà việc hình thành nhân cách toàn diện của các em bị hạn chế,
phiến diện, việc xây dựng những thói quen hành vi dễ rơi vào chủ nghĩa hình thức máy
móc, lí trí và tình cảm không thống nhất với nhau: đó là lời nói không đi đôi với việc làm
dẫn đến hiện tượng lệch lạc về nhân cách.
Kĩ năng sống là một trong những khái niệm được nhắc đến nhiều trong thời đại
ngày nay. Có nhiều quan niệm về kĩ năng sống. Theo bản thân tôi, kĩ năng sống đơn giản
là tất cả những điều cần thiết chúng ta phải biết để có thể thích ứng với những thay đổi
diễn ra hằng ngày trong cuộc sống. Kĩ năng sống được hình thành theo một quá trình,


hình thành một cách tự nhiên qua những va chạm, những trải nghiệm trong cuộc sống và
qua giáo dục mà có. Có nhiều nhóm kĩ năng sống như: nhóm kĩ năng nhận thức, nhóm kĩ
năng xã hội và nhóm kĩ năng quản lí bản thân... Dù là kĩ năng nào cũng đều rất quan
trọng và cần thiết với mỗi con người. Cho nên, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh có
tầm quan trọng rất lớn trong việc giáo dục và hình thành nhân cách cho các em.
Trong những năm gần đây, Bộ Giáo dục - Đào tạo đã đưa nội dung giáo dục kỹ năng
sống vào trường học bằng cách tích hợp vào các môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp.
1


Đây là một trong những tiêu chí đánh giá “Trường học thân thiện - học sinh tích
cực”. Trên tinh thần đó, bản thân tôi nhận thấy rằng: Chính ở dưới mái trường các em
học được nhiều điều hay, lẽ phải và nhà trường trở nên là ngôi nhà thân thiện, học sinh
tích cực học tập để thành người tài xây dựng đất nước, có khả năng hội nhập cao, từng
bước trở thành công dân toàn cầu. Đây cũng là một nhiệm vụ quan trọng đối với các thầy
cô giáo. Với học sinh tiểu học, đây là giai đoạn đầu tiên hình thành nhân cách cho các
em, giúp các em có một kĩ năng sống tốt cho tương lai sau này.
Với cương vị là người giáo viên chủ nhiệm đang công tác tại vùng khó, nơi mà gần
như 100% học sinh đều là con em dân tộc Bru-Vân Kiều, (cái ăn cái mặc còn chưa đủ,
điều kiện địa lí xa xôi, cách trở; môi trường giao tiếp và tiếp xúc với phương tiện truyên
thông còn nhiều hạn chế) bản thân tôi hết sức băn khoăn và trăn trở, luôn vang trong đầu
câu hỏi: Làm thế nào để nâng cao kĩ năng sống cho học sinh ? Làm thế nào để học sinh
biết cách vận dụng kĩ năng sống vào trong cuộc sống hằng ngày ? Với mong muốn góp
phần vào việc luận giải những vấn đề nói trên, bản thân mạnh dạn chọn đề tài: Một số
biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 5 Bru-Vân Kiều ở trường bán trú thông
qua các môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp.
1.2. Điểm mới của đề tài
Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh có thể nói là một vấn đề không có gì mới mẻ,
đặc biệt nó đã được rất nhiều người công tác trong lĩnh vực giáo dục nghiên cứu và quan
tâm. Tuy nhiên, điểm mới và khác biệt đề tài này là đối tượng học sinh được nói đến là

học sinh dân tộc, con em Bru-Vân Kiều. Vốn sống của các em hầu như chỉ được tiếp thu
ở trường học và một phần do các em tự lĩnh hội lấy bởi vì bố mẹ luôn đi rừng rẫy trong
một thời gian dài, không ai định hướng, chỉ bảo cho các em phải làm thế nào trong từng
tình huống cụ thể của cuộc sống. Bên cạnh đó vì điều kiện xa xôi, vùng biên giới nên các
em ít được tiếp xúc nhiều với các phương tiện truyền thông như truyền hình, đài báo,
môi trường giao tiếp đồng bằng… nên có thể nói kĩ năng sống cơ bản của học sinh chưa
có nến tảng hình thành.
Nội dung của đề tài đánh giá được một số mặt trong hoàn cảnh sống tác động tới
vốn sống và giáo dục kĩ năng sống của học sinh lớp 5 Bru-Vân Kiều; đề xuất được cách
tiếp cận mới trong giáo dục kĩ năng sống theo hướng khai thác nội dung môn học và hoạt
động ngoài giờ lên lớp để giáo dục kĩ năng sống riêng mang tính đặc thù của học sinh
dân tộc thiểu số và sử dụng các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học tích cực, khai
thác nội dụng giáo dục của bài học… để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh giúp các em
vận dụng tốt trong học tập và cuộc sống.
Đề tài nêu rõ từng giải pháp cụ thể, trong đó có những giải pháp đặc thù chỉ có thể
áp dụng ở trường bán trú nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức, giá trị, thái độ, kỹ
năng phù hợp; hình thành cho học sinh những hành vi, thói quen lành mạnh, tích cực;
loại bỏ những hành vi, thói quen tiêu cực, giúp các em có khả năng ứng phó phù hợp và
2


linh hoạt trong các tình huống của cuộc sống hàng ngày căn cứ trên thực trạng khi học
sinh học tập và sinh hoạt tại nhà trường. Tạo cơ hội thuận lợi để HS thực hiện tốt quyền,
bổn phận của mình và phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức góp
phần tạo một nền tảng vững chắc, một nền tảng tốt cho các em trong cuộc sống về sau
này.
1.3. Phạm vi áp dụng của đề tài:
Đề tài này được áp dụng trong tất cả các môn học và hoạt động ngoài giờ ở lớp 5.
Nghiên cứu các vấn đề có liên quan và các giải pháp rèn kỹ năng sống cho học sinh
lớp 5 ở trường bán trú có đối tượng là học sinh Bru-Vân Kiều.

2. Phần nội dung
2.1. Thực trạng về giáo dục kĩ năng sống của học sinh lớp 5 tại trường
2.1.1. Thực trạng hoàn cảnh kinh tế -xã hội
Nhà trường được xây dựng trên địa bàn khu vực miền núi biên giới, nơi có vị trí
chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, có nền văn hóa
mang đậm bản sắc của đồng bào người Bru-Vân Kiều. Nhiều nét văn hóa đặc sắc mang
đậm tính dân tộc cần được gìn giữ, bảo tồn và phát huy nhưng vẫn còn không ít những
tập tục thói quen cần loại bỏ (cúng bái khi ốm đau, bố mẹ đi rừng dài ngày để con tự
chăm sóc lẫn nhau, ít có thói quen mắc màn khi ngủ, gấp chăn màn sau khi ngủ dậy… ).
Xuất phát từ những điều kiện trên mà lối sống cũng có những nét riêng biệt. Đây chính là
những yếu tố ảnh hưởng tới quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học nói
chung và học sinh lớp 5 nói riêng ở nhà trường hiện nay.
2.1.2. Thực trạng kĩ năng sống của học sinh lớp 5 tại trường
Quan sát một số học sinh trong quá trình học tập và hoạt động giáo dục, tôi nhận
thấy tính tự chủ của học sinh chưa cao, phần lớn học sinh thiếu tự tin, nhút nhát, rụt rè
trước những vấn đề mới hay phải đợi giáo viên gợi ý, chỉ định các em mới dám thực
hiện. Nguyên nhân do bản tính học sinh dân tộc là nhút nhát, môi trường sống chỉ bó hẹp
trong phạm vi gia đình và làng bản dẫn đến thiếu kỹ năng sống, đồng thời trong các giờ
học giáo viên lại thiếu quan tâm đến việc rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh. Qua điều
tra cho thấy các kĩ năng như tương trợ nhau, giao tiếp, diễn đạt trước đám đông được các
thầy cô giáo tích cực hình thành và củng cố nhưng chưa thể hiện được nhiều. Học sinh
ngày càng thực dụng, ích kỉ và lười hoạt động hơn, tình trạng học sinh trốn học, nghỉ học
không có lý do, nói tục, chửi bậy vẫn xảy ra.
Các em hay “nói trước quên sau” và chưa có khả năng vận dụng những điều đã học
áp dụng vào thực tế, với học sinh lớp 5 – lớp cuối cấp, các em rất hiếu động, có nhu cầu
hỏi đáp, không muốn bị áp đặt. Mặt khác, các em một mực rất tin vào lời nói của thầy cô
giáo, thầy cô bảo đọc, bảo chép thì cứ đọc cứ chép và quá trình ấy cứ lặp đi lặp lại dần
dần dẫn đến thói quen, ít có khả năng chủ động phân tích, lĩnh hội tiếp thu, ứng xử trong
từng tình huống cụ thể của bài học hay từng hoạt động ngoài giờ lên lớp
3



Những vấn đề này được thể hiện qua bảng thống kê dưới đây:
BẢNG ĐÁNH GIÁ KĨ NĂNG SỐNG CỦA HỌC SINH LỚP 5
TẠI TRƯỜNG VÀO ĐẦU HỌC KÌ I
(Khảo sát trên 42 học sinh khối 5 của trường)
Tổng số
học sinh
42

Tổng số học sinh
42

Kĩ năng tốt
SL
%
10
23.8

Có hình thành kĩ năng
SL
%
19
45.2

Kĩ năng chưa tốt
SL
%
13
31.0


Thực hành thảo luận nhóm
Chưa biết cách lắng nghe, hay
Biết cách lắng nghe, hợp tác
tách ra khỏi nhóm
SL
%
SL
%
38,2
19
55,9

Ứng xử tình huống trong chơi trò chơi tập thể
Biết cách ứng xử hài hòa, khá phù Hay thờ ơ, cãi nhau, xô đẩy bạn
Tổng số học sinh
hợp.
khi chơi.
SL
%
SL
%
42
18
42.9
24
57.1
2.1.3. Thực trạng nhận thức của giáo viên về giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
lớp 5 tại trường
Qua qua trình công tác tôi nhận thấy thời gian qua việc thực hiện giáo dục kỹ năng

sống đã được nhà trường rất quan tâm thông qua việc thường xuyên tổ chức nhiều hoạt
động trong và ngoài giờ lên lớp, giúp hình thành những thói quen tốt cho học sinh… Đại
đa số giáo viên đều đã nhận thức được ý nghĩa của việc giáo dục kỹ năng sống cho học
sinh.
Tuy nhiên vẫn còn tình trạng giáo viên làm cho có hoặc qua loa chiếu lệ để gọi là
thực hiện theo nội dung thi đua của phong trào Trường học thân thiện - học sinh tích cực.
Việc rèn kĩ năng sống của các em của nhiều giáo viên còn nhiều hạn chế, chưa có nét
chuyển biến, nguyên do chính là trong tư tưởng giáo viên chỉ chú trọng đến việc dạy kiến
thức, giáo viên chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc rèn kĩ năng sống cho học
sinh lớp mình đang giảng dạy mà chỉ luôn chú trọng đến việc đọc tốt, làm tính tốt…
Công tác chủ nhiệm lớp ở trong nhà trường đôi lúc chưa được quan tâm đúng mức.
Giáo viên mỗi người hiểu, tiếp cận và thực hiện một cách khác nhau. Nhiều giáo viên
vẫn coi nhẹ công tác chủ nhiệm lớp từ đó cũng coi nhẹ việc rèn kĩ năng sống cho học
sinh.
2.2. Các giải pháp
4


Giáo dục kỹ năng sống cho đối tượng học sinh dân tộc bị tác động của những yếu
tố vùng miền và con người trong môi trường giáo dục đang đòi hỏi cần có sự cố gắng, sự
quan tâm hơn nữa để đạt được hiệu quả cao nhất. Ngoài những giải pháp có tính cụ thể,
sự đầu tư, thay đổi nhận thức... còn là những biện pháp giáo dục ngay chính trong các
môn học chính khóa và ngoại khóa. Giáo dục kĩ năng sống cần bắt đầu từ nhỏ, từ từng
hành vi cá nhân đơn giản nhất, theo đó hình thành tính cách và nhân cách. Trên cơ sở
thực trạng đã trình bày ở trên, bản thân tôi mạnh dạn thực hiện một số biện pháp trong
các hoạt động giáo dục nhằm giáo dục kỹ năng sống cho đối tượng học sinh lớp 5 dân
tộc Bru-Vân Kiều như sau:
2.2.1. Giáo viên phải luôn gần gũi và tạo mối thân thiện với học sinh
Vào đầu năm học, sau khi nhận lớp, để tạo sự gần gũi và gắn kết giữa học sinh và
giáo viên chủ nhiệm, bản thân tôi đã sắp xếp nhiều thời gian cho học sinh được giới thiệu

về mình, động viên khuyến khích các em chia sẻ với nhau về những sở thích, ước mơ
tương lai cũng như mong muốn của mình với các em. Đây là hoạt động giúp thầy và trò
hiểu nhau, đồng thời tạo một môi trường học tập thân thiện “Trường học thật sự trở
thành ngôi nhà thứ hai của các em, các thầy cô giáo là những người thân trong gia
đình". Đây cũng là một điều kiện rất quan trọng để phát triển khả năng giao tiếp của học
sinh. Bởi học sinh không thể mạnh dạn, tự tin trong một môi trường mà giáo viên luôn
gò bó và áp đặt.
Tiếp theo trong tuần đầu, tôi đã cho học sinh tự do lựa chọn vị trí ngồi của mình để
qua đó phần nào nắm được đặc điểm tính cách của các em: Mạnh dạn hay nhút nhát, thụ
động hay tích cực, thích thể hiện hay không thích... Tiếp tục qua những tuần học sau, bản
thân chú ý quan sát những biểu hiện về thái độ học tập, những cử chỉ, hành vi tại vị trí
ngồi mà các em chọn để bắt đầu có điều chỉnh phù hợp. Áp dụng biện pháp này tôi thấy
các em ngày càng mạnh dạn hơn, tự tin hơn khi giao tiếp với bạn bè, với thầy cô...
Ngoài ra, đặc thù của trường bán trú là học sinh khu vực lẽ hầu như phải ở lại học
tập và sinh hoạt suốt tuần ở khu nội trú của trường, nên giáo viên cần phải thường xuyên
quan tâm, chăm lo, chỉ bảo cho các em nếp học tập, sinh hoạt (ăn, ngủ, gấp chăn màn, đi
vệ sinh đúng chỗ…) tìm hiểu tâm tư, tình cảm của các em… phải xem các em như là con
em mình đồng thời làm sao để các em coi mình như là người cha, người mẹ, là anh, là
chị… để các em chia sẻ buồn vui, giúp các em tháo gỡ vướng mắc nhằm giáo dục các em
một cách toàn diện.
2.2.2. Rèn kĩ năng sống hiệu quả qua việc tích hợp vào các môn học
Qua thực tế cho ta thấy một bộ phận không nhỏ học sinh càng lớn lên đạo đức càng
đi xuống. Biểu hiện ở chỗ thiếu tôn trọng thầy cô, coi thường kỉ luật của nhà trường,
sống không lành mạnh, xa rời chuẩn mực đạo đức của dân tộc Việt Nam, gian lận trong
học tập và thi cử....Đó là những biểu hiện đáng lo ngại. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến
tình trạng trên nhưng một nguyên nhân được coi là nguồn gốc sâu xa là do các em thiếu
5


kĩ năng sống. Vì vậy giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua các môn học là một

nội dung thiết yếu mà bất cứ nhà trường nào cũng phải quan tâm đến. Thông qua nội
dung bài học, cách tổ chức các hoạt động dạy học giáo viên hình thành và xây dựng cho
các em các kĩ năng sống như: quan sát, nhận xét, giao tiếp, phân tích, ....Việc giáo dục kĩ
năng sống cho học sinh được thực hiện thông qua dạy học các môn học nhưng không
phải là lồng ghép, tích hợp thêm kinh nghiệm sống vào nội dung các môn học và hoạt
động giáo dục một cách quá tải, mà theo một cách tiếp cận mới: đó là sử dụng các
phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực để tạo điều kiện, cơ hội cho học sinh thực
hành, trải nghiệm kĩ năng sống trong quá trình học tập. Từ đó lồng ghép một cách nhẹ
nhàng những kinh nghiệm sống vào bài học đến từng đối tượng học sinh. Trong quá trình
dạy lồng ghép kĩ năng sống cho học sinh thông qua các môn học cần phải khơi gợi và
phát huy sự tham gia của các em bên cạnh sự hướng dẫn của giáo viên. Tuyệt đối không
nên áp dụng ý kiến hay suy nghĩ chủ quan của giáo viên. Tuyệt đối không được phê bình
hay đánh giá khi các em làm gì đó chưa tốt. Bởi nếu vậy sẽ làm mất sự chủ động, tự tin
và hoà nhập cùng bạn bè vì ở lứa tuổi này các em rất muốn thể hiện mình. Chuyên gia
tâm lí học người Nga Dorothy Holte đã nói: “Nếu trẻ sống với sự phê bình, thì trẻ sẽ học
cách chỉ trích”. Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh có thể thực hiện trong bất cứ
lúc nào, giờ học nào. Để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh có hiệu quả bản thân đã vận
dụng vào các môn học, tiết học, nhất là các môn như: Tiếng Việt; Đạo đức; Khoa học; Kĩ
thuật... để những giờ học sao cho các em được làm để học, được trải nghiệm như trong
cuộc sống thực.
Trong chương trình lớp 5, ở môn Tiếng Việt có nhiều bài học có thể giáo dục kĩ
năng sống cho các em, đó là các kĩ năng giao tiếp xã hội như: Viết thư; điền vào giấy tờ
in sẵn; giới thiệu địa phương; Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia,... được lồng
ghép cụ thể qua các tình huống giao tiếp. Bản thân tôi khi dạy chỉ gợi mở sau đó cho các
em tự nói một cách tự nhiên hoàn toàn không gò bó áp đặt. Bên cạnh đó, nhiều bài Luyện
từ và câu có nội dung rèn luyện các nghi thức lời nói, nhiều bài Tập đọc giới thiệu những
văn bản mẫu chuẩn bị cho việc hình thành một số kĩ năng giao tiếp cộng đồng như mẫu
đơn, thư, tóm tắt tin tức,… hoặc cung cấp những câu chuyện mà qua đó học sinh có thể
rút ra những nội dung rèn kĩ năng sống. Để hình thành những kiến thức và rèn luyện kĩ
năng sống cho học sinh qua môn tiếng Việt, người giáo viên cần phải vận dụng nhiều

phương pháp dạy phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh như: Thực hành
giao tiếp, trò chơi học tập, phương pháp nêu và giải quyết vấn đề, phương pháp tổ chức
hoạt động nhóm, phương pháp hỏi đáp,… Thông qua các hoạt động học tập, được phát
huy trải nghiệm, rèn kĩ năng hợp tác, bày tỏ ý kiến cá nhân, đóng vai,… học sinh có được
cơ hội rèn luyện, thực hành nhiều kĩ năng sống cần thiết.
Ở môn Đạo đức, để các chuẩn mực đạo đức, pháp luật xã hội trở thành tình cảm,
niềm tin, hành vi và thói quen của học sinh. Giáo viên phải sử dụng phương pháp dạy
6


học đổi mới theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Tổ chức
cho học sinh thực hiện các hoạt động học tập phong phú, đa dạng như: kể chuyện theo
tranh; quan sát tranh ảnh, băng hình, tiểu phẩm; phân tích, xử lí tình huống; chơi trò chơi,
đóng vai tiểu phẩm, múa hát, đọc thơ, vẽ tranh, … Sử dụng nhiều phương pháp và kĩ
thuật dạy học tích cực như: học theo nhóm, đóng vai, trò chơi,…Và chính thông qua việc
sử dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực đó, học sinh đã được tạo cơ hội để
thực hành, trải nghiệm nhiều kĩ năng sống cần thiết, phù hợp với lứa tuổi. Đó là lối sống
lành mạnh, các hành vi ứng xử phù hợp với nền văn minh xã hội như: gọn gàng, ngăn
nắp, nói lời đẹp, chăm sóc bố mẹ, ông bà, hợp tác, giúp đỡ, chia sẻ với bạn…
Ví dụ: Khi dạy Tập làm văn các bài: “Luyện tập thuyết trình, tranh luận (SGK
tiếng Việt 5 tập 1 trang 91)”, hay môn Đạo đức bài: “Hợp tác với những người xung
quanh – trang 25” bản thân tôi đã tổ chức cho các em đóng vai, chơi trò chơi. Sau vài
lời khuyến khích đầu tiên, tổ chức cho các em đứng thành vòng tròn đóng vai, giới thiệu,
thuyết trình, tranh luận, … Lúc đầu các em rất ái ngại không tự tin khi đóng vai, thuyết
trình, ít tranh luận trước lớp nhưng tôi đã kịp thời nhắc nhở các em những điều cần chú ý
trong khi giao tiếp, cộng thêm một môi trường hòa đồng thân thiện, các em thực hiện rất
tốt, không còn những cái nhìn ái ngại. Thay vào đó là những cánh tay tự tin cùng những
câu nói rõ ràng, chắc gọn, mạnh dạn hơn.
Các kĩ năng được phát triển từ dễ đến khó, sau bài học giới thiệu là những bài học
như khám phá, tư duy hiệu quả và đặc biệt kĩ năng làm việc đồng đội. Bản thân tôi luôn

tạo không khí thân thiện, áp dụng việc đổi mới phương pháp tạo điều kiện cho các em
mạnh dạn, tự lập, tự khẳng định và phát huy mình hơn qua việc học nhóm.
Ví dụ: Khi dạy bài: “Đại từ xưng hô” phân môn Luyện từ và câu (tiếng Việt 5 tập 1
trang 105): tôi đã cho học sinh chuẩn bị những hộp thư: Yêu cầu học sinh viết từ em vẫn
xưng hô với thầy, cô; bố, mẹ; anh, chị, em; bạn bè…và tổng kết lại vào cuối tiết. Em nào
nêu được nhiều đại từ xưng hô nhất sẽ được tuyên dương. Không những vậy bản thân tổ
chức cho các em trao đổi: “Theo em, nên xưng hô như thế nào là lịch sự, thể hiện đúng
mối quan hệ giữa người nói và người nghe?” “Em đã lịch sự, tôn trọng khi xưng hô với
người khác chưa?”... qua đó các em sẽ bộc lộ những suy nghĩ của mình.
Rèn kĩ năng sống có hiệu quả cho học sinh còn được bản thân tôi vận dụng khá
nhiều trong trong các môn học thông qua xử lí tình huống hay các trò chơi học tập có nội
dung gần gũi với cuộc sống hằng ngày của các em.
Ví dụ: Trong môn Kĩ thuật. Ở bài: "Chuẩn bị nấu ăn – trang 15” bản thân cho
học sinh thảo luận nhóm, chơi trò chơi “Đi chợ” và lên thực đơn cho một bữa ăn dưới sự
trợ giúp của giáo viên. Sau khi chọn món, học sinh sẽ thực hành đi chợ, mua hàng, cách
xưng hô với người bán…. học sinh nhận xét thực đơn của nhau, học sinh sẽ khắc sâu
kiến thức về một bữa ăn đầy đủ cần đảm bảo các chất cũng như sẽ biết nấu những món
ăn đơn giản khi bố mẹ đi vắng...
7


Các em làm việc tích cực, vui vẻ, tự mỗi em nói được tiếng nói, suy nghĩ của mình
với bạn bè, với thầy cô một cách tự tin mạnh dạn. Việc rèn luyện các kĩ năng này đã tạo
ra được thói quen tốt cho bản thân mỗi em, các em tham gia một cách chủ động tích cực
vào quá trình học tập, tạo điều kiện cho các em chia sẻ những kinh nghiệm, ý kiến hay để
giải quyết một vấn đề nào đó.
Hiệu quả đào tạo kĩ năng sống không đo đếm được bằng những con số chính xác
nhưng được thể hiện bằng những biểu hiện cụ thể: Các em có ý thức, thái độ khác với
mọi người trong gia đình; luôn hoà đồng với bạn bè; tự tin khi nói năng... đó chính là
hiệu quả từ đào tạo kĩ năng sống. Việc sinh hoạt theo nhóm tạo môi trường làm việc thân

thiện, giúp các em cải thiện hành vi giao tiếp thông qua các hoạt động trao đổi diễn ra
thường xuyên. Các em trở nên thân thiện, từ đó giúp bầu không khí học tập, lao động trở
nên sôi động hơn. Tham gia sinh hoạt theo nhóm sẽ giúp các em học sinh hưng phấn hơn
trong học tập và tạo nên cách ứng xử hợp lý trong mọi tình huống. Khi sinh hoạt nhóm
phải luôn đưa ra nhiều tình huống tạo sự phát triển tư duy cho các em. Đó cũng là cách
tạo sự gần gũi giữa các em với nhau.
Ngoài ra, bản thân tôi còn chú ý rèn luyện sức khoẻ và ý thức bảo vệ sức khoẻ, kĩ
năng phòng chống tai nạn giao thông và các thương tích khác cho học sinh qua các môn
học: Ai cũng biết rằng sức khỏe là tài sản vô cùng quí báu của mỗi con người. Học tập
tốt, đạo đức tốt là những điều học sinh phải đạt được thì rèn luyện sức khỏe tốt cho học
sinh là điều phải được đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên có được một sức khỏe tốt và bảo vệ
được nó thì thật không dễ. Dù vậy không có nghĩa là không làm được, nhiều khi sức
khỏe của các em phụ thuộc vào những điều rất giản dị. Đó chính là giáo dục một lối sống
khoa học. Bản thân rèn luyện sức khoẻ cho các em qua các tiết sau:
Ở môn Khoa học: Chương “Con người và sức khỏe”, các bài: “Cần làm gì để cả
mẹ và em bé đều khỏe ?; Phòng bệnh sốt xuất huyết; Phòng bệnh sốt rét; Phòng bệnh
viêm não; giáo dục các em hiểu rằng ăn uống đủ chất và hợp lí giúp cho mẹ và em bé đều
khỏe mạnh, chăm sóc sức khỏe của người mẹ khi có thai là trách nhiệm của mọi người
trong gia đình; Biết phòng tránh một số bệnh sốt rét, sốt xuất huyết; có ý thức tự giác
làm vệ sinh cá nhân hằng ngày, tự giác thực hiện nếp sống vệ sinh, khắc phục những
hành vi có hại cho sức khoẻ...
Ngoài ra để các em có kĩ năng phòng chống tai nạn giao thông, phòng tránh bị điện
giật và các thương tích khác; bản thân đã giáo dục các em thông qua các tiết: An toàn
giao thông, Khoa học, dặn dò HS đi lại trong mùa mưa bão, hướng dẫn các em phòng
chống tai nạn giao thông, điện giật và các thương tích khác bằng cách đưa ra những tình
huống cho các em xử lí.
Chẳng hạn: “Trẻ em dưới 7 tuổi phải đi cùng với ai khi đi trên đường và khi qua
đường ? “Khi đi lại trên đường em phải đi về phía nào ? Nếu trời mưa to và nước suối
lên cao em phải làm gì ?”; “Khi ngồi trên xe máy để bố mẹ chở đến trường em phải như
8



thế nào ? “Các em đã nhìn thấy tai nạn trên đường chưa ? Theo các em vì sao tai nạn
xảy ra ?”; ...
Giáo dục cho các em tránh các tai nạn trên đường: không được chạy lao ra đường
khi tan học, không được lội qua suối khi trời mưa to, không đi một mình qua khe suối
vào mùa mưa bão,...Như vậy, các em có thể tự lập, xử lí được những vấn đề đơn giản khi
gặp phải.
Ở bài: “Sử dụng năng lượng chất đốt” môn Khoa học – trang 86: các em được
đóng vai xử lí tình huống khi có tai nạn ở nhà như: Khi bố, mẹ đi làm rẫy, em vừa trông
em bé vừa nấu cơm, em bé bò lại gần bếp lửa, em sẽ làm gì ? Hoặc khi có người thân, bà
con trong bản chặt phá cây bừa bãi làm chất đốt, em sẽ làm gì ? ... Các nhóm sẽ thảo
luận sau đó lên thể hiện. Các em còn lại quan sát và có nhận xét đối với những tình
huống mà các bạn mình vừa xử lí để rút ra kĩ năng cấp cứu khi có những trường hợp xấu
xảy ra hoặc giáo dục các em bảo vệ rừng đầu nguồn nơi mình sinh sống…
2.2.3. Rèn kĩ năng sống qua các tiết sinh hoạt lớp, hoạt động giáo dục, vui chơi
Hoạt động ngoài giờ lên lớp là một hoạt động quan trọng, góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện, thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà trường. Chính từ những
hoạt động như: lao động, sinh hoạt tập thể, hoạt động xã hội đã góp phần rất lớn trong
việc hình thành nhân cách của học sinh. Giúp em biết tự giáo dục, tự rèn luyện, tự hoàn
thiện mình. Có thể nói việc tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp là xây dựng cho các
em các mối quan hệ phong phú, đa dạng một cách có mục đích, có kế hoạch, có nội dung
và phương pháp nhất định, gắn giáo dục với cộng đồng, tạo sự thân thiện trong mọi tình
huống. Biến các nhu cầu khách quan của xã hội thành những nhu cầu của bản thân học
sinh.
Nhân cách trẻ được hình thành và phát triển thông qua các hoạt động có ý thức.
Chính trong quá trình sống, học tập, lao động, giao lưu, vui chơi giải trí... con người đã
tự hình thành và phát triển nhân cách của mình.
Việc tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp trong trường tiểu học là điều
kiện tốt nhất giúp học sinh tích luỹ và rèn kĩ năng sống có hiệu quả. Thông qua các hoạt

động ngoài giờ lên lớp các em được hợp tác, trải nghiệm các kĩ năng sống. Vì vậy giáo
viên cần thiết kế và tổ chức thực hiện các hoạt động ngoài giờ lên lớp sao cho học sinh
có cơ hội thể hiện ý tưởng cá nhân, tự trải nghiệm và biết phân tích kinh nghiệm sống
của chính mình và người khác.
Để rèn kĩ năng sống có hiệu quả bản thân tôi còn vận dụng thông qua các hoạt động
ngoài giờ học. Thông qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp các em được hợp tác, trải
nghiệm các kĩ năng sống nên giáo viên cần thiết kế và tổ chức thực hiện các hoạt động
ngoài giờ lên lớp sao cho HS có cơ hội thể hiện ý tưởng cá nhân, tự trải nghiệm và biết
phân tích kinh nghiệm sống của chính mình và người khác. Đó là qua các buổi ngoại
khóa của trường, lớp, các tiết sinh hoạt lớp…
9


Ví dụ: Nhân ngày lễ Chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam 20-11. Liên đội đã phát
động phong trào thi làm báo tường giữa các chi đội và sao trong toàn trường. Bản thân
tôi cùng các em sưu tầm bài và viết bài, vẽ và trang trí báo tường,... Qua hoạt động này
rèn cho các em nhiều kĩ năng như: trình bày, trang trí, lựa chọn nội dung có ý nghĩa phù
hợp… các em rất nhiệt tình, đoàn kết và hợp tác với nhau rất tốt.
Ngoài ra, những buổi ngoại khóa, tiết sinh hoạt lớp, bản thân luôn khuyến khích các
em xung phong trả lời những câu hỏi mà thầy và các bạn hay hỏi. Luôn lắng nghe các nội
dung, hoạt động cần làm trong tuần. Nhờ vậy các em mạnh dạn dần và thực hiện tốt các
phong trào của nhà trường và Liên đội.
Thường xuyên tạo các tình huống chơi trong chế độ sinh hoạt hàng ngày của các em
vì đối với học sinh bậc học tiểu học trò chơi có một vai trò rất quan trọng trong việc rèn
kĩ năng sống cho các em. Các em lớn lên, học hành và khám phá thông qua trò chơi. Các
hành động chơi đòi hỏi các em phải suy nghĩ, giải quyết các vấn đề, thực hành các ý
tưởng.
Không những thế, bản thân còn khuyến khích các em cùng chia sẻ những cảm nhận,
những suy nghĩ, những quan sát của mình với thầy, với bạn một cách thoải mái, tự nhiên
không gò bó, áp đặt. Trong những giờ sinh hoạt lớp, giờ ra chơi bản thân cùng các em

tham gia những trò chơi dân gian, trò chơi giúp các em phát triển trí tuệ (Cờ ca rô, Ô ăn
quan, cùng tham gia giải bài tập Trạng nguyên nhỏ tuổi…)
Ngoài ra, tôi luôn tranh thủ đọc sách cho các em nghe trong mọi tình huống như lúc
sinh hoạt đầu giờ, trong giờ sinh hoạt lớp. Tăng cường kể cho các em nghe các câu
chuyện cổ tích, câu chuyện trong bài Tập đọc, bài thơ,… để qua đó rèn luyện đạo đức
cho các em, giúp các em hoàn thiện mình, dạy các em yêu thương bạn bè, yêu thương
con người. Tạo hứng thú cho các em qua các truyện bằng tranh tùy theo lứa tuổi, gợi mở
tính tò mò, ham học hỏi, phát triển khả năng thấu hiểu ở các em.
Bên cạnh đó, để rèn kĩ năng tự phục vụ, biết lao động vừa sức, biết trang trí lớp học
xanh - sạch - đẹp, giúp các em yêu trường, yêu lớp hơn; bản thân tôi đã hướng dẫn các
em trồng cây xanh và chăm sóc bồn hoa theo phân công hàng ngày, cùng trang trí lớp
học theo chủ điểm, cùng chăm sóc góc thiên nhiên của lớp. lưu giữ những hình ảnh hoạt
động của các em ở góc truyền thống của lớp...
Một điều nữa theo bản thân tôi cũng khá quan trọng là kĩ năng ứng xử có văn hoá là
lối sống lành mạnh mà các em cần phải được đào tạo, vì thế ngay những ngày đầu tiên
khi các em vào lớp học, bản thân đã phát động các phong trào: “Nói lời hay làm việc tốt”
qua cách ứng xử lễ phép như biết đi thưa về trình, chào hỏi những người lớn tuổi, biết
xin lỗi khi có khuyết điểm, cảm ơn khi được tặng quà, vui vẻ hoà nhã với bạn bè, lễ phép
với thầy cô và những người lớn tuổi,... và tổng kết vào các tiết sinh hoạt lớp. Bản thân tôi
luôn học cách lắng nghe, tìm hiểu nguyên nhân, và dùng lời lẽ mềm mỏng bằng những
tình cảm, cử chỉ yêu thương của mình khi yêu cầu điều gì đó với học sinh; kông nói nặng
10


lời để các em bớt đi tính hung hăng đối với những học sinh nghịch ngợm, mắc
lỗi.

NGOẠI KHÓA VỀ HÌNH ẢNH ANH BỘ ĐỘI CỤ HỒ 22/12

CHĂM SÓC BỒN HOA, CÂY CẢNH SAU GIỜ HỌC


2.2.4. Động viên, khen thưởng kịp thời những học sinh có tiến bộ
Một điều không thể thiếu để tạo sự hưng phấn, vui vẻ, phấn khởi, giúp các em có ý
thức cao trong việc rèn luyện các kĩ năng của học sinh là luôn chú ý đến công tác động
viên, khen thưởng học sinh.
Để động viên, khuyến khích học sinh thực hiện tốt việc rèn luyện các kĩ năng, ngay
từ buổi họp phụ huynh đầu năm học bản thân tôi đưa ra kế hoạch rèn luyện cho các em
lớp mình phụ trách. Trao đổi với Ban đai diện Cha mẹ học sinh cùng phối hợp và dành
một khoản riêng để khen thưởng kịp thời động viên các em để tạo cho các em có một
động cơ tốt trong việc duy trì thực hiện. Bản thân theo dõi hằng ngày, các em có biểu
11


hiện tốt thì ghi vào sổ tay, trong tiết sinh hoạt cuối tuần cho các em bình chọn những bạn
thực hiện tốt sẽ được một ngôi sao vàng. Vì vậy, các em thi đua nhau “nói lời hay, làm
việc tốt” và cuối tuần nào cũng có rất nhiều em được ngôi sao vàng.
Mỗi tháng, bản thân tổng kết một lần thông qua việc tổ chức sinh nhật tháng cho các
em trong lớp để khen thưởng những em đã đạt nhiều thành tích tốt bằng những phần quà
nhỏ. Các em rất vui và hãnh diện khi được tặng những ngôi sao vàng và những món quà
của thầy giáo tặng. Vì thế các em không ngừng thi đua cố gắng thực hiện tốt để được
nhận những ngôi sao mà thầy giáo thưởng. Đây là một hình thức động viên về tinh thần
rất giá trị và hiệu quả. Các em sẽ nhanh nhẹn hơn, có đạo đức tốt hơn, mạnh dạn hơn
trong giao tiếp, tự tin hơn trong cuộc sống.
2.2.5. Giáo viên tuyên truyền, phối hợp với các bậc phụ huynh thực hiện dạy
các em các kĩ năng sống cơ bản trong thời gian học sinh ở nhà
Trước hết, người lớn phải gương mẫu, yêu thương, tôn trọng, đối xử công bằng với
các em và đảm bảo an toàn cho các em, tạo điều kiện tốt nhất cho các em vui chơi.
Thầy, cô giáo, cha mẹ luôn khuyến khích các em nói lên quan điểm của mình, nói
chuyện với các thành viên trong lớp, trong gia đình về cảm giác và về những lựa chọn
của mình, cần giúp các em hiểu rằng nên có thông số để theo đó mà lựa chọn, cố gắng

không chỉ trích các quyết định của các em. Việc này sẽ hình thành kĩ năng tự kiểm soát
bản thân, rèn luyện tính tự tin cho các em khi tham gia các hoạt động và các buổi thảo
luận tại trường sau này.
Thầy, cô giáo, cha mẹ giúp các em phát triển sở thích, ý thích của mình và đảm bảo
rằng người lớn có thể cung cấp thêm phương tiện để các em thực hiện ý thích đó.
Ví dụ: Một số học sinh thích vẽ, ngoài việc cho các em học năng khiếu vẽ thì thầy
cô giáo, cha mẹ có thể cho các em thêm bút màu, giấy vẽ và hãy chỉ cho các em cách lưu
giữ các bức tranh để tạo thành một bộ sưu tập tranh vẽ của chính các em hoặc triển lãm
tranh của các em ở góc nhỏ trong nhà, trong lớp, hay học sinh thích múa thì tạo điều kiện
cho các em tham gia câu lạc bộ Em hát dân ca của trường để các em đủ tự tin biểu diễn
trên sân khấu trong những ngày lễ lớn của trường tổ chức: 20/11; Văn nghệ “Mừng
Đảng – Mừng Xuân”; hay những em có năng khiếu về thể thao thì giáo viên chủ nhiệm
cần phối hợp tốt với giáo viên bộ môn luyện tập thêm cho các em, đưa các em vào câu
lạc bộ, cuối năm có khen thưởng từng mặt theo thông tư 30/2014 của Bộ GD&ĐT...
Ngoài ra, cha mẹ cần dạy các em những nghi thức văn hóa trong ăn uống, biết cách
sử dụng các đồ dùng ăn uống. Cụ thể: Các em được làm quen với những đồ dùng, vật
dụng khác nhau, (bộ đồ bếp, bộ đồ ăn, bộ đồ uống…). Sự sạch sẽ, gọn gàng, một thói
quen nề nếp, sự sắp đặt ngăn nắp, ngay ngắn những bộ đồ dùng, vật dụng, thái độ ăn
uống từ tốn, không vội vã, không khí cởi mở, thoải mái và đầm ấm, những cuộc trao đổi
nhẹ nhàng, dễ chịu… tất cả những yếu tố trên sẽ giúp các em có thói quen tốt để hình
thành kĩ năng tự phục vụ và ý nghĩa hơn là kỹ năng sống tự lập sau này.
12


2.2.6. Giáo dục những kĩ năng sống cơ bản cho học sinh thông qua những hoạt
động đặc thù của trường bán trú
Bản thân tôi luôn tích cực giáo dục học sinh thông qua các buổi sinh hoạt nội trú để
giúp các em rèn kỹ năng sống sao cho phù hợp trong từng tình huống cụ thể của đời sống
hằng ngày các em có thể gặp phải.
Để giúp các em hiểu thêm về xã hội, tôi thường chú trọng vấn đề rèn kỹ năng sống

cần thiết thông qua các hoạt động xã hội như: tham gia các phong trào “Xanh – Sạch –
Đẹp”, chăm sóc bồn hoa cây cảnh, di tích lịch sử Km 33 đường Hồ Chí Minh Tây, tham
gia ngoại khóa về bảo vệ môi trường rừng và tài nguyên thiên nhiên, ngoại khóa về Anh
bộ đội cụ Hồ, ngoại khóa 26/3, vẽ tranh RED+, xem phim tuyên truyền về phòng chống
HIV, chủ quyền biển đảo, An toàn giao thông …
Thường xuyên tổ chức hoạt động em hát dân ca, tập văn nghệ vào tối thứ 5 hàng
tuần, cho các phòng ở khu bán trú thi thể thao và thi văn nghệ với nhau, tập thể dục vào
buổi sáng, hay các cuộc thi vẽ sáng tác tranh theo các chủ đề... đã giúp học sinh nhận
thức đầy đủ về văn hóa bản sắc dân tộc, có lòng nêu cao tinh thần truyền thống, có ý thức
giữ được bản sắc văn hóa dân tộc mình.
Gắn việc rèn luyện kĩ năng sống thông qua các việc đơn giản, cụ thể: trang trí phòng
ở, trồng rau và chăm sóc cây xanh, vệ sinh khu bán trú, tự gấp chăn màn sau khi ngủ dậy,
tự bố trí thời gian ăn, nghỉ, giờ tự học của các em một cách hợp lý...
Như vậy bằng nhiều hình thức khác nhau, bản thân tôi luôn cố gắng rèn cho học
sinh những kĩ năng cơ bản có hiệu quả, thể hiện rõ nét ở sự tiến bộ của học sinh trong
nhận thức, trong cư xử, đối xử tốt với bạn bè, người lớn và linh hoạt xử lí trong mọi
trường hợp.

THI VẼ TRANH RED+ HƯỞNG ỨNG BẢO VỆ TÀI NGUYÊN RỪNG

13


TẬP THỂ DỤC BUỔI SÁNG CỦA HỌC SINH NỘI TRÚ

HOẠT ĐỘNG VUI CHƠI TDTT CỦA HỌC SINH BÁN TRÚ

Qua việc thực hiện các biện pháp trên, đến cuối học kì II, bản thân nhận thấy các em có
tiến bộ rõ rệt. Đa số các em đều có ý thức tốt trong việc rèn luyện các kĩ năng, được thể
hiện rõ qua: Việc sinh hoạt hằng ngày trên lớp, trong nhiều nghi thức lời nói, các em biết

vận dụng những lời nói thân thiện vào thực tế, những lời chào, cảm ơn hay xin lỗi, những
yêu cầu, đề nghị lịch sự,... đã trở thành thói quen được các em vận dụng hằng ngày. Các
em rất hăng hái phát biểu trong tiết học, phụ huynh học sinh rất vui mừng phấn khởi với
kết quả này của các em
Thiết nghĩ, mỗi giáo viên trong trường đều áp dụng sáng kiến này trong công tác
chủ nhiệm của mình thì học sinh sẽ có kĩ năng sống tốt hơn: thích ứng được với môi
14


trường xã hội, tự giải quyết được một số vấn đề thiết thực trong cuộc sống như vấn đề về
sức khỏe, môi trường, tệ nạn xã hội,… các em có thể tự tin, chủ động không bị quá phụ
thuộc vào người lớn mà vẫn có thể tự bảo vệ mình, tự đem lại lợi ích chính đáng, điều
kiện thuận lợi cho bản thân mình rèn luyện, học tập phấn đấu vươn lên đáp ứng được
phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực.”
Qua khảo sát ở khối lớp 5 (sau khi vận dụng đề tài) với chủ đề “Kĩ năng của em”;
kết quả so với đầu năm thì các em tiến bộ rất nhiều. Cụ thể như sau:
Tổng số
học sinh
42

Tổng số
học sinh
42

Kĩ năng tốt
SL
%
22
52.4


Có hình thành kĩ năng
SL
%
18
42.9

Kĩ năng chưa tốt
SL
%
2
4.7

Thực hành thảo luận nhóm
Chưa biết cách lắng nghe, hay tách ra
Biết cách lắng nghe, hợp tác
khỏi nhóm
SL
%
SL
%
38
91.4
4
8.6

Ứng xử tình huống trong chơi trò chơi tập thể
Tổng số
Hay thờ ơ, cãi nhau, xô đẩy bạn khi
Biết cách ứng xử hài hòa, khá phù hợp.
học sinh

chơi.
SL
%
SL
%
42
39
94.3
3
5.7
3. Phần kết luận
3.1. Ý nghĩa của đề tài
Chúng ta biết rằng giáo dục là một quá trình tác động qua lại, là quá trình hoạt động
và giao lưu trong các mối quan hệ xã hội đa dạng, được tổ chức có mục đích có kế hoạch
của các nhà giáo dục và người được giáo dục để hình thành nhân cách hoàn thiện trong
nhà trường xã hội chủ nghĩa không những dạy “chữ” mà còn dạy “người.”
Trong công cuộc đổi mới hiện nay của đất nước ta, khi yếu tố con người được coi
trọng về tiềm năng trí tuệ cùng với sức mạnh tinh thần. Nhân cách của con người càng
được đề cao và phát huy mạnh mẽ trong mọi lĩnh vực xã hội. Thực tế hiện nay ngành
Giáo dục Đào tạo đã được Nhà nước quan tâm đưa lên quốc sách hàng đầu thi việc dạy
chữ nói chung và việc rèn kĩ năng sống nói riêng là vấn đề đặc biệt quan trọng. Một nhà
hiền triết đã nói “khoa học mà không có hành vi đạo đức thì chỉ là sự tàn rụi của linh
hồn”mà hành vi đạo đức đó chính là kĩ năng sống của học sinh. Vì vậy việc thực hiện rèn
kĩ năng sống cho học sinh là cần thiết biết bao.

15


Trẻ em trong lứa tuổi tiểu học rất hồn nhiên ngây thơ trong trắng. Vốn kiến thức,
vốn kinh nghiệm sống của các em mới có rất ít. Vì vậy muốn đạt được mục tiêu giáo dục

phát triển toàn diện của nhà trường, các thầy cô giáo cần phải kiên trì, nhiệt tình, có tâm
huyết với nghề, bên cạnh kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ, người giáo viên phải có
vốn kiến thức tâm lý học, hiểu được tâm sinh lý của học sinh. Từ đó sẽ tìm ra được
những phương pháp hiệu quả để giáo dục các em. Việc dạy “chữ” cần luôn song hành với
việc dạy “ làm người”, và phải được xuất phát ngay từ những tình huống, những việc làm
nhỏ nhất trong cuộc sống thực tế của học sinh. Ngay trong những giờ học ngoài việc đảm
bảo mục tiêu kiến thức kĩ năng của bài, giáo viên cần chú ý đến rèn kĩ năng sống cho học
sinh. Học sinh được rèn kĩ năng sống qua nội dung kiến thức của bài, qua lĩnh hội kiến
thức pháp luật, qua tham gia các hoạt động học tập trong lớp, hoạt động ngoài giờ do
giáo viên tổ chức. Tích cực đổi mới phương pháp dạy học phát huy tính tích cực chủ
động của học sinh là giúp học sinh có nhiều cơ hội để rèn kĩ năng sống. Học sinh được
học tập sinh hoạt vui chơi, rèn luyện trong môi trường gia đình, nhà trường, xã hội; vì
vậy cần thực hiện tốt gắn kết ba môi trường để giáo dục học sinh. Phối kết hợp chặt chẽ
với các ban ngành đoàn thể để giúp đỡ, tư vấn, tạo điều kiện cho học sinh tích lũy có
thêm kĩ năng sống và rèn kĩ năng sống được tốt hơn bằng cách: Luôn gần gũi và tạo mối
thân thiện với học sinh; Tích hợp vào các môn học, các tiết sinh hoạt lớp, hoạt động
giáo dục, vui chơi một số kĩ năng sống cần rèn cho học sinh; Thường xuyên động viên,
khen thưởng kịp thời những học sinh có tiến bộ; Tuyên truyền, phối hợp với các bậc phụ
huynh thực hiện dạy các em các kĩ năng sống cơ bản trong thời gian học sinh ở nhà;
Giáo dục những kĩ năng sống cơ bản cho học sinh thông qua những hoạt động đặc thù
của trường bán trú.
Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua học tập – sinh hoạt ở nhà trường là
điều hết sức cần thiết cho tương lai các em. Bên cạnh việc dạy trẻ các hành động: bảo vệ
môi trường, tránh xa nơi nguy hiểm, biết xin lỗi, cám ơn… chúng ta cần dạy trẻ ý thức
được những việc làm đó và trẻ thực hiện các hành động đó vì ý thức trẻ hiểu chứ không
phải vì người lớn bắt trẻ phải làm, khi đó kỹ năng sống của trẻ được hình thành và theo
trẻ đến suốt cuộc đời. Để đạt được điều đó, giáo viên cần kiên trì, quyết tâm thực hiện
từng bước và liên tục trong suốt quá trình giảng dạy:
Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh dân tộc nói chung và học sinh dân tộc lớp 5 nói
riêng là điều rất cần thiết. Nó trang bị đầy đủ những kĩ năng cho các em để các em có

được cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Đồng thời giúp những em có thói quen xấu và
hành vi tiêu cực trở thành con ngoan, trò giỏi và là người có ích cho xã hội sau này.
3.2. Kiến nghị, đề xuất
Là giáo viên, bản thân hiểu rõ tầm quan trọng trong công tác trồng người. Vì thế,
bản thân luôn cố gắng trau dồi sách vở, học hỏi từ đồng nghiệp cũng như đúc kết kinh
nghiệm giảng dạy của bản thân, nâng cao đạo đức và chuyên môn. Bản thân đã luôn tôn
16


trọng và kiên nhẫn, nhất là tạo cơ hội cho các em được nói, được diễn đạt, bày tỏ thoải
mái ở mọi nơi mọi lúc để các em có cơ hội phát triển một cách toàn diện.
Về phía nhà trường: Theo phương châm giáo dục hiện nay là: “Học để biết, học để
chung sống, học để tự khẳng định mình” nên: nhà trường luôn phát động phong trào này
hơn nữa dưới nhiều hình thức.
Về phía phụ huynh: Trước hết là cần hiểu rõ tầm quan trọng của việc rèn luyện kĩ
năng sống cho con em, tạo một chỗ dựa vững chắc để trẻ chia sẻ, bày tỏ, luôn phối kết
hợp với nhà trường trong việc giáo dục và rèn luyện cho các em, theo dõi mọi biểu hiện
của trẻ để có sự giáo dục cho phù hợp.
Việc rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh luôn được xem là chức năng, nhiệm vụ
thường xuyên của đội ngũ giáo viên từ nhiều năm nay. Hưởng ứng cuộc vận động về chủ
đề năm học, bản thân đã cố gắng áp dụng những kinh nghiệm, sáng tạo thêm những
phương pháp mới nhằm nâng cao nhiều kĩ năng sống tốt cho học sinh từ môi trường giáo
dục ở nhà trường, giáo dục và xây dựng cho các em có năng lực tốt, lối sống lành mạnh
để các em có thể tự lập, tự tin hơn trong cuộc sống, đem lại niềm vui, hạnh phúc cho các
em, gia đình và xã hội.
Trên đây là những suy nghĩ của bản thân về việc nghiên cứu một số biện pháp giáo
dục và rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 5 thông qua các môn học và hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp. Tuy vậy do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan nên chắc chắn
không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được nhận sự giúp đỡ, góp ý bổ sung của
Ban giám hiệu nhà trường, các cấp quản lý giáo dục và đồng nghiệp để bản sáng kiến của

bản thân có được những kinh nghiệm bổ ích có thể áp dụng cho các năm học sau.
Xin chân thành cảm ơn!

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Cẩm nang Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh tiểu học. Ngô Thị Tuyên. Nhà
xuất bản Giáo dục Việt Nam, 2010.
2. Giáo dục kĩ năng sống trong các môn học ở tiểu học, 2010. Hoàng Hà Bình – Lê
Minh Châu – Phan Thanh Hà – Bùi Phương Nga – Trần Thị Tố Oanh – Phan Thị Thu
Phương – Đào Vân Vi.
3. Cẩm nang xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực. Nhà xuất bản Giáo
dục Việt Nam, 2009. – Đặng Quốc Bảo Nguyễn Thị Bảy – Bùi Ngọc Diệp – Bùi Đức
Thiệp – Ngô Thị Tuyên.
4. Hoạt động ngoài giờ lên lớp. Ngô Thị Tuyên.
5. Tiếng việt 5 (tập 1, 2). Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam.
6. Khoa học 5. Nhà xuất bản Giáo dục.
7. Đạo đức 5. Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam.

18


MỤC LỤC
1.
I.1.
I.2.
I.3.
2.


Phần mở đầu
Lý do chọn đề tài
Điểm mới của đề tài
Phạm vi áp dụng của đề tài
Phần nội dung
2.1.
Thực trạng về giáo dục kĩ năng sống của học sinh tại trường
2.1.1. Thực trạng hoàn cảnh kinh tế - xã hội
2.1.2. Thực trạng kĩ năng sống của học sinh tại trường
2.1.3. Thực trạng nhận thức của giáo viên về giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh lớp 5 tại trường
2.2. Các giải pháp
2.2.1. Giáo viên luôn gần gũi, tạo mối thân thiện với học sinh
2.2.2. Rèn kĩ năng sống có hiệu quả qua việc tích hợp vào các môn học
2.2.3. Rèn kĩ năng sống qua các tiết sinh hoạt lớp, hoạt động giáo dục, vui
chơi
2.2.4. Động viên, khen thưởng kịp thời những học sinh có tiến bộ
2.2.5. Giáo viên tuyên truyền, phối hợp với các bậc phụ huynh thực hiện
dạy các em các kĩ năng sống cơ bản trong thời gian học sinh ở nhà
2.2.6. Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua một số hoạt động đặc
thù của mô hình trường bán trú
3.
Phần kết luận
3.1. Ý nghĩa của đề tài
3.2. Kiến nghị, đề xuất
Tài liệu tham khảo

19

Trang 1

Trang 1 - 2
Trang 2
Trang 3
Trang 3
Trang 3
Trang 3
Trang 3
Trang 4
Trang 4
Trang 5
Trang 5- 9
Trang 9 - 11
Trang 11-12
Trang 12
Trang 13-15
Trang 15
Trang 15 - 16
Trang 16-17
Trang 18



×