Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

SKKN một số kinh nghiệm dạy tập làm văn lớp 3 để đáp ứng yêu cầu đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.06 KB, 22 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

Sáng kiến kinh nghiệm
“Một số kinh nghiệm dạy Tập làm văn lớp 3
đáp ứng yêu cầu đổi mới”

Lệ Thủy, tháng 4 năm 2015


1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài

Môn Tiếng Việt cùng với các môn học khác, có nhiệm vụ cung cấp cho học
sinh bốn kĩ năng đó là: "nghe - nói - đọc - viết". Môn tiếng Việt có các phân môn
như: Tập đọc, kể chuyện, chính tả, luyện từ và câu, tập viết, tập làm văn... Trong đó,
phân môn Tập làm văn là phân môn có tính chất tích hợp của các phân môn khác.
Qua tiết tập làm văn, học sinh có khả năng xây dựng một văn bản, đó là bài nói, bài
viết. Nói và viết là những hình thức giao tiếp rất quan trọng, thông qua đó con người
thực hiện quá trình tư duy - chiếm lĩnh tri thức, trao đổi tư tưởng, tình cảm, quan
điểm, giúp mọi người hiểu nhau, cùng hợp tác trong cuộc sống lao động.
Ngôn ngữ (dưới dạng nói - ngôn bản và dưới dạng viết - văn bản) giữ vai trò
quan trọng trong sự tồn tại và phát triển xã hội. Chính vì vậy, hướng dẫn cho học sinh
nói đúng và viết đúng là hết sức cần thiết. Nhiệm vụ nặng nề đó phụ thuộc phần lớn
vào việc giảng dạy môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn lớp 3 nói
riêng. Vấn đề đặt ra: Người giáo viên dạy Tập làm văn ra sao để đạt hiệu quả như
mong muốn.
Qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy phân môn Tập làm văn là phân môn khó
trong các phân môn của môn Tiếng Việt. Do đặc trưng phân môn Tập làm văn với
mục tiêu cụ thể là: hình thành và rèn luyện cho học sinh khả năng trình bày văn bản
(nói và viết) ở nhiều thể loại khác nhau như: miêu tả, kể chuyện, viết thư, tường


thuật, kể lại bản tin, tập tổ chức cuộc họp, giới thiệu về mình và những người xung
quanh. Trong quá trình tham gia vào các hoạt động học tập này, học sinh với vốn kiến

2


thức còn hạn chế nên thường ngại nói. Nếu bắt buộc phải nói, các em thường đọc lại
bài viết đã chuẩn bị trước. Do đó, giờ dạy chưa đạt hiệu quả cao.
Tập làm văn là một trong những phân môn có vị trí quan trọng của môn Tiếng
Việt. Phân môn này đòi hỏi học sinh phải vận dụng những kiến thức tổng hợp từ
nhiều phân môn. Để làm được một bài văn, học sinh phải sử dụng cả bốn kỹ năng:
nghe, nói, đọc, viết. Phải vận dụng các kiến thức về tiếng Việt vào cuộc sống thực
tiễn. Dạy tập làm văn theo hướng đổi mới phải khích lệ học sinh tích cực, sáng tạo,
chủ động trong học tập; biết diễn đạt suy nghĩ của mình thành ngôn bản, văn bản. Nói
cách khác, các phân môn trong môn Tiếng Việt là phương tiện để hỗ trợ cho việc dạy
Tập làm văn được tốt.
Xuất phát từ thực tiễn đó, tôi tiến hành nghiên cứu và thực nghiệm Sáng kiến
kinh nghiệm "Một số kinh nghiệm dạy Tập làm văn lớp 3 để đáp ứng yêu cầu đổi
mới".
1.2. Phạm vi áp dụng đề tài, sáng kiến, giải pháp

Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tất cả giáo viên và
học sinh khối 3,4,5 trường TH số 1 An Thủy.
Phạm vi đề tài: Dựa trên thực tế về việc dạy - học phân môn Tập làm văn lớp
3, tôi trình bày “ Một số kinh nghiệm dạy Tập làm văn lớp 3 theo yêu cầu đổi mới”,
góp phần nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt, giúp học sinh học tốt các môn học
khác trong chương trình giáo dục bậc Tiểu học.
2. PHẦN NỘI DUNG
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, sự phát triển Công nghiệp hoá - hiện đại
hoá đất nước cần phải có những con người năng động, sáng tạo, tự lực, tự cường.

3


Nhu cầu này đòi hỏi phải có sự điều chỉnh mục tiêu, nội dung Chương trình bậc Tiểu
học một cách phù hợp.
Mục tiêu của giáo dục Tiểu học đặt ra là: “giúp học sinh hình thành những cơ
sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, phẩm chất, thẩm
mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học bậc Trung học cơ sở”.
Tập làm văn là một trong những phân môn có vị trí quan trọng của môn Tiếng
việt. Phân môn này đòi hỏi học sinh phải vận dụng những kiến thức tổng hợp từ
nhiều phân môn trong môn Tiếng Việt. Để làm được một bài văn không những học
sinh phải sử dụng cả bốn kỹ năng: nghe - nói - đọc - viết mà còn phải vận dụng các
kỹ năng về Tiếng việt, về cuộc sống thực tiễn.
Phân môn Tập làm văn rèn cho học sinh tạo lập văn bản, góp phần dạy học
sinh sử dụng Tiếng việt trong đời sống sinh hoạt. Vì vậy Tập làm văn là phân môn có
tính tổng hợp, có liên quan mật thiết đến các môn học khác.
Trong quá trình dạy một tiết Tập làm văn, để đạt mục tiêu đề ra ngoài phương
pháp của thầy, học sinh cần phải có vốn kiến thức ngôn ngữ về đời sống thực tế. Học
tốt Tập làm văn sẽ giúp học sinh học tốt các môn học khác đồng thời giáo dục các em
những tình cảm lành mạnh, trong sáng; rèn luỵên khả năng giao tiếp và góp phần đắc
lực vào việc giữ gìn, phát huy sự trong sáng của Tiếng việt, hình thành nhân cách con
người Việt Nam.
2.1. Thực trạng:
* Thuận lợi
+ Đối với giáo viên

4


- Giáo viên tiểu học đã nắm được yêu cầu việc đổi mới phương pháp một cách

cơ bản, việc sử dụng đồ dùng tương đối có hiệu quả.
- Sự chỉ đạo chuyên môn của Phòng giáo dục, trường, tổ chuyên môn có vai trò
tích cực, giúp giáo viên đi đúng nội dung, chương trình phân môn Tập làm văn.
- Qua các tiết dạy mẫu, các cuộc thi, hội thảo đã có nhiều giáo viên thành công
khi dạy Tập làm văn.
- Qua các phương tiện thông tin đại chúng: ti vi, đài, sách, báo... giáo viên tiếp
cận với phương pháp đổi mới Tập làm văn thường xuyên hơn.
+ Đối với học sinh
- Học sinh lớp 3 đang ở lứa tuổi rất thích học và ham học
- Môn tiếng việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng có nội dung
phong phú, sách giáo khoa được trình bày với kênh hình đẹp, hấp dẫn học sinh, phù
hợp với tâm lý lứa tuổi các em.
- Các em đã được học chương trình thay sách từ lớp 1, đặc biệt là các em ở lớp
2 đã nắm vững kiến thức, kỹ năng của phân môn Tập làm văn như kỹ năng giao tiếp,
kỹ năng tạo lập ngôn bản, kỹ năng kể chuyện miêu tả. Đây là cơ sở giúp các em học
tốt phân môn Tập làm văn ở lớp 3.
* Khó khăn:
+ Đối với giáo viên:
Tiếng việt là môn học khó, nhất là phân môn Tập làm văn đòi hỏi người giáo
viên phải có kiến thức sâu rộng, phong phú, cần phải có vốn sống thực tế, người giáo
viên luôn biết kết hợp linh hoạt các phương pháp trong giảng dạy. Biết gợi mở óc tò
5


mò, khả năng sáng tạo, độc lập ở học sinh, giúp cho các em nói viết thành văn bản,
ngôn ngữ quả không dễ.
+ Đối với học sinh:
- Do đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, các em nhanh nhớ nhưng cũng mau quên,
mức độ tập trung thực hiện các yêu cầu của bài học chưa cao.
- Kiến thức về cuộc sống thực tế của học sinh còn hạn chế, ảnh hưởng đến việc

tiếp thu bài học.
- Vốn từ vựng của học sinh chưa nhiều cũng ảnh hưởng đến việc thực hành độc
lập. Cụ thể là: các em viết câu rời rạc, chưa liên kết, thiếu lôgíc, tính sáng tạo trong
thực hành viết văn chưa cao, thể hiện ở cách bố cục bài văn, cách chấm câu, sử dụng
hình ảnh gợi tả chưa linh hoạt, sinh động.
- Một số học sinh còn phụ thuộc vào bài văn mẫu, áp dụng một cách máy móc,
chưa biết vận dụng bài mẫu để hình thành lối hành văn của riêng mình. Ví dụ: Phần
lớn học sinh dùng luôn lời cô hướng dẫn để viết bài của mình.
Với những thuận lợi và khó khăn trên, tôi tiến hành khảo sát chất lượng môn
Tập làm văn lớp 3 vào tháng 10 tuần 6, với đề bài như sau:
Hãy kể lại buổi đầu em đi học.
Kết quả khảo sát như sau: Tổng số học sinh khối 3: 52 em
Nội dung khảo sát
1. Biết viết câu, dùng từ hợp lý
2. Biết nói - viết thành câu
3. Biết dùng từ ngữ, câu văn có hình ảnh
4. Biết trình bày đoạn văn
Qua khảo sát cho thấy học sinh chưa biết cách diễn

Tỷ lệ %
50.5%
55.5%
45.3%
40%
đạt câu văn có hình ảnh,

vốn từ vựng chưa nhiều, hiểu biết thực tế còn ít, do vậy chất lượng bài viết của các
6



em chưa cao, ý văn nghèo nàn, câu văn lủng củng. Kết quả này cũng thể hiện phương
pháp giảng dạy của giáo viên chưa phát huy được tính tích cực của học sinh trong giờ
học.
2.2. Các biện pháp dạy học Tập làm văn lớp 3 theo hướng đổi mới:

Qua quá trình dạy học, bản thân đã vận dụng nhóm các biện pháp, hoặc một
biện pháp chủ đạo kết hợp với một số biện pháp bổ trợ khác. Về cơ bản có những
biện pháp sau:
2.2.1. Luôn chú trọng "tích hợp - lồng ghép" khi dạy phân môn tập làm văn lớp 3.
Khi dạy tập làm văn tôi cần hiểu rõ tính tích hợp giữa các phân môn trong môn
Tiếng Việt như: Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu, Tập viết, để giảng
dạy và tạo đà cho học sinh học tập tốt phân môn Tập làm văn. Mối quan hệ này thể
hiện rõ trong cấu trúc của sách giáo khoa: các bài học được biên soạn theo chủ đề,
chủ điểm, hai đơn vị học xoay quanh một chủ điẻm ở tất các các phân môn.
Ví dụ: Chủ đề Cộng đồng dạy trong 2 tuần gồm các bài tập đọc. Luyện từ và
câu... Trong quá trình rèn đọc, khai thác nội dung các bài đọc cung cấp cho học sinh
vốn từ về chủ đề Cộng đồng, những câu văn có hình ảnh về chủ để Cộng đồng. Cụ
thể khi dạy bài tập đọc: Kể chuyện: Các em nhỏ và cụ già - tuần 8, giáo viên khai
thác nội dung bài theo hệ thống câu hỏi sau:
+ Điều gì gặp bên đường khiến các bạn nhỏ phải dừng lại?
(Các bạn gặp một cụ già đứng ven đường, vẻ mặt mệt mỏi, cặp mắt lộ vẻ u sầu)
+ Các bạn quan tâm đến ông cụ như thế nào?
(Các bạn băn khoăn và trao đổi với nhau. Có bạn đoán: a) Hay ông cụ bị ốm, b) Hay
cụ bị mấy cái gì đó. Cuối cùng cả tốp đến tận nơi để hỏi thăm ông cụ).
7


+ Vì sao các bạn quan tâm đến ông cụ?
Với câu hỏi này có thể các em sẽ trả lời như sau:
- Vì các bạn là những trẻ ngoan; - Vì các bạn là những người nhân hậu;

- Vì các bạn muốn quan tâm, giúp đỡ ông cụ.
+ Ông cụ gặp chuyện gì buồn?
(Cụ bà bị ốm nặng đang nằm trong bệnh viện, khó mà qua khỏi)
+ Vì sao khi trò chuyện với các bạn nhỏ ông cụ thấy lòng nhẹ hơn?
Với câu hỏi này có thể các em sẽ trả lời như sau: - Ông cảm thấy nỗi buồn được chia
sẻ; - Ông cảm thấy đỡ cô đơn vì có người trò chuyện;
- Ông cảm thấy lòng ấm lại vì tình cảm của các bạn nhỏ dành cho mình.
Qua các câu trả lời của học sinh, tôi định hướng cho các em ý thức biết quan
tâm chia sẻ với những người trong cộng đồng, giúp cho các em khi viết đoạn văn kể
về những người thân hoặc người hàng xóm, đoạn văn toát lên được nội dung: con
người phải biết yêu thương nhau, sự quan tâm chia sẻ của những người xung quanh
làm cho mỗi người dịu bớt những lo lắng, buồn phiền và cảm thấy cuộc sống tốt đẹp
hơn.
Qua hệ thống câu hỏi, tôi đã giúp cho học sinh bày tỏ được thái độ, tình cảm, ý
kiến nhận xét, đánh giá của mình về vấn đề nêu ra trong bài học. Song song với quá
trình đó, tôi hỏi ý kiến nhận xét của học sinh về câu trả lời của bạn để học sinh rút ra
được câu trả lời đúng, cách ứng xử hay.
Như vậy, qua tiết học này, học sinh được mở rộng vốn từ, rèn lối diễn đạt mạch
lạc, lôgíc, câu văn có hình ảnh, cảm xúc. Trên cơ sở đó, bài luyện nói của các em sẽ
trôi chảy, sinh động, giàu cảm xúc, đồng thời
8 hình thành cho các em cách ứng xử linh


hoạt trong cuộc sống; hình thành cho học sinh kiến thức về mối quan hệ tương thân
tương ái giữa mọi người trong cộng đồng; rèn cho học sinh thói quen quan tâm, chia
sẻ giúp đỡ những người xung quanh.
Cùng với chủ đề này thì phân môn Luyện từ và câu - Tuần 8 cũng cung cấp cho
học sinh vốn từ về chủ đề Cộng đồng qua hệ thống các bài tập. Cụ thể:
Bài 1: Sắp xếp những từ ngữ vào ô trống trong bảng phân loại sau
Các từ: Cộng đồng, cộng tác, đồng bào, đồng đội, đồng tâm, đồng hương

Giáo viên giúp các em hiểu nghĩa các từ trên và sắp xếp vào các nhóm từ:
Nhóm 1: Những người

Nhóm 2: Thái độ hoạt động

trong cộng đồng
trong cộng đồng
Cộng đồng, đồng bào, đồng đội, Cộng tác, đồng tâm
đồng hương

Từ việc hiểu nghĩa của từ ở bài tập 1, học sinh hiểu ý nghĩa các thành ngữ ở bài
tập 2 và bày tỏ thái độ tán thành hay không tán thành thái độ ứng xử trong cộng đồng
thể hiện trong các thành ngữ đó:
Chung lưng đấu cật.
(Mọi người cùng chung sức chung lòng để thực hiện một công việc có nhiều
khó khăn trở ngại)
Cháy nhà hàng xóm bình chân như vại.
(Phê pháp thái độ thờ ơ, không quan tâm, tương trợ người khác lúc khó khăn)
Ăn ở như bát nước đầy.

9


(Ca ngợi con người ăn ở, cư xử với mọi ngưòi có tình có nghĩa, trước sau
không thay đổi)
Như vậy học sinh biết vận dụng những câu thành ngữ về thái độ ứng xử trong
cộng đồng khi nói - viết tập làm văn giao tiếp, ứng xử trong cuộc sống.
Ở phân môn Chính tả tuần 8, các em cũng được luyện viết các bài trong chủ đề
Cộng đồng. Ví dụ: Viết đoạn 4 trong bài các em nhỏ và cụ già:
Cụ ngừng lại và nghẹn ngào nói tiếp:

- Ông đang rất buồn. Bà lão nhà ông năm bệnh viện mấy tháng nay rồi. Bà ốm
nặng lắm, khó mà qua khỏi. Ông ngồi đây chờ xe buýt để đến bệnh viện. ông cảm ơn
lòng tốt của các cháu. Dẫu các cháu không giúp gì được nhưng ông cũng thấy lòng
nhẹ hơn.
Khi viết đoạn văn trên, học sinh được rèn viết chính tả, cách sử dụng các dấu
câu; thấy được sự cảm thông, chia sẻ giữa con người với nhau làm dịu bớt nỗi lo
lắng, buồn phiền, tăng thêm cho mỗi người niềm hy vọng, nghị lực trong cuộc sống.
Học sinh vận dụng cái hay, cái đẹp của ngôn từ trong đoạn văn để thể hiện tình cảm,
thái độ đánh giá trong từng bài văn cụ thể của chính các em.
Tương tự, ở phân môn tập viết - tuần 8, các em được làm quen với các thành
ngữ, tục ngữ về chủ để cộng đồng như luyện viết câu ứng dụng.
"Khôn ngoan đá đáp người ngoài
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau".
Xuất phát từ các phân môn: Tập đọc, luyện từ và câu, Chính tả, tập viết xoay
quanh chủ đề Cộng đồng, học sinh biết "Kể về người hàng xóm mà em quý mến"
10


(TLV 3 - tuần 8) và viết được đoạn văn hoàn chỉnh, thể hiện tình cảm, thái độ đánh
giá đối với người hàng xóm qua việc sử dụng từ ngữ, câu văn có hình ảnh. Ví dụ:
Cô Loan là người hàng xóm bên cạnh nhà em. Cô là giáo viên tiểu học. Cô rất
say sưa với công việc, tối tối miệt mài bên trang giáo án, bên trang vở chấm bài cho
học sinh. Với dáng người nhỏ nhắn nhưng rất nhanh nhẹn. Giọng cô ấm áp. Em thích
nghe nhất là khi cô hát, giọng ca như chim oanh vàng. Cô thật xứng danh là cô ca sĩ
của trường. Em rất yêu quý cô Loan.
Như vậy, khi dạy tất cả các phân môn: Luyện từ và câu, Chính tả, Tập đọc...
đều nhằm mục đích giúp học sinh có kỹ năng hình thành văn bản, ngôn bản. Do đó,
tích hợp lồng ghép là phương pháp đặc trưng khi dạy phân môn tập làm văn lớp 3.
2.2.2. Dạy học theo quan điểm giao tiếp
Dạy học theo quan điểm giao tiếp là hình thành cho học sinh kỹ năng diễn đạt

thông qua các bài học, hình thành thói quen ứng xử trong giao tiếp hàng ngày với
thầy cô, cha mẹ, bạn bè và mọi người xung quanh.
Vận dụng phương pháp dạy học theo quan điểm này, tôi tạo cho học sinh nhiều
cơ hội thực hành, luyện tập, không quá nặng về lý thuyết như phương pháp dạy học
truyền thống. Do vậy học sinh hào hứng tham gia vào các hoạt động học tập, tích cực
sáng tạo trong làm văn. Việc hình thành và rèn luyện các kỹ năng nghe - nói - đọc viết cho học sinh thông qua phân môn Tập làm văn đảm bảo đạt được hiệu quả tối ưu.
Ví dụ: Giảng dạy dạng bài tập nghe và tập nói
Nghe và kể lại câu chuyện "Giấu cày" - tập làm văn tuần 1.
Qua việc kể mẫu của tôi, việc quan sát tranh, gợi ý sách giáo khoa... học sinh
kể nội dung câu chuyện như sau:

11


Có một người đang cày ruộng thì vợ gọi về ăn cơm. Bác ta liền hét to trả lời Để tôi giấu cái cày vào bụi đã.
Về nhà bác ta liền bị vợ trách - Ông giấu cày mà la to như thế, kẻ gian biết
chỗ, nó lấy mất cày thì sao.
Lát sau, cơm nước xong, bác ta ra ruộng, quả nhiên thấy cày bị mất. Bác ta
liền chạy một mạch về nhà, nói thầm vào tai vợ: "Nó lấy mất cày rồi!"
Qua giao tiếp giữa giáo viên với học sinh, giữa học sinh với nhau (kể cho nhau
nghe), việc kể lại nội dung câu chuyện trước lớp giúp các em thấy được sự phê phán
hóm hỉnh, hài hước và kể chuyện lại nội dung câu truyện với giọng kể, cử chỉ, điệu
bộ gây cười ở người nghe, nét mặt phù hợp, nâng kịch tính câu chuyện lên cao hơn.
Song song với việc rèn luyện kỹ năng nghe - nói học sinh rèn kỹ năng viết:
nắm kỹ thuật viết, luật viết câu văn, đoạn văn hoàn chỉnh, đúng về ngữ pháp, bố cục
văn cảnh hoặc môi trường giao tiếp. Mỗi bài văn của học sinh không đơn thuần là kể,
tả ngắn về con người, sự vật, sự việc mà thông qua đó thể hiện suy nghĩ, cảm xúc, sự
đánh giá, thái độ yêu - ghét, trân trọng hay phê phán của các em. Thông qua bài viết
của các em người đọc hiểu được tâm tư tình cảm của các em về một vấn đề nào đó.
Bổ trợ cho việc rèn kỹ năng nghe - nói trong tiết Tập làm văn, phấn kể chuyện

của tiết tập đọc kể chuyện cũng chú trọng đến rèn kỹ năng giao tiếp.
Ví dụ: Dạy tập đọc kể chuyện. Tiết 2 - Bài Đất quý đấy yêu - tuần 11
Nhiệm vụ của học sinh là: quan sát tranh, sắp xếp lại tranh theo trình tự nội
dung câu chuyện Đất quý đất yêu. Sau đó dựa vào tranh kể lại câu chuyện. đúng nội
dung, ngắn gọn, từ ngữ súc tích, dễ hiểu, biết kết hợp lời nói với cử chỉ, điệu bộ để
12


câu chuyện thêm hấp dẫn sinh động; giúp người nghe thấy được phong tục tập quán
của người Ê-ti-ô-pi-a: họ coi đất đai là thứ thiêng liêng, cao quý nhất.
Thông qua kể lại câu chuyện theo tranh, học sinh hình thành và rèn luyện khả
năng diễn đạt, phục vụ tốt cho bài tập nói của tiết Tập làm văn.
Tóm lại, học sinh rèn luyện khả năng quan sát, nói - viết, rút ra những nét điển
hình, đặc trưng của từng vùng miền, thấy được vẻ đẹp đáng yêu, đáng tự hào của mỗi
vùng miền, từ đó hình thành nuôi dưỡng tình cảm gắn bó, yêu thương, ý thức gữ gìn,
xây dựng quê hương đất nước.
Ngoài ra, tôi chú trọng vận dụng phương pháp dạy học theo quan điểm giao
tiếp, khơi dậy ở các em những cảm xúc, đánh thức tiềm năng cảm thụ văn học và có
nhu cầu thể hiện, bày tỏ sự cảm thụ đó với người khác. Như vậy, mỗi bài nói, bài viết
sẽ chính là tâm hồn, tình cảm của các em, các em sẽ thêm yêu văn - yêu cái hay, cái
đẹp, yêu tiếng Việt - giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
2.2.3. Tổ chức tốt việc quan sát, hướng dẫn học sinh cách dùng từ, giọng kể, điệu
bộ khi làm bài nghe, nói, viết.
Với đặc điểm vốn từ còn hạn chế, nên học sinh lớp 3 gặp nhiều khó khăn trong
việc nghe - nói - viết - kể lại câu chuyện bằng lời văn của mình. Do vậy, tôi đã tổ
chức tốt hoạt động quan sát tranh: quan sát từng đường nét, màu sắc, hình ảnh, nội
dung, thể hiện của tranh. Học sinh cảm nhận được những nét đẹp của cảnh vật, con
người và muốn bày tỏ trao đổi với bạn, với thầy cô.
Để các em làm tốt hoạt động này, trước hết tôi chú ý cho học sinh sử dụng gợi
ý trong sách giáo khoa, lắng nghe cô kể, bạn kể để nhớ được các ý chính của nội

dung câu chuyện.
13


Tôi chú trọng về lời văn kể và nghệ thuật sử dụng ngôn từ. Tôi đã hướng dẫn
các em cách chọn lựa, sử dụng từ ngữ, hình ảnh để diễn đạt sao cho dễ hiểu, sinh
động. Có như vậy người nghe, đọc sẽ dễ dàng hình dung, tưởng tượng, nắm bắt được
sự việc, tình cảm mà các em muốn thể hiện qua bài nói, bài viết. Đó chính là điểm
mạnh của nghệ thuật sử dụng ngôn từ.
Ví dụ: Dạy tập làm văn - tuần 12.
Bài tập 2: Yêu cầu: học sinh viết đoạn văn qua quan sát tranh (ảnh) về một
cảnh đẹp ở nước ta.
Thông qua việc quan sát tranh (ảnh) về một cảnh đẹp ở nước ta, giúp học sinh
nắm nội dung của tranh (ảnh), thấy vẻ đẹp của tranh (ảnh), từ đó các em lựa chọn từ
ngữ thích hợp để nói và viết thành đoạn văn, giúp cho người nghe - đọc tuy không
quan sát tranh (ảnh) nhưng vẫn thấy được vẻ đẹp của danh lam thắng cảnh mà học
sinh nói đến.
Thêm vào đó, những yếu tố phi ngôn như điệu bộ, cử chỉ, ánh mắt, nét mặt,
giọng điệu, của các em khi nói sẽ làm tăng tính hấp dẫn, tính thuyết phục đối với
người nghe. Do đó, tôi cũng khuyến khích các em rèn luyện khả năng sử dụng những
yếu tố phi ngôn ngữ này.
2.2.4. Sử dụng linh hoạt các hình thức hoạt động trong tiết dạy Tập làm văn theo
hướng đổi mới
Việc tổ chức tốt các hình thức dạy học nhằm cuốn hút học sinh vào các hoạt
động học tập một cách chủ động, tích cực.
Tôi đã sử dụng các hình thức tổ chức dạy học như: học sinh thảo luận nhóm,
đàm thoại với nhau và với chính thầy cô hoặc hoạt động cá nhân (độc thoại) về một
14



vấn đề. Các hình thức tổ chức hoạt động học có thể là: đóng vai thể hiện các hoạt
cảnh, vận dụng các trò chơi trong tiết học, các cuộc thi tiếp sức... Qua đó học sinh
lính hội kiến thức, tích cực, tự giác "học mà chơi - chơi mà học". Không khí học tập
thoải mái khiến học sinh mạnh dạn, tự tin hơn khi nói. Các em dần có khả năng diễn
đạt, phát biểu ý kiến, đánh giá trước đông người một cách lưu loát, rành mạch, dễ
hiểu.
So sánh với phương pháp dạy Tập làm văn lớp 3 truyền thống: mỗi tiết tập làm
văn chú trọng đến mục tiêu là hình thành bài văn theo một đề bài thuộc một thể loại
văn nào đó dưới dạng nói hoặc viết. Tiết học diễn ra theo tiến trình: Giáo viên hướng
dẫn làm bài dựa theo dàn bài thuộc thể loại chung, đưa ra các câu hỏi gợi ý... khiến
học sinh dễ nhàm chán, có cảm giác bị bắt buộc theo khuôn mẫu, không khuyến
khích học sinh nói, viết những cảm xúc, nhận xét, đánh giá, sự miêu rả của chính các
em.
Trong chương trình sách giáo khoa lớp 3, mỗi tiết Tập làm văn là một hệ
thống bài tập có tính định hướng, gợi mở, với nhiều dạng bài: nghe - nói, nói - viết,
nghe - nói - viết... Vì vậy, giáo viên vẫn bám sát mục đích, yêu cầu của tiết dạy, bài
dạy nhưng linh hoạt, chủ động hơn trong cách tổ chức các hoạt động dạy - học, phân
bố thời gian hợp lý, vừa tránh được những nhược điểm nêu trên vừa tạo được không
khí học tập phát huy được tính tích cực, sáng tạo của học sinh.
Ví dụ 1: Tiết tập làm văn (tuần 11) với hệ thống bài tập như sau:
Bài 1: Nghe kể lại câu chuyện "Tôi có đọc đâu"
Yêu cầu: Học sinh nghe và kể lại câu chuyện.
Giáo viên sử dụng các hình thức dạy học:
15


- Giáo viên kể mẫu nội dung câu chuyện
- Thảo luận theo nhóm, theo cặp, học sinh dựa vào gợi ý, sách giáo khoa, tranh
và việc nghe giáo viên kể để lại nội dung câu chuyện cho nhau nghe.
- Đại diện từng nhóm kể trước lớp.

- Học sinh nhận xét
- Giáo viên nhận xét, bổ sung
Cách tổ chức các hình thức hoạt động nêu trên huy động được tất cả học sinh
tham gia vào hoạt động học tập, tạo được không khí thi đua học tập giữa từng học
sinh với nhau, và giữa các nhóm học sinh.
Bài 2: Nói về quê hương em hoặc nơi em đang ở
Yêu cầu: Học sinh làm việc cá nhân với vở bài tập
Giáo viên sử dụng các hình thức dạy học
- Cá nhân học sinh làm trong vở bài tập
- Học sinh nhận xét bài làm của bạn
- Giáo viên nhận xét, bổ sung
Tóm lại, sử dụng và phối hợp linh hoạt các hình thức dạy Tập làm văn lớp 3
theo hướng đổi mới tạo được hứng thú học tập cho học sinh, học sinh tham gia các
hoạt động học một cách hào hứng, tích cực, sáng tạo.
Ví dụ 2: Tiết tập làm văn (tuần 22) với hệ thống bài tập
Bài 1: Kể về người lao động trí óc mà em biết
- Giáo viên cho học sinh làm việc cá nhân (làm trong vở bài tập)
- Trao đổi nhóm, kể cho nhau nghe về người lao động trí óc.
16


- Sau khi thống nhất các em cử đại diện nhóm trình bày.
- Học sinh khác nghe nhận xét, bổ sung.
Bài 2: Viết những điều em vừa kể thành đoạn văn:
- Học sinh phải biết viết những điều em vừa kể thành đoạn văn với câu văn
đúng, hay, biết sử dụng hình ảnh, từ ngữ phù hợp.
Như vậy, trong một tiết học, học sinh vừa luyện kể (luyện nói), vừa luyện viết
đoạn văn (văn bản), nên việc giáo viên vận dụng linh hoạt các hình thức dạy học
trong dạy Tập làm văn là nhiệm vụ cần thiết.
2.2.5. Dạy học hướng dẫn vào học sinh và chú trọng hình thức dạy học cá nhân.

Dạy tập làm văn theo hướng tập trung vào học sinh không phải chỉ tìm ra một
câu trả lời có sẵn mà học sinh phải đưa ra được câu trả lời trên cơ sở suy nghĩ và hiểu
biết của chính các em. Quá trình tư duy đó đòi hỏi học sinh phải vận dụng những vốn
tri thức, hiểu biết phù hợp với vấn đề đặt ra trong câu hỏi; phân tích, sắp xếp những
tri thức đó, đưa ra với vấn đề đặt ra trong câu hỏi; phân tích, sắp xếp những tri thức
đó, đưa ra những kết luận và chọn phương án trả lời tốt nhất. Nói ngắn gọn lại: học
sinh tìm ra câu trả lời qua việc thu thập, sàng lọc thông tin và phân tích dữ kiện.
Ví dụ: Dạy tập làm văn - tuần 5
Bài: Tập tổ chức một cuộc họp.
- Học sinh chọn nội dung cuộc họp cho phù hợp.
- Xác định đúng mục đích cuộc họp, nguyên nhân của cuộc họp.
- Người điều hành cuộc họp thống nhất ý kiến, thống nhất phương án giải
quyết vấn đề, giao việc cho từng thành viên.
17


Như vậy thông qua một tiết tập làm văn đã phát huy tính độc lập sáng tạo của
học sinh, giáo viên chỉ là người tổ chức, định hướng cho học sinh cách làm bài.
2.2.6. Dạy học phối kết hợp các hoạt động ngoài giờ lên lớp
Các hoạt động ngoài khoá giúp học sinh có những hiểu biết ngoài kiến thức
được học trong chương trình chính khoá. Do đó việc phối kết hợp với các hoạt động
ngoài giờ lên lớp là rất cần thiết. Qua các hoạt động ngoài giờ, học sinh được rèn
luyện bằng nhiều hình thức khác nhau, có nội dung liên quan đến bài học của các em.
Giáo viên giảng dạy cần có sự kết phối hợp chặt chẽ với giáo viên tổng phụ trách,
thông qua các buổi chào cờ nói về gương người tốt việc tốt; tổ chức các hoạt động:
thi ca hát, tập diễn các tiểu phẩm, thi kể chuyện - văn nghệ, thi đọc thơ, thi các môn
năng khiếu, Hội thi an toàn giao thông, ngày hội học sinh tiểu học,...
Hoặc thông qua buổi lễ khai giảng học sinh có thể viết những cảm xúc, những
kỷ niệm đẹp của các em về ngày đầu tiên đi học (bài học tuần 6)
Hay qua buổi lễ kết nạp đội viên TNTP Hồ Chí Minh, học sinh có nguyện vọng

viết đơn vào Đội, sinh hoạt trong các câu lạc bộ, tổ chức của Đội... Ví dụ: tham dự
hội thi tìm hiểu về Đội.
+ Từ thực tế đó, học sinh sẽ có thêm hiểu biết về Đội TNTP Hồ Chí MInh, giúp
các em viết tốt hơn Đơn xin vào đội (tiết tập làm văn - tuần 2)
2.2.7. Dạy tập làm văn theo hướng đổi mới ở tất cả các khối lớp
Nội dung kiến thức chương trình sách giáo khoa mới biên soạn theo chủ đề,
chủ điểm, nâng cao dần về mức độ và lượng kiến thức qua từng lớp học. Do đó để đạt
được hiệu quả tốt trong giảng dạy Tập làm văn lớp 3 theo hướng đổi mới cần thực
hiện đồng bộ việc vận dụng đổi mới phương pháp ở tất cả các khối lớp trước (lớp 1 18


2) và tiếp theo (lớp 4 - 5) Cụ thể Đối với lớp 1: Dạy học sinh tập nói thành câu, nói
theo chủ đề, nội dung, hình tranh nói thành câu.
Đối với lớp 2: Dựa trên nền tảng kiến thức học sinh đạt được ở lớp 1, nâng cao
với mức độ vừa phải: kể lại câu chuyện đã học, nói - viết thành câu, đưa ra các mẫu
câu (Ai là gì? Ai làm gì? Ai như thế nào?...) viết đoạn văn từ 3 đến 5 câu.
Đối với lớp 3: Luyện nghe, luyện nói, luyện viết: mẫu câu rộng, bao quát hơn;
yêu cầu về câu cao hơn; câu đúng ngữ pháp, biết sử dụng biện pháp tu từ, so sánh
nhân hoá, câu văn giàu hình ảnh. Đặc biệt phần luyện viết với số lượng câu văn tăng
lên (5 - 7 câu), đã chú ý đến kết cấu đoạn văn và diễn đạt cảm xúc trong câu văn,
đoạn văn.
Đối với lớp 4: Học sinh luyện nói câu chuyện đã nghe, đã đọc, xây dựng cốt
truyện có nhân vật, kể chuỵên dựa trên cốt truyện có sẵn hoặc tưởng tượng; luyện
viết: câu thành phần phụ, sử dụng biện pháp tu từ, nhân hoá theo nhiều kiểu khác tiến
tới viết thành bài văn.
Đối với lớp 5: Học sinh luyện nói hoàn chỉnh về câu (câu ghép, các kiểu câu
ghép), sử dụng nhiều biện pháp tu từ trong bài viết, viết thành bài văn hoàn chỉnh với
số lượng câu tuỳ theo bố cục nội dung của bài. Học sinh biết bộc lộ cảm xúc trong
khi tả, kể, viết.
Tóm lại, kiến thức ở các lớp có mối quan hệ lôgíc: kế thừa, mở rộng, nâng cao.

Do đó muốn dạy Tập làm văn lớp 3 theo hướng đổi mới còn phải đổi mới ở tất cả các
khối lớp.
* Hiệu quả của đề tài:
19


Qua quá trình nghiên cứu, thực hiện đề tài, việc dạy học phân môn Tập làm
văn ở lớp tôi chủ nhiệm đạt được kết quả khả quan: Học sinh mạnh dạn tự tin hơn
trong học tập, vốn từ của học sinh phong phú hơn, câu văn rõ ràng mạch lạc và giàu
hình ảnh.
Tiến hành khảo sát theo những tiêu chí ban đầu đề ra đối với khối lớp 3 đầu
tháng 12 - tuần 13 với đề bài:
Viết một bức thư cho bạn ở một tỉnh miền Nam (hoặc miền Trung, miền Bắc)
để làm quen và hẹn bạn cùng thi đua học tốt.
Kết quả thu được như sau:
Nội dung khảo sát
1. Biết viết câu, dùng từ hợp lý.
2. Biết nói - viết thành câu.
3. Biết dùng từ ngữ, câu văn có hình ảnh.
4. Biết trình bày đoạn văn.
Bài viết học sinh đạt từ trung bình trở lên.
3. KẾT LUẬN

Tỷ lệ %
77.9%
72.7%
64.9%
68.8%
90.2.%


3.1. Ý nghĩa của đề tài:
Qua quá trình nghiên cứu, tôi đã nhận thấy vai trò và tầm quan trọng của việc
dạy học phân môn Tập làm văn. Vì vậy, với kinh nghiệm này, không chỉ dừng lại áp
dụng ở khối 3 mà triển khai vào các khối lớp trong nhà trường, xây dựng tích hợp các
kiến thức liên quan với nhau giữa các môn học. Thông qua dạy thử nghiệm theo
hướng trên, tôi đã thu được rất nhiều kết quả khả quan: học sinh tập hào hứng hơn,
mạnh dạn hơn, vốn từ của học sinh phong phú hơn, câu văn giàu hình ảnh hơn.
Đề tài là cơ sở để giáo viên nghiên cứu và thực hiện trong giảng dạy phân môn
Tập làm văn. Giúp giáo viên từng lúc san bằng trình độ học sinh trong lớp học; giúp
20


học sinh tự tin hơn trong học tập, trong giao tiếp để các em hoàn thành nhiệm vụ học
tập và tiếp tục học tập ở các lớp cao hơn.
Từ những kết quả nêu trên, tôi rút ra những bài học kinh nghiệm sau:
* Bài học kinh nghiệm:
1. Dạy Tập làm văn theo phương pháp "tích hợp - lồng ghép" các phân môn
trong môn Tiếng Việt. Biết kết hợp mối quan hệ chặt chẽ về yêu cầu kiến thức phân
môn Tập làm văn của các khối lớp.
2. Chú trọng phương pháp dạy học theo quan điểm giao tiếp, rèn kỹ năng nghe
- nói - đọc - viết cho học sinh.
3. Giáo viên biết tổ chức tốt cho học sinh cách quan sát tranh, cách dùng từ,
giọng kể, lời nhân vật, nói viết thành câu.
4. Động viên khuyến khích học sinh tự học, học theo phương pháp tự tìm tòi.
Giáo viên tổ chức, phối hợp linh hoạt các hình thức và phương pháp dạy học theo
hướng đổi mới. Giáo viên sửa chữa sai sót thật kỹ càng cho học sinh, hướng dẫn HS
ghi chép và sổ tay, vở nháp. Dạy học hướng tập trung vào học sinh, coi học sinh là
chủ thể của hoạt động, tổ chức các hoạt động giúp các em chiếm lĩnh tri thức và rút ra
kết luận phù hợp với bài học.
5. Giáo viên biết cách phối hợp hoạt động học tập với các hoạt động ngoài giờ

lên lớp.
* Khả năng ứng dụng triển khai:
Đề tài đang trong quá trình nghiên cứu và thực hiện bước đầu có hiệu quả khả
quan ở trường TH số 1 An Thủy. Vì vậy đề tài có khả năng ứng dụng và triển khai
cho tất cả giáo viên trong đơn vị cùng thực hiện và từng lúc bổ sung để việc dạy học
21


phân môn Tập làm văn lớp 3 đạt hiệu quả cao. Đây là cơ sở làm nền tảng cho các em
học tốt phân môn Tập làm văn ở các lớp cuối bậc Tiểu học.
3.2. Những kiến nghị, đề xuất:
Phòng Giáo Dục & Đào Tạo, Cụm chuyên môn thường xuyên tổ chức các
chuyên đề Tập làm văn theo từng chủ đề cho giáo viên học hỏi, trao đổi kinh nghiệm
lẫn nhau.
Trên đây là những một số kinh nghiệm của bản thân đúc rút ra trong quá trình
nghiên cứu, thực nghiệm sáng kiến nhằm giúp giáo viên và học sinh lớp 3 nâng cao
chất lượng dạy - học phân môn Tập làm văn theo yêu cầu đổi mới hiện nay. Tôi rất
mong được sự quan tâm, góp ý của đồng nghiệp. Xin chân thành cảm ơn.

22



×