Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

SKKN một số biện pháp rèn kỹ năng viết văn miêu tả loài vật cho học sinh lớp 4 trường tiểu học nguyễn bỉnh khiêm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.61 MB, 28 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết, văn miêu tả là một trong những thể loại văn rất quen
thuộc và phổ biến trong cuộc sống cũng như trong các tác phẩm văn học. Đây là
dạng văn có tác dụng rất lớn trong việc tái hiện đời sống, hình thành và phát triển
trí tưởng tượng, óc quan sát và khả năng nhận xét, đánh giá của con người. Với đặc
trưng của mình, những bài văn miêu tả làm cho tâm hồn, trí tuệ người đọc thêm
phong phú, giúp ta cảm nhận được văn học và cuộc sống một cách tinh tế hơn, sâu
sắc hơn. Bởi đối với người Việt, tiếng việt là phương tiện giao tiếp, là công cụ trao
đổi thông tin và chiếm lĩnh tri thức... Chính vì thế, văn miêu tả được đưa vào
trường Tiểu học từ rất sớm ( ngay từ lớp 2). Đề tài của văn miêu tả với các em là
những gì gần gũi, thân quen với thế giới trẻ thơ, các em có thể quan sát được một
cách dễ dàng, cụ thể như: con gà, con mèo, những con vật nuôi trong nhà, những
vườn cây ăn quả mình yêu thích, những cảnh vật xung quanh các em, những con
người thân quen với các em như bạn bè, thầy cô, người thân...Vì vậy, dạy tốt phân
môn Tập làm văn nói chung và kiểu bài văn miêu tả nói riêng là vấn đề được nhiều
giáo viên Tiểu học quan tâm.Qua thực tế, nhiều năm giảng dạy lớp 4, tôi hiếm khi
phát hiện thấy học sinh giỏi môn Văn. Tại sao học sinh giỏi tập làm văn lại hạn chế
nhiều như vậy, trong khi Tiếng Việt là tiếng mẹ đẻ của chúng ta, các em lúc chưa
tròn một tuổi đã biết nói, năm, sáu tuổi đã biết đọc, đã biết viết Tiếng Việt ? Chúng
ta tự hào Tiếng Việt ta phong phú, giàu hình ảnh, đa dạng về nghĩa, có sức biểu cảm
sâu sắc. Nhưng một thực tế lại rất buồn vì học sinh giỏi Tiếng Việt nói chung, phân
môn Tập làm văn nói riêng còn quá khiêm tốn. Khi chấm bài Tập làm văn, tôi thấy
đa số học sinh đã biến các bài văn miêu tả thành văn kể, liệt kê một cách khô khan,
nghèo nàn về từ, diễn đạt ý rườm rà, tối nghĩa. Cách dùng từ đặt câu chưa phù hợp,
viết câu còn rời rạc, chưa liên kết, thiếu lôgíc, chưa sáng tạo. Bố cục bài văn chưa
rõ ràng, cách chấm câu, cách sử dụng từ ngữ giàu hình ảnh chưa linh hoạt, chưa
sinh động. Giáo viên còn thiếu linh hoạt trong vận dụng phương pháp và chưa sáng
tạo trong việc tổ chức các hoạt động học tập của học sinh Vì vậy, không phải giờ
-1-



dạy văn miêu tả nào cũng đạt hiệu quả như mong muốn, và không phải giáo viên
giáo viên nào cũng dạy tốt văn miêu tả. Việc tìm tòi phương pháp để hướng dẫn
học sinh quan sát, tìm ý, lập dàn ý, tưởng tượng,...còn nhiều hạn chế. Do đó, tôi đã
nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp rèn kĩ năng viết văn miêu tả loài vật cho học
sinh lớp 4 ở trường Tiểu học Nguyễn Bỉnh Khiêm” với hy vọng góp phần nâng
cao trình độ chuyên môn cho bản thân, chất lượng dạy - học văn miêu tả ở lớp 4 .
2. Nhiệm vụ của đề tài :
Thông qua đề tài này tôi muốn đưa ra những biện pháp thiết thực nhằm rèn kĩ năng
viết văn miêu tả loài vật cho học sinh lớp 4 trong nhà trường .
- Ghi lại những biện pháp mình đã làm để suy ngẫm, để chọn lọc và đúc kết thành
kinh nghiệm của bản thân
* Điểm mới của đề tài mang lại:
- Trang bị cho học sinh những hiểu biết về kĩ năng viết văn miêu tả loài vật
- Tìm hiểu mục tiêu, nội dung dạy-học văn miêu tả lớp 4.
- Một số biện pháp day - học văn miêu tả lớp 4.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu về thể loại văn miêu tả loài vật, phương pháp dạy văn miêu tả,
tìm các giải pháp giúp học sinh lớp 4 có kĩ năng viết văn miêu tả – Giáo viên - học
sinh lớp 4ª3 năm học 2018-2019. Trường tiểu học Nguyễn Bỉnh Khiêm - Thị Xã
Buôn Hồ - Đăk Lăk...Thời gian nghiên cứu bắt đầu từ tháng 8 năm 2018
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Đề tài chỉ nghiên cứu “Một số biện pháp rèn kĩ năng viết văn miêu tả
- Các dạng văn miêu tả ở lớp 4: Miêu tả đồ vật, miêu tả cây cối, miêu tả con vật.
Trong đề tài nghiên cứu này tôi chỉ hướng vào với 5 nội dung cơ bản sau:
- Bồi dưỡng và tích lũy vốn từ .
- Rèn kĩ năng sử dụng vốn từ để viết câu, đoạn văn lưu loát, mạch lạc.
- Sử dụng bản đồ tư duy (mạng ý nghĩa) kết hợp các phương phát dạy học tích cực.
- Thực hiện nghiêm túc tiết trả bài .
5. Phương pháp nghiên cứu

-2-


+ Phương pháp nghiên cứu lí thuyết
- Đọc tài liệu liên quan đến đề tài
- Nghiên cứu nội dung chương trình tập làm văn lớp 4 mạch kiến thức: văn miêu tả.
+ Phương pháp quan sát sư phạm
Điều tra thực trạng qua từng giai đoạn trong suốt năm học, trao đổi với giáo viên và
học sinh, tìm hiểu thực tế việc dạy - học phân môn tập làm văn trong trường Tiểu
học. Quan sát tinh thần, thái độ, ý thức trong học tập làm văn của học sinh lớp
mình, học sinh lớp khác trong khi đi dự giờ, quan sát phương pháp sư phạm của
giáo viên giảng dạy, quan sát chất lượng bài viết của học sinh ở từng dạng miêu tả
khác nhau để tìm hiểu những tác nhân trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng viết văn
của học sinh.
+ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm:
Tiến hành đồng thời với phương pháp kiểm tra toán học và phương pháp tổng hợp
số liệu. Khi kiểm tra đánh giá chất lượng bài văn miêu tả của từng học sinh, tôi mô
tả và thống kê chất lượng ấy bằng những số liệu cụ thể, sau đó tổng hợp các số liệu
đã thu được nhằm rút ra kinh nghiệm giảng dạy cho bản thân.
+ Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Dạy tiết luyện tập miêu tả loài vật .
II. NỘI DUNG
1.Cơ sở lý luận:
Giáo dục là nền tảng của xã hội, là cơ sở tiền đề để quyết định sự phồn vinh
của đất nước. Giáo dục cung cấp những hiểu biết về kho tàng tri thức của nhân loại
cho biết bao thế hệ, giúp cho các em những hiểu biết cơ bản, cần thiết về khoa học
và cuộc sống. Văn miêu tả là một trong những kiểu văn bản rất quen thuộc và phổ
biến trong cuộc sống cũng như trong sáng tạo văn chương. Theo Đào Duy Anh
trong Hán Việt từ diển, miêu tả là: “ Lấy nét vẽ hoặc câu văn để biểu hiện cái chân
tướng của sự vật ra” Bằng ngôn ngữ một cách sinh động cụ thể. Văn miêu tả giúp
người đọc nhìn rõ chúng , tưởng như mình đang xem tận mắt, bắt tận tay. Đây là

loại văn bản có tác dụng rất lớn trong việc tái hiện đời sống, hình thành và phát
triển trí tưởng tượng, óc quan sát và khả năng nhận xét, đánh giá của con người.
-3-


Với đặc trung đó những trang văn miêu tả làm cho tâm hồn và trí tuệ người đọc
thêm phong phú, giúp cho ta có thể cảm nhận văn học và cuộc sống một cách tinh
tế hơn, sâu sắc hơn.
Chiếm một phần lớn trong phân môn Tập làm văn ở Tiểu học là văn miêu tả.
Văn miêu tả chia làm nhiều loại. Ở lớp 4, các em đã được học tả đồ vật, tả cây cối,
tả con vật ... Trong đó số tiết tập làm văn tả loài vật và cây cối chiếm thời lượng
tương đối lớn so với tổng số tiết tập làm văn miêu tả ở lớp 4. Mục tiêu của phân
môn Tập làm văn lớp 4 không chỉ trang bị kiến thức và rèn luyện các kĩ năng làm
văn cho học sinh mà còn góp phần cùng các môn học khác mở rộng vốn sống, rèn
luyện tư duy lô-gíc, tư duy hình tượng, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mỹ, hình
thành nhân cách cho các em. Phân môn Tập làm văn giúp học sinh vừa tổng hợp,
vừa vận dụng các hiểu biết về Tiếng Việt từ các phân môn khác vừa phát huy và
hoàn thiện các kết quả đó. Vì vậy, học tốt văn ở Tiểu học sẽ tạo tiền đề vững chắc
cho các em học tốt ở các bậc học trên.
2.Thực trạng :
+ Đôi nét về trường về trường

-4-


Trường tôi đang công tác đóng trên địa bàn của một xã thuộc
vùng nông thôn, nguồn thu nhập chủ yếu của người dân từ nông nghiệp, một
số ít buôn bán nhỏ, đời sống kinh tế xã hội tuy đã có nhiều cải thiện nhưng vẫn
-5-



chưa thoát được nghèo khó, trình độ văn hóa, nhận thức của nhân dân không đồng
đều thì việc học của học sinh nơi đây vẫn là một điều hết sức trăn trở.
Năm học 2018 - 2019, Trường tiểu học Nguyễn Bỉnh Khiêm có 467 học sinh,
trong đó khối 4 là 93 học sinh. Được sự phân công của Ban giám hiệu. Tôi chủ
nhiệm lớp 4A3, Như chúng ta đã biết, trong cuộc sống, giao tiếp là hình thức
cơ bản để con người phát triển tư duy và hình thành nhân cách. Đối với học sinh
vùng nông thôn quan hệ giao tiếp không được mở rộng như ở thành thị, vốn sống,
vốn từ còn hạn chế đã ảnh hưởng lớn đến khả năng dùng từ, diễn đạt của các em.
Các em chưa hiểu rõ đặc điểm cơ bản của văn miêu tả, chưa phân biệt được sự khác
biệt giữa văn miêu tả với các kiểu bài văn khác.Vốn từ còn nghèo nàn, hạn hẹp, kĩ
năng chọn từ ngữ, dùng từ đặt câu, viết đoạn văn, diễn đạt còn hạn chế. Học sinh
chưa biết sắp xếp ý khi viết bài bố cục thiếu rõ ràng và khoa học. Không quen sử
dụng các biện pháp tu từ trong viết văn cảm xúc không tự nhiên, còn gượng ép, khô
cứng thiếu khả năng tổng hợp vấn đề. Thực tế cho thấy, đa số học sinh lớp 4 viết
văn miêu tả chưa hay hoặc sắp xếp ý còn lộn xộn, lủng củng, hình ảnh trong bài
văn chưa gợi tả, ít liên tưởng chỉ là sao chép một cách sống sượng bài văn mẫu.
*Thực trạng vấn đề nghiên cứu : Phân tích đánh giá các nội dung, vấn đề về
thực trạng mà đề tài đặt ra .
Qua quá trình nghiên cứu giảng dạy, dự giờ, thăm lớp, qua việc chấm bài
của học sinh tôi nhận thấy có một số thực trạng như sau:
+ Về phía giáo viên: Hầu hết khi dạy văn miêu tả giáo viên chỉ có con đường duy
nhất là hình thành hiểu biết về lí thuyết thể loại văn, các kĩ năng làm qua phân tích
bài văn mẫu, thậm chí để đối phó với việc học sinh làm bài kém, để đảm bảo chất
lượng bài kiểm tra, thi cử nhiều giáo viên cho học sinh đọc thuộc một số bài mẫu
để khi gặp một đề bài tương tự, các em cứ thế chép ra, giáo viên chưa thực sự rèn
cho học sinh kĩ năng làm bài. nhiều giáo viên lệ thuộc quá nhiều vào sách giáo
khoa nên ít sáng tạo dẫn đến hạn chế khả năng tiếp thu sáng tạo của học sinh.
- Một số giáo viên còn ngại khi phải dạy phân môn tập làm văn nên khi dạy còn
nhiều lúng túng về phương pháp và nội dung hay hình thức tổ chức một tiết dạy

-6-


Tập làm văn dẫn đến hiệu quả các tiết dạy chưa cao. Điều này được thể hiện rõ qua
những tiết thao giảng, dự giờ chéo phân môn Tập làm văn ở trường. Phương pháp
dạy của giáo viên còn rập khuôn, thiếu sự dẫn dắt gợi mở cho học sinh, chưa kích
thích được sự sáng tạo tìm tòi, chưa chọn từ ngữ, hình ảnh, ý của học sinh
- Giáo viên khi lên lớp còn truyền đạt “chay”, thiếu tranh ảnh, vật thật để hổ trợ cho
các em trong quá trình làm văn miêu tả.
- Giáo viên xem nhẹ khâu tìm hiểu phân tích đề bài, chưa tạo điều kiện cho học
sinh quan sát thực tế, xem nhẹ việc quan sát, chưa biết giúp học sinh sử dụng biện
pháp nghệ thuật, sử dụng những từ ngữ hay vào viết văn miêu tả.
Giáo viên chưa quan tâm đến việc chấm chữa bài, sửa lỗi qua loa sau khi chấm .
nhiều giáo viên quan niệm chỉ trả bài cho học sinh biết điểm .
+ Về phía học sinh:
-

Do khả năng tư duy của học sinh Tiểu học còn dừng lại ở mức độ tư duy đơn
giản
trực quan, chất lượng cảm thụ văn học của học sinh chưa đồng đều dẫn đến chất
lượng làm văn chưa cao còn gặp không ít khó khăn. Khả năng quan sát miêu tả
còn sơ sài, học sinh chưa biết sử dụng các giác quan để quan sát, quan sát chưa
theo một trình tự, thấy đâu tả đó.

Học sinh dùng từ đặt câu chưa hay, chưa biết lựa chọn từ ngữ thích hợp, vốn từ
ngữ còn quá nghèo nàn, dùng từ địa phương nhiều, diễn đạt ý văn mà như nói
chuyện bình thường. Dùng văn mẫu một cách chưa sáng tạo ( sách tham khảo bán
tràn lan trên thị trường) các em rập khuôn theo chưa biết sáng tạo chọn lọc thành
cái riêng của mình. Một số em chưa biết nội dung, tác dụng của các biện pháp nghệ
thuật vào bài văn dẫn đến lời văn khô khan, thiếu hình ảnh, thiếu tình cảm. Một số

học sinh, viết câu chưa thành thạo nên diễn đạt chưa mạch lạc, các ý trong bài văn
còn nhiều hạn chế
- Học sinh chưa biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật so sánh để viết văn, sự liên
tưởng còn hạn chế, vốn từ nghèo mà chưa biết chắt lọc ý, việc sử dụng từ gợi tả,
gợi cảm ít được chú ý .Các em chưa nắm vững cách làm các bài miêu tả, còn yếu
-7-


về kĩ năng xây dựng bố cục. Ngay đầu năm học tôi đã thực nghiệm ở lớp với đề
bài cụ thể :“Em hãy tả một con vật nuôi mà em thích”
Bảng 1: Kết quả đạt được như sau:
Lớp 4a3
Điểm 8
Điểm 7
Điểm 5 - 6
Dưới 5
28
4 em -35,72%
4 em –17,85%
15 em - 32,14% 5 em - 14,28%
Nhìn vào kết quả thực nghiệm tôi thấy tỉ lệ bài kiểm tra đạt điểm cao còn thấp,
còn sô bài điểm thấp lại cao. Xuất phát từ những thực trạng đáng lo ngại ở trên, tôi
luôn trăn trở suy nghĩ tìm ra các giải pháp rèn kĩ năng miêu tả cho học sinh lớp tôi.
Ngoài ra tôi luôn kiểm tra về học tâp đối với phân môn tập làm văn ở lớp tôi và
phân loại theo yêu cầu của môn học như sau:
Bảng 2: Kết quả nhận xét của giáo viên đầu năm
Lớp

Kết quả đạt được của học sinh


4a3
28

Viết đúng

Dùng từ

Câu văn

Sắp xếp ý

Biết sử

Bố cục

chính tả

chính

diễn đạt rõ

phù hợ, có

dụng biện

chặt chẽ

xác

ràng , gãy


hình ảnh

pháp nghệ

gọn
thuật
28
16/28
10/28
10/28
8/28
4/28
6/28
Kết quả khảo sát trên cho ta thấy một số học chưa thực hiện được các yêu cầu của
một bài văn:
- Bố cục viết bài không rõ ràng - Săp xếp ý còn lộn xộn, diễn đạt câu văn chưa sáng
sủa, dùng từ thiếu chính xác. Bài văn nghèo ý, sơ sài - Mắc lỗi chính tả, sử dụng
dấu câu chưa phù hợp.
Trước thực trạng này tôi tìm tòi nghiên cứu và sau đây là các giải pháp mà bản
thân đã thực hiện có hiệu quả.
3. Nội dung và hình thức của giải pháp:
a.Mục tiêu của giải pháp.
Tìm ra các biện pháp hữu hiệu nhất để có các giải pháp cụ thể phù hợp với tình
hình thực tế của lớp, của trường và địa phương, Nhìn nhận lại sâu sắc hơn việc dạy
văn miêu tả cho học sinh lớp 4 để vận dụng phương pháp, biện pháp và hình thức
tổ chức dạy học một cách linh hoạt và sáng tạo.Tự tìm tòi, nâng cao tay nghề, đúc
-8-



rút kinh nghiệm trong giảng dạy tập làm văn nói chung và trong dạy học sinh viết
văn miêu tả nói riêng. Nâng cao khả năng nghiên cứu khoa học.
b.Nội dung và cách thức, thực hiện các giải pháp, biện pháp:
Văn miêu tả loài vật là một trong những thể loại văn rất quen thuộc và phổ
biến trong cuộc sống cũng như trong các tác phẩm văn học. Đây là loại văn có tác
dụng rất lớn trong việc tái hiện đời sống, hình thành và phát triển trí tưởng tượng,
óc quan sát và khả năng nhận xét, đánh giá của con người. Với đặc trưng của mình,
những bài văn miêu tả làm cho tâm hồn, trí tuệ người đọc thêm phong phú, giúp ta
cảm nhận được văn học và cuộc sống một cách tinh tế hơn, sâu sắc hơn. Xuất phát
từ việc nghiên cứu trên tôi đã đúc kết được một số phương pháp dạy văn miêu tả
học sinh ở lớp chủ nhiệm. Áp dụng từng bước các phương pháp sau đây vào thực
tiễn, tôi đã thu được những kết quả khá khả quan.
Một số biện pháp rèn luyện kĩ năng viết văn miêu tả cho
học sinh lớp 4
Tuỳ theo nội dung yêu cầu của mỗi bài học và đối tượng học sinh mà bản thân tôi
đã áp dụng linh hoạt nhóm các biện pháp, hoặc một biện pháp chủ đạo và kết hợp
một số biện pháp hỗ trợ khác cụ thể như khi dạy học sinh lớp viết bài văn miêu tả
con vật, bản thân tôi đã chú trọng các biện pháp sau:
Biện pháp thứ nhất: Bồi dưỡng và tích lũy vốn từ
+ Làm giàu vốn từ ngữ thông qua các tiết học

Từ ngữ là nhân tố cơ bản để xây dựng câu văn, đoạn văn, bài văn. Nó có một vị
trí và ý nghĩa vô cùng quan trọng. Hiểu, sử dụng đúng, sử dụng hay mới có thể
diễn đạt và diễn đạt tốt nội dung, ý kiến của mình. Vậy mà vốn từ của các em rất ít.
Điều này khiến tôi suy nghĩ nhiều. Những kiến thức lơ mơ, thiếu vốn từ làm thế
nào có thể viết văn hay được. Để viết được bài văn, đoạn văn hay, học sinh không
chỉ cần có cảm xúc, cảm nghĩ tinh tế mà còn phải tích luỹ vốn từ phong phú, tạo
câu linh hoạt và đa dạng. Cách làm nhanh nhất là thông qua môn Tập đọc, Kể
chuyện, Tập làm văn,... Nhiều bài tập đọc, Kể chuyện, Tập làm văn là bài văn
hay,số lượng từ ngữ miêu tả ở các bài đó rất phong phú, sử dụng từ sáng tạo.

-9-


Giải pháp cụ thể:
Khi dạy giáo viên cần chỉ ra các từ ngữ miêu tả, có thể chọn trường hợp đặc sắc
nhất để phân tích cái hay, sự sáng tạo của nhà văn khi sử dụng từ
Ví dụ: Khi dạy phân môn tập đọc bài: “ Dế Mèn bênh vực kẻ yếu ” Giáo viên cần
chỉ cho học sinh thấy những từ, cụm từ tác giả dùng để miêu tả ngoại hình của chị
Nhà Trò ( gầy yếu quá hoạt động của chị (khóc nức nở ,...): và miêu tả hành động
của Dế Mèn như : đạp phanh phách ra oai,...Thông qua bài tập đọc trên, học sinh
đã tích lũy được một số vốn từ miêu tà về ngoại hình và hành động con vật. Hay,
khi dạy bài kể chuyện “Con vịt xấu xí” tôi cho học sinh thấy được một số từ, cụm
từ miêu tả như: xấu xí ,...( ngoại hình), bé bỏng . Giáo viên cần lưu ý cho học sinh
bộc lộ tình cảm, thái độ của mình đối với con vật yêu hay ghét, gắn bó hay không
gắn bó... Để bài viết có sức biểu đạt gần gũi hơn,học sinh cần biết liên hệ bản thân
mình đã làm gì để chăm sóc con vật?
+ Bồi dưỡng vốn sống cho học sinh :
Hiện nay, trong trường học, chúng ta dạy tập làm văn nói chung và bồi dưỡng
năng khiếu viết văn cho học sinh nói riêng thường thiên về các kĩ thuật làm bài mà
không cung cấp các chất liệu sống, cái tạo nội dung bài viết. Thường giáo viên ra
một đề bài và hướng dẫn kĩ thuật làm bài. Còn học sinh thì gắng đọc thật nhiều bài
văn làm mẫu, thậm chí còn có em bê y nguyên bài văn của người khác vào bài của
mình, thì được xem là bài viết khá, nghĩa là giỏi chép văn .
Khi thấy một em học sinh ngồi trước một số đề văn mà không viết được, thầy cô
giáo thường cho rằng các em không nắm vững lý thuyết viết thể văn nọ, thể văn kia
mà không hiểu rằng các em không có hứng thú viết vì đã không tạo ra được quan
hệ thân thiết giữa bản thân và đề bài - đối tượng miêu tả, .....nghĩa là các em không
có nội dung, không có để nói, để viết .
Vi dụ: Có một lần, em được bố mẹ dẫn đi chơi vườn bách thú.Ở đó có rất nhiều
con vật, em viết một đoạn văn tatr lại con vật mà em ấn tượng.

Với đề bài này chắc chắn rằng nhiều học sinh không thể viết được. Bởi vì trong
thực tế nhiều học sinh chưa từng được trực tiếp đi tham quan vườn bách thú, nếu
- 10 -


như bắt các em áp dụng kiến thức lí thuyết để làm bài thì chắc chắn rằng nhiều em
sẽ khó viết thành bài văn theo đúng yêu cầu. Nguyên nhân của tình trạng không có
gì để viết là do học sinh thiếu hụt vốn sống vốn cảm xúc. Vì vậy, thầy giáo cần
đóng vai trò dẫn dắt, gợi mở, tạo nguồn cảm hứng, khơi dậy suy nghĩ trong các em.
Sau khi các em đã quan sát, làm quen với đối tượng rồi thì cần phải viết những bài
cụ thể về những gì đã quan sát được. Ngoài ra giáo viên cần xây dựng cho học sinh
có hứng thú và thói quen đọc sách. Phải làm cho học sinh thích đọc và thấy được
rằng khả năng đọc là có ích cho các em suốt cả cuộc đời, thấy được đó là một trong
những con đường đặc biệt để tạo cho mình một cuộc sống trí tuệ đầy đủ và phát
triển, sách báo sẽ giúp học sinh có vốn từ ngữ phong phú,vốn sống, tầm nhìn, hiểu
biết rộng hơn, giúp các em có khả năng phát triển sức sáng tạo....như người xưa nói
“Trong bụng không có ba vạn quyển sách, trong mắt chưa có núi sông kì lạ của
thiên hạ thì chưa học được văn”
Định hướng cho học sinh lựa chọn sách báo để đọc, đọc nhiều không có
nghĩa là đọc một cách không chọn lọc. Cần chọn những sách như thế nào ? Thầy
giáo cần giáo dục thái độ đọc cho các em. Kiên trì, chịu khó không chỉ đọc để giải
trí, mà đọc phải có suy nghĩ, liên hệ, rút ra những bài học bổ ích, ghi chép, thu
hoạch về nội dung, nghệ thuật, về những điểm nổi bật, gây ấn tượng còn đọng lại
trong tâm trí mình vào cuốn sổ tích luỹ.
+ Xây dựng phong trào tích lũy vốn từ
Để tăng cường việc tích cực học tập cho các em trong phân môn Tập làm văn
đòi hỏi giáo viên phải chuẩn bị tốt, đặc biệt là về việc thu thập từ theo chủ điểm
liên quan đến nội dung bài học hàng tuần, giáo viên cần tăng cường nhiều hình thức
khen thưởng để khuyến khích các em tích cực tìm được nhiều từ bằng cách: Đầu
tuần tôi phát động phong trào thi đua thu thập từ, cụm từ miêu tả giàu hình ảnh.

- Cuối tuần tôi tổ chức cho học sinh báo cáo kết quả mình thu thập được bằng nhiều
hình thức: như trò chơi, hái hoa học tập ....,
- Khen thưởng cho những em thu thập được nhiều từ, cụm từ liên quan đến phân
môn tập làm văn của tuần: Tặng 3 - 2 - 1 bông hoa học tốt theo số lượng từ mà các
- 11 -


em thu thập được. Sau đó tổng kết số bông hoa, chọn học sinh có nhiều bông hoa
học tốt để khen vào tiết sinh hoạt lớp cuối tuần.
Biện pháp thứ ba: Sử dụng vốn từ để viết câu văn đoạn văn .
+ Bồi dưỡng cho các em cách dùng từ đặt câu là cách dùng từ gợi âm thanh và từ
gợi hình ảnh trong văn miêu tả con vật.
Như chúng ta đã thấy vốn sống, tầm hiểu biết của các em chưa phong phú, các em
đang trong quá trình tìm hiểu, cảm nhận thế giới xung quanh.Từ các chi tiết quan
sát được, học sinh cũng chưa biết chọn lọc từ ngữ gợi hình, gợi cảm để vận dụng
vào bài viết một cách linh hoạt, sáng tạo. Hầu hết, bài văn miêu tả của các em còn
thiên về kể lại sự vật, khô khan thiếu hình ảnh. Bởi vậy để giúp các em biết dùng từ
đúng hay, tôi sử dụng các phương pháp sau đây:
Giải pháp cụ thể:
Dạy tốt các dạng bài ôn tập từ, đặc biệt là từ gợi âm thanh, gợi hình ảnh, (để các
em thay thế tránh tình trạng lặp từ).
Ví dụ: Tìm từ gợi âm thanh, gợi hình ảnh, từ đồng nghĩa để gợi tả con vật
+ Từ gợi âm thanh: ò, ó, o, kéc kè ke e
+ Từ gợi hình ảnh : mập mạp, lênh khênh,...
Ngoài ra bản thân tôi còn hướng dẫn các em sưu tầm các bài văn miêu tả, các bài
thơ, các tác phẩm văn xuôi như truyện ngắn, tùy bút, phóng sự,... hay yêu cầu học
sinh tìm những từ gợi âm thanh, gợi hình ảnh có trong đoạn văn, trong tác phẩm đó.
Ví dụ: Hãy tìm từ gợi âm thanh, gợi hình ảnh miêu tả trong đoạn văn sau:
“ Mùa xuân cây gạo gọi đến bao nhiêu là chim... đàn đàn, lũ lũ bay đi, bay về...”
( Bài cây gạo – sách Tiếng việt lớp 3)

Ví dụ : Em háy tìm những từ gợi âm thanh trong đoạn văn sau:
Bầy gia cầm nhà bác Tám đang cho ăn giữa sân trông thật nhộn nhịp. Hàng
chục chú gà con mới nở hơn tuần lễ lích nhích tranh nhau ăn hạt tấm bác tung ra.
Ba con gà mái lại cục cục liên hồi, gọi con mình, chỉ mồi cho chúng. Một chú gà
trống bống đâu nổi hứng vỗ cánh phành phạch vươn cổ Kéc Kè ke một hồi dài
nhưng chẳng ai buồn để ý. Ở góc sân phía xa, mấy anh chàng vịt đang thời vỗ béo,
- 12 -


cất giọng quạc quạc một cách uể oải ý chừng no mồi rồi nên không quan tâm đến
lũ gà đang tíu tít đằng kia. (Sưu tầm).
Mục đích của kiểu bài này không chỉ đơn thuần yêu cầu học sinh xác định được từ
gợi âm thanh, gợi hình ảnh mà qua đó giúp các em thấy được giá trị, tác dụng của
các từ tượng thanh, tượng hình trong văn miêu tả, qua đoạn văn này các em học
được cách miêu tả đối với dạng đề tả con vật. Ngoài ra còn giúp các em biết phân
chia từ gợi âm thanh, gợi hình ảnh phù hợp với từng con vật. Do vậy trước khi chọn
con vật để miêu tả bước đầu giáo viên nên giúp các em hình dung xem có những từ
ngữ gợi âm thanh, gợi hình ảnh nào phù hợp với con vật mà mình định tả không ?
Sau khi các em có kỹ năng nhuần nhuyễn thì việc áp dụng vào các bài viết khác sẽ
dễ dàng hơn.
+ Giúp các em biết sử dụng từ đúng và hay:
Để viết được đoạn văn, bài văn miêu tả hay, các em cần có vốn từ và biết cách sử
dụng từ đúng lúc, đúng chỗ, biết dựa vào từ để tạo ra cái mới, cái riêng, cái độc đáo
trong bài mình viết. Chính vì vậy mà các em phải dùng từ đúng và dùng từ hay.
Ví dụ: Cách dùng từ miêu tả âm thanh của các con vật trong bài: “Buổi sáng mùa
hè trong thung lũng”. Rừng núi còn chìm đắm trong màn đêm. Trong bầu không
khí đầy hơi ẩm và lành lạnh, mọi người đang ngon giấc trong những chiến chăn
đơn. Bỗng một con gà trống vỗ cánh phành phạch và cất tiếng gáy lanh lảnh ở đầu
bản. Tiếp đó, rải rác khắp thung lũng, tiếng gà gáy râm ran. Mấy con gà rừng trên
núi cũng thức dậy gáy te te. Trên mấy cành cây cao cạnh nhà, ve đua nhau kêu ra

rả. Ngoài suối, tiếng chim cuốc vọng vào đều đều. Bản làng đã thức giấc.
+Giúp các em viết câu đúng và biết viết câu hay :
*Viết câu đúng: Một câu văn đúng phải đảm bảo về cấu trúc ngữ pháp, diễn đạt
được nội dung, suy nghĩ của người viết.
Ví dụ : Chú gà trống nhà em/ đã ra dáng một chú gà trống đẹp.
CN

VN

*Viết câu hay: Câu hay là câu được mở rộng các thành phần phụ, sử dụng các biện
pháp nhân hóa, so sánh hoặc từ láy, từ gợi tả, gợi cảm .
- 13 -


Ví dụ : Qua một thời gian chăm sóc chu đáo , giờ đây, chú gà trống nhà em đã trở
thành một chàng hiệp sĩ trông thật oai vệ làm sao .
Việc dùng từ ngữ giàu hinh ảnh, gợi tả, gợi cảm, các biện pháp so sánh, nhân hóa
khi viết văn sẽ giúp cho câu văn, bài văn trở nên sinh động hơn, mượt mà hơn, ý tứ
hơn và thu hút người đọc, người nghe. Để giúp các em biết viết câu văn có hình
ảnh, sử dụng biện pháp tu từ, tôi cho học sinh làm dạng bài tập tìm hình ảnh so
sánh, nhân hóa trong đoạn thơ, bài thơ.
Ví dụ : Tìm hình ảnh so sánh trong câu thơ sau :
“ Con mẹ đẹp làm sao
Những hòn tơ nhỏ
Chạy như lăn tròn
Trên sân trên cỏ .”
(Trích bài Đàn gà mới nở - Sách Tiếng Việt 2)
Yêu cầu học sinh chỉ ra hình ảnh so sánh trong đoạn thơ trên ?
Hình ảnh so sánh : ( con mẹ - hòn tơ nhỏ : chạy- lăn tròn)
Đoạn thơ trên miêu tả những chú gà con lông vàng óng mượt trông như những hòn

tơ mềm mại. Do hình dáng nhỏ nhắn “ bé tý” lại giống “cuộn tơ” nên khi chạy
giống như lăn tròn. Việc sử dụng hình ảnh so sánh đã giúp đoạn thơ sinh động hơn,
đàn gà con được miêu tả cụ thể, giàu hình ảnh, gần gũi và đáng yêu.
Ví dụ: Chỉ rõ biện pháp nhân hóa đã được sử dụng trong bài thơ sau như thế nào?
Đám ma bác giun .
Bác Giun đào đất suốt ngày
Trưa nayc hết dưới bóng cây sau nhà
Họ hàng nhà kiến kéo ra
Kiến con đi trước, kiến gà theo sau
Cầm hương kiến Đất bạc đầu
Khóc than kiến Cánh khoác màu áo tang
Kiến Lửa đốt đuốc đỏ làng
Kiến Kim chống gậy, kiến Càng nâng vai
- 14 -


Đám ma đưa đến là dài
Qua những vườn chuối, vườn khoai, vườn cad
Kiến Đen uống rượu la đà
Bao nhiêu kiến Gió bay ra chia phần...
Trần Đăng Khoa
Học sinh sẽ tự tìm ra các câu thơ có hình ảnh như: “Bác giun đào đất suốt ngày”;
“Họ hàng nhà kiến kéo ra”;. Các con vật đó được nhân hóa bằng từ Bác – đào đất,
họ hàng - kéo ra;...học sinh thấy cái hay của bài thơ ở chỗ, một mặt nhận ra cảnh
“đám ma” với tất cả các nghi lễ, một mặt nhận ra đặc điểm sinh động từng loài
kiến. Nhà thơ đã có con mắt quan sát tinh tường nên đã ghép nhặt rất chính xác đặc
điểm của từng loài kiến với các chi tiết trong một tang lễ: “Kiến đất cầm hương”, “
Kiến cánh khoác mà áo tang” ( vì kiến cánh có bộ lông ngoài mỏng, trắng..)
Lưu ý: Giáo viên cho học sinh thấy rõ biện pháp nhân hoá không chỉ làm cho câu
văn giàu hình ảnh hơn, hay hơn mà nhờ biện pháp nhân hoá các con vật tạo nên gân

gũi với con người, trở thành một người bạn tốt của chúng ta. Như vậy bài văn
không chỉ đơn thuần là bài văn miêu tả mà trong đó còn có tình cảm của người viết.
Có như vậy mới đạt được hiệu quả
Ví dụ: Em hãy viết một đoạn văn miêu tả con vật mà em thích trong đó có sử dụng
phép nhân hóa hoặc so sánh .
Thông qua các dạng bài tập đó tôi đã củng cố cho học sinh về so sánh, nhân
hóa. Giúp học sinh nhận ra cái hay của các câu thơ, bài thơ, câu văn, đoạn văn hay
những tác phẩm văn xuôi. Qua đó học sinh học được cách nhân hóa, so sánh và
cách quan sát, biết liên tưởng sự vật này với sự vật khác, biết vận dụng, chọn lọc
những gì quan sát được để viết các câu văn có hình ảnh, làm cho đoạn văn hay hơn.
+ Hướng dẫn học sinh kĩ năng quan sát:
Như chúng ta đã biết quan sát là sử dụng các giác quan để nhận biết sự vật. Ở
một bài văn miêu tả chủ yếu các em phải sử dụng ba giác quan cần thiết là thị giác
(mắt nhìn), thính giác (tai nghe) và xúc giác (tay sờ). Mắt cho ta cảm giác về hình
dáng (cao, gầy , cho ta thấy hoạt động (Con gà khi trời đổ mưa, Tai cho ta cảm giác
- 15 -


về âm thanh (Chú gà gáy Ò ó o... hay kéc kè ke e e...), Tay cho ta cảm giác về mềm
mại,... dạy cho học sinh quan sát chính là dạy cách sử dụng các giác quan để tìm ra
các đặc điểm của sự vật và biết lựa chọn chi tiết đặc điểm riêng của con vật để quan
sát. Các con vật mà mình chọn để miêu tả phải có những nét nổi trội . Giáo viên
cần hướng dẫn học sinh tìm ra các đặc điểm tiêu biểu của con vật mình định tả, để
phân biết nó với các con vật khác giúp bài văn thêm sinh động hấp dẫn và độc đáo.
Ví dụ: Quan sát những đặc điểm nổi bật của con gà trống nhà em nó có gì khác so
với con gà trống nhà hàng xóm. Ngoài ra khi dạy văn miêu tả giáo viên cần định
hướng cho học sinh cách quan sát và quan sát có phương pháp:
- Lựa chọn trình tự quan sát :
+ Quan sát con vật từ xa đến gần
+ Quan sát con vật từ cụ thể đến bao quát

+ Quan sát thói quen sinh hoạt của con vật theo thời gian trong ngày.
+ Quan sát theo thời kì phát triển của con vật
Ví dụ: Khi tả con mèo giáo viên có thể hỏi “Dùng tay sờ vào con mèo em có cảm
giác như thế nào?”
Hướng dẫn cách thu thập các nhận xét do quan sát mang lại. Khi học sinh
trình bày kết quả quan sát, nên hướng các em trả lời bằng nhiều chi tiết cụ thể và sử
dụng ngôn ngữ chính xác, gợi hình. Sau đó giúp các em biết lựa chọn, sắp xếp các
chi tiết miêu tả quan sát được cho lôgíc.Trong thực tế giảng dạy, nghiên cứu, tôi
thấy những câu văn miêu tả hay là những câu sử dụng từ gợi hình ảnh, gợi tả âm
thanh một cách sáng tạo, gợi tả sát thực. Để viết được những câu văn đó học sinh
phải quan sát đối tượng một cách tinh tế. Vì vậy tôi rất chú ý phương pháp quan
sát, luôn rèn cho các em kĩ năng quan sát cần thiết, biết chọn các chi tiết tiêu biểu
để đưa vào bài văn .Khi hướng dẫn quan sát, tôi luôn gợi cho các em vận dụng vốn
hiểu biết, khả năng liên tưởng cảm xúc và vốn ngôn ngữ, giúp cho việc quan sát,
cảm nhận của các em được tốt hơn. Tôi còn gợi ý cho lớp cùng nhận xét, bình và
chọn những từ ngữ, ý văn hay, hình ảnh đẹp, phù hợp rồi ghi nhanh lên bảng làm cơ
sở cho các em chọn lựa, vận dụng chính những từ ngữ, câu văn, ý văn được lớp
- 16 -


đánh giá cao theo ý thích của riêng mình để thực hiện yêu cầu của bài tập.Vì vậy để
viết tốt bài văn miêu tả đòi hỏi người viết phải hiểu, biết về đối tượng miêu tả. Hay
nói cách khác là phải biết nhận dạng đúng và đầy đủ đối tượng mình miêu tả. Để có
được điều đó thì đòi hỏi người viết phải biết cách quan sát, biết chọn lọc các chi tiết
quan sát được để vận dụng làm bài .
Biện pháp thứ tư: Sử dụng bản đồ tư duy (mạng ý nghĩa), kết hợp với các
phương pháp dạy học tích cực.
Sử dụng bản đồ tư duy (mạng ý nghĩa), kết hợp với các phương pháp dạy học tích
cực.(Phương pháp gợi mở, Phương pháp vấn đáp, Phương pháp thảo luận nhóm, ...)
Như chúng ta đã biết qua một số kết quả nghiên cứu khoa học cho thấy việc sử

dụng bản đồ tư duy trong dạy học làm cho các em hiểu sâu, nhớ lâu, tự suy nghĩ
viết ra theo ngôn ngữ của mình. Vì vậy, sử bản đồ tư duy huy động tối đa tiềm năng
bộ não, giúp học sinh học tập một cách tích cực, đó chính là biện pháp đổi mới
phương pháp dạy học có hiệu quả.Việc sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học sẽ
hình thành cho các em tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách
nhin vấn đề một cách tổng thể, khoa học chứ không phải học vẹt, học thuộc lòng.
Học sinh hiểu bài, nhớ lâu, vận dụng tốt. Khối lượng kiến thức ngày càng tăng theo
cấp số nhân, vì vậy sử dụng bản đồ tư duy cho các em tư duy lô gic để có thể vận
dụng vào thực hành giao tiếp nói, viết trong cuộc sống. Đặc biệt sử dụng bản đồ tư
duy trong dạy học kiến thức mới, giúp học sinh học tập một cách chủ động, tích
cực và huy động được tất cả học sinh tham gia xây dựng bài một cách hào hứng.
Để giúp các em vận dụng tốt vốn kiến thức mà mình đã được trang bị thì bản thân
tôi đã sử dụng cách dạy trong tiết “Viết bài văn miêu tả” là: sử dụng bản đồ tư duy
(mạng ý nghĩa), kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực,
Giải pháp cụ thể :
- Giáo viên giới thiệu một số sơ đồ mạng
Học sinh quan sát chọn một số sơ đồ vận dụng làm bài .
Hoạt động 1: Tìm hiểu đề.

- 17 -


Học sinh định hình cụ thể đối tượng cần miêu tả đồng thời biết đối tượng ấy (con
gà/ là ai/ là gì ?, ở đâu, lúc nào...) vào khung chủ đề.
Hoạt động 2: Tìm ý
Như chúng ta đã biết, làm văn miêu tả không phải lúc nào cũng có đối tượng
trước mặt để thực hiện “ Bút cầm tay, ghi chép lại hiện trường”.Vì vậy để viết được
bài văn miêu tả thì học sinh phải sử dụng hồi ức, vận dụng những hiểu biết, nhận
xét cảm xúc đã có trong quá khứ về đối tượng miêu tả. Hồi ức, tưởng tượng là cách
nhìn gián tiếp sự vật, là phục hồi nhìn nhận bằng cách gợi nhớ là cách nhìn “ thầm”

để giúp các em làm bài vận dụng khả năng phục hồi kí ức, tưởng tượng.Trong các
tiết này, tôi luôn sử dụng cách trò chuyện, khơi gợi rồi đề nghị các em nhắm mắt lại
nhớ lại, nghĩ về con vật mình định tả đã xác định trong khung chủ đề và tự chọn
lọc, viết ra những từ ngữ liên quan đến con vật đó.
Ví dụ: Học sinh suy nghĩ tìm được những từ, cụm từ liên quan đến chú gà: tơ nhỏ,
mào, ò ó o, bộ lông, đuôi, oai vệ,... ghi vào khung chủ để :
Bên cạch đó, giáo viên cũng cần rèn luyện cho học sinh kĩ năng học hỏi thu thập
thông tin từ các tài liệu tham khảo, các bài văn mẫu . Quá phụ thuộc vào bài làm
của người khác là không tốt nhưng nếu biết biến lời văn của người khác thành của
mình thì sẽ giúp bài biết sinh động, phong phú hơn. Phải học hỏi xem người ta trình
bày bài viết như thế nào? Sử dụng từ ngữ ra sao ? Những câu văn hay, diễn tả độc
đáo, các em hoàn toàn có thể ghi chép lại, hay áp dụng cấu trúc câu cho những bài
làm khác. Tuy nhiên cách áp dụng phải linh hoạt. Sách tham khảo có chỗ tốt,có chỗ
chưa tốt, chưa sát thực tế. Chúng ta phải làm cho nó cụ thể hơn, gần gũi hơn, không
nên viết quá xa vời, sáo rỗng, có gần gũi với đời sống thì bài viết mới được đón
nhận.
Hoạt động 3: Lập dàn ý.
Sắp xếp ý đã có vào sơ đồ.
Hướng dẫn học sinh đánh số thứ tự cho các ý tìm được sao cho các ý đó có thể
phát triển phù hợp với bố cục, nội dung bài văn miêu tả.
- Học sinh xem lại các ý trong mạng và đánh số thứ tự.
- 18 -


- Gọi vài học sinh lên thể hiện mạng ý nghĩa của mình đã tìm được trước lớp,để cả
lớp có thể theo dõi việc làm mẫu của bạn, vài em học sinh nhận xét.
Hoạt động 4: Học sinh diễn đạt các ý trong mạng ý nghĩa thành bài.
Hướng dẫn các em diễn đạt mỗi từ ngữ xoay quanh mạng thành ít nhất một câu.
Ví dụ: từ “Bộ lông ”. Diễn đạt thành câu: Chú khoác một bộ lông đỏ tía pha lấn
màu xanh óng ánh khiến chú ta trở nên thật sang trọng, quý phái. Hay: Bộ lông của

chú mượt, mịn màng và rất dày. Ở sơ đồ tư duy, cần lưu ý cho học sinh những chỗ
có thể so sánh hay dùng từ ngữ độc đáo thì có thể ghi chú.
Hoạt động 5: Trao đổi sửa chữa và nhận xét .
Đối với học sinh lớp Bốn việc sửa chữa và tự nhận xét bài cho nhau là việc làm
rất khó khăn, ít em tự thực hiện được. Việc tập cho các em biết tự kiểm tra, rà soát
lại bài viết về cả nội dung và cách diễn đạt, cách trình bày là rất cần thiết, nó không
chỉ giúp các em nâng cao khả năng làm văn, nâng cao chất lượng câu văn, đoạn
văn, bài văn của các em mà còn giúp cho các em rèn luyện kĩ năng trình bày, diễn
đạt vấn đề. Trong mỗi giờ Tập làm văn, nhất là văn viết, tôi hết sức chú trọng việc
tập cho học sinh biết tự cân nhắc, trau chuốt câu văn, ý văn cho phù hợp. Khi các
em hoàn thành bài tập, tôi thường tổ chức cho các em đọc lại bài, đối chiếu với yêu
cầu của đề bài để kiểm tra xem nội dung bài làm đã đảm bảo chưa? Câu văn, ý văn
đã rõ ràng, đủ ý chưa?...Thời gian đầu các em sẽ rất bỡ ngỡ, khó thực hiện, tôi tập
cho cả lớp cùng thực hiện chung trên một vài bài, sau đó là cùng thực hiện trong
nhóm, dần dần là mỗi cá nhân sẽ tự kiểm tra, rà soát trên bài làm của mình. Ngay
trong quá trình các em làm bài, tôi cũng theo dõi, giúp các em tự nhận xét, kiểm tra,
điều chỉnh kịp thời những chỗ chưa hay, chưa phù hợp, tập cho các em biết
chútrọng đến cách diễn đạt sao cho đúng, đủ, rõ ý. Ngoài ra, tôi còn thường xuyên
tổ chức cho các em nhận xét, đánh giá bài của bạn (cách dùng từ, đặt câu, ...) rồi rút
kinh nghiệm, vận dụng vào bài của mình theo các bước:
+ Chọn đọc bài, câu văn của bạn và trao đổi, suy nghĩ tìm ý hay, cách chỉnh sửa
những ý chưa hay chưa phù hợp.

- 19 -


Hoạt động 6: Dựa vào bài nháp đã sửa, học sinh viết bài vào vở cho hoàn chỉnh.
Sau một năm nghiên cứu chương trình dạy Tập làm văn lớp 4. Bằng cả sự lao động
nỗ lực của mình và sự rèn luyện chăm chỉ của trò.Chất lượng học văn của lớp tôi
nâng cao rõ rệt. Từ chỗ học sinh chưa viết được những bài văn gãy gọn, mạch lạc,

các em đã xây dựng được những bài văn hay, câu văn giàu hình ảnh, đạt bài khá,
bài giỏi ngày càng nhiều.
Tôi cũng xin đưa ra những bài văn điển hình của các học sinh lớp tôi.

- 20 -


Hoạt động 7 : Nhận xét – tuyên dương.
- Tuyên dương trước lớp đối với bài viết xuất sắc và những bài viết có tiến bộ
- Tặng bông hoa học tốt cho những bài làm hay.
- Khuyến khích học sinh học tập cách diễn đạt của những bạn có bào viết tốt .
- Giáo viên chỉ ra cho những em viết chưa tốt lỗi ở đâu? Cần sửa như thế nào? Còn
thiếu yếu tố gì?
Biện pháp thứ 5: Thực hiện nghiêm túc tiết trả bài tập làm văn:
Đây là tiết học thực hiện nhóm bài tập kiểm tra điều chỉnh.
Giáo viên yêu cầu học sinh đọc lại đoạn đã viết, tự kiểm tra đối
chiếu với mục đích yêu cầu đặt ra lúc đầu để tự đánh giá, sửa
chữa bài viết của mình. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh xem xét
cả nội dung và hình thức diễn đạt. Có thể phải cho học sinh luyện
viết lại đoạn, bài.Tiến hành đúng như quy trình đã hướng dẫn (Linh
hoạt về thời gian thực hiện các bước, hình thức tổ chức sửa lỗi như
thảo luận nhóm, tuỳ theo kết quả bài viết của học sinh).Quá trình
đánh giá bài viết của học sinh phải cẩn thận, nghiêm túc phải có
- 21 -


tác dụng. Giáo viên cần giúp học sinh hiểu các nhận xét chung
của giáo viên về kết quả bài viết của cả lớp mình, giúp các em
biết sửa lỗi dùng từ, diễn đạt, chính tả, bố cục bài văn, qua tiết trả
bài cũng giúp cho các em học hỏi những câu văn, đoạn văn hay

của bạn. Với mục đích như vậy nên tiết trả bài cần thay đổi hình
thức hoạt động cho học sinh đỡ nhàm chán. Chữa lỗi cho học sinh
theo từng loại lỗi được thống kê khi đánh giá, nhận xét, giáo viên
chú ý nhận xét kĩ những ưu điểm, tồn tại trong bài văn cho từng
em, chú ý động viên, khuyến khích học sinh khi nhận xét đánh giá.
Sau đó giáo viên trả bài cho học sinh hoạt động nhóm để các em
trao đổi với nhau về cách làm bài của mình. Sau những trao đổi
như vậy cũng giúp học sinh tránh được những lỗi không đáng có
trong thực hành viết văn và giao tiếp hàng ngày. Đối với mô hình
trường VNEN như chúng tôi nên các tiết trả bài có thể sử dụng
phiếu để giao việc như sau:
PHIẾU GIAO VIỆC
Hoạt động 1:
việc 1: Thay nhau đọc bài làm
Việc 2: Nhận xét về nội dung bố cục bài văn
Việc 3: Tìm câu đoạn bạn diễn đạt chưa hay (nếu có)
Việc 4: Nếu ý kiến chia sẽ để giúp bạn diễn đạt hay hơn

- Nhóm trưởng tổ chức chia sẽ đoạn văn , bài văn hay của bạn trong nhóm
- Em chọn một đoạn trong bài văn chưa hay để viết lại cho
hay hơn.
- Cá nhân có bài viết tốt , được khen đọc bài viết của mình
trước lớp
- Đọc cho nhau nghe một số câu văn , bài văn hay mà đã
sưu tầm được .
- 22 -


* Lưu ý: Học sinh phải thấy được lỗi trong bài văn của mình và
của bạn, sửa được lỗi đó và ghi nhớ nó, hiểu rõ và có nhu cầu học

hỏi những từ, câu, đoạn văn hay, giàu hình ảnh và sức gợi tả. Tôi
muốn nhấn mạnh rằng: Trước khi cho học sinh học hỏi những từ,
câu, đoạn văn hay cần lưu ý cho các em đọc lên (thành tiếng và
đọc thầm) một cách diễn cảm thì tất cả các em mới cảm nhận
được sự thú vị của cái hay hon một đoạn trong bài văn chưa hay
để viết lại cho hay hơn. đó.Tuy nhiên, ta cũng không nên đòi hỏi
quá cao ở học sinh. Tuỳ vào đối tượng học sinh mà đặt ra các em
sửa lỗi hay học từ, câu, đoạn hay ở mức độ nào. Giáo viên cần
kiên trì, bền bỉ, không thể nóng vội, kịp thời ghi nhận những tiến
bộ của học sinh .
c. Mối quan hệ giữa các biện pháp và giải pháp :
Các biện pháp và giải pháp nêu trên có mối quan hệ mật
thiết với nhau, tạo thành một hệ thống để thực hiện thành công
rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4 mà tôi đã thực
hiện.
d. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu, phạm vi và
hiệu quả ứng dụng.
Qua thời gian áp dụng nghiên cứu kinh nghiệm trên vào giảng dạy lớp mình,
tôi nhận thấy tiết học diễn ra rất nhẹ nhàng, thoải mái sinh động. Những học sinh
còn chậm tiến bộ ngày càng tiến bộ, mạnh dạn tự tin hơn trong hoạt động chung.
Học sinh có năng khiếu ngày càng phát huy hơn tích cực chủ động, sáng tạo trong
việc phát hiện ra kiến thức.Chất lượng dạy, học tập làm văn của lớp tôi được nâng
lên rõ rệt.

+ Lớp thực nghiệm 4A3

Cụ thể chất lượng giữa kì II (Phân môn Tập làm văn) của lớp tôi đạt như sau:
Bảng 1:
Lớp


Sĩ số

Điểm 8
SL
%

Điểm 7
SL
%
- 23 -

Điểm 5 - 6
SL
%

Điểm dưới 5
SL
%


4a3
28
Bảng 2:

10

Lớp4a3

28


6

10

Kết quả đạt được của học sinh qua Giữa kì 2
Viết đúng

Dùng từ

Câu văn

chính tả

chính xác diễn đạt rõ
ràng, gãy

28

2

25/28

20/28

gọn
20/28

Sắp xếp ý phù

Biết sử


hợp, có hình

dụng biện

ảnh

pháp nghệ

15/28

thuật
10/28

Bố cục chặt
chẽ

12/28

Với những biện pháp như đã trình bày ở trên đã giúp cho cả giáo viên và học sinh
tự tin, chủ động hơn trong các tiết học tập làm văn (văn miêu tả). Các giờ Tập làm
văn cũng trở nên nhẹ nhàng, sinh động hơn. Học sinh không còn lúng túng trong
việc lập dàn ý cho mỗi bài văn, việc viết một đoạn văn, hay bài văn của các em trở
nên dễ dàng hơn. Các em đã biết miêu tả một số đặc điểm của một sự vật cụ thể
theo yêu cầu, biết viết câu văn đúng ngữ pháp, rõ ý, biết sử dụng những từ ngữ sát
nghĩa, có tác dụng gợi tả, gợi cảm, bước đầu biết sử dụng biện pháp tu từ đơn giản
khi viết văn. Lời văn, ý văn của các em không còn nặng tính liệt kê hay kể lể nữa,
nhờ vậy mà chất lượng phân môn Tập làm văn cũng như môn Tiếng Việt đã nâng
lên rõ rệt .
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

1. Kết luận:
Trong quá trình thực hiện và đưa vào thực tế trong phạm vi đề tài ở tiết Tập làm
văn miêu tả lớp 4. Bản thân tôi đã rút ra nhiều kinh nghiệm và khẳng định đây là
hình thức dạy học làm chuyển hoá quá trình học tập của học sinh. Như vậy cần phải
thực hiện một số giải pháp sau: Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát tìm ý, quan
sát bằng nhiều giác quan: mắt, mũi, tay, tai… qua đó học sinh phát hiện, khám phá
đầy đủ các đặc điểm củasự vật, làm cho chúng hiện ra đầy đủ, rõ ràng tránh được
những bài văn miêu tả chung chung mờ nhạt. Khi hướng dẫn học sinh quan sát cần
gợi mở, dẫn dắt theo một trình tự hợp lý, để học sinh tự mình quan sát, tự mình cảm
nhận tính chất muôn hình muôn vẻ của sự vật. Đây là điều kiện chủ yếu làm nền
tảng giúp cho bài viết trở nên chân thật, tự nhiên và đây cũng là cơ sở cho sự phát
huy trí tưởng tượng và năng lựcsáng tạo của học sinh (sáng tạo trong cách nhìn,
- 24 -


cách nghĩ, cách diễn đạt nội dung…).Đặc biệt, giáo viên phải sử dụng tranh. ảnh
trong văn miêu tả cụ thể, từng vùng,từng miền khác nhau mà giáo viên lựa chọn
tranh ảnh cho phù hợp để cho các em quan sát tốt hơn. Tích luỹ và lựa chọn vốn từ
ngữ khi miêu tả cũng là biện pháp không kém phần quan trọng giúp cho học sinh
nhớ lại một từ ngữ, một hình ảnh, biết lựa chọn từ ngữ hay, thích hợp, phong phú
vào bài văn để thêm phần hấp dẫn. Bài văn miêu tả hay thì không thể thiếu cảm xúc
của người viết, có thể hiện được cảm xúc trong bài văn thì mới thu hút người đọc,
người nghe. Song, để quá trình đó diễn ra tốt, đòi hỏi người giáo viên phải nắm
vững yêu cầu cơ bản và biết vận dụng linh hoạt sáng tạo trong từng tiết học với
từng đối tượng được tả. Có như vậy thì chất lượng giáo dục mới từng bước nâng
lên. Trên đây là bài học mà bản thân tôi đã rút ra trong quá trình nghiên cứu và trải
nghiệm trong các năm học bản thân tôi dạy học sinh lớp 4.
2. Kiến nghị:
- Đối với giáo viên: Phải dạy học bằng cả lương tâm, trách
nhiệm của một nhà giáo và chú ý bồi dưỡng hay giúp đỡ học sinh

kịp thời trên các hoạt động của tiết dạy.
- Với Ban giám hiệu: Cần tạo điều kiện nhiều hơn nữa trong việc giúp đỡ, hỗ trợ
giáo viên trong những buổi sinh hoạt chuyên môn như mở chuyên đè chuyên sâu về
phân môn tập làm văn.
- Với phụ huynh học sinh cần quan tâm nhiều hơn nữa đời sống tình cảm, mua
thêm sách tham khảo, truyện, cho các em đọc.
- Đối phòng GD&ĐT : Cần mở chuyên đề về nâng cao chất lượng
dạy và học loại văn miêu tả để cho giáo viên dạy lớp 4 có dịp gặp
gỡ, trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm giảng dạy hay sẽ góp phần
nâng cao chất lượng dạy và học môn Tập làm văn nói riêng và học
tốt môn Tiếng Việt nói chung.
Trên đây là một số kinh nghiệm của cá nhân tôi. Rất mong
được sự chỉ dẫn, góp ý của lãnh đạo, các bạn đồng nghiệp. Qua
đây, cho phép tôi được gửi lời cảm ơn Ban giám hiệu, các đồng
- 25 -


×