Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

Đề án tốt nghiệp: Nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm trộm cắp tại sản tại huyện Như Xuân đến năm 2020 quả đấu tranh phòng chống tội phạm trộm cắp tại sản tại huyện Như Xuân đến năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (408.99 KB, 46 trang )

i
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong đề án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn
đúng quy định. Đề án này phù hợp với vị trí, chức vụ, đơn vị công tác của tôi và
chưa được triển khai thực hiện trong thực tiễn.
Tác giả

Đặng Xuân Sơn


ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN.................................................................................................... 1
MỤC LỤC............................................................................................................. 2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT.................................................................iii
Phần 1. MỞ ĐẦU................................................................................................ 1
1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ ÁN..............................................................................1
1.2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ ÁN...........................................................................2
1.2.1. Mục tiêu chung.................................................................................... 2
1.2.2. Mục tiêu cụ thể.................................................................................... 2
1.3. NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ ÁN..........................................................................2
1.4. GIỚI HẠN CỦA ĐỀ ÁN........................................................................... 3
1.4.1. Phạm vi đối tượng............................................................................... 3
1.4.2. Không gian, thời gian nghiên cứu....................................................... 3
Phần 2. NỘI DUNG.............................................................................................. 4
2.1. CĂN CỨ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN................................................................. 4
2.1.1. Căn cứ khoa học, lý luận..................................................................... 4
2.1.2. Căn cứ chính trị, pháp lý...................................................................13
2.1.3. Căn cứ thực tiễn................................................................................14


2.2. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ĐỀ ÁN........................................................14
2.2.1. Thực trạng hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm trộm cắp tài sản
trên đại bàn huyện Như Xuân, giai đoạn 2012 - 2016....................................14
2.2.2. Nội dung cơ bản đề án cần thực hiện................................................29
2.2.3. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống
tội trộm cắp tài sản tại huyện Như Xuân........................................................29
2. 3. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ ÁN.............................................................35
2.3.1. Những thuận lợi, khó khăn khi thực hiện đề án.................................35
2.3.2. Các nguồn lực để thực hiện đề án.....................................................37
2.3.3. Kế hoạch, tiến độ thực hiện đề án.....................................................37
2.3.4. Phân công trách nhiệm thực hiện đề án...............................................37
2.4. DỰ KIẾN HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ ÁN.......................................................38
2.4.1. Sản phẩm của đề án...........................................................................38
2.4.2. Tác động và ý nghĩa của đề án..........................................................39
Phần 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ..............................................................40
3.1. KẾT LUẬN..............................................................................................40
3.2. KẾN NGHỊ...............................................................................................41
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................42


iii

DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
VKS........................................................................................Viện Kiểm Sát
XHCN.................................................................................Xã hội chủ nghĩa
TNHS............................................................................Trách nhiệm hình sự
BLHS.....................................................................................Bộ luật hình sự
BLTTHS....................................................................Bộ luật tố tụng hình sự
KSĐT..................................................................................Kiểm sát điều tra



1
Phần 1. MỞ ĐẦU
1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ ÁN
Thời gian gần đây, trước sự chuyển biến nhanh về kinh tế - xã hội và sự
phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật và công nghệ; sự phát triển mạnh
mẽ trong quan hệ đối ngoại trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục
của các quốc gia trên thế giới; tình hình kinh tế, xã hội của nước ta có nhiều
chuyển biến tích cực, phù hợp với sự phát triển chung trong khu vực cũng như
trên phạm vi toàn cầu. Bên cạnh đó, nền kinh tế thị trường đã làm nẩy sinh
những mặt trái ảnh hưởng đến tình hình chính trị, an ninh và trật tự xã hội. Tội
phạm ngày một gia tăng, tính chất mức độ hành vi phạm tội ngày càng nguy
hiểm, tinh vi hơn, trong đó thì loại tội phạm xâm hại đến quyền sở hữu chiếm tỉ
lệ lớn trong các loại tội phạm.
Với vai trò là nền tảng kinh tế xã hội của quốc gia, chế độ sở hữu là một
trong những vấn đề trọng yếu được Nhà nước bảo vệ bằng mọi biện pháp trong
đó biện pháp pháp lý hình sự thể hiện kiên quyết nhất ý chí quyền lực Nhà nước
trong xử lý các hành vi xâm phạm tới chế độ sở hữu. Trong số các tội xâm phạm
sở hữu, tội trộm cắp tài sản là tội xâm phạm trực tiếp tới quyền sở hữu tài sản, nó
xảy ra khá phổ biến. Ở mỗi giai đoạn phát triển, Nhà nước đều có những quy
định về tội trộm cắp tài sản và biện pháp xử lý nhằm đấu tranh loại bỏ tội phạm
khỏi đời sống xã hội.
Đối với Như Xuân là huyện miền núi, có vị trí trọng yếu về quốc phòng,
an ninh của tỉnh Thanh Hóa. Người dân ở đây cần cù, chịu khó, cuộc sống chủ
yếu dựa vào nền kinh tế nông, lâm nghiệp. Trong những năm gần, đây nền kinh
tế của Như Xuân có bước tăng trưởng nhanh, điều đó cho phép người dân tiếp
cận nhiều luồng văn hoá khác nhau dẫn đến xã hội phân hoá, các loại tệ nạn xã
hội, tội phạm ngày càng nhiều, nhất là tội phạm trộm cắp tài sản diễn biến phức
tạp gây hậu quả ngày càng nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã
hội. Riêng trong năm 2016, trên địa bàn huyện Như Xuân xảy ra 46 vụ phạm

pháp hình sự, trong đó có 16 vụ trộm cắp tài sản, chiếm 34.7%.
Mặc dù các cơ quan bảo vệ pháp luật tại huyện đã tích cực đấu tranh ngăn
chặn các hành vi xâm phạm sở hữu, nhưng việc điều tra, truy tố, xét xử loại tội
phạm này còn chưa kịp thời, chưa có quy mô, chưa đáp ứng được yêu cầu phòng


2
chống tội phạm. Trong điều kiện hoàn cảnh đó, làm thế nào để hạn chế, ngăn
ngừa được tội phạm, phát hiện và xử lý nghiêm minh, kịp thời những vụ trộm
cắp tài sản xảy ra trên địa bàn huyện Như Xuân trở thành một đòi hỏi cấp bách
đối với chính quyền, các ban ngành đoàn thể và nhân dân trong huyện.
Nhận thấy vai trò và tầm quan trọng của vấn đề này trong thực tiễn, tôi
chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm trộm cắp tại
sản tại huyện Như Xuân đến năm 2020” làm đề án tốt nghiệp Cao cấp lý luận
Chính trị.
1.2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ ÁN
1.2.1.Mục tiêu tổng quát
Trên cơ sở nghiên cứu về cơ sở khoa học, lý luận, các căn cứ chính trị,
pháp lý và thực tiễn; đánh giá đúng thực trạng tình hình tội phạm trộm cắp tài
sản trên địa bàn huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa hiện nay, từ đó đề xuất những
biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động phòng, chống loại tội phạm này.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan, tổ chức làm công tác
phòng, chống tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Như Xuân, tỉnh
Thanh Hóa
- Giảm số lượng tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Như Xuân,
tỉnh Thanh Hóa xuống dưới 0,15% so với quy mô dân số.
- Giảm tỷ lệ tái phạm tội đối với người phạm tội cư trú trên địa bàn xuống
dưới 25% so với tổng số người có tiền án về tội trộm cắp tài sản.
- Giảm số lượng tội phạm trộm cắp tài sản người chưa thành niên (dưới 18

tuổi) giảm xuống dưới 10%.
- Hàng năm, 100% bản án tuyên phạt tội phạm trộm cắp tài sản có hiệu
lực đảm bảo nghiêm minh và không oan sai.
- Duy trì không để hình thành băng nhóm phạm tội về trộm cắp tài sản
hoạt động trên địa bàn huyện.
1.3. NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ ÁN
- Phân tích khái niệm và làm sáng tỏ các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội
trộm cắp tài sản và trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trộm cắp tài sản.
- Phân tích thực trạng tình hình tội phạm trộm cắp tài sản và hoạt động
phòng, chống tội phạm trộm cắp tài sản; xác định đúng nguyên nhân của những


3
hạn chế, thiếu sót trong hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm trộm cắp tài
sản trên địa bàn huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống
tội phạm trộm cắp tài sản
1.4. GIỚI HẠN CỦA ĐỀ ÁN
1.4.1. Phạm vi đối tượng
Đề án tập trung nghiên cứu tội phạm trộm cắp tài sản và hoạt động phòng,
chống tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa .
1.4.2. Không gian, thời gian nghiên cứu
- Không gian: Trên địa bàn huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa
- Thời gian: Thời gian nghiên cứu thực trạng 2012 – 2016, thực hiện đề án
từ năm 2017 – 2020


4
Phần 2. NỘI DUNG
2.1. CĂN CỨ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN

2.1.1. Căn cứ khoa học, lý luận
Đề án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật
của Nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm.
2.1.1.1. Một số khái niệm
- Trộm cắp tài sản:
Tội trộm cắp tài sản được hiểu theo nhiều hướng và dưới mọi góc độ
nghiên cứu khác nhau. Theo Điều 138 Bộ luật Hình sự quy định về tội trộm cắp
tài sản như sau: “người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ 2 triệu
đồng trở lên hoặc dưới 2 triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị
xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài
sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì bị phạt cải tạo không giam giữ
đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”.
Đặc trưng của hành vi trộm cắp tài sản là “lén lút” bí mật chiếm đoạt tài
sản của người khác. Hành vi “lén lút” không nhất thiết là việc làm mà không ai
biết, nó có thể được thực hiện một cách giấu diếm, vụng trộm, nhưng có thể
được thực hiện một cách công khai, giữa nơi đông người. Tuy nhiên, việc giấu
diếm hay công khai thì chúng đều có một đặc điểm chung, đó là sự “lén lút” với
chủ tài sản, không có việc “lén lút” thì không phải là trộm cắp.
“Chiếm đoạt” là việc cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản của người
khác thành tài sản của mình. “Lén lút” là hành vi cố ý giấu diếm, vụng trộm
không để lộ ra nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác; việc che dấu với mọi
người hoặc công khai chứng kiến của nhiều người nhưng vẫn che giấu hành vi
phạm tội với chủ tài sản… những hành vi đó chỉ bị khởi tố khi có đủ căn cứ xác
định có dấu hiệu của phạm tội. Và chỉ khi có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu
lực pháp luật thì người đó mới bị coi là phạm tội trộm cắp tài sản và phải chịu
hình phạt theo quy định của pháp luật. Việc kết tội người đó sẽ do cơ quan tiến
hành tố tụng xem xét, quyết định dựa trên những chứng cứ thu thập được.
Từ những phân tích khái quát nêu trên, có thể hiểu tội trộm cắp tài sản là
tội do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện hành vi lén lút chiếm

đoạt tài sản của người khác vì mục đích vụ lợi.
- Nâng cao có nghĩa là làm tăng thêm.


5
- Hiệu quả là đạt được một kết quả giống nhau nhưng sử dụng ít thời gian
công sức và nguồn lức nhất.
- Phòng chống tội phạm:
Phòng chống tội phạm là việc các cơ quan của Nhà nước, các tổ chức xã
hội và công dân bằng nhiều biện pháp nhằm khắc phục những nguyên nhân, điều
kiện của tình trạng phạm tội nhằm ngăn chặn, hạn chế và làm giảm từng bước,
tiến tới loại trừ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội.
Phòng chống tội phạm là phương hướng chính, là tư tưởng chỉ đạo trong
công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, phòng ngừa không để tội phạm xảy ra;
thể hiện bản chất nhân đạo của chế độ xã hội mới, không để người dân bị xử lý
trước pháp luật, không bị tước quyền công dân
Phòng chống mang ý nghĩa chính trị xã hội sâu sắc, làm tốt công tác phòng
chống giúp giữ vững an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ tài sản của
xã hội, tính mạng, sức khoẻ, danh dự, phẩm giá của mọi người dân.
Làm tốt công tác phòng chống tội phạm mang ý nghĩa kinh tế sâu sắc, tiết
kiện ngân sách Nhà nước, sức lao động của các nhân viên Nhà nước, của công
dân trong các hoạt động điều tra tuy tố xét xử và giáo dục cải tạo người phạm
tội, cũng như trong việc giải quyết các vấn đề có liên quan đến tội phạm.
Phòng chống tội phạm được tiến hành theo hai hướng cơ bản sau:
Hướng thứ nhất: Phát hiện, khắc phục, hạn chế và đi đến thủ tiêu các hiện
tượng xã hội tiêu cực là những nguyên nhân, điều kiện của tình trạng phạm tội
và phạm tội cụ thể. Đây là hướng mang tính cơ bản, chiến lược và lâu dài.
Hướng thứ hai: Hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả, tác hại khi tội phạm
xẩy ra. Đây cũng là một hướng quan trọng không thể xem nhẹ, bởi trong thực tế
những nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh, phát triển tội phạm vẫn tồn tại, hoạt

động phòng ngừa tội phạm còn bộc lộ nhiều khiếm khuyết nên tội phạm vẫn xẩy
ra. Hướng này đòi hỏi các cơ quan chức năng phối hợp kịp thời phát hiện, điều tra,
truy tố, xét xử tội phạm, cải tạo người phạm tội trở thành người công dân lương
thiện.
Phòng chống tội phạm mang tính đồng bộ, hệ thống và có sự phối kết hợp
chặt chẽ giữa các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và các công dân.
Mục đích của công tác phòng ngừa tội phạm là khắc phục, thủ tiêu các
nguyên nhân, điều kiện của tình trạng phạm tội nhằm ngăn chặn, hạn chế, làm
giảm từng bước tiến tới loại trừ tội phạm này ra khỏi đời sống xã hội
2.1.1.2. Dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản
- Khách thể của tội trộm cắp tài sản:


6
Khách thể của tội phạm nói chung là những mối quan hệ xã hội được pháp
luật hình sự bảo vệ, tránh mọi sự xâm hại của tội phạm nhưng lại bị tội phạm
xâm hại đến và gây ra thiệt hại ở một chừng mực nhất định.
- Mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản:
Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện của tội phạm ra bên
ngoài thế giới khách quan, bao gồm các dấu hiệu sau: hành vi, hậu quả, mối
quan hệ giữa hành vi và hậu quả, phương tiện, công cụ, thủ đoạn, hoàn cảnh, địa
điểm phạm tội.
Hành vi khách quan của tội trộm cắp tài sản biểu hiện ý chí của người
phạm tội ra thế giới khách quan dưới hình thức lén lút nhằm chiếm đoạt tài sản
của người khác gây thiệt hại hoặc che đậy gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội
được luật hình sự bảo vệ. Để trở thành hành vi khách quan của tội trộm cắp tài
sản thì hành vi đó phải có các đặc điểm đó là: Hành vi khách quan của tội phạm
phải có tính nguy hiểm cho xã hội (thuộc tính hiển nhiên), hành vi khách quan
của tội trộm cắp tài sản có tính trái pháp luật hình sự, hành vi khách quan của tội
trộm cắp tài sản phải có sự kiểm soát của ý thức và phải có sự điều khiển của ý

chí, trước có tính có lỗi.
Mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản thể hiện ở hành vi lén lút, bí mật
chiếm đoạt tài sản do người khác đang quản lý. Người phạm tội không dùng các
thủ đoạn như trong các tội cướp, cướp giật hay công nhiên chiếm đoạt tài sản là
“lén lút, bí mật” để chủ sử hữu, người quản lý tài sản và người khác không biết
được hành vi của mình là trộm cắp tài sản.
Trong trường hợp sử dụng thủ đoạn làm cho người khác tưởng hành vi của
người sử dụng thủ đoạn đó là hợp pháp để dễ dàng chiếm đoạt thì vẫn bị coi là
trộm cắp tài sản bởi thủ đoạn đó vẫn được coi là “lén lút, bí mật”.
Hành vi “lén lút, bí mật” chiếm đoạt tài sản của người khác chứng tỏ
người phạm tội không muốn đương đầu với người chủ sở hữu tài sản hoặc người
quản lý tài sản. Trên thực tế có trường hợp sau khi “lén lút, bí mật” chiếm đoạt
tài sản bị phát hiện, đuổi bắt, người trộm cắp dùng vũ lực để tẩu thoát hoặc đe
dọa để giữ tài sản đã chiếm đoạt. Nếu dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực để
tẩu thoát thì hành vi trộm cấu thành tội trộm cắp tài sản có tình tiết tăng nặng,
nếu dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực để giữ tài sản đã trộm cắp được thì
hành vi trộm cắp tài sản chuyển hóa thành hành vi cướp tài sản.
Tội trộm cắp tài sản có cấu thành vật chất thì pháp luật hình sự quy định
dấu hiệu về hậu quả là một trong những dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội
phạm, theo đó giá trị chiếm đoạt phải từ 2 triệu đồng trở lên đến dưới 50 triệu
đồng hoặc dưới 2 triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lý


7
hành chính về hành vi chiếm đoạt đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa
được xóa án tích mà còn vi phạm mới cấu thành tội trộm cắp tài sản.
- Chủ thể của tội trộm cắp tài sản
Chủ thể của tội phạm là người đã có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội bị pháp luật hình sự cấm, có năng lực trách nhiệm hình sự
(TNHS) và đủ tuổi chịu TNHS theo luật định. Như vậy, chủ thể của tội phạm là

người đạt độ tuổi chịu TNHS, có năng lực TNHS và đã thực hiện một tội phạm.
Cơ sở pháp lý để xác định chủ thể của tội trộm cắp tài sản là Điều 12, Điều 13,
Điều 138 BLHS năm 1999; Điều 12, 13, 21 và điều 173 của Bộ Luật hình sự
năm 2015. Điều 12 BLHS năm 1999 quy định về tuổi chịu TNHS như sau:
Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự
về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Bộ
luật hình sự năm 2015 Điều 12 quy định về Tuổi chịu trách nhiệm hình sự như
sau:
1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội
phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm người
từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài
sản; về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại
một trong các điều sau đây:
a) Điều 143 (tội cưỡng dâm); Điều 150 (tội mua bán người); Điều 151 (tội
mua bán người dưới 16 tuổi);
b) Điều 170 (tội cưỡng đoạt tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều
173 (tội trộm cắp tài sản); Điều 178 (tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản);
Phân tích quy định tại Điều 12 và tại Điều 138 BLHS năm 1999 và điều
173 BLHS năm 2015, có thể thấy chủ thể của tội trộm cắp tài sản là bất kỳ ai có
đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 16 tuổi chỉ
phải chịu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản theo khoản 3 và khoản 4
Điều 138 BLHS năm 2003 và khoản 3 khoản 4 điều 173 BLHS năm 2015.
- Mặt chủ quan của tội trộm cắp tài sản
Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của tội phạm. Đó là những
biểu hiện về mặt tâm lý của người phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội bao
gồm lỗi, động cơ và mục đích phạm tội.



8
Lỗi là thái độ tâm lý của chủ thể đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và
đối với hậu quả của hành vi ấy gây ra cho xã hội thể hiện dưới dạng cố ý hoặc vô
ý.
Đối với tội trộm cắp tài sản thì người phạm tội đã có dấu hiệu cố ý để lại
hậu quả thực tế xảy ra là chiếm được tài sản của người khác bằng cách lén lút
nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản. Như vậy người phạm tội đã cố ý đối với hành
động bất hợp pháp của mình.
Tại Điều 9 BLHS năm 1999 quy định về lỗi cố ý:
1. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã
hội, thấy trước được hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.
2. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã
hội, thấy trước được hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong
muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 9 BLHS thì hành vi trộm cắp tài sản được
thực hiện bằng lỗi cố ý trực tiếp, vì người phạm tội thực hiện hành vi trộm cắp
tài sản mong muốn chiếm đoạt được tài sản đó và để thực hiện mong muốn
chiếm đoạt đó người phạm tội đã lén lút lấy trộm, mặc dù người phạm tội biết rõ
hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật hình sự cấm nhưng vẫn
thực hiện hành vi nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản.
Động cơ phạm tội là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực
hiện hành vi phạm tội. Động cơ phạm tội chỉ có thể đặt ra với các tội thực hiện
với lỗi cố ý. Còn các tội thực hiện với lỗi vô ý chỉ có động cơ của xử sự. Đa số
trường hợp phạm tội, động cơ phạm tội là tình tiết định khung tăng nặng hoặc
là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Do đó, việc xác định chúng có ý
nghĩa trong việc định khung hình phạt hoặc quyết định hình phạt.
Động cơ phạm tội trong tội trộm cắp tài sản là động cơ vụ lợi, nhưng đó
không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội trộm cắp tài sản.

Mục đích phạm tội: là cái mốc mà người phạm tội mong muốn đạt đến khi
thực hiện tội phạm.
Giữa mục đích phạm tội và hậu quả của tội phạm luôn có mối liên quan
chặt chẽ với nhau, hậu quả của tội phạm chính là sự thể hiện, sự phản ánh mục
đích phạm tội. Chính vì vậy mà trong mỗi cấu thành tội phạm chỉ có sự hiện diện
của một trong hai dấu hiệu này mà thôi.

Có thể so sánh để thấy được sự khác biệt giữa mục đích phạm tội và
hậu quả phạm tội theo các tiêu chí sau:
Mục đích phạm tội
Hậu quả phạm tội


9
- Nằm trong ý thức chủ quan.
- Thể hiện ngoài thể giới khách quan.
- Có trước.
- Có sau.
Mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc để định tội danh. Tuy
nhiên, ngoài mục đích chiếm đoạt, người phạm tội còn có thể có những mục
đích khác cùng với mục đích chiếm đoạt hoặc chấp nhận mục đích chiếm
đoạt của người đồng phạm khác thì người phạm tội cũng bị truy cứu TNHS
về tội trộm cắp tài sản.
2.1.1.3.Trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trộm cắp tài sản
Ngoài các quy định về tội phạm thì BLHS Việt Nam còn quy định các
biện pháp xử lý với người phạm tội. Bất kì người nào khi đã thực hiện hành vi
phạm tội được quy định trong BLHS thì đều bị xử lý bằng các biện pháp mang
tính bắt buộc, cưỡng chế của Nhà nước, trong đó biện pháp pháp lý hình sự là
biện pháp nghiêm khắc nhất thể hiện thái độ kiên quyết của Nhà nước đối với
người phạm tội.

Đối với tội trộm cắp tài sản, dựa vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho
xã hội của hành vi phạm tội, điều 138 BLHS 1999 đã chia thành bốn khung hình
phạt, trong đó mức độ thiệt hại về tài sản là một căn cứ để phân chia thành các
khung hình phạt: khung 1 tương ứng với mức độ thiệt hại tài sản từ 500.000
đồng đến dưới 50 triệu đồng; khung 2 tương ứng với mức độ thiệt hại tài sản từ
50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng; khung 3 tương ứng với mức độ thiệt hại
tài sản từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng; khung 4 tương ứng với mức
độ thiệt hại tài sản từ 500 triệu đồng trở lên. Mỗi trường hợp phạm tội, TNHS
của người phạm tội cũng khác nhau. Theo đó:
a. Khung 1 ( Khoản 1 Điều 138 BLHS 1999): hình phạt là cải tạo không
giam giữ 3 năm hoặc bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm được áp dụng đối với
những người trộm cắp tài sản có giá trị từ 500.000 đồng đến dưới 50 triệu đồng
hoặc dưới 500.000 đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt
hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt chưa được
xóa án tích mà còn vi phạm.
Ngày 19/06/2009 tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa 12 thông qua luật số
37/2009/QH12 sửa đổi mức định lượng tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự
quy định tại khoản 1 của một số điều như sau:
Sửa đổi cụm từ ”năm trăm nghìn đồng” thành cụm từ “hai triệu đồng” tại
khoản 1 các điều 137, 138, 139, 143, 278, 279, 280, 283, 289, 290 và 291;
Vấn đề quan trọng là cần xác định khách quan toàn diện giá trị tài sản bị
chiếm đoạt để đảm bảo truy cứu TNHS đúng đắn, theo đó giá trị tài sản bị chiếm


10
đoạt được xác định theo giá thị trường của tài sản vào thời điểm tài sản bị chiếm
đoạt. Trong thực tiễn xét xử việc xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt không đơn
giản, nhất là trong trường hợp, chất lượng tài sản bị giảm sút do đã qua sử dụng
hay tài sản bị chiếm đoạt không thu hồi lại được. Để giúp cơ quan chức năng xác
định đúng các định lượng giá trị tài sản thì phải có Hội đồng định giá tài sản.

- Đối với trường hợp tài sản bị trộm cắp có giá trị dưới 2.000.000 đồng
nhưng gây hậu quả nghiêm trọng: lúc này hậu quả nghiêm trọng được hiểu là
hậu quả do chính hành vi phạm tội gây ra bao gồm hậu quả vật chất (thiệt hại về
tính mạng, sức khoẻ, tài sản) và hậu quả phi vật chất (gây ảnh hưởng xấu đến
việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, ảnh hưởng xấu
đến an ninh, trật tự an toàn xã hội). Thuộc một trong những trường hợp sau thì
coi là “gây hậu quả nghiêm trọng”: Làm chết một người; Gây thương tích hoặc
tổn hại sức khoẻ của một đến hai người với tỉ lệ thương tật mỗi người từ 61% trở
lên; Gây thương tích hoặc tổn hại sức khoẻ của ba đến bốn người với tỉ lệ thương
tật mỗi người từ 31% đến 60%; Gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe nhiều
người với tổng tỉ lệ thương tật từ 61% đến 100%, nếu không thuộc các trường
hợp trên; Gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe nhiều người với tổng tỉ lệ
thương tật từ 31% đến 60% và thiệt hại tài sản từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu
đồng; Thiệt hại tài sản từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng.
- Đối với trường hợp trộm cắp tài sản có giá trị dưới 500.000 đồng nhưng
người phạm tội đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt: đã bị xử phạt
hành chính tức là người phạm tội đã bị xử lý kỷ luật theo quy định của cơ quan
có thẩm quyền, quy định của Điều lệnh, Điều lệ Lực lượng vũ trang nhân dân về
một trong các hành vi chiếm đoạt sau: hành vi cướp tài sản, bắt cóc nhằm chiếm
đoạt tài sản, cưỡng đoạt tài sản, cướp giật tài sản, công nhiên chiếm đoạt tài sản,
trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản, tham ô tài sản, lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản nhưng chưa
hết thời hạn để được coi là chưa bị xử lý.
- Đối với trường hợp trộm cắp tài sản có giá trị dưới 2.000.000 đồng
nhưng người phạm tội đã bị kết án về tội chiếm đoạt, chưa được xoá án tích mà
còn vi phạm, người phạm tội bị coi là đã bị kết án về tội chiếm đoạt nếu trước đó
đã bị kết án về một trong các tội sau: tội cướp tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt
tài sản, cưỡng đoạt tài sản, cướp giật tài sản, công nhiên chiếm đoạt tài sản, trộm
cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản,
tham ô tài sản, lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản.



11
Khoản 1 Điều 173 BLHS 2015 vẫn giữ nguyên mức hình phạt nhưng có
sửa đổi, bổ sung so với khoản 1 Điều 138 BLHS hiện hành như sau:
Thứ nhất, trường hợp trộm cắp tài sản có giá trị dưới 2 triệu đồng nhưng
“gây hậu quả nghiêm trọng” được thay bằng “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh,
trật tự, an toàn xã hội”.
Thứ hai, BLHS 2015 quy định rõ hơn, toàn diện hơn về tình tiết định tội
khi tài sản trộm cắp có giá trị dưới 2 triệu đồng. Theo đó, nếu BLHS hiện hành
quy định “đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt” thì BLHS 2015 sửa
đổi thành “đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản”. Nếu
BLHS hiện hành quy định “đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa
án tích mà còn vi phạm” thì BLHS 2015 sửa đổi thành “đã bị kết án về tội này
hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175
và 290 của bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”.
Thứ ba, cũng theo quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS 2015, người nào
trộm cắp tài sản của người khác trị giá dưới 2 triệu đồng nhưng “tài sản đó là
phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di
vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại” thì cũng
bị xử lý hình sự về tội trộm cắp tài sản.
b. Khung 2 ( Khoản 2 Điều 138 BLHS 1999): hình phạt tù từ 2 năm đến
7 năm, nếu người phạm tội thuộc một trong các trường hợp:
- Phạm tội có tổ chức: tức là có sự liên kết chặt chẽ giữa những người
cùng thực hiện tội phạm ( khoản 3 điều 20 BLHS 1999).
- Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp: là trường hợp người phạm tội
thực hiện hành vi lặp đi lặp lại nhiều lần, lấy tài sản trộm cắp được làm nguồn
thu nhập chính hoặc duy nhất.
- Tái phạm nguy hiểm: khoản 2 Điều 49 BLHS quy định những trường
hợp sau được coi là “tái phạm nguy hiểm”: đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng,

đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích lại phạm tội rất nghiêm
trọng, đặc biệt nghiêm trọng do cố ý; đã tái phạm chưa được xoá án tích lại
phạm tội do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.
- Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm: được hiểu là người phạm tội sử
dụng những mánh khóe, cách thức tinh vi, người bị hại khó phán đoán, có khả
năng gây ra những thiệt hại lớn khác ngoài thiệt hại về tài sản như thiệt hại về
tính mạng, sức khoẻ.
- Người phạm tội hành hung để tẩu thoát: là trường hợp mà người phạm
tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc đã chiếm đoạt được tài sản, nhưng bị phát
hiện và bị bắt giữ hoặc bị bao vây bắt giữ thì đã có những hành vi chống trả lại


12
người bắt giữ hoặc người bao vây bắt giữ như đánh, chém, bắn, xô ngã... nhằm
tẩu thoát.
Tuy nhiên, khoản 2 Điều 173 BLHS 2015 đã bỏ tình tiết “gây hậu quả
nghiêm trọng”, đồng thời bổ sung tình tiết mới là “trộm cắp tài sản trị giá từ 2
triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy
định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 điều này”.
c. Khung 3 ( Khoản 3 Điều 138 BLHS năm 1999): hình phạt tù từ 7 năm
đến 15 năm áp dụng đối với các trường hợp phạm tội chiếm đoạt tài sản có giá
trị từ 200 triệu đến 500 triệu hoặc gây hậu quả nghiêm trọng.
Khoản 3 Điều 173 BLHS 2015 vẫn giữ nguyên mức hình phạt tù và tình
tiết định khung tăng nặng chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200 triệu đồng đến dưới
500 triệu đồng, bỏ tình tiết “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, bổ sung hai tình tiết
hoàn toàn mới “trộm cắp tài sản trị giá từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng
nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1
điều này” và “lợi dụng thiên tai, dịch bệnh”.
d. Khung 4 ( Khoản 4 Điều 138 BLHS 1999): hình phạt tù từ 12 năm đến
20 năm, hoặc tù chung thân được áp dụng đối với các trường hợp phạm tội

chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 500 triệu trở lên hoặc gây hậu quả đặc biệt
nghiêm trọng.
Thuộc một trong các trường hợp sau thì “gây hậu quả rất nghiêm trọng”:
Làm chết hai người;Gây thương tích hoặc tổn hại sức khoẻ của ba đến bốn người
với tỉ lệ thương tật mỗi người từ 61% trở lên; Gây thương tích hoặc tổn hại sức
khỏe của năm đến bảy người với tỉ lệ thương tật mỗi người từ 31% đến 60%;
Gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe nhiều người với tổng tỉ lệ thương tật từ
101% đến 200%, nếu không thuộc các trường hợp trên; Gây thiệt hại tài sản có
giá trị từ 500 triệu đồng đến dưới 1tỉ 500 triệu đồng; Gây thiệt hại tính mạng, sức
khoẻ, tài sản thuộc từ hai đến ba trường hợp “gây hậu quả nghiêm trọng”.
Thuộc một trong các trường hợp sau thì “gây hậu quả đặc biệt nghiêm
trọng”: Làm chết từ ba người trở lên; Gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe của
năm người trở lên với tỉ lệ thương tật mỗi người từ 61% trở lên; Gây thương tích
hoặc tổn hại sức khoẻ của tám người trở lên với tỉ lệ thương tật mỗi người từ
31% đến 60%; Gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe nhiều người với tổng tỉ lệ
thương tật từ 201% trở lên, nếu không thuộc các trường hợp trên; Gây thiệt hại
tài sản từ 1tỉ 500 triệu đồng trở lên; Gây thiệt hại tính mạng, sức khỏe, tài sản
thuộc từ bốn trường hợp “gây hậu quả nghiêm trọng” trở lên.


13
Khoản 4 Điều 173 BLHS 2015 đã bỏ hình phạt tù chung thân, giữ nguyên
mức hình phạt tù có thời hạn và tình tiết “chiếm đoạt tài sản trị giá 500 triệu
đồng trở lên”. Điều khoản này cũng bổ sung hai tình tiết mới là “trộm cắp tài sản
trị giá từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng nhưng thuộc một trong các
trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 điều này” và “lợi dụng
hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp”.
Ngoài ra, khoản 5 điều 138 BLHS 1999 còn quy định : “Người phạm tội
có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng”. Khoản 5 Điều 173 BLHS
2015 vẫn giữ nguyên như quy định tại khoản 5 Điều 138 BLHS hiện hành là

“người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng.
Đối với tội trộm cắp tài sản, việc quy định hình phạt tiền là hình phạt bổ
sung có thể áp dụng với người phạm tội là hợp lý, góp phần nâng cao hiệu quả
đấu tranh phòng chống tội phạm bởi vì: mục đích của người phạm tội trộm cắp
tài sản là chiếm đoạt tài sản của người khác, biến nó thành tài sản của mình
nhằm mang lại lợi ích vật chất nhất định cho mình, do đó khi áp dụng hình phạt
tiền sẽ đánh trực tiếp vào lợi ích vật chất của người phạm tội từ đó có tác dụng
răn đe ngăn ngừa họ phạm tội mới.
2.1.2. Căn cứ chính trị, pháp lý
- Hiến pháp năm 2013
- Bộ luật hình sự.
- Luật tổ chức Toàn án năm 2014
- Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về “Một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”
- Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020”
- Chỉ thị số 48-CT/TW 22/10/2010 của Bộ chính trị về “Tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới”
- Quyết định số 1217/QĐ-TTg ngày 06/9/2012 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia phòng, chống tội phạm.
- Nghị quyết số 63/2013/QH13 ngày 27/11/2013 của Quốc hội khóa XIII
về tăng cường các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm;
- Nghị quyết số 111/2015/QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2015 của Quốc
Hội về công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của Viện
kiểm sát nhân dân, của Toàn án nhân dân và công tác thi hành án năm 2016 và
các năm tiếp theo.


14
- Nghị quyết 04/HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội đồng thẩm phán - Tòa

án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần các tội
phạm của Bộ luật hình sự.
- Nghị quyết 09/1998/NQ-CP ngày 31/7/1998 của Chính phủ về “Tăng
cường công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới”
- Chương trình hành động số 04-CTr/TU thực hiện Chỉ thị số 48-CT/TƯ
của Tỉnh ủy Thanh Hóa về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
phòng, chống tội phạm trong tình hình mới”
2.1.3. Căn cứ thực tiễn
- Căn cứ thực trạng tình hình tội phạm trộm cắp tài sản; những thuận lợi,
khó khăn, hạn chế trong hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm trộm cắp tài
sản trên địa bàn huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa
- Căn cứ hoạt động của các cơ quan, tổ chức khi tham gia công tác phòng,
chống tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa .
- Căn cứ các giải pháp được áp dụng trong việc đấu tranh phòng, chống
tội phạm trộm cắp tài sản của các cơ quan, tổ chức liên quan trên địa bàn huyện
Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
2.2. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ĐỀ ÁN
2.2.1. Thực trạng hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm trộm
cắp tài sản trên địa bàn huyện Như Xuân giai đoạn 2012 - 2016
2.2.1.1. Khái quát về huyện Như Xuân
Như Xuân là một trong 62 huyện nghèo của cả nước, cách trung tâm tỉnh
Thanh Hóa 62 km về phía Tây Nam. Phía Bắc giáp huyện Thường Xuân; phía
Đông giáp huyện Như Thanh; phía Nam và phía Tây giáp tỉnh Nghệ An.Tổng
diện tích (ha) là 71.994,93ha, có 18 đơn vị hành chính, gồm 17 xã, 01 thị trấn
với 183 thôn, khu phố, trong đó có 95 thôn vùng cao. Dân số là 66.109 người,
trong đó: Dân tộc Thái 29.213 người, chiếm 44,2%; Dân tộc Thổ 9.877 người,
chiếm 15%; Dân tộc Mường 3.993 người, chiếm 6%; Dân tộc Kinh 22.960
người, chiếm 34%; Dân tộc khác 66 người, chiếm 0,1%.
Huyện có 48km đường Hồ Chí Minh, 6km đường Quốc lộ 45, 3km đường
Quốc lộ 15A hơn 300km đường liên xã cơ bản đã được hoàn thiện và đi lại

xuống trung tâm các xã; Có một số công trình, mục tiêu quan trọng về ANQP
như đường DZ500 KV dài 98km hai mạch với 172 cột; Trường bắn trung đoàn
923 của Binh chủng Phòng không - Không quân, Bộ Quốc phòng; 06 phân trại


15
của Trại giam Thanh Lâm, Tổng cục VIII, Bộ Công An đang giam giữ, cải tạo
hàng nghìn phạm nhân và nhiều căn cứ ATK của Trung ương trên địa bàn.
Tình hình văn hóa - xã hội những năm gần đây có chuyển biến tiến bộ,
quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Công tác xây dựng
Đảng và hệ thống chính trị được đảm bảo. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch
đúng hướng: Nông- lâm- thủy sản chiếm 43,5%; công nghiệp- tiểu thủ công
nghiệp đạt 29%; thương mại- dịch vụ chiếm 27,5%. Tăng trưởng bình quân hàng
năm 14,4%. Thu nhập bình quân đầu người đạt 12,5 triệu đồng/người/năm.
Tuy nhiên bên cạnh những mặt thuận lợi là cơ bản, vẫn còn những khó
khăn đó là: Tốc độ tăng trưởng kinh tế còn chậm, thiếu bền vững, tiềm năng thế
mạnh của huyện chưa được phát huy. Quản lý Nhà nước về kinh tế, còn hạn chế
yếu kém. Tỉ lệ đói nghèo còn cao so với bình quân chung của tỉnh. Trình độ dân
trí của đại bộ phận nhân dân còn thấp, đời sống gặp nhiều khó khăn, nhất là xã
vùng cao, vùng sâu, vùng xa.
Điều kiện tự nhiên - xã hội như vậy đã ảnh hưởng rất lớn tới công tác
phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm trên địa bàn huyện Như Xuân.
2.2.1.2. Thực trạng trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Như Xuân giai
đoạn 2012 - 2016
Đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, đời sống vật chất, tinh thần ngày càng được cải thiện; tuy nhiên đây cũng
là nguyên nhân làm nảy sinh những mặt trái, đó là sự tha hoá, biến chất về đạo
đức và nhân phẩm của một bộ phận con người, làm phát sinh tệ nạn xã hội, ảnh
hưởng xấu đến trật tự trị an và sự phát triển kinh tế, môi trường đầu tư và du lịch
của đất nước. Huyện Như Xuân cũng không nằm ngoài ảnh hưởng này. Trong

những năm gần đây tình hình tội phạm trên địa bàn huyện xảy ra hết sức phức
tạp, số lượng các vụ án có tính chất rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiệm trọng có
xu hướng gia tăng, cơ cấu tình hình tội phạm diễn biến phức tạp.


16
Bảng 2.1. Tình hình tội phạm hình sự xảy ra trên địa bàn
huyện Như Xuân từ năm 2012-2016
Năm

2012
2013
2014
2015
2016
Tổng

Tổng số vụ
án hình sự
38
39
37
41
46
201

Tỷ lệ
(%) so với
năm 2012
100

102,6
97,3
107,9
121,1
-

Tổng số
bị cáo
71
74
76
79
85
385

Tỷ lệ
(%) so với
năm 2012
100
104,2
107,0
112,2
117,7
-

Biểu đồ 2.1 Tình hình tội phạm nói chung trên địa bàn huyện Như Xuân
từ năm 2012-2016

Qua bảng số liệu và biểu đồ trên ta thấy từ năm 2012 đến năm 2016, huyện
Như Xuân xảy ra 201 vụ phạm tội với 386 bị cáo, theo đó số vụ phạm tội có năm

tăng, có năm giảm, nhưng nhìn chung là có xu hướng gia tăng theo từng năm. So
với năm 2012 thì năm 2013 số vụ phạm tội tăng 2,6%, trong khi đó số bị cáo
tăng 7%; năm 2014 số vụ phạm tội có xu hướng giảm nhẹ 2,6% nhưng số bị cáo
vẫn tăng 2,8% so với năm 2013; năm 2015 so với năm 2014 số vụ phạm tội tăng
lên 10,6% và số bị cáo tăng lên 11,5% và năm 2016 số vụ phạm tội tăng đột biến
lên 11,2% và số bị cáo tăng 5,5% so với cùng kỳ năm trước. Nếu so với năm
2012 thì năm 2016 số vụ phạm tội tăng 26,4%, đồng thời số bị can cũng tăng là
18,3%.
Bảng 2.2. Tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Như Xuân


17
từ năm 2012-2016

Năm

Tổng số vụ
trộm cắp

Tỷ lệ (%) so
với năm 2012

2012
2013
2014
2015
2016
Tổng

10

12
12
14
16
64

100
120
120
140
160
-

Tổng số
bị cáo
21
22
24
24
26
117

Tỷ lệ (%) so
với năm 2012
100
104.7
114,3
114,3
123,8
-


Bảng 2.3. So sánh giữa tình hình trộm cắp tài sản với tình hình tội
phạm nói chung trên địa bàn huyện Như Xuân từ năm 2012-2016

Năm
2012
2013
2014
2015
2016
Tổng

Tổng số vụ

Tổng số vụ

án hình sự
38
39
37
41
46
201

trộm cắp
10
12
12
14
16

64

Tỷ lệ (%)
26,3
30,7
32,4
34,1
34,7
31,8


18
Biểu đồ 2.2. So sánh tình hình tội phạm nói chung với tội trộm cắp tài sản
trên địa bàn huyện Như Xuân từ năm 2012- 2016

Nhìn vào biểu đồ ta có thể thấy các vụ trộm cắp tài sản chiếm tỷ lệ khá
cao trong tổng số các vụ án hình sự nói chung, trung bình trong 5 năm tỷ lệ này
chiếm tới 31,8%. Do tính phức tạp địa bàn huyện Như Xuân, đây là một trong
những địa bàn hoạt động thuận lợi cho loại tội phạm này. Chúng hoạt động có tổ
chức, hoạt động theo băng nhóm, có sự liên kết chặt chẽ với các đối tượng ở
nhiều huyện, nhiều tỉnh, thành phố khác nhau, móc nối từ giai đoạn chuẩn bị đến
giai đoạn tiêu thụ, thông tin với nhau bằng phương tiện liên lạc hiện đại, thường
xuyên di chuyển địa bàn và phương thức hoạt động nhằm gây khó khăn cho công
tác điều tra và đấu tranh phòng chống tội phạm trên địa bàn huyện. Vì vậy, trong
thời gian gần đây, tình hình, diễn biến của tội trộm cắp tài sản đang diễn biến khá
phức tạp, có xu hướng gia tăng qua từng năm. Nếu năm 2012 số vụ trộm cắp tài
sản trên địa bàn huyện là 10 vụ (100%) thì đến năm 2013 tăng lên 12 vụ ( tăng
20%), năm 2013 vẫn giữ là 12 vụ trong khi tổng số vụ án hình sự giảm; năm
2015 tăng lên 14 vụ (tăng 20%) và đến năm 2016 tăng lên đến 16 vụ (tăng 40%);
và qua bảng số liệu ta thấy năm 2016, số vụ trộm cắp tài sản tăng tới 60% so với

năm 2012. Đây chính là điều đáng báo động đối với các cơ quan chức năng trong
việc quản lý trật tự trị an trên địa bàn huyện Như Xuân.


19
Bảng 2.4. Độ tuổi của các đối tượng phạm tội trộm cắp tài sản
Năm
2012
2013
2014
2015
2016
Tổng
Tỷ lệ (%)

Tổng số
bị cáo

Dưới
18 tuổi

21
22
24
24
26
117
100

2

2
4
3
5
16
13.7

Từ 18 tuổi Từ 30 tuổi
đến 30
đến 45
tuổi
tuổi
15
3
15
2
17
1
14
5
14
4
75
15
64.1
12.8

Trên
45 tuổi
1

3
2
2
3
11
9.4

Biểu đồ 2.3. Tỷ lệ độ tuổi của các đối tượng phạm tội trộm cắp tài sản
trên địa bàn huyện Như Xuân từ năm 2012-2016
12.8

9.4

13.7

Dưới 18 tuổi
Từ 18-30tuổi
Từ 30-45 tuổi
Từ 45 tuổi trở lên

64.1.
Qua biểu đồ ta thấy số đối tượng phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn
huyện Như Xuân nằm ở độ tuổi dưới 18 là 13.7%; ở độ tuổi từ 30-45 tuổi là
12.8% và thấp nhất là ở lứa tuổi trên 45 tuổi (9.4%), ở lứa tuổi từ 18-30 là chủ
yếu, chiếm tỷ lệ 64.1%. Sở dĩ số người phạm tội trộm cắp tài sản rơi vào độ tuổi
này chiếm đa số là bởi lẽ đây chính là độ tuổi bắt đầu cuộc sống tự lập, không
còn dựa dẫm vào cha mẹ, người thân, nếu ở độ tuổi này mà khả năng tài chính
không đủ để nuôi sống bản thân, hoặc để thỏa mãn các nhu cầu khác (ma túy,
đánh bạc, cá độ, nhậu nhẹt,…) thì khả năng đưa họ đến với con đường phạm tội
trộm cắp là rất cao.

Tỉ lệ phạm tội của người chưa thành niên (dưới 18 tuổi) chiếm 13.7% cũng
là điều đáng lo ngại. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do áp lực của đời
sống kinh tế làm gia đình mất dần chức năng giáo dục, quản lý người chưa thành
niên. Gia đình đang đẩy chức năng này sang nhà trường. Ngoài ra, môi trường xã
hội hiện có nhiều tác động tiêu cực đối với giới trẻ như phim ảnh, tụ điểm ăn
chơi, giải trí thiếu lành mạnh, nhất là các loại hình trò chơi bạo lực...
Bảng 2.5. Giới tính của các đối tượng phạm tội trộm cắp tài sản
trên địa bàn huyện Như Xuân từ năm 2012 – 2016


20
Năm
2012
2013
2014
2015
2016
Tổng
Tỷ lệ (%)

Tổng số
bị cáo
21
22
24
24
26
117
100


Nam

Nữ

21
20
22
20
23
108
92.3

0
2
1
3
3
9
7.7

Biểu đồ 2.4. Tỷ lệ giới tính của các đối tượng phạm tội trộm cắp tài sản
trên địa bàn huyện Như Xuân từ năm 2012 – 2016
7.7
nam
nữ

92.3

So với nữ giới thì nam giới phạm tội trộm cắp tài sản nói riêng và các tội
khác nói chung chiếm tỷ lệ cao hơn. Từ năm 2012 đến 2016, người phạm tội

trộm cắp tài sản là nữ giới có 9 vụ trong tổng số 117 vụ, chiếm tỷ lệ nhỏ 7.7%;
trong khi nam giới là 108 vụ, chiếm tỉ lệ tới 92.3%. Đối với tội phạm là nữ giới,
chủ yếu do yếu tố về kinh tế mà nẩy sinh ý định trộm cắp tài sản, đối tượng này
thường lợi dụng sự thân quen, nhân lúc sơ hở, thiếu cảnh giác của chủ tài sản để
thực hiện hành trộm cắp tài sản, đối với những trường hợp này thường ít nghiêm
trọng, chủ yếu các hành vi mang tính đơn lẻ. Đối với nam giới, tội phạm mang
tính chất mức độ nguy hiểm cao hơn, liều lĩnh hơn. Các đối tượng này thường
không có công ăn việc làm, lười lao động, một số đối tương do ảnh hưởng của
các tệ nạn xã hội như cờ bạc, nghiện ma tuý…
2.2.1.3. Nguyên nhân, điều kiện của tội trộm cắp tài sản trên địa bàn
huyện Như Xuân:
- Nguyên nhân về kinh tế-xã hội:
Với mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Trong những năm qua ở huyện Như Xuân đã đạt được tốc độ phát triển
kinh tế khá cao, tăng trưởng cả về chất lượng, đời sống nhân dân từng bước được
cải thiện, có sự ổn định, có thu nhập. Nhiều người giàu lên nhanh chóng bằng
khả năng, sức lực và trí tuệ của mình. Bên cạnh những cơ hội, điều kiện để phát


21
triển là những đe dọa tiềm ẩn mà nền kinh tế thị trường tạo ra đó là sự phân hóa
giàu nghèo, sự xuống cấp về đạo đức, lối sống… Chính điều đó đã dẫn đến mâu
thuẫn về lợi ích kinh tế, mâu thuẫn xã hội tăng cao giữa các tầng lớp, bộ phận
dân cư. Đây chính là nguyên nhân cơ bản dẫn đến hành vi phạm tội nói chung và
hành vi trộm cắp tài sản nói riêng.
Bên cạnh đó, những mặt trái của xã hội xuất hiện như: nạn cờ bạc, ma tuý,
trộm cắp,tình trạng thất nghiệp ngày một gia tăng, do tính ham chơi, lười lao
động, dẫn đến hành vi phạm tội nói chung hành vi trộm cắp tài sản nói riêng.
Hiện nay, trên địa bàn huyện Như Xuân tỷ lệ thất nghiệp tuy có giảm nhưng vẫn
còn ở mức cao (năm 2016 tỷ lệ thất nghiệp tại huyện Như Xuân là 4,2%). Đây

cũng chính là nguyên nhân dẫn đến tình hình tội trộm cắp tài sản ngày một gia
tăng trên địa bàn huyện. Theo thống kê của Công an huyện Như Xuân từ năm
2012-2016, trong tổng số 117 bị can phạm tội trộm cắp tài sản thì có đến 89 bị
can là đối tượng thất nghiệp, lưu manh chuyên nghiệp, hoặc đã tập trung cải tạo
và tù hình sự về ( chiếm tỷ lệ 76,06%); có 16 bị can là do bộc phát nảy sinh ý
định trộm cắp tài sản ( chiếm tỷ lệ 13,67%); số còn lại là ở độ tuổi từ 14 đến
dưới 18 tuổi nhưng đã thôi học hoặc đi lang thang.
Thông qua các vụ án về trộm cắp tài sản ở địa bàn huyện Như Xuân, phần
lớn các đối tượng phạm tội lần đầu thường không có công ăn việc làm hoặc việc
làm không ổn định, thu nhập ít ỏi, đồng tiền kiếm được không đủ trang trải cho
bản thân, dẫn đến những hành vi sai trái, vi phạm pháp luật. Một số đối tượng
khác do cờ bạc, rượu chè, sinh ra nợ nần cũng dẫn tới con đường phạm tội. Một
số ít đối tượng còn lại do chơi bời, giao du với những đối tượng xấu nên bị xúi
dục, lôi kéo cũng dẫn đến phạm tội.
- Nguyên nhân giáo dục:
+ Từ phía gia đình:
Đây là nguyên nhân đầu tiên và chủ yếu, bởi môi trường sống trong gia
đình có tác động đầu tiên và ảnh hưởng sâu sắc tới quá trình phát triển nhân cách
của con người, vì vậy nếu môi trường giáo dục trong gia đình không tốt sẽ là
nguyên nhân dẫn con cái đến con đường vi phạm pháp luật. Những thiếu sót, sai
lầm từ phía gia đình có thể là do:
Một là, lựa chọn phương pháp quản lý, giáo dục không đúng, như: thỏa
mãn và đáp ứng đầy đủ yêu cầu vật chất của con cái khi các yêu cầu này là
không chính đáng, không phù hợp với lứa tuổi hoặc điều kiện kinh tế của gia
đình. Sự nuông chiều thái quá, không bắt lao động, coi nhẹ hoặc bỏ qua lỗi lầm,
nghĩa vụ của con cái, từ đó tạo ra thói quen, tâm lý đòi hỏi, hưởng thụ sống ích
kỷ, ỷ lại. Ngược lại, có gia đình do bố mẹ thiếu hiểu biết nên khi thấy con có lỗi


22

đã không tìm cách khuyên răn mà lại dạy con bằng cách đánh đập, hành hạ. Đây
cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến vi phạm pháp luật của người chưa
thành niên.
Hai là, gia đình thiếu trách nhiệm, không quan tâm trong việc quản lý và
giáo dục con cái, ỷ lại cho nhà trường và xã hội như: bố mẹ lo làm ăn buôn bán,
phải đi công tác xa thường xuyên, bố mẹ ốm đau bệnh tật không quản lý chặt chẽ
việc học tập, sinh hoạt của con cái. Một bộ phận gia đình kinh tế khó khăn thì
quan niệm chỉ cần học biết chữ, biết đếm, sau đó bỏ học đi làm kinh tế. Mối
quan hệ giữa gia đình và nhà trường còn lỏng lẻo dẫn đến con bỏ học, chơi bời
hư hỏng mà bố mẹ không biết
Ba là, một số gia đình có hoàn cảnh đặc biệt như bố mẹ ly hôn; bố mẹ đang
chấp hành án phạt tù, bố hoặc mẹ đã chết, sống với gì ghẻ hoặc bố dượng, mồ
côi cả bố mẹ các em phải ở với ông bà, anh chị em ruột, sống một mình, sống
lang thang. Những trẻ em rơi vào hoàn cảnh này thường bị tổn thương về tâm lý
do tự ti, mặc cảm, thiếu thốn tình cảm, thiếu điều kiện học tập vui chơi, thiếu
quản lý, giáo dục dẫn đến mất phương hướng khi hành động dễ bị lôi kéo vào
những hành vi tiêu cực, phạm tội.
+ Từ phía nhà trường:
Nhà trường là một môi trường giáo dục quan trọng để giúp cho các em ở
lứa tuổi vị thành niên hình thành nhân cách, định hướng cho các em trong cuộc
sống sau này. Nếu không được giáo dục một cách toàn diện, lại sớm phải va
chạm với thực tế cuộc sống khó khăn, dễ dẫn các em vào con đường phạm tội.
Mặt khác, trong những năm vừa qua, nhà trường chỉ chú trọng đến công tác
giảng dạy kiến thức cơ bản về văn hóa, khoa học, kỹ thuật; việc giáo dục nhân
cách, hiểu biết về pháp luật chưa thực sự được quan tâm. Trong mối quan hệ
giữa gia đình và nhà trường vẫn còn tình trạng đùn đẩy trách nhiệm trong quản
lý, giáo dục học sinh. Bên cạnh đó, trong học đường còn có một số tiêu cực,
chính những tiêu cực này đã hình thành ở các em những nhận thức sai lệch về
chuẩn mực xã hội, dẫn đến lười học và bỏ học, từ đó nảy sinh tình trạng tụ tập,
đàn đúm thực hiện hành vi phạm pháp.

+ Từ phía xã hội:
Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật, văn hóa, đạo đức, lối sống trong
quần chúng nhân dân nhất là thanh thiếu niên chưa được coi trọng đúng mức,
còn thiếu cả về bề rộng và chiều sâu. Do vậy, việc nắm vững pháp luật và thực
hiện pháp luật còn hạn chế, nhiều người chưa nhận thức đầy đủ về tội phạm, tính
nguy hiểm của mình do không hiểu biết pháp luật. Một bộ phận không nhỏ khi
thực hiện hành vi mà không biết rằng đó là hành vi phạm tội. Vai trò mờ nhạt của


×