Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

SKKN một vài biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 3 qua các môn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.45 KB, 18 trang )

MỘT VÀI BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG SỐNG
CHO HỌC SINH LỚP 3 QUA CÁC MÔN HỌC
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
“Mục tiêu của giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện có
đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mĩ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất
năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc” (Luật Giáo dục - 2005).
Bậc học tiểu học là bậc học nền tảng tạo cơ sở cho học sinh phát triển học tiếp
các bậc học tiếp theo, vì vậy bên cạnh việc trang bị cho học sinh những vốn kiến
thức kĩ năng cơ bản trong học tập, lao động còn cần phải chú ý đến việc rèn kĩ
năng sống cho học sinh, dạy học sinh cách “làm người”, để học sinh có thêm vốn
kinh nghiệm thích ứng với môi trường mới, yêu cầu mới.
Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, với bản chất là hình thành và phát triển
cho các em khả năng làm chủ bản thân khả năng ứng xử với những người khác và
với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống . Các em
chính là những chủ nhân tương lai của đất nước, là những người sẽ quyết định sự
phát triển của đất nước trong những năm tới. Nếu không có kĩ năng sống các em sẽ
không thể thực hiện tốt trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và đất
nước.
Mặt khác, khi tham gia vào bất kỳ hoạt động nghề nghiệp nào phục vụ cho
cuộc sống đều đòi hỏi chúng ta phải thỏa mãn những kĩ năng tương ứng. Rèn luyện
kỹ năng sống cho học sinh là nhằm giúp các em rèn luyện kỹ năng ứng xử thân
thiện trong mọi tình huống; thói quen và kĩ năng làm việc theo nhóm, kĩ năng
hoạt động xã hội; Giáo dục cho học sinh thói quen rèn luyện sức khỏe, ý thức tự
bảo vệ bản thân, phòng ngừa tai nạn giao thông và các tệ nạn xã hội. Đối với học
sinh tiểu học việc hình thành các kĩ năng cơ bản trong học tập và sinh hoạt là vô

1



cùng quan trọng, ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách sau
này.
Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh là một việc làm hết sức cần thiết của xã
hội, các em không chỉ biết học giỏi về kiến thức mà còn phải được tôi luyện những
kĩ năng sống qua đó tạo cho các em một môi trường lành mạnh, an toàn, tích cực,
vui vẻ để trang bị cho các em vốn kiến thức, kĩ năng, giá trị sống để bước vào đời
tự tin hơn.
Giáo dục kĩ năng sống trong các môn học ở Tiểu học nhằm đạt mục tiêu trang
bị cho học sinh những kiến thức, giá trị, thái độ và kĩ năng phù hợp; tạo cơ hội cho
học sinh sử dụng quyền và bổn phận của mình và phát triển toàn diện về thể chất,
trí tuệ tinh thần và đạo đức. Giáo dục kĩ năng sống trong các môn học ở Tiểu học
được tập trung chủ yếu ở 4 môn học: Tiếng Việt, Đạo đức, Khoa học và Tự nhiên
xã hội. Bộ GD-ĐT đã đưa nội dung giáo dục kĩ năng sống lồng ghép vào các môn
học ở bậc Tiểu học. Đây là một chủ trương cần thiết và đúng đắn. Tuy nhiên, để
giáo dục kĩ năng sống cho học sinh đạt hiệu quả đòi hỏi nhiều yếu tố chứ không
chỉ ở các bài giảng.
Trong thực tế hiện nay, việc rèn kĩ năng sống cho học sinh trong nhà trường đã
được chú ý đến, song nhiều giáo viên còn lúng túng trong việc tổ chức, thực hiện
các chương trình hoạt động rèn kĩ năng sống cho học sinh. Việc rèn kĩ năng sống
cho học sinh chưa có nét chuyển biến, nguyên do chính là trong tư tưởng giáo viên,
phụ huynh chỉ chú trọng đến việc dạy kiến thức, việc rèn kĩ năng sống cho học
sinh còn chiếu lệ, giáo viên luôn chú trọng đến việc đọc tốt, làm tính tốt.
Xuất phát từ những lý do và yêu cầu trên, từ những kinh nghiệm được rút ra
trong quá trình dạy học, ở phạm vi của bài viết này, tôi mạnh dạn đưa ra " Một
vài biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 3 qua các môn học".
2. Điểm mới của đề tài:
Đề tài này do bản thân tôi nghiên cứu, tìm hiểu và áp dụng tại lớp 3. Điểm mới
của đề tài là tôi đã tìm ra một vài biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 3 qua
các môn học.

3. Phạm vi áp dụng của đề tài:
Đối tượng: Học sinh lớp 3
2


Nội dung : Tìm hiểu một số đặc điểm cơ bản của kĩ năng sống được hình thành
qua việc học tập môn Tiếng Việt, Đạo đức, Tự nhiên xã hội lớp 3 và các tiết hoạt động
ngoài giờ lên lớp ở lớp 3.

II. PHẦN NỘI DUNG:
1. Thực trạng dạy học:
1.1. Xã hội:
Trong thực tế hiện nay chất lượng giáo dục Đạo đức của học sinh nói chung và
của học sinh Tiểu học nói riêng có phần giảm sút bởi ảnh huởng của nhiều nguyên
nhân: Sự cạnh tranh của cơ chế thị truờng có mặt tích cực là thúc đẩy sự phát triển
của nền kinh tế, song lại là mảnh đất tốt cho tư tưởng cá nhân ích kỷ coi đồng tiền
là trên hết dẫn đến sự xuống cấp về Đạo đức xã hội từ người lớn đến trẻ em, đến
mọi mặt của đời sống xã hội
1.2. Gia đình:
Nhiều gia đình chưa đủ hiểu tâm lý của con em mình và đủ khả năng dạy cho
con những kĩ năng cần thiết trong cuộc sống.
Nhiều gia đình chỉ quan tâm đến việc kiếm tiền, đáp ứng nhu cầu vật chất cho
con em mà lãng quên việc dạy bảo con em những kĩ năng cần thiết trong cuộc
sống như: kĩ năng ứng xử, giao tiếp; kĩ năng tự bảo vệ...
1.3. Nhà trường:
Thực tế cho thấy học sinh hiện nay rất nhạy cảm, rất dễ thích ứng với các hiện
tượng tiêu cực ngoài xã hội như: hiện tượng nói tục, các hành vi thiếu văn hoá vẫn
còn. Đặc biệt một số học sinh không biết áp dụng kiến thức đã học vào thực tế.
Chẳng hạn học sinh vừa đuợc học bài “Giữ trật tự vệ sinh nơi công cộng” nhưng
lại rất mất trật tự trong giờ học hoặc vứt rác bừa bãi ở sân trường. Học sinh vừa

được học bài “Lễ phép vâng lời thầy cô giáo’’ nhưng lại chỉ chào hỏi thầy cô giáo
dạy mình hoặc không biết cảm ơn, xin lỗi khi được người khác giúp hay mình làm
điều gì đó không phải.
Mặt khác, nhà trường không thường xuyên cho các em tham gia các buổi sinh
hoạt ngoại khóa vì vậy các em còn hạn chế các kĩ năng trong cuộc sống.
1.4. Giáo viên:
3


Do điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học còn thiếu thốn, kinh phí hạn
hẹp nên ở trong các giờ học thì giáo viên ít có điều kiện tổ chức các trò chơi học
tập. Việc rèn luyện nề nếp cho học sinh chưa thực sự được quan tâm. Ngoài ra thì
một số giáo viên nhận thức chưa đầy đủ tầm quan trọng của việc rèn kĩ năng sống
cho học sinh nên còn chỉ tập trung vào giáo dục Toán, Tiếng Việt chứ không giảng
dạy đạo đức cho các em .
1.5. Học sinh:
Qua thực tế giảng dạy, tôi thấy kĩ năng sống của học sinh chưa cao. Chỉ một số
học sinh có hành vi, thói quen, kĩ năng tốt. Còn phần lớn các em có nhận xét đánh
giá về sự việc nhung chưa có thái độ và cách ứng xử, cách xưng hô chuẩn mực.
* Qua tiến hành khảo sát lớp 3 đầu năm học 2014 – 2015 với chủ đề: "Kĩ năng
của em"; Kết quả như sau:
Số bài KT
22

Kĩ năng tốt Có hình thành KN

Kĩ năng chưa tốt

SL


%

SL

%

SL

%

6

27,3

9

40,9

7

31,8

Học sinh thể hiện kĩ năng còn đại khái, chưa mạnh dạn thể hiện kĩ năng của bản
thân. Các em còn ngại nói, ngại viết, khả năng tự học tự tìm tòi còn hạn chế.
Bên cạnh những khó khăn trên cũng có thuận lợi nhất định đó là: tôi nhận được
một tập thể học sinh khá ngoan và biết vâng lời, các em gần gũi với cô giáo. Bên
cạnh đó tôi có được sự ủng hộ của phụ huynh trong việc cùng nhà trường giáo dục
các em. Ngoài ra Ban lãnh đạo nhà trường luôn theo sát, quan tâm, hỗ trợ cho giáo
viên trong công tác giảng dạy cũng như giáo dục. Chính vì thế tôi luôn cố gắng
làm sao rèn cho các em kĩ năng sống, giúp các em có một niềm tin, phát triển một

cách toàn diện để trở thành con người năng động, sáng tạo phù hợp với một xã hội
hiện đại đang phát triển.
2. Những biện pháp:
Từ tình hình thực tiễn trên, tôi đã cố gắng tìm nhiều biện pháp rèn luyện kĩ
năng sống cho học sinh thông qua các tiết dạy của các môn học, những giờ sinh

4


hoạt nhằm đem lại hiệu quả cao. Để thực hiện tốt việc rèn luyện các kĩ năng sống,
đem lại kết quả cao tôi nhận thấy cần phải áp dụng một số biện pháp sau:
Biện pháp 1 : Gần gũi và tạo mối thân thiện với học sinh
Đầu tiên, sau khi tôi nhận lớp, để tạo sự gần gũi và gắn kết giữa học sinh và
giáo viên chủ nhiệm, tôi sắp xếp nhiều thời gian cho học sinh được giới thiệu về
bản thân, động viên khuyến khích các em chia sẻ với nhau về những sở thích, ước
mơ tương lai cũng như mong muốn của tôi với các em. Đây là hoạt động giúp cô
trò chúng tôi hiểu nhau, đồng thời tôi muốn tạo một môi trường học tập thân thiện
- Nơi " Trường học thật sự trở thành ngôi nhà thứ hai của các em, các thầy cô
giáo là những người thân trong gia đình". Đây cũng là một điều kiện theo tôi là
rất quan trọng để phát triển khả năng giao tiếp của học sinh. Bởi học sinh không
thể mạnh dạn, tự tin trong một môi trường mà giáo viên luôn gò bó và áp đặt.
Tiếp theo trong tuần đầu tôi cho học sinh tự do lựa chọn vị trí ngồi của mình để
qua đó phần nào nắm được đặc điểm tính cách của các em: mạnh dạn hay nhút
nhát, thụ động hay thích thể hiện. Và tiếp tục qua những tuần học sau, tôi chú ý
quan sát những biểu hiện về thái độ học tập, những cử chỉ, hành vi tại vị trí ngồi
mà các em chọn để bắt đầu có điều chỉnh phù hợp.
Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh có thể thực hiện trong bất cứ lúc nào,
giờ học nào. Để việc rèn luyện diễn ra một cách thường xuyên và đạt hiệu quả cao
tôi tiếp tục:
Biện pháp 2: Rèn kỹ năng sống hiệu quả qua việc tích hợp vào các

môn học.
Trên đây là những bước chuẩn bị đầu tiên của tôi. Để giáo dục kĩ năng sống
cho học sinh có hiệu quả tôi vận dụng vào các môn học, tiết học, nhất là các môn
như: Tiếng Việt, Đạo đức; Tự nhiên và xã hội; hoạt động ngoài giờ lên lớp....
A/ Đối với môn Tiếng Việt:
Kĩ năng sống của môn Tiếng Việt không chỉ thể hiện ở nội dung học mà còn
thể hiện qua phương pháp dạy học của giáo viên. Để hình thành và rèn luyện kĩ
năng sống cho học sinh mà môn Tiếng Việt đã đặt ra với học sinh Tiểu học, người
giáo viên phải biết vận dụng nhiều phương pháp dạy học phát huy tính tích cực,
chủ động sáng tạo của HS như thực hành giao tiếp, trò chơi học tập, phương pháp
5


nêu và giải quyết vấn đề, phương pháp tổ chức hoạt động nhóm, phưong pháp hỏi
đáp ...Thông qua các hoạt động học tập được phát huy trải nghiệm, rèn luyện kĩ
năng hợp tác, bày tỏ ý kiến cá nhân, đóng vai... học sinh có cơ hội rèn luyện thực
hành kĩ năng sống cần thiết.
Ví dụ: * Bài tập đọc Ai có lỗi (tuần 2)
- Kĩ năng sống cơ bản được giáo dục trong bài:
+ Bồi dưỡng cho HS cách giao tiếp ứng xử có văn hóa, biết kiềm chế cảm xúc
(qua câu hỏi : Nếu em là En -ri- cô em có trả thù bạn như vậy không ? Vì sao?)
Giáo viên đưa ra câu hỏi và bằng hình thức thảo luận nhóm để các em chia sẻ
với nhau sau đó học sinh sẽ trình bày ý kiến cá nhân của mình.
+ Bồi dưỡng KN biết cảm thông:
Chi tiết: "Thấy vai áo Cô-rét ti sứt chỉ chắc vì cậu đã vác củi giúp mẹ, muốn xin
lỗi Cô- rét –ti."
* Bài Chiếc áo len (TV tuần 3)
- Kĩ năng sống cơ bản được giáo dục trong bài:
+ Tự nhận thức (xác định giá trị bản thân là đem lại lợi ích, niềm vui cho người
khác thì mình cũng có niềm vui).

(qua câu hỏi : Anh Tuấn nói với mẹ những gì?)
Ý kiến của anh Tuấn: "Mẹ dành hết tiền mua áo ấm cho Lan đi. Con không cần
áo đâu; con mặc thêm nhiều áo cũ ở bên trong cũng đủ ấm mẹ ạ!"
Cho học sinh thảo luận nhóm. Từ đó HS biết rút ra được kỹ năng sống: Biết
quan tâm, nhường nhịn, thương yêu...
+ Làm chủ bản thân (Kiểm soát cảm xúc, hành vi của bản thân để tránh thái độ
ứng xử ích kỉ )
Đọan 4 : Áp mặt xuống gối....
Giáo viên sử dụng phương pháp cho học sinh thảo luận nhóm: thấy được sự hối
hận của Lan từ đó rút ra bài học bản thân; biết sống vì người khác có như vậy bản
thân mới có niềm vui đây là cách giao tiếp, ứng xử có văn hóa.
* Bài: Các em nhỏ và cụ già (Tuần 8)
- Kĩ năng sống cơ bản được giáo dục trong bài:
6


+ Biết chia sẻ, cảm thông với hoàn cảnh và nỗi buồn của nguời khác: (Đến chỗ
ông cụ lễ phép hỏi: Thưa cụ chúng cháu có thể giúp gì cho cụ được không ạ! Được
chia sẻ nỗi buồn được vơi đi: Mắt ông cụ sáng lên.. Dẫu các cháu không giúp gì
được nhưng ông cũng thấy lòng nhẹ hơn.
Giáo viên cho học sinh thảo luận , chia sẻ rồi rút ra: Trong cuộc sống cần biết
chia sẻ, cảm thông với hoàn cảnh và nỗi buồn của người khác.
+ Bài: Người lính dũng cảm:
- Các kĩ năng sống được bồi dưỡng trong bài:
+ Tự nhận thức:
Chi tiết : "Chú lính nhỏ : Chui vào à ?; ra quyết định: chui qua chân hàng rào".
GV cho HS thảo luận: Vì sao chú lính nhỏ quyết định chui qua lỗ hổng dưới
chân hàng rào? (Thảo luận, chia sẻ).Quyết định đó đúng hay sai?.
Tự nhận thức, xác định giá trị bản thân: Chú lính nhỏ quả quyết bước về phía
vườn trường và cả đội bước nhanh theo chú như là bước theo một người chỉ huy

dũng cảm.
Giáo viên cho học sinh thảo luận,chia sẻ: Em học tập được điều gì ở chú lính
nhỏ? (HS kể )...
Từ đó: HS biết vận dụng liên hệ bản thân.
Các kĩ năng được phát triển từ dễ đến khó. Sau bài học, tôi luôn tạo không khí
thân thiện, áp dụng việc đổi mới phương pháp hình thức dạy học tạo điều kiện cho
các em mạnh dạn, tự lập, tự khẳng định và phát huy mình hơn qua việc học nhóm.
Rèn kĩ năng sống có hiệu quả còn được tôi vận dụng khá nhiều trong trong các
môn học thông qua xử lí tình huống hay các trò chơi học tập có nội dung gần gũi
với cuộc sống hằng ngày của các em.
2) Môn Đạo đức;
- Các phương pháp kĩ thuật dạy học môn đạo đức rất đa dạng, bao gồm nhiều
phương pháp và kĩ thuật như học theo nhóm, theo dự án, nghiên cứu trường hợp
điển hình giải quyết vấn đề, đóng vai, trò chơi động não, hỏi chuyên gia, chính các
phương pháp dạy học tích cực tạo cơ hội học sinh thực hành trải nghiệm nhiều kĩ
năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi.
7


- Do các đặc trưng trên nên có thể khẳng định đạo đức là môn học có tiềm năng
to lớn trong việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Tiểu học.
- Một số kỹ năng:
+ Kĩ năng giao tiếp: (chào hỏi, cảm ơn, xin lổi, bày tỏ sự thông cảm chia sẻ, bày
tỏ ý kiến ứng xử khi đến nhà người khác, gọi điện thoại...)
Ví dụ:
Qua bài 3: Tự làm lấy việc của mình
- Kĩ năng sống cơ bản được giáo dục trong bài đó là kỹ năng tư duy phê phán
(biết phê phán đánh giá, những thái độ, việc làm thể hiện sự ỷ lại, không chịu tự
làm lấy việc của mình).
+ Tình huống 1 ở hoạt động 2: Hùng đang viết báo tường chuẩn bị cho ngày Nhà

giáo Việt Nam 20/ 11 thì Hà đến chơi. Hà bảo Hùng: Tớ khá Tiếng Việt hơn cậu để
tớ viết hộ, còn cậu giỏi toán thì giải giúp tớ. Em có suy nghĩ gì về lời đề nghị của
Hà? Nếu em là Hùng em sẽ làm gì ? Vì sao?
+ Hay tình huống 2 : Theo em bạn Thắng nên ứng xử thế nào trong tình huống
này? Hay nếu cần cho bạn một lời khuyên, em sẽ khuyên bạn điều gì?
Từ đó học sinh có kĩ năng liên hệ bản thân mình, lập ra được kế hoạch tự làm
lấy việc của mình và các công việc nhà phù hợp, học sinh tự đánh giá được những
việc mà bản thân đã làm được từ đó rút ra được bài học: Tự làm lấy việc của mình
là việc làm rất tốt, giúp em mau tiến bộ...
Ví dụ bài: Tích cực tham gia việc lớp, việc trường
- Kĩ năng sống cơ bản được giáo dục trong bài:
+ Kĩ năng lắng nghe ý kiến lớp và tập thể.
+ Kĩ năng trình bày suy nghĩ, ý tưởng của mình về các việc trong lớp.
+Kĩ năng tự trọng đảm nhận trách nhiệm khi nhận việc của lớp giao.
*Hoạt động 2:
HS bước đầu biết đánh giá , phân biệt các hành vi đúng và chưa đúng trong
các tình huống có liên quan tới việc lớp , việc trường.
HS làm việc trên phiếu cá nhân: HS biết bày tỏ các ý kiến , quan điểm có liên
quan đến việc lớp việc trường.
8


Đưa thẻ tán thành hay không tán thành? Vì sao không tán thành (bày tỏ ý kiến).
Từ đó học sinh có trách nhiệm tham gia việc lớp việc trường vừa là quyền vừa là
bổn phận của học sinh.
Qua các hoạt động học tập, các em làm việc tích cực, vui vẻ, tự mỗi em nói
được tiếng nói, suy nghĩ của mình với bạn bè, với thầy cô một cách tự tin mạnh
dạn. Việc rèn luyện các kĩ năng này đã tạo ra được thói quen tốt cho bản thân mỗi
em, các em tham gia một cách chủ động tích cực vào quá trình học tập, tạo điều
kiện cho các em chia sẻ những kinh nghiệm, ý kiến hay để giải quyết một vấn đề

nào đó.
3) Môn TN&XH:
Các KNS chủ yếu trong môn TN&XH:
+ Kĩ năng tự nhận thức: Tự nhìn nhận, đánh giá về bản thân để xác định được mặt
mạnh, mặt yếu của bản thân; Biết vị trí của mình trong mối quan hệ ở nhà, ở
trường và ở cộng đồng.
+ Kĩ năng tự phục vụ và tự bảo vệ, biết cách tự phục vụ: rửa mặt, đánh răng,
tắm. Tự bảo vệ chăm sóc sức khỏe bản thân liên quan đến các vấn đề vệ sinh các
nhân, vệ sinh môi trường, dinh dưỡng, phòng bệnh và an toàn ở nhà, ở trường, ở
nơi công cộng.
+ Kĩ năng ra quyết định: nên làm hay không nên làm để bảo vệ sức khỏe bản
thân, để ứng xử phù hợp trong gia đình, nhà trường và cộng đồng, để bảo vệ môi
trường.
+ Kĩ năng kiên định và kĩ năng từ chối: Kiên quyết giữ vững lập trường, và nói
lời từ chối trước lời rủ rê của bạn bè và người xấu; không tham gia vào những việc
làm và hành vi tiêu cực.
+ Kĩ năng làm chủ bản thân: Biết đảm nận trách nhiệm, cam kết thực hiện công
việc và biết ứng phó với căng thẳng trong những tình huống của cuộc sống một
cách tích cực.
+ Kĩ năng giao tiếp: Tự tin khi giao tiếp; Lắng nghe tích cực; Phản hồi xây dựng,
bày tỏ cảm thông, chia sẻ, giúp đỡ bạn bè trong lớp, trường, những người có hoàn
cảnh khó khăn.
9


+ Kĩ năng hợp tác: Khả năng cá nhân biết chia sẻ trách nhiệm, biết cam kết và
cùng chung sức làm việc có hiệu quả với những thành viên khác, giúp đỡ hỗ trợ lẫn
nhau trong một công việc, một lĩnh vực nào đó vì mục đích chung.
+ Kĩ năng tư duy phê phán: Biết phê phán , đánh giá các ý kiến, hành động, lời
nói, việc làm, các hiện tượng trong đời sống hằng ngày.

+ Kĩ năng tìm kiếm và xử lí thông tin: Biết tìm kiếm và xử lí thông tin để giải
quyết vấn đề trên cơ sở vận dụng tư duy phê phán và sáng tạo.
Các bài: “Phòng bệnh đường hô hấp; Vệ sinh cơ quan tuần hoàn.....; Ôn tập con
người và sức khoẻ;” Giáo dục các em hiểu rằng thân thể sạch sẽ giúp cho chúng ta
khoẻ mạnh, biết những việc nên làm và không nên làm để cơ thể luôn sạch sẽ, có ý
thức tự giác làm vệ sinh cá nhân hằng ngày, tự giác thực hiện nếp sống vệ sinh,
khắc phục những hành vi có hại cho sức khoẻ. Biết tham gia các hoạt động và nghỉ
ngơi một cách hợp lí để có sức khoẻ tốt. Có ý thức bảo vệ sức khoẻ khi đi dưới trời
nắng, trời mưa.
Ví dụ: Bài 3: Vệ sinh hô hấp
Kĩ năng phân tích, phê phán những việc làm gây hại cho cơ quan hô hấp (qua
việc quan sát các hình và nêu những việc nên và không nên, sau đó các em có khả
năng phân tích, trình bày ý kiến hay qua hoạt động 3: HS có khả năng đóng vai xử
lí tình huống và đưa ra những ý kiến thuyết phục mọi người không hút thuốc lá nơi
công cộng, nơi có nhiều trẻ em; hút thuốc lá có hại đến sức khỏe...)
Hay bài: Vệ sinh thần kinh
Kỹ năng đánh giá được những việc làm của mình có liên quan đến hệ thần
kinh; kỹ năng tìm kiếm xử lí thông tin: Phân tích, so sánh, phán đoán một số việc
làm, trạng thái thần kinh, các thực phẩm có lợi hoặc có hại với cơ quan thần kinh;
Kỹ năng làm chủ bản thân: Quản lí thời gian để thực hiện được mục tiêu theo thời
gian biểu hàng ngày...
Ở bài: "Phòng cháy khi ở nhà " Các em được đóng vai xử lí tình huống khi có
tai nạn khi ở nhà như: Để những thứ dễ cháy (Can dầu, xăng, giấy, củi ...) gần bếp
lửa, không trông coi khi đun nấu, không tắt bếp khi sử dụng.....

10


Các nhóm sẽ thảo luận nhóm sau đó lên thể hiện ,những em còn lại quan sát và
có nhận xét đối với những tình huống mà các bạn mình vừa xử lí để rút ra kĩ năng

cấp cứu khi có những trường hợp xấu xảy ra.
Ở bài: "Họ nội, họ ngoại " tôi cho học sinh thảo luận nhóm và nêu các thành
viên có trong gia đình mình dưới sự trợ giúp của giáo viên. Sau khi học sinh thảo
luận và chia sẻ , học sinh sẽ nhận biết được gia đình mình có mấy thế hệ.
Các bài " Vệ sinh môi trường, thực vật, động vật, mặt trời, trái đất, quả địa
cầu... Hình thành những thói quen ứng xử đúng đắn và thân thiện với môi trường
xung quanh. Giáo dục lòng yêu quý, ý thức bảo vệ môi trường Xanh, sạch, đẹp
qua các hành vi ứng xử cụ thể: bảo vệ cây xanh, giữ gìn môi trường và danh lam
thắng cảnh của quê hương, đất nước; bước đầu biết nhắc nhở mọi người bảo vệ
môi trường để làm cho cuộc sống tốt đẹp- HS thấy được tác hại của việc phá hoại
môi trường, gây nên những thiệt hại lớn qua các trận lũ, giông. Giáo dục ý thức
bảo vệ môi trường qua các hành động cụ thể: trồng cây, bảo vệ thiên nhiên, góp
phần làm đẹp cảnh quan môi trường quê hương
Đối với một số bài học có nội dung giáo dục môi trường (nói về thiên nhiên,
đất nước,...GV giúp HS hiểu cảm nhận được đầy đủ và sâu sắc nội dung bài học
chính là góp phần giáo dục trẻ một cách tự nhiên về ý thức bảo vệ môi trường:
Ví dụ bài: Vệ sinh cơ quan đường hô hấp: GV kết hợp GD HS biết vệ sinh cơ
quan hô hấp; mọi người cần phải có ý thức bảo vệ môi trường như: trồng cây xanh
cản bớt bụi, lọc không khí, hay GD học sinh nếu bị viêm nhiễm đường hô hấp
không được khạc nhổ bừa bãi.
Ngoài ra GV còn tích hợp GD môi tường ở mọi lúc mọi nơi: ví dụ khi đi lao
động: nhặt cỏ, lá cây khô, giấy rác, vệ sinh lớp...
Tóm lại, tùy theo bài, giáo viên tổ chức cho các em hoạt động ngay tại lớp với
tình huống tương tự bài học để học sinh tự tìm ra hướng giải quyết vấn đề, sau đó
học sinh tự nêu các kĩ năng mà em đã ứng dụng để giải quyết vấn đề đó. Nếu
không tổ chức thực hành được thì giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu các tình
11


huống tương tự mà các em đã gặp ở cuộc sống hàng ngày, ghi chép lại và nêu cách

giải quyết của bản thân để hôm sau trình bày trước lớp cho các bạn nghe và bổ
sung chọn cách giải quyết tốt nhất.
Một điều nữa theo tôi cũng khá quan trọng là kĩ năng ứng xử có văn hoá cũng là
lối sống lành mạnh mà các em cần phải được đào tạo, vì thế tôi tiếp tục :
Biện pháp 3 : Rèn kĩ năng sống hiệu quả qua các tiết sinh hoạt lớp, hoạt
động giáo dục, vui chơi :
Ngay những ngày đầu tiên khi các em vào lớp học, tôi đã phát động các phong
trào: "Nói lời hay làm việc tốt" qua cách ứng xử lễ phép như biết đi thưa về trình,
chào hỏi những người lớn tuổi, biết xin lỗi khi có khuyết điểm, cám ơn khi được
tặng quà, vui vẻ hoà nhã với bạn bè ... và tổng kết vào các tiết sinh hoạt lớp. Tôi
học cách lắng nghe, tìm hiểu nguyên nhân, và dùng lời lẽ mềm mỏng bằng những
tình cảm, cử chỉ yêu thương của mình khi yêu cầu điều gì đó với học sinh. Tránh
nói nặng lời đối với những học sinh nghịch ngợm, mắc lỗi.
Để rèn kĩ năng sống có hiệu quả tôi còn vận dụng thông qua các hoạt động
ngoài giờ học. Đó là qua các buổi ngoại khóa của trường, lớp: Nhà trường tổ chức
tuyên truyền, vận động tham gia qua các mô hình: Thi hò khoan Lệ Thủy; thi kể
chuyện Bác Hồ; tuyên truyền bằng hình thức trực quan sinh động qua tranh ảnh,
sách báo và tổ chức triển lãm ngay tại phòng truyền thống trường. Xây dựng nhiều
mô hình thiết thực và hữu ích như mô hình câu lạc bộ: Vì bạn bè quanh ta, mô hình
phòng chống tệ nạn xã hội, bạn giúp bạn, ... Tất cả đều gắn với nội dung phòng
chống tệ nạn xã hội trong học sinh. Các mô hình này được tuyên truyền đến từng
học sinh giúp các em hiểu rõ về những tác hại và cách phòng chống. Phải phòng
ngừa, ngăn chặn những tệ nạn xã hội trong học sinh là điều ai cũng nhận thấy
được, nhưng vấn đề là ở sự quyết tâm cao, là các biện pháp thiết thực, cụ thể và
hiệu quả từ trong mỗi gia đình, mỗi nhà trường và rộng ra hơn nữa là ý thức trách
nhiệm của toàn xã hội. Gia đình, nhà trường, xã hội hãy cùng nhau góp sức để các
em vững tin hơn trong cuộc sống. Hưởng ứng phong trào thi đua “Xây dựng
trường học thân thiện, học sinh tích cực” nhằm rèn luyện kỹ năng sống cho học
sinh: Rèn luyện kỹ năng ứng xử hợp lý với các tình huống trong cuộc sống, thói
quen và kỹ năng làm việc, sinh hoạt theo nhóm; nâng cao tính tự lực tự quản của

các em. Rèn luyện sức khỏe và ý thức bảo vệ sức khỏe, kỹ năng phòng, chống tai
12


nạn giao thông, đuối nước và các tai nạn thương tích khác. Chấm dứt việc nô đùa
nguy hiểm. Rèn luyện kỹ năng ứng xử văn hóa, chung sống hòa bình, phòng ngừa
bạo lực và các tệ nạn xã hội. Chấm dứt các vi phạm đánh nhau, tụ tập băng
nhóm…Ngoài ra những buổi chào cờ, tôi khuyến khích các em xung phong trả lời
những câu hỏi mà Tổng phụ trách đưa ra...
Không những thế, tôi còn khuyến khích các em cùng chia sẻ những cảm nhận,
những suy nghĩ, những quan sát của mình với cô với bạn một cách thoải mái, tự
nhiên không gò bó, áp đặt. Hoặc ở những giờ sinh hoạt lớp, giờ ra chơi tôi cùng
các em tham gia những trò chơi dân gian hay cùng chia sẻ với nhau những cuốn
sách hay.
Ngoài ra để các em có kĩ năng phòng chống tai nạn giao thông, đuối nước và
các thương tích khác tôi đã giáo dục các em thông qua các tiết: An toàn giao thông,
hướng dẫn các em phòng chống tai nạn giao thông và các thương tích khác bằng
cách đưa ra những tình huống cho các em xử lí.
Chẳng hạn :
- Khi đi qua ngã tư có đèn tín hiệu gặp đèn đỏ người và xe phải như thế nào?
- Khi nào thì người và xe mới được phép đi?
- Khi đi bộ em đi ở đâu? Nếu đường không có vỉa hè thì thế nào?
- Em có nên chơi đùa trên đưòng phố không? Có leo trèo qua dãi phân cách và
chơi gần dãi phân cách không? Vì sao?
- Việc chơi gần đường ray xe lửa có nguy hiểm không? Nguy hiểm như thế nào? Khi ngồi trên xe máy em phải như thế nào? Em hãy nêu cách đội mũ bảo hiểm?
Nêu sự cần thiết phải đội mũ bảo hiểm?
- Các em đã nhìn thấy tai nạn trên đường chưa? Theo các em vì sao tai nạn xảy ra?

13



- Giáo dục cho các em tránh các tai nạn trên đường: không được chạy lao ra
đường, không được bám bên ngoài ô tô, không được thò tay, chân, đầu ra ngoài khi
đi trên tàu, xe, ghe, đò ...
Như vậy, các em có thể tự lập, xử lí được những vấn đề đơn giản khi gặp phải.
Ngoài ra tôi chú ý Rèn luyện sức khoẻ và ý thức bảo vệ sức khoẻ, kĩ năng
phòng chống tai nạn giao thông và các thương tích khác qua các môn học: Ai cũng
biết rằng sức khỏe là tài sản vô cùng quí báu của mỗi con người. Học tập tốt, đạo
đức tốt là những điều học sinh phải đạt được thì rèn luyện sức khỏe tốt cho học
sinh là điều phải được đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên có được một sức khỏe tốt và
bảo vệ được nó thì thật không dễ. Dù vậy không có nghĩa là không làm được,
nhiều khi sức khỏe của các em phụ thuộc vào những điều rất giản dị. Đó chính là
giáo dục một lối sống khoa học.
Một điều không thể thiếu để tạo sự hưng phấn, vui vẻ, phấn khởi , giúp các em
có ý thức cao trong việc rèn luyện các kĩ năng tôi luôn chú ý :
Biện pháp 4: Động viên khen thưởng
Để động viên, khuyến khích học sinh thực hiện tốt việc rèn luyện các kĩ
năng, ngay từ buổi họp phụ huynh đầu năm học tôi đưa ra kế hoạch rèn luyện cho
các em lớp tôi phụ trách. Trao đổi với hội phụ huynh của lớp để cùng phối hợp và
dành một khoảng riêng để khen thưởng kịp thời động viên các em để tạo cho các
em có một động cơ tốt trong việc duy trì thực hiện. Tôi theo dõi hằng ngày các em
có biểu hiện tốt tôi ghi vào sổ, trong tiết sinh hoạt cuối tuần cho các em bình chọn
những bạn thực hiện tốt sẽ được một bông hoa học tốt.
Mỗi học kỳ tôi tổng kết 1 lần (năm 4 kì) để khen thưởng những em đã đạt
nhiều bông hoa học tốt bằng những phần quà nhỏ. Các em rất vui và hãnh diện khi
được tặng những bông hoa học tốt và những món quà của cô giáo tặng. Vì thế các
em không ngừng thi đua cố gắng thực hiện tốt để được nhận những bông mà cô
giáo thưởng. Đây là một hình thức động viên về tinh thần rất giá trị và hiệu quả.
14



Các em sẽ nhanh nhẹn hơn, có đạo đức tốt hơn, mạnh dạn hơn trong giao tiếp, tự
tin hơn trong cuộc sống.
Hiệu quả đào tạo kĩ năng sống không đo đếm được bằng những con số chính
xác nhưng được thể hiện bằng những biểu hiện cụ thể: các em có ý thức, thái độ
khác với mọi người trong gia đình; luôn hoà đồng với bạn bè; tự tin khi nói
năng ... đó chính là hiệu quả từ đào tạo kĩ năng sống. Việc sinh hoạt theo nhóm tạo
môi trường làm việc thân thiện, giúp các em cải thiện hành vi giao tiếp thông qua
các hoạt động trao đổi diễn ra thường xuyên. Các em trở nên thân thiện, từ đó giúp
bầu không khí học tập, lao động trở nên sôi động hơn. Tham gia sinh hoạt theo
nhóm giúp các em học sinh hưng phấn hơn trong học tập và tạo nên cách ứng xử
hợp lý trong mọi tình huống. Khi sinh hoạt nhóm, tôi luôn đưa ra nhiều tình huống
tạo sự phát triển tư duy cho các em. Đó cũng là cách tạo sự gần gũi giữa các em
với nhau.
Như vậy bằng nhiều hình thức khác nhau, tôi luôn cố gắng rèn cho học sinh
những kĩ năng cơ bản có hiệu quả, thể hiện rõ nét ở sự tiến bộ của học sinh trong
nhận thức, trong cư xử, đối xử tốt với bạn bè, người lớn và linh hoạt xử lí trong
mọi trường hợp.

15


III. PHẦN KẾT LUẬN.
1. Một số kết quả đạt được:
Qua việc thực hiện các biện pháp trên, đến cuối năm học, tôi thấy các em có
tiến bộ rõ rệt. Đa số các em đều có ý thức tốt trong việc rèn luyện các kĩ năng,
được thể hiện rõ qua: Việc sinh hoạt hằng ngày trên lớp, trong nhiều nghi thức lời
nói, các em biết vận dụng những lời nói thân thiện vào thực tế, những lời chào,
cảm ơn hay xin lỗi... đã trở thành thói quen, được các em vận dụng hằng ngày; việc
đánh giá của các giáo viên bộ môn, của tổng phụ trách khi nhận xét về các em học

sinh lớp tôi. Cuối năm học lớp tôi được xếp vị thứ nhất dẫn đầu khối Ba, đứng thứ
ba toàn trường; phụ huynh học sinh rất vui mừng phấn khởi với kết quả này của
lớp.
* Tôi tiến hành khảo sát cuối năm học với chủ đề: "Kĩ năng của em"; Kết quả
như sau:
Số bài KT
22

Kĩ năng tốt Có hình thành KN

Kĩ năng chưa tốt

SL

%

SL

%

SL

%

18

81,8

4


18,2

0

0

2. Ý nghĩa của đề tài:
Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh là một việc làm hết sức cần thiết của xã
hội, các em không chỉ biết học giỏi về kiến thức mà còn phải được tôi luyện những
kĩ năng sống qua đó tạo cho các em một môi trường lành mạnh, an toàn, tích cực,
vui vẻ .Việc giáo dục kĩ năng sống ngay từ lớp dưới sẽ rút ngắn thời gian để trang
bị cho các em vốn kiến thức, kĩ năng, giá trị sống để làm hành trang bước vào đời.
Chính vì vậy, các thầy cô giáo tiểu học luôn giữ vai trò vô cùng quan trọng. Vì thế
theo tôi để làm tốt việc rèn kĩ năng sống cho học sinh, mỗi thầy cô giáo cần phải:
- Xác định rõ tầm quan trọng của việc rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh.
- Nắm vững những đặc trưng về phương pháp và hình thức tổ chức dạy các
kĩ năng giao tiếp, ứng xử vào các môn học và các hoạt động khác.
-Tập trung vào việc đầu tư sọan giảng, lồng ghép kĩ năng sống vào các môn
học.
16


- Luôn tạo mọi điều kiện để các em có thể bày tỏ, thể hiện mình, tham gia tốt
các buổi hoạt động ngoại khóa của trường, lớp.
- Điều quan trọng là mỗi thầy cô giáo phải rèn cho mình tác phong sinh hoạt
chuẩn mực, phải hết lòng thương yêu, gần gũi với học sinh.
Nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quá trình giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
trong các nhà trường chính là các thầy cô giáo. Đối với cộng đồng thì đó là các bậc
phụ huynh, ông bà họ hàng thân thích, những người lớn tuổi,....Việc chăm sóc và
giáo dục trẻ em, bồi dưỡng trẻ em trở thành công dân tốt của đất nước là một công

việc vô cùng quan trọng mà mỗi chúng ta phải cùng có trách nhiệm.
3. Một số đề xuất:
3.1. Đối với giáo viên :
Là giáo viên, phải hiểu rõ tầm quan trọng trong công tác trồng người. Vì thế,
bản thân mỗi một giáo viên phải luôn cố gắng trau dồi chuyên môn, học hỏi từ
đồng nghiệp cũng như đúc kết kinh nghiệm giảng dạy của bản thân, nâng cao đạo
đức và chuyên môn. Người giáo viên phải luôn tôn trọng và kiên nhẫn, nhất là tạo
cơ hội cho các em được nói, được diễn đạt, bày tỏ thoải mái ở mọi nơi mọi lúc để
các em có cơ hội phát triển một cách toàn diện.
3.2. Đối với nhà trường:
Theo phương châm giáo dục hiện nay là: "Học để biết, học để chung sống, học
để tự khẳng định mình" nên: Nhà trường luôn phát động nhiều phong trào này hơn
nữa dưới nhiều hình thức.
3.3. Đối với phụ huynh:
Trước hết là cần hiểu rõ tầm quan trọng của việc rèn luyện kĩ năng sống cho con
em, tạo một chỗ dựa vững chắc để trẻ chia sẻ, bày tỏ, luôn phối kết hợp với nhà
trường trong việc giáo dục và rèn luyện cho các em, theo dõi mọi biểu hiện của trẻ
để có sự giáo dục cho phù hợp.
Việc rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh luôn được xem là chức năng, nhiệm
vụ thường xuyên của đội ngũ giáo viên từ nhiều năm nay. Tuy nhiên việc rèn luyện
17


cho các em học sinh vẫn còn thiếu những biện pháp cụ thể. Hưởng ứng cuộc vận
động về chủ đề năm học, qua các buổi tập huấn về việc rèn luyện kĩ năng sống cho
học sinh của trường bản thân tôi đã cố gắng áp dụng những kinh nghiệm, sáng tạo
thêm những phương pháp mới nhằm nâng cao nhiều kĩ năng sống tốt cho học sinh
từ môi trường giáo dục ở nhà trường, giáo dục và xây dựng cho các em có năng lực
tốt, lối sống lành mạnh để các em có thể tự lập, tự tin hơn trong cuộc sống, đem lại
niềm vui, hạnh phúc cho các em, gia đình và xã hội.

Bản thân đã cố gắng áp dụng những kinh nghiệm, sáng tạo thêm những phương
pháp mới nhằm nâng cao nhiều kĩ năng sống tốt cho học sinh từ môi trường giáo
dục ở nhà trường, giáo dục và xây dựng cho các em có năng lực tốt, lối sống lành
mạnh để các em có thể tự lập, tự tin hơn trong cuộc sống, đem lại niềm vui, hạnh
phúc cho các em, gia đình và xã hội. Trên đây là những suy nghĩ của bản thân về
việc nghiên cứu một số biện pháp giáo dục và rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 3
thông qua các môn học và hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp.
Mặc dầu vậy, sáng kiến kinh nghiệm của tôi không tránh khỏi thiếu sót. Rất
mong sự góp ý chỉ đạo của các cấp lãnh đạo, đồng nghiệp để bản thân tôi ngày
càng hoàn thiện hơn trong dạy học.

18



×