TÂY TIẾN
Quang Dũng
I. Giới thiệu chung
1. Tác giả (1921-1988)
- Quê ở Hà Tây nhưng sống chủ yếu ở Hà Nội, mang cốt cách thanh lịch của người
Hà Nội
- Là 1 nghệ sĩ đa tài : vẽ tranh, soạn nhạc, làm thơ
- Hồn thơ vừa hồn nhiên, mộc mạc, vừa thanh lịch, hào hoa.
2. Tác phẩm
- Ra đời 1948, là năm thứ 3 của cuộc kháng chiến chống Pháp, còn nhiều khó
khăn, gian khổ: thiếu lương thực, thuốc men, quân trang qn dụng, bệnh sốt rét
rừng hồnh hành dữ dội
- Lính Tây Tiến phần đơng là thanh niên trí thức Hà thành, đối mặt với gian khổ, hi
sinh, nhưng tâm hồn vẫn trẻ trung, lãng mạn, khi ra trận rất can trường, quả cảm.
- Quang Dũng gia nhập đoàn binh Tây Tiến từ mùa xuân năm 1947. Cuối 1948,
ông chuyển sang đơn vị khác. Tại hội nghị toàn quân tại Phù Lưu Chanh ( Hà Đông
cũ ) nhớ đồng đội, nhớ những ngày tháng không thể nào quên QD đã viết bài Tây
Tiến với tên lúc đầu là “Nhớ Tây Tiến”
Tây Tiến biên cương mờ khói lửa
Quân đi lớp lớp động rừng cây
Và bài thơ ấy con người ấy
Vẫn sống muôn đời với núi sông
Giang Nam
II. Đọc- Hiểu văn bản
1. Đọc và tìm bố cục
- P1: sơng Mã…thơm nếp xơi : Hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc dọc con đường hành quân
lính Tây Tiến
- P2: tiếp… đong đưa: kỉ niệm với đồng bào Tây Bắc
- P3: tiếp…độc hành: chân dung người lính Tây Tiến
- P4: cịn lại: khúc vĩ thanh của đồn binh Tây Tiến
2. Đọc hiểu
*Nhan đề: Nhớ Tây Tiến khác Tây Tiến
- Nhớ Tây Tiến mềm mại, còn Tây Tiến hùng mạnh giống như bước hành quân của đoàn
binh
- Nhớ Tây Tiến: từ “nhớ” làm lộ cảm xúc, cịn Tây Tiến khơng nói nhớ mà vẫn nhớ -> hàm
xúc
- Với chữ "nhớ" Tây Tiến là quá khứ, nhưng bỏ chữ "nhớ" thì Tây Tiến đã thành hiện tại,
QD như đang sống cùng đồn anh hùng.
*Bài thơ
a. Phần 1
a1. 2 dịng đầu
Sơng Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
- Câu 1:
+ Câu thơ mở đầu là 1 tiếng gọi, gọi đoàn binh Tây Tiến, tiếng gọi ngân vang nhờ
âm “ơi” là 1 âm mở. Tây Tiến không là vô tri vô giác nữa mà là một con người,
phần đời không thể nào quên của Quang Dũng
+ ”Sông Mã xa rồi” kỉ niệm đã xa. “ Xa rồi” thể hiện sự nối tiếc, kỉ niệm đã qua
nhưng để lại nhiều tiếc nuối
- Câu 2:
+ Điệp từ “nhớ” trải nỗi nhớ mênh mang khắp không gian
+ “Nhớ rừng núi”: nhớ chiều rộng, “nhớ chơi vơi”: trải lên cả chiều dài; nỗi nhớ
của con người khi mất điểm tựa, nỗi nhớ như sương khói của núi rừng Việt Bắc,
mênh mông, vô tận, bồng bềnh, lan tỏa
a2. 6 dịng tiếp
Sài Khao sương lấp đồn qn mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai pha luông mưa xa khơi
-> Đoạn thơ sử dụng nhiều từ chỉ địa danh gợi ra những miền đất hoang vu xa lạ
mà ta chưa từng đặt chân tới. Cịn đối với Quang Dũng và đồn quân Tây Tiến thì
đây là những cái tên rất đỗi thân thương, gợi ra bao kỉ niệm khắc cốt ghi xương.
Những tên làng, tên núi, tên sông
Những cái tên đọc lên nghe muốn khóc
- Câu 1: miêu tả đồn qn hành quân trên đỉnh núi cao, núi cao đến mức chỉ
nhìn thấy một biển sương mênh mơng trùm lấp cả đoàn quân. Trong câu thơ nổi
bật là chữ “mỏi”, “mỏi” là từ chân thật, rất hay, thật đến mức khiến ta hình dung
ra bước chân thì đã quá rã rời, mệt mỏi nhưng đường hành qn cịn q xa xơi.
Câu thơ đã nói lên sự khắc nghiệt của thiên nhiên Tây Bắc: núi quá cao, sương
quá dày mà đường hành qn lại q xa xơi
- Nhưng dịng thơ thứ 2, thiên nhiên Tây Bắc hiện lên với vẻ thi vị, diễm lệ. Câu 2
có 6/7 thanh bằng, âm điêu nhẹ nhàng, êm ái. Hình ảnh “hoa về” có thể hiểu
theo 2 nghĩa:
+ Trong đêm tối mắt khơng nhìn thấy nhưng người lính Tây Tiến cảm nhận được
bản làng Tây Bắc rất gần nhờ hương hoa băng trong gió đến với tâm hồn người
lính trẻ
+ Hành quân trong đêm người lính cầm theo bó đuốc hoa, trơng xa như những
bơng hoa lớn, họ đang tiến về bản làng thanh tịnh Tây Bắc
+ ”Đêm hơi” gợi ra cảm giác ấm áp, không gian huyền ảo (cịn “đêm sương” gợi
ra khơng gian lạnh lẽo)
- Ngay sau giây phút yên bình lại là những ngày tháng gian khổ, câu thơ tiếp theo
miêu tả chặng đường hành quân gian khổ: câu thơ có 5/7 thanh trắc, gợi lên
những núi dốc cao ngất trời, vực sâu đến gập người -> câu thơ gập đôi
- Khi núi cao lên đến tận cùng thì người lính đứng trên cồn mây: câu thơ dùng
đảo ngữ, “heo hút” lên trên gợi miền không gian hoang vu nơi đỉnh núi. Nơi đây
đất và trời lần đầu tiên gặp nhau nhờ dấu chân người lính. Nhưng mục đích của
Quang Dũng khơng phải miêu tả những khó khăn gian khổ, câu thơ đã rẽ sang
hướng khác với cụm từ “súng ngửi trời”. “Súng ngửi trời”, phong cách thơ độc
đáo của QD, dùng chữ “ngửi” thể hiện tâm hồn trẻ thơ, tinh nghịch, yêu đời của
anh lính trẻ -> Khắc họa tư thế kiêu hãnh của người lính đứng trên gian khổ với
một nụ cười ngạo nghễ.
- Câu 5 tiếp tục miêu tả những đỉnh núi cao ngất trời, cũng là câu thơ gập đôi.
“Ngàn” là một biến âm, họ không thể nghe thấy tiếng cười, nói, hay hát mà chỉ
nghe thấy những tiếng hơi thở đứt quãng
- Nếu câu thơ thứ 5 miêu tả nét khắc ngiệt của vùng núi Tây Bắc thì câu th ơ thứ 6
là những nét vẽ thi vị, huyền ảo: câu thơ có 7/7 thanh bằng, như một tiếng reo
khi nhìn thấy những bản làng Tây Bắc thấp thống sau những màn mưa. Nó làm
vơi đi bao nhiêu gian nan nhọc nhằn trong cuộc đời chiến binh Tây Tiến.
=> 2 tính chất của thiên nhiên Tây Tiến: hùng vĩ và thi vị
a3. 4 dịng tiếp: hình ảnh người lính Tây Tiến trên con đường hành quân gian
khổ
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục quên súng mũ bỏ quên đời
Chiều chiều oai linh thác gần thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
-Ở dịng thơ đầu QD gọi người lính với tình cảm rất đỗi thân thương. "Anh bạn"là
cách gọi của Quang Dũng về người đồng đội, người lính vơ danh, thể hiện tình
cảm yêu thương trìu mến
- “Dãi dầu” : trải qua gian khổ, thử thách trên con đường hành quân nên người
lính đã dừng bước. Câu thơ dùng biện pháp nói giảm nói tránh, miêu tả người
lính hi sinh nhẹ nhàng như đi vào giấc ngủ. Điều đặc biệt hơn ngay trong giây
phút hi sinh người lính vẫn khơng chịu rời cây súng, vẫn giữ nguyên tư thế của
người lính “gục lên súng mũ bỏ quên đời”
- Thiên nhiên miền Tây không chỉ đáng sợ với núi cao, vực sâu mà còn ghê rợn với
thác dữ, núi dữ, những động từ mạnh “thét”, “gầm” làm hiện lên một thiên nhiên
hoang vu, chứa đầy hiểm họa, sẵn sàng cướp đi mạng sống con người
- “Chiều chiều”, “đêm đêm” diễn tả những gian khổ, hiểm nguy không ngừng
khơng dứt. Khi hồng hơn bng xuống nơi đây là thế giới loài mãnh thú. Hai chữ
“Mường Hịch” được dùng đắc địa. Từ âm điệu có thể hình dung ra bước chân
làm rung chuyển của loài mãnh thú đi săm mồi trong đêm vắng. Khi viết những
dòng thơ này Quang Dũng đã nhớ tới Thế Lữ:
“Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan”
-> Với Thế Lữ, cảnh núi rừng ghê rợn chỉ là một giấc mơ nhưng với Quang Dũng
đó là thực tế khốc liệt mà nhà thơ phải trải qua
a.4. 2 dòng cuối
“Nhớ ơi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
- “Nhớ ôi”: nỗi nhớ trào dâng, mãnh liệt buột ra bằng tiếng kêu trong nỗi nhớ
rưng rưng nước mắt
- “Cơm lên khói”: hình ảnh làm ấm lịng người chiến sĩ giữa những ngày miếng
cơm chấm muối mối thù nặng vao -> quân dân ấm áp, nồng hậu
- Chữ “mùa em” là một chữ độc đáo của riêng Quang Dũng, thể hiện rất rõ cốt
cách đa tình. Có thể hiểu chữ này theo nhiều cách. Mùa màng bội thu là nhờ bàn
tay tảo tần của những cô thiến nữ Mai Châu. Cũng có thể là nhớ về mùa gặt, nhớ
dáng hình yêu kiều của thiếu nữ Mai Châu. Mùi “ thơm” ở đây vừa là mùi cơm
nếp, vừa là tấm long thơm thảo của những cô thiếu nữa Tây Bắc cũng đã vương
vấn chút duyên nghĩa lứa đôi. Dù chưa kịp định hình nhưng cả đời vẫn vương vấn
luyến tiếc.
b. Phần 2: Kỉ niệm với đồng bào Tây Bắc
b1. Khổ 1: Kỉ niệm trong đêm hội hoa
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
- “Bừng lên” là ánh sáng bừng lên, vừa là niềm vui bừng lên trên khn mặt
người lính trẻ. Trong đêm hội trại núi rừng Tây Bắc rực rỡ như đêm hội hoa đăng
- “Kìa em” vừa biểu lộ sự ngạc nhiên vừa biểu lộ sự vui sướng của anh lính trẻ
trước những cơ gái Tây Bắc q xinh đẹp
- Biện pháp tu từ lạ hóa: trang phục lạ (xiêm áo) , nhạc cụ lạ (khèn) , nhạc điệu lạ
(man điệu) , cử chỉ lạ (e ấp)
- Dòng thơ thứ 3 ngắt nhịp 2/2/1/2, gợi ra điệu múa uyển chuyển, dìu dặt của
những cơ gái dân tộc
- Câu cuối đặc biệt nhất ở âm điệu, 6/7 thanh bằng , gợi ra âm thanh bay bổng,
trữ tình. “Nhạc về Viên Chăn “ hay chính là hồn người mơ ngày vui xuân. “Xây
hồn thơ” là xây giấc mộng thanh bình. Giữa chốn bom rơi đạn mục nhưng tâm
hồn lãng mạn của người lính trẻ vẫn bay theo nhạc điệu êm đềm. Người lính mơ
về một miền đất khác, nơi ấy khơng có đạn bom và chết chọc. Đó là thế giới của
tình yêu và hạnh phúc
b2. Khổ 2: Kỉ niệm trong đêm chia tay
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trơi dịng nước lũ hoa đong đưa”
- Người đi là lính Tây Tiến, ra đi trong chiều khói sương bản làng. Cả thời gian và
khơng gian đều gợi nhớ nhung
- Dịng 2 và 3 có BPTT là điệp từ (có), điệp cấu trúc
+ “Có thấy hồn lau”: nỗi nhớ về thiên nhiên Tây Bắc. Hoa lau là hoa của miền biên
ải hoang vu. “Hồn lau” là thiên nhiên đã mang linh hồn con người. Không thể là
“bờ lau” hay “hoa lau” vì thiên nhiên Tây Bắc đã có một linh hồn. Bao người lính
đã ngã xuống nơi đây, linh hồn họ còn vương vấn nơi bờ lau, khe suối. Trong
thiên nhiên đã có hình bóng con người và có tình người sâu đậm.
+ Từ “có thấy” đến “có nhớ”: cung bậc nỗi nhớ đã tăng thêm nỗi da diết. Nỗi nhớ
nồng nàn nhất trong lòng người lính trẻ là nhớ về những thiếu nữ Tây Bắc
- Câu 3: câu thơ rất giàu chất họa , có sự kết hợp hài hòa, cân đối giữ một nét
mềm mại của dáng người với một nét thẳng mạnh của con thuyền “độc mộc”->
gợi ra vẻ đẹp yểu điệu, khỏe khoắn của những nàng sơn nữ
- Dịng 4 có hai thế đối lập:”dịng nước lũ” là hình ảnh đẹp, dữ dội của núi rừng
Tây Bắc nhưng “hoa đong đưa” là vẻ đẹp thấp thống, đong đưa. Chữ “hoa” có
thể là những bơng hoa đang trơi trên dịng nước, có thể là hoa văn sặc sỡ trên
váy áo của các cô dân tộc, nhưng cũng có thể là một lời ngợi khen kín đáo: những
cơ thiếu nữ Tây Bắc đẹp như những bông hoa rừng. “Đong đưa” tả chuyển động
chậm rãi, nhẹ nhàng của những bơng hoa và cịn gợi ra ánh mắt tình tứ của thiếu
nữ miền sơn cước. Vẻ đẹp này khiến anh lính đa tình chân bước xa rồi mà lòng
còn ở lại.
c. Phần 3: Chân dung người lính Tây Tiến
c1. 4 dịng đầu: cuộc sống của người lính Tây Tiến
“Tây Tiến đồn binh khơng mọc tóc
Qn xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
- 2 câu đầu tả ngoại hình của các chàng trai Tây Tiến. Hiện thực gian khổ thời kì ấy
là người lính sống triền miên trong thiếu thốn, thiếu ăn, thiếu thuốc, thiếu quân
trang quân dụng, bệnh tật lại triền miên. Tất cả những điều đó tàn phá sức lực
của người lính Tây Tiến. Mặc dù ở tuổi 18-20 tràn trề sức lực nhưng mang hình
ảnh tiều tụy: đầu trọc , da xanh, quần áo rách rưới. Quang Dũng không né tránh
thực tế khắc nghiệt nhưng cách diễn đạt của Quang Dũng phơi phới lạc quan.
Dịng thơ đầu có tới 2 lần đảo ngữ. Diễn đạt theo cách thơng thường là: đồn
binh Tây Tiến tóc không mọc. Nhưng chữ Tây Tiến đảo lộn lên đầu tỏa ra một
miền kiêu hãnh vô biên . “Không mọc tóc”chứ khơng phải là tóc khơng mọc,
người lính đã chuyển từ tư thế bị động sang chủ động. Những anh lính trẻ khơng
cần mọc tóc, rất tự hào về cái đầu trọc của mình. Đói khổ triền miên, bệnh tật dai
dẳng nên lính Tây Tiến có màu da rất đặc trưng “xanh màu lá”. Hiện thực thì đau
lịng như thế nhưng ý thơ vẫn phơi phới lạc quan. Ba chữ “dữ oai hùm” đã trả
cho người lính tư thế hiên ngang, oai hùng. Lính Tây Tiến khi ra trận có dáng vẻ
oai phong lẫm liệt chốn rừng xanh. Sức mạnh “dữ oai hùm “ đã có trong văn học
cổ: “ Tam qn tì hổ khí thơn ngưu” (Thuật hồi- PNL)
=> Như vậy suốt chiều dài lịch sử chống ngoại xâm, ở bất kì thời đị nào dân tộc
Việt Nam cũng có những con người với sức mạnh phi thường sẵn sàng xả thân
cứu nước. Lính Tây Tiến ốm mà khơng yếu, gian khổ mà vẫn lạc quan yêu đời
- “Mắt trừng” là một thi liệu của văn học cổ, thường để diễn tả hình ảnh người
anh hùng khi xơng pha trên trận mạc, đối diện với kẻ thù bằng đôi mắt ngùn ngụt
lửa căm thù
- “Mộng”: lính Tây Tiến khi đi mang theo giấc mộng lớn nhất đời mình là lập
chiến cơng, giải phóng qn hương, mang lại thanh bình cho đất nước. Như vậy
dòng thơ đầu đã miêu tả vẻ đẹp kiêu dũng, hào hùng của những chiến binh Tây
Tiến
- Câu thơ cuối:
+ Âm điệu :5/7 thanh bằng -> êm ái , ngọt ngào như lời ình tự với người yêu
+ Đêm là khoảnh khắc ngắn ngủi khi tiếng súng tạm im, thần chết ngừng rượt
đuổi, người lính mới có giây phút riêng tư cho mình. Tâm hồn anh lính trẻ lập tức
bay trở về thủ đơ u dấu. Nhớ Hà Nội là nhớ rất nhiều: nhớ lớp cũ, nhớ trường
xưa, những bạn bè một thuở, nhớ Hồ Tây Hồ Gươm trăng soi liễu rủ, nhưng ra đi
ở tuổi 18-20 anh lính trẻ nào chẳng thầm dấu trong tim của mình một người
thiếu nữ. Đây là nỗi nhớ rất con người, làm cho chân dung người lính hiện lên rất
chân thực và toàn vẹn
+ ”Dáng kiều thơm”là kết hợp từ độc đáo của Quang Dũng, gợi lên dáng dâp yêu
kiều, tha thiết của thiếu nữ đất kinh kì. Họ có một vẻ đẹp kiêu sa, đài các, khác
hẳn với vẻ đẹp chân quê của những cô gái nông thôn. Chữ “thơm” là sự cảm
nhận của khướu giác. Đây có thể là mùi thơm của nước hoa, phấn sáp của các cô
thiếu nữ Hà thành thường dung để điểm trang. Nhưng chữ “thơm” còn dung để
ngợi ca cốt cách thanh lịch của những con người đất Tràng An:
“Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”
- Người thiếu nữ Hà Nội có thể chỉ là một dáng hình thoảng qua trong một giấc
mơ nhưng cũng đủ để xoa dịu bao gian nan cuộc đời trong người lính trẻ. Nỗi
nhớ này bay bổng và lãng mạn, chỉ có được ở những người lính bàn tay trước khi
cầm súng đã từng cầm bút. Những người lính nơng dân bàn tay trước khi cầm
súng đã từng cầm cày, cầm cuốc thì nỗi nhớ bình dị, mộc mạc hơn nhiều:
“Ba năm rồi gửi lại quê hương
Mái lều gianh
Tiếng mõ đêm trường
Luống cày đất đỏ
Ít nhiều người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya”
(Nhớ-Hồng Nguyên)
=> Đây là một giai đoạn lịch sử đặc biệt, ở đó người lính có sự kết hợp tuyệt vời
của hai phẩm chất: hào hùng và hào hoa, anh hùng và nghệ sĩ
c2. 4 dòng cuối: sự hi sinh
“Rải rác biên cương hồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
- Sử dụng những từ Hán Việt: biên cương, chiến trường, viễn xứ, độc hành làm
cho chân dung người lính Tây Tiên được bao bọc bởi vầng hào quang cổ kính
- Dịng thơ đầu gợi ra cảnh chiến trường hoang lạnh, những nấm mộ vô danh
nằm rải rác bên đường. Người lính ngã xuống, nằm lại nơi biên ải xa xôi, nấm mộ
vùi tạm bên đường, khơng ai hương khói. Câu thơ thấm đẫm nỗi xót xa thương
cảm
- Câu 2 ngắt nhịp 3/2/2, mạnh mẽ, khảng khái như một lời thề “cảm tử cho Tổ
quốc quyết sinh”
+ ”Đời xanh” là tuổi trẻ nhưng cũng là tương lai, tình yêu, hạnh phúc. Khi ra đi
người lính rất yêu quý và trân trọng tuổi trẻ của mình. Nhưng vì tự do của Tổ
quốc, họ tự nguyện hiến dâng tất cả. Cùng ý tưởng này nhà thơ Thanh Thảo có
viết :
“Chúng tơi đi khơng tiếc cuộc đời mình
Nhưng tuổi 20 làm sao khơng tiếc
Nhưng ai cũng tiếc tuổi 20
Thì cịn chi
Tổ quốc?”
- Một thực tế đau lịng là người lính Tây Tiến chết q nhiều, không đủ chiếu để
mà chôn. Nhưng trong tưởng tượng của Quang Dũng những người lính ấy giống
như anh hùng xả thân vì trí lớn, thi thể của họ được bọc trong áo bào. “Áo bào”
là hình ảnh mang màu sắc ước lệ tượng trưng, làm cho chân dung người lính
giống như những anh hùng tráng sĩ thời xưa. Hai chữ “về đất” là cách nói giảm
nói tránh, người lính ngã xuống đất mẹ dang rộng vịng tay đón các con. Họ chết
nhưng lại là bất tử.
- Câu thơ cuối có biện pháp nhân hóa: con song Mã ơm trong lịng một nỗi đau
quá lớn, nó gầm lên một tiếng làm rung chuyển trời đất. Đó chính là điệu nhạc
của núi sơng tấu lên để tiễn đưa người lính về với đất Mẹ. Như vậy, chân dung
người lính Tây Tiến ở đây đã sánh ngang và trường tồn cùng sông núi.
d. Phần 4: Khúc vĩ thanh của đoàn binh Tây Tiến
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xi”
- Câu thơ đầu tiên có những khoảng trống. “Không hẹn ước” là không hẹn ước
ngày trở về. Con đường hành quân của lính Tây Tiến cheo leo, đầy gian nan, hiểm
trở “đường lên thăm thẳm một chia phơi”
-Chữ “mùa xn” ở dịng 3 có nhiều cách hiểu. Binh đoàn mùa xuân được thành
lập mùa xuân 1947, những chàng trai Tây Tiến khi ra đi ở tuổi thanh xuân, lứa
tuổi đẹp nhất đời người. Ngay cả những người lính đã ngã xuống thì linh hồn của
họ cũng tiếp tục hành quân theo đồng đội: “Hồn về Sầm Nứa chẳn về xuôi”.
III. Tổng kết
1. Nội dung
- Bài thơ là nỗi nhớ da diết của Quang Dũng về thiên nhiên, con người Tây Bắc, về
binh đoàn Tây Tiến và những năm tháng không thể nào quên của dân tộc
- Khắc họa thành cơng một tượng đài bằng thơ về những người lính xuất thân từ
tầng lớp trí thức tiểu tư sản trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Ở họ
có sự khắc họa hài hòa của 2 vẻ đẹp: hào hùng và hào hoa
2. Nghệ thuật
-Thể thơ: thất ngôn trường thiên
- Giọng điệu: hào hùng , rắn giỏi, êm dịu trữ tình
- Chất nhạc và chất nhạc hịa quyện một cách sâu lắng trong lời thơ
- Xây dựng thành công 2 hình tượng nghệ thuật: thiên nhiên Tây Bắc và người
lính Tây Tiến
- Khắc họa được cảm hứng lãng mạn và khuynh hướng sử thi
- Các biện pháp tu từ: đảo ngữ, điệp, tương phản, nhân hóa, câu hỏi tu từ, nói
giảm nói tránh
- Ngơn ngữ: chọn lọc, tinh tế. Đặc biệt thành công ở việc sử dụng từ láy , từ Hán
Việt, từ chỉ địa danh, sáng tạo ra những kết hợp từ ngữ lạ.
Việt Bắc
Tố Hữu
I. Giới thiệu chung
1. Tác giả
- Tố Hữu (1920-2002) được coi là cánh chim đầu đàn cho thơ ca Cách
mạng Việt Nam
- Con đường thơ của tác giả song hành cùng con đường Cách mạng
- Thơ Tố Hữu cuốn hút bởi tâm tình ngọt ngào và tính dân tộc đậm đà
2. Tác phẩm
- 7-5-1954, chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi
- 7-1954 hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết, hịa hình lập lại ở miền Bắc,
một trang sử mới mở ra
- 10-1954, các cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ rời chiến khu
Việt Bắc về Hà Nội. Việt Bắc là cái nôi Cách mạng, nơi có biết bao con
người đói nghèo, lam lũ nhưng tập tụy hi sinh cho kháng chiến. Khi chia
tay mảnh đất này, Tố Hữu có cảm giác mình đã gửi lại một phần đời ở đây
- Bài thơ ra đời 10-1954 nằm trong tập thơ cùng tên của Tố Hữu và được
coi là đỉnh cao của thơ ca chống Pháp.
II. Đọc-Hiểu văn bản
1. Đọc
- Toàn bộ bài thơ gồm 2 phần: phần đầu tái ngộ những kỉ niệm về Cách mạng
và kháng chiến. Phần sau gợi ra viễn cảnh tươi sáng của đất nước, ca ngợi
công ơn của Đảng và Bác
- Đoạn trích nằm ở phần 1 bài thơ. Có thể chia làm 2 phần:
+ Phần 1: từ câu 1 -> câu 52: nỗi nhớ thiên nhiên và con người Việt Bắc
+ Phần 2: từ câu 53 -> câu 90: tái hiện lại khí thế hào hùng của cuộc kháng
chiến chống Pháp
2. Tìm hiểu
* Khái quát chung
- Thể thơ: thể lục bát được gọi là điệu hồn của người Việt, tạo ra giọng điệu
êm đềm, tha thiết
- Đại từ “mình - ta” đây là cặp đại từ thể hiện mối quan hệ gắn bó khăng khít
tuy hai mà một, chủ yếu trong tình u lứa đơi, biến cuộc chia tay của cán bộ
kháng chiến với người dân Việt Bắc như cuộc chia tay của lứa đôi
- Kết cấu: đối đáp, đây là kết cấu quen thuộc của ca dao giao duyên. Điều này
làm cho vấn đề chính trị khơ khan được biểu đạt dưới hình thức trữ tình tươi
mát
a. Phần 1: Nỗi nhớ thiên nhiên và con người Việt Bắc
- Khổ 1:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ khơng
Nhìn cây nhớ núi, nhìn cây nhớ nguồn?”
+ Người ở lại ngỏ lời vì trong những cuộc chia tay người ở lại bao giờ cũng
mang nỗi niềm thương cảm. Một trong những quy luật tâm lí “xa mặt cách
lịng”. Bởi vậy người ở lại nhắc nhở người ra đi về nỗi nhớ, về ân tình thủy
chung, son sắt. 15 năm là quãng thời gian gợi ra thiên tình sử Thúy Kiều – Kim
Trọng:
“Ngẫm từ sen ngó đào tơ
Mười lăm năm ấy bây giờ là đâu”
(Truyện Kiều-Nguyễn Du)
“Thiết tha mặn nồng” đã khắc vào xương cốt con người
+ Câu 3 điệp lại cấu trúc câu 1 nhưng kết thúc bằng chữ “không” tạo ra một
cảm giác chơi vơi, hụt hẫng, chưa xa mà đã nhớ.
+ Dòng thơ cuối nhắc nhở nỗi nhớ nguồn cội, nhớ núi, nhớ cây, đừng quên
những tháng ngày gian khổ khi bên nhau.
- Khổ 2
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
+ ”Tha thiết” đáp lại chữ “thiết tha” ở bên trên, nghĩa là lời từ trái tim đã
chạm đến trái tim
+ Người ra đi trong trái tim đầy nhớ thương lưu luyến. Nỗi “bâng khng” vơ
hình đã biểu hiện bằng những bước đi “bồn chồn”. Bước chân như quyến
luyến không muốn rời xa.
+ “Áo chàm” là màu áo đặc trưng của người Việt Bắc. Màu chàm tuy đơn sơ
giản dị nhưng lại bền bỉ khó phai. Từ màu ấy sáng lên tấm chân tình của
người Việt Bắc. Hình ảnh “cồn” ở phía trên và”áo chàm” khắc họa với nhau
tạo nên không gian đặc trưng của núi rừng Việt Bắc
+ Hành động “cầm tay” đã nói rất nhiều điều, nói cái nồng ấm của tình người.
Trong hành động đơn sơ này như có một lời an ủi, vỗ về: hãy đừng buồn vì
chúng ta phải chia li, nhưng lại có một lời hứa nhất định người ra đi sẽ quay
trở lại, ngày mai sẽ là ngày sum họp của đôi ta. Đây là ngôn ngữ của hành
động.
+ Dấu “…” tạo ra khoảng trống cuối dịng thơ, từ đó người đọc hình dung ra
lời con suối nhỏ thì thầm dưới rừng xa, nhắc đến một ngày mai đoàn tụ
- Khổ 3: Lời người ở lại
+ Những tháng ngày gian khổ, Việt Bắc đã ni Cách mạng từ thuở cịn trứng
nước. Việt Bắc là nơi có mưa nguồn, suối lũ, thiên nhiên dữ dội và khắc
nghiệt. Nhớ Việt Bắc là nhớ đến những ngày “miếng cơm chấm muối, mối thù
nặng vai”. Càng trong gian khổ, thiếu thốn thì người kháng chiến và người
Việt Bắc càng gắn bó, đồng cam cộng khổ và quyết tâm chiến đấu.
+ Người cán bộ kháng chiến trở về Thủ đô khiến cả núi rừng Việt Bắc thương
nhớ đến ngẩn ngơ. Cả “trám bùi, măng mai” đều trở nên vơ nghĩa. Thiên
nhiên thì trống vắng, lòng người trống trải
+ Việt Bắc là nơi những con người đói nghèo lam lũ nhưng tấm lịng thì rộng
mở, ân tình. Câu thơ “hắt hiu lau xám đậm đà lòng son” sử dụng biện pháp
tiểu đối đã làm sáng lên tấm chân tình của người Việt Bắc.
+ Người Việt Bắc nhắc nhở người kháng chiến về quá khứ, về những ngày
gian khổ, hi sinh chúng ta đã gắn bó bên nhau
“Mình đi mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?”
+ Những chữ “mình” ở đây đồng âm nhưng khác nghĩa. Chữ “mình” thứ 3
vừa là người ở lại vừa là người ra đi. Vấn đề đặt ra ở đây là: anh đi, anh đừng
quên em, nhưng anh cũng đừng quên chính anh của những ngày tháng chúng
ta bên nhau. Thủy chung ở đây không phải chỉ thủy chung với người khác mà
còn phải thủy chung với chính mình. “Mái đình…Trào” là những địa danh nổi
tiếng đã đi vào lịch sử. Nhớ đến Tân Trào, Hồng Thái cũng có nghĩa là nhớ đến
mảnh đất hun đúc những phẩm chất Cách mạng tốt đẹp cho mình.
- Khổ 4: Lời người ra đi:
“Ta với mình, mình với ta”
+ Câu 1: Hai chữ “ta” và “mình” đứng sát cạnh nhau, gợi ra sự quấn quýt
không rời. Người ra đi khẳng định tấm lịng trước sau như một, khơng bao
giờ thay đổi
+ Đáp lại câu hỏi ở phía trên, người ra đi khẳng định “mình đi mình lại nhớ
mình” Sẽ khơng quên với Việt Bắc, sẽ không bao giờ đánh mất mình ngay cả
khi hồn cảnh đổi thay
+ Dịng thơ thứ 3 và 4 mơ phỏng cách nói của ca dao. Câu thơ Tố Hữu gợi
nhắc những vần ca dao nổi tiếng:
“Qua đình ngả nón trơng đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”
Hay như:
“Cơng cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”
-> Như vậy, Tố Hữu đã lấy một cái vô hạn so sánh với một cái vơ cùng. Nghĩa
tình của người Việt Bắc đối với người Việt Bắc khơng gì co thể đo đếm nổi, nó
mênh mơng, sâu đậm như cơng cha nghĩa mẹ.
- Khổ 5: Người ra đi nhắc lại những kỉ niệm với người Việt Bắc
+ Nhớ về Việt Bắc trước hết là nhớ người yêu.Câu thơ “nhớ gì như nhớ người
yêu” mang âm hưởng của ca dao giao duyên. Nỗi nhớ người yêu làm cho con
người cảm thấy cồn cào, nôn nao trong lòng. Nỗi nhớ người yêu gắn với
những đêm trăng hẹn hò, những chiều thương nhớ tương tư. Nhưng Việt Bắc
khơng chỉ là người u mà cịn là người thương. Ở chữ người thương, có thể
thấy người ra đi mang nặng nghĩa tình với người ở lại. Người Việt Bắc thật
tảo tần, chịu thương, chịu khó. Hình ảnh những bản làng chìm trong sương
khói. Những bếp lửa bập bùng khuya sớm đã trở thành những kí ức khơng
thể phai mờ trong tâm trí người ra đi. Sơng suối thì có lúc đầy lúc vơi nhưng
ân tình của ta với mình thì khơng bao giờ cạn.
+ Nhớ đến Việt Bắc là nhớ đến người đồng chí đã từng chia sẻ cay đắng, ngọt
bùi của cuộc đời kháng chiến. Từng củ sắn lùi, từng bát cơm, từng mảnh chăn
sui đều thấm đẫm nghĩa tình trong những ngày gian khổ.
+ Việt Bắc cịn hiện lên trong hình ảnh người mẹ
“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”
Trong thơ xưa nay người ta chỉ bắt gặp lưng eo, lưng ong. Ở đây, Tố Hữu lại
miêu tả một người mẹ “nắng cháy lưng”. Câu thơ vừa gợi ra cái khắc nghiệt
của thiên nhiên Tây Bắc, vừa gợi ra nỗi vất vả, nhọc nhằn của người mẹ. Mẹ
không chỉ lên rẫy bẻ ngơ ni con mà cịn ni qn, ni kháng chiến. Câu
thơ tràn ngập niềm thương cảm và sự biết ơn Việt Bắc đã cho ta nhiều quá,
làm sao có thể quên được những ân tình.
+ Nhớ đến Việt Bắc là nhớ đến cuộc đời kháng chiến gian khổ nhưng cũng
đầy niềm vui. Đó là những lớp học, những buổi liên hoan. Tiếng hát “vang núi
đèo”, cất lên từ một tâm hồn yêu đời, vui sống. Những âm thanh như tiếng
mõ, tiếng chày, tiếng suối vừa thân thuộc vừa gợi ra một cuộc sống bình yên
nơi đây.
- Khổ 6: Lời người ra đi giãi bày nỗi nhớ thiên nhiên và con người Việt Bắc
+ 2 dịng đầu:
“Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người”
Câu đầu tiên là một câu hỏi tu từ. Hỏi để dãi bày tình cảm của người đi
với kẻ ở. Ta về là thay đổi hoàn cảnh sống. “Nhớ” là biểu hiện của tình yêu
xa cách, là sự bất biến của tình cảm.
Dòng thơ thứ 2, người ra đi giãi bày nỗi nhớ Việt Bắc. Nhớ Việt Bắc là nhớ
cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp và nhớ con người ân nghĩa nơi đây. Trong
câu thơ có biện pháp so sánh ngầm. Đặt “người” cạnh “hoa” thực ra là lời
ngợi khen kín đáo: con người Việt Bắc cũng tươi đẹp như những bông
hoa rừng. Hai chữ “những” và “cùng” tạo sự ngập ngừng của lời thơ và
cũng chính là những bịn rịn, lưu luyến trong bước chân người ra đi.
+ 8 dòng sau: Bộ tranh tứ bình:
• 2 dịng đầu là bức tranh mùa đông:
“ Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
Việt Bắc từng được gọi là Thủ đơ gió ngàn. Mùa đơng ở đây lạnh thấu
xương, thấu thịt. Nhưng trong cách miêu tả của Tố Hữu, cảm giác ấy
khơng cịn nữa. Trên cái nền xanh rì của đại ngàn Việt Bắc, nổi bật
màu “đỏ tươi” của những bông hoa chuối rừng. Những bông hoa
chuối ở rừng già trơng xa như những bó đuốc, đã thắp sáng và xua tan
cái lạnh. Trên cái nền thiên nhiên hùng vĩ ấy, nổi bật là hình ảnh người
•
•
•
lao động Việt Bắc. Con người ở đây đứng trên đỉnh đèo, mặt trời
chiếu vào con dao trần gài ở thắt lưng làm ánh lên muôn ngàn tia
sáng. Tư thế làm chủ núi rừng chỉ có được khi chúng ta đã kết thúc
thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp. Thiên nhiên thì hùng vĩ, con
người thì phi thường.
2 dịng tiếp: Bức tranh mùa xuân
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón truốt từng sợi giang”
Hoa mơ là lồi hoa đặc trưng của núi rừng Việt Bắc. Loài hoa này đã
từng nở nhiều lần trong vườn thơ Tố Hữu
“Ôi sáng xuân nay xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ”
Cả núi rừng được bao phủ bởi một màu trắng tĩnh lặng, giống như
cảm giác sững sờ, vui sướng khi đón Bác trở về sau 30 năm xa cách.
Nhưng sắc trắng của hoa mơ trong câu thơ “Ngày xuân mơ nở trắng
rừng” lại là một sắc màu vận động, từ từ lan rộng. Màu trắng ấy tạo
cho Việt Bắc một vẻ đẹp tinh khôi. Trên cái nền thiên nhiên ấy là hình
ảnh người lao động Việt Bắc. Chữ “chuốt” gợi ra đôi bàn tay mềm
mại, cần mẫn của con người nơi đây. Cảnh thì dịu dàng, con người thì
khéo léo, tài hao.
2 dòng tiếp: Bức tranh mùa hạ:
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cơ em gái hái măng một mình”
Bức tranh mùa hè khơng chỉ có màu sắc mà cịn có cả âm thanh. Theo
tiếng ve kêu giục giã cả rừng phách như đồng thời chuyển sang màu
vàng. Núi rừng mang vẻ đẹp rực rỡ khi hè đến. Giữa cảnh sắc thiên
nhiên ấy là hình ảnh cơ em gái đang lặng lẽ hái măng. Chữ “hái” gợi ra
đôi bàn tay nhẹ nhàng, nữ tính. Chữ “một mình” gợi ra rất nhiều liên
tưởng. Giữa cảnh thiên nhiên tràn trề sức sống, con người Việt Bắc
tươi trẻ, duyên dáng như thế sao lại cô đơn? Rõ ràng người đi đã thấu
hiểu và rất đỗi cảm thông với sự hi sinh âm thầm của người ở lại. Sau
chữ một mình là khát vọng về một ngày mai sum họp.
2 dòng thơ cuối: Bức tranh mùa thu:
“Rừng thu trăng rọi hịa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Cách sắp xếp trật tự thời gian của Tố Hữu: đơng-xn-hạ-thu. Sự bất
thường này có thể giải thích bằng hồn cảnh lịch sử. Mùa đơng năm
1946, sau “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, những người lính lần theo cầu sơng Hồng ngược lên Việt Bắc.
Kháng chiến chống Pháp thành công, cuộc chia tay giữa người kháng
chiến với nhân dân Việt Bắc lại diễn ra vào thời điểm mùa thu. Trong
tất cả những vẻ đẹp của Việt Bắc thì trăng rừng có lẽ là vẻ đẹp kì diệu
nhất. Từ hình ảnh vầng trăng tạo ra sắc trắng bàng bạc trong không
gian. Đây là một khung cảnh thi vị, hữu tình. Trăng mn đời là nhân
chứng cho những lời thề nguyền của những đối trai gái yêu nhau.
Nhưng trăng ở đây còn gắn với khát vọng tha thiết của con người Việt
Nam khi ấy: khát vọng hịa bình. Tiếng hát chính là tiếng lịng. “Ân tình
thủy chung” là lẽ sống của cả kẻ đi lẫn người ở lại.
b. Phần 2: Nhắc lại những chặng đường của cuộc kháng chiến chống Pháp
- Khổ 1:
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây.
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù.
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lịng.
Ai về ai có nhớ khơng?
Ta về ta nhớ Phủ thông, đèo Giàng
Nhớ song Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao-Lạng, nhớ sang Nhị Hà…”
Cuộc kháng chiến chống Pháp để đi đến thắng lợi cuối cùng , ngoài việc huy
động sức mạnh con người, chúng ta còn phải tận dụng sức mạnh địa hình.
Núi rừng Việt Bắc cũng như có linh hồn, có tình cảm, có thể bảo vệ, che chở
cho quân ta và bao vây kẻ thù. Hơn thế nữa, Tố Hữu còn phát hiện ra cái gọi
là trận địa của lịng dân:
“Mênh mơng bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng”
Xa Việt Bắc không thể nào quên những địa danh: Phủ Thông, đèo Giàng, song
Lô, phố Ràng. Chữ “nhớ” được điệp lại 6 lần trong những dòng thơ cuối, trải
dài và tràn ngập khơng gian.
- Khổ 2:
+ 2 dịng đầu:
“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung”
Những nẻo đường Việt Bắc là những nẻo đường chiến đấu và chiến thắng.
Hai chữ “của ta” tràn ngập niềm tự hào, kiêu hãnh. Trong những năm tháng
kháng chiến, chúng ta đã lấy đêm làm ngày. Nhưng nhắc đến đêm mà không
thấy tối và tĩnh lặng nhờ chữ “rầm rập”. Đây là từ láy tượng thanh, miêu tả
bước chân của đoàn quân ta ra trận, làm rung trời, chuyển đất.
+ 2 dòng tiếp:
“Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”
Câu thơ miêu tả một hình ảnh đồn quân anh hùng. Chữ “điệp điệp”, “trùng
trùng” làm hiện lân một đồn qn đơng, dài vơ tận, mn người như một.
Ánh sao đầu súng là hình ảnh thực tế những năm chiến tranh. Người lính
hành quân trong đếm khuya, mũi súng hướng lên trời cao và ngôi sao trở
thành người bạn đồng hành với anh lính trẻ. Nhưng ánh sao ở đây còn tượng
trưng cho thứ ánh sáng đẹp đẽ và cao quý của lí tưởng Cách mạng soi đường,
chỉ lối cho người chiến sĩ vượt qua những thử thách, gian nan. Đây là câu thơ
mang cảm hứng lãng mạn.
+ 2 dịng tiếp:
“Dân cơng đỏ đuốc từng đồn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”
Lực lượng dân công đã góp phần khơng nhỏ đưa cuộc kháng chiến chống
Pháp đến ngày thắng lợi. Những đồn dân cơng nối tiếp nhau vượt qua mưa
bom, bão đạn, vực sâu tiếp tế vũ khí, lương thực, qn trang, qn dụng. Từ
những bó đuốc của đoàn dân quân trong đêm tỏa ra thứ ánh sáng rực rỡ làm
ấm nóng cả khơng gian rừng núi. Chữ “đỏ” khơng những là màu của những
bó đuốc mà còn là màu của nhiệt huyết trong trái tim của những con ng ười
không tiếc tuổi xuân, sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc. Câu thơ “bước chân nát đá
mn tàn lửa bay” chia làm hai vế. Vế đầu âm điệu mạnh mẽ, rắn giỏi, gợi
hình ảnh những con người quyết tâm vượt qua gian khổ. Vế sau âm điệu nhẹ
nhõm, diễn tả tâm trạng hân hoan của đoàn dân qn khi hồn thành nhiệm
vụ. Người Việt có câu “chân cứng đá mềm”, nhưng đá ở đây phải “nát”. Chữ
“nát” mới đủ sức diễn tả sức mạnh phi thường, làm nên kì tích của con người
Việt Nam trong chiến tranh.
+ 2 dịng tiếp
“Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên”
“Nghìn đêm” ở đây trước hết là quãng thời gian của cuộc kháng chiến chống
Pháp. Nhưng nghĩa rộng hơn là những đêm trường nô lệ, dân ta quằn quại
dưới ách áp bức của bọn đế quốc thực dân. Chữ “thăm thẳm” gợi ra bóng tối
dày đặc, hãi hùng. Hình ảnh “sương dày” lại đưa đến cảm giác lạnh lẽo, tê tái.
Đó chính là q khứ buồn đau khi dân tộc ta chìm trong bóng tối và nước
mắt. Trong những năm chiến tranh, đèn pha của những đoàn xe tải trở hang
ra mặt trận là loại đèn sáng nhất. Từ nguồn sáng chói lịa liên tục ấy, nhà thơ
liên tưởng đến một ngày mai huy hoàng của đất nước. Đứng trong gian khổ
vẫn tin tưởng, yêu đời, hướng tới tương lai. Đó chính là tinh thần lạc quan
Cách mạng
+ 4 dòng cuối:
“Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”
Chữ “vui” được điệp lại tới 4 lần trong đoạn thơ, diễn tả một niềm vui tràn
ngập và lan tỏa khắp mọi miền không gian đất nước. Tin vui thắng trận dồn
dập đưa về. Cuộc kháng chiến của ta đã đi qua những tháng ngày gian khó,
đến những ngày thắng lợi.
- Khổ 3:
Khổ thơ ca ngợi cơng lao của Đảng và Chính phủ. Những sách lược, chiến
lược phù hợp với tình hình thực tế đã góp phần đắc lực đưa cuộc kháng
chiến nhanh chóng đến ngày tồn thắng. Những hình ảnh “ngọn cờ đỏ thắm”,
“nắng trưa rực rỡ sao vàng” gợi ra ấn tượng về thị giác, đồng thời cũng khắc
họa vẻ đẹp rực rỡ, chói lịa của lí tưởng Cách mạng.
- Khổ 4:
Ca ngợi Chủ tịch Hồ Chí Minh và mọi người dân Việt Nam. Hồ Chí Minh chính
là niềm tin thiết tha. Trong những năm kháng chiến, Việt Bắc là quê hương
Cách mạng, là trái tim của Tổ quốc. Bởi vậy, người ra đi sẽ không bao giờ
quên Việt Bắc.
III. Tổng kết
1. Nội dung:
- Việt Bắc vừa là khúc hùng ca, khúc tình ca về kháng chiến và con người
kháng chiến:
+ Ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên và con người Việt Bắc
+ Ghi lại những chặng đường gian khổ, vẻ vang của cuộc kháng chiến
chống Pháp, từ những ngày “miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai”
đến những ngày “tin vui chiến thắng tram miền”
- Từ đó nhắn nhủ về lẽ sống cuat người Cách mạng: trong niềm vui thắng
lợi vẫn thủy chung với nhân dân, không quên những gian khổ, hi sinh vừa
trải qua, luôn giữ được những phẩm chất đẹp đẽ của chính mình trong
những ngày tháng ấy. Đó cũng chính là đạo lí tốt đẹp của dân tộc “uống
nước nhớ nguồn”
2.
Nghệ thuật
- Thể thơ: lục bát, được coi là điệu hồn dân tộc, phù hợp để diễn tả tình
cảm âm nghĩa thủy chung
- Kết cấu: thao lối đối đáp của ca dao giao dun
- Đại từ xưng hơ: “mình-ta” là cặp đại từ rất phổ biến trong ca dao tình
u, diễn tả sự gắn bó khăng khít tuy hai mà một. Thơng thường đây là
cặp đại từ chỉ có trong thế giới của những tình cảm cá nhân ( tình u đơi
lứa, tình cảm vợ chồng). Nhưng trong Việt Bắc nó bỗng lớn dậy, đi thẳng
vào đời sống chung của dân tộc, đủ sức ơm trùm những tình cảm lớn lao
mang tính thời đại, như tình qn dân.
- Cách diễn đạt giản dị, nhiều so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, gắn với ca dao dân
ca
- Giọng điệu vừa hùng tráng lại vừa trữ tình, đan xen nhau.
Đất Nước
Trích trường ca “Mặt đường khát vọng”
Nguyễn Khoa Điềm
I. Giới thiệu chung.
1. Tác giả
- Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943 tại Huế, có sự kết hợp đặc biệt giữa văn hóa
dân gian và văn hóa cung đình. Sinh ra trong gia đình dịng dõi hồng tộc, có
truyền thống văn học và truyền thống yêu nước.
- Là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Thơ Nguyễn Khoa Điềm
thể hiện tâm tư của thế hệ thanh niên trí thức, đang tích cực tham gia vào cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc.
- Đặc sắc nghệ thuật:
+ Là nhà thơ trữ tình – triết luận
+ Có những liên tưởng xa và rộng trong thơ.
+ Sử dụng chất liệu văn hóa dân gian một cách nhuần nhuyễn, linh hoạt, sáng tạo
2. Xuất xứ đoạn trích
- Đoạn trích nằm ở phần đầu chương V trường ca “Mặt đường khát vọng”
- Tác phẩm được viết 1971, ở chiến khu Trị - Thiên. Lúc này quan niệm sặc mùi
thực dân ngang nhiên phổ biến (Biên giới Hoa Kì kéo dà tới vĩ tuyến 17; đâu kiếm
được tiền thì đó là tổ quốc). Trái ngược với những tư tưởng phản động ấy, phong
trào học sinh, sinh viên xuống đường đấu tranh ở các đô thị miền Nam rất sơi nổi.
Chính tác giả đã hồi tưởng lại “Đây là thời kì máy bay Mĩ bắn phá dữ dội. Chúng
tôi ngồi trong hầm và viết. Cảm xúc được cộng hưởng với khói bom và mưa rừng.
Có khi viết xong một trận bom giật làm cho bản thảo rơi tung tóe, lượm lại trang
cịn, trang mất, lại ngồi viết tiếp…”
II. Đọc hiểu văn bản.
1. Đọc và tìm bố cục
- Phần 1: Từ đầu … “làm nên Đất Nước muôn đời”: Đất Nước là gì?
- Phần 2: tiếp… “đã hóa núi sông ta”: Đất Nước do ai làm nên?
- Phần 3: cịn lại: Đất Nước là của ai?
2. Tìm hiểu
a. Phần 1: Đất Nước là gì?
a1. Đoạn 1 : (Câu 1 đến câu 9): Đất Nước có từ bao giờ?
- Đoạn trích mở đầu bằng cái “ ngày xửa ngày xưa ” mẹ thường hay kể . Câu thơ
dẫn ta trở về với khơng gian thân quen và kì diệu của cổ tích. Nhận thức về Đất Nước
thực ra đã tự hình thành và thấm thía trong mỗi chúng ta qua những lời ru, những câu
chuyện của bà, của mẹ. Với một đứa trẻ ngây thơ thì những hình ảnh đầu tiên về Đất
Nước là gia đình, làng xóm, cánh đồng, lũy tre … Khi đứa trẻ lớn lên, nhận thức về Đất
Nước cũng lớn dần.
- “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”
+ Trong một miếng trầu nhỏ nhoi lại chứa đựng cả một bề dày ngàn năm văn hóa
dân tộc. Biết bao câu ca dao, tục ngữ nói về miếng trầu:
“Gặp đây mời một miếng trầu
Chẳng ăn cầm lấy cho nhau bằng lòng”
+ Với tục ăn trầu người Việt muốn giữ gìn lối sống thủy chung, tình nghĩa. Đất
Nước bắt đầu với miếng trầu nhỏ bé, Đất Nước vươn mình lớn dậy trong đau
thương, từ những ngày dân mình biết trồng tre mà đánh giặc. Lịch sử Việt Nam
chủ yếu là lịch sử chống ngoại xâm. Bởi vậy một trong những truyền thuyết đầu
tiên của người Việt là truyền thuyết Thánh Gióng đã khẳng định 1 cách đầy tự
hào, lòng yêu nước, tinh thần bất khuất của một dân tộc bé nhỏ. Những phong
tục, tập quán lâu đời của người Việt như ăn trầu, búi tóc, thờ cúng tổ tiên,… Đều
góp phần làm nên bản sắc độc đáo của nền văn hóa Việt. Như vậy, có thể nói Đất
Nước có từ khi chúng ta hình thành nên một nền văn hóa riêng và Đất Nước
trưởng thành qua những khó khăn, gian khổ.
a2. Đoạn 2 (câu 10 đến câu 42): Đất Nước là gì?
- Đất Nước là những gì ở quanh ta:
+ Trước đây, khái niệm Đất Nước thường gắn với những gì cao sang, vĩ đại trong
“Nam quốc sơn hà” thì Nam quốc gắn liền với Nam đế. Trong “ Bình Ngơ đại
cáo”, để khẳng định chủ quyền dân tộc, Nguyễn Trãi đã dẫn ra 5 yếu tố: văn hiến,
phong tục tập quán, cương vực lãnh thổ, các triều đại và nhân tài hào kiệt. Điểm
độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ đã đưa Đất Nước từ ngai vàng cao
sang của nhà vua xuống với hạt gạo bình dị của những người dân lam lũ, tảo tần:
“Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sang
Đất Nước có từ ngày đó”
Đất Nước vốn là một khái niệm vĩ đại và trừu tượng đã được làm nên từ những
gì nhỏ bé, hữu hình ngay bên cạnh chúng ta như cái kèo, cái cột, hạt gạo.
+ Với tư tưởng triết học phương Đông, Nguyễn Khoa Điềm cho rằng Đất Nước
được tạo nên từ hai yếu tố là đất và nước, cũng là dương và âm. Đất gắn với anh
và nước gắn với em:
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”
Nơi anh đến trường là nơi thân quen, ai cũng biết, nơi mở ra chân trời trí thức
cho con người, là cái chung của tất cả mọi người. Nơi em tắm là cái nơi riêng tư
nhất. Đất Nước vừa là cái chung và cái riêng. Khi anh và em yêu nhau, Đất và
Nước hợp lại thành Đất Nước, thành nơi ta hò hẹn. Đây là thời đại mà tình u
đơi lứa ln gắn bó và song hành cùng với tình u Đất Nước. Từ một chiếc khăn
tương tư trong áng ca dao xưa:
“Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai”
Nguyễn Khoa Điềm đã thổi vào đó bầu khơng khí của thời đại mới. Khi Đất Nước
có chiến tranh, bao đôi lứa yêu nhau mà phải xa nhau. Họ sông trong thương
nhớ, đợi chờ và tin vào một ngày mai sum họp. Bắt đầu bằng tình yêu và cũng
nhờ tình u mà Đất Nước sinh sơi nảy nở. Đất Nước lớn lên xùng với sự mở
mang bờ cõi của cộng đồng người Việt.
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi Bạc
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Dù có đi đâu về đâu, dù có sống triền miên trong chia lìa, xa cách thì đồn tụ,
sum vầy vẫn là nhu cầu mãnh liệt trong tâm thức của người Việt. Truyền thuyết
Lạc Long Quân và Âu Cơ còn gợi ra truyền thống tương thân tương ái của người
Việt. Thờ cúng tổ tiên, hướng về nguồn cọi là một nét văn hóa tinh thần độc đáo
được người Việt giữ gìn và trân trọng từ bao đời nay. Trong một cái “cúi đầu nhờ
ngày giỗ tổ” vừa có sự thành kính trang nghiêm, vừa có sự kết nối kì diệu giữa
quá khứ, hiện tại và tương lai.
- Đất Nước là những gì ở trong ta:
“Trong anh và em hơm nay
Đều có một phần đất nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn”
+ Trong mỗi con người đều có Đất và Nước. Hành động “cầm tay” của anh và em là
biểu hiện cho tình u đơi lứa nồng nàn, đằm thắm. Khi ấy Đất Nước được nhận thức
trong chiều sâu của tình cảm lứa đơi. Nhưng “khi chúng ta cầm tay mọi người” thì
Đất Nước được cảm nhận trong chiều rộng của tình cảm cộng đồng, của những con
người đang nối vòng tay lớn bảo vệ quê hương. Đứng ở hiện tại, gian khổ mà vẫn tin
tưởng vào một ngày mai tươi sáng chính là biểu hiện của cảm hứng lãng mạn cách
mạng. Đất Nước được Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận không chỉ ở quá khứ và hiện tại
mà còn cả ở tương lai. Đứa con là hiện thân đẹp đẽ của tình yêu đôi lứa. “Con ta”
nhất định sẽ mang Đất Nước đi xa, nghĩa là thế hệ trẻ chắc chắn sẽ mở ra một tương
lai huy hoàng cho Đất Nước.
“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”
+ Đoạn thơ là lời tâm sự của một thế hệ thanh niên Việt Nam thời chống Mĩ. Đất
Nước khơng chỉ là những gì quanh ta mà đã trở thành máu xương của ta . Đây là
một thực tế của chiến tranh, bao máu xương người Việt đã đổ xuống và thấm vào
từng tấc đất quê hương. Khi Đất Nước đã là máu xương của mình thì số phận Đất
Nước chính là số phận mỗi con người, trách nhiệm với Đất Nước chính là trách
nhiệm với bản thân mình. Những chứ "phải" đứng đầu dòng thơ biến câu thơ thành
những câu mệnh lệnh. Nhưng "mệnh lệnh" của trái tim nên nó khơng hề khơ cứng,
nó là sự tự nguyện. Ba động từ "gắn bó", "san sẻ", "hoá thân" được sắp xếp theo
mức độ tặng tiến dần. Thế hệ trẻ Việt Nam tự nguyện "gắn bó" với số phận của dân
tộc, "san sẻ" trách nhiệm, bảo vệ Đất Nước và ước nguyện thiêng liêng nhất của họ
là được "hố thân cho dáng hình xứ sở". "Hoá thân" nghĩa là hy sinh cho tổ quốc,
nghĩa là chết nhưng lại là bất tử.
b. Phần 2: Đất Nước do ai tạo nên?
- Tám dòng đầu:
“Những người vợ nhớ chồng cịn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng u nhau góp nên hịn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua cịn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dịng sơng xanh thẳm
Người học trị nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên.
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ơng Đốc, Ơng Trang, Bà Đen, Bà Điểm
+ Ở đoạn thơ này, Đất Nước được miểu tả theo chiều rộng của khơng gian địa lí.
Bằng biện pháp liệt kê nhà thơ nhắc đến nhiều địa danh nổi tiếng trải dọc theo chiều
dọc Đất Nước: núi Vọng Phu (Lạng Sơn), hòn Trống Mái ( Hạ Long), Núi Bút non
Nghiên (Quảng Ngãi), núi Bà Đen (Tây Ninh). Theo cái nhìn của khoa học, hình sơng
thế núi là do biến thiên địa chất tạo thành, nhưng Nguyễn Khoa Điềm lại giải thích
bằng sự hố thân của những cuộc đời, những ước mơ, khát vọng. Hòn vọng phu là
sự hoá thân của những người vợ nhớ chồng. Vấn đề ở đây khơng đơn thuần là cổ
tích nữa mà đã là hiện thực. Với một Đất Nước chiến tranh liên miên có biết bao
nhiêu người chồng ra trận khơng bao giờ trở về, cũng có biết bao người vợ đã chờ
chồng đến hố đá. Khơng chỉ những con người bình thường, vơ danh như người vợ
nhớ chồng, "cặp vợ chồng yêu nhau", "người học trò nghèo" đã làm nên Đất Nước
mà cả con vật, từ những loài cao sang và bình thường như con ngựa, con voi, con
rồng đến những lồi tầm thường xấu xí như con cóc, con gà cũng góp phần làm nên
dáng hình xứ sở. Chữ "góp" điệp lại đến bảy lần thể hiện quan điểm: Đất Nước
khơng phải được hình thành dễ dàng trong một sớm một chiều, nó được tạo dựng
trong cả một quãng thời gian đằng đẵng. Bằng sự gom góp và hiến dâng cơng sức,
tâm huyết, thậm chí cả cuộc đời của những người dân nghèo khổ và lam lũ
- Bốn dịng cuối: Những hình sơng thế núi là ghi dấu của lỗi sống, khát vọng của con
người Việt Nam. Đó là những con người sống nghĩa tình, chung thuỷ, bất khuất, hiên
ngang, ln thành kính hướng về nguồn cội. Đó cịn là một dân tộc có truyền thống hiếu
học, tôn sư trọng đạo. Những con người bé nhỏ vô danh, chính nhân dân đã lặng lẽ hố
thân vào dáng hình xứ sở, làm nên Đất Nước mn đời.
c. Phần 3: Đất Nước là của ai?
c.1. Đoạn 1: "Em ơi em... Nhưng họ đã làm ra Đất Nước": Đất Nước được nhìn từ chiều
dài lịch sử.
- Khi nhắc đến Đất Nước trong chiều dài lịch sử, giọng thơ vừa trữ tình, vừa thành kính.
Thời chống Mĩ, chúng ta khơng chỉ đánh giặc bằng sức mạnh vật chất mà còn bằng cả
sức mạnh tinh thần. Những truyền thống hào hùng của ông cha được khơi dậy. Khi Đất
Nước thanh bình, những người con gái con trai "cần cù làm lụng", nhưng khi Đất Nước
có ngoại xâm thì mỗi người lại tự nguyện đứng lên nhận một nhiệm vụ:
"Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con".
Đi ra từ một bài ca dao quen thuộc nhưng ý thơ của Nguyễn Khoa Điềm có rất nhiều
điểm mới. Cuộc chia li trong ca dao xưa đẫm nước mắt:
"Con cị lặn lội bờ sơng
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non
Nàng về ni cái cùng con
Để anh đi trảy nước non Cao Bằng"
Cuộc chia tay trong thơ Nguyễn Khoa Điềm khơng có những giọt nước mắt đau thương.
Người con gái ở nhà ni cái, ni con, thậm chí nuôi cả quân nữa, làm nên hậu phương
vững chắc. Hào hùng biết bao là cái cảnh: "Ngày giặc đến nhà đàn bà cũng đánh". Trong
thời đại mới, người phụ nữ Việt Nam không chịu sống âm thầm quẩn quanh với việc bếp
núc như xưa nữa, họ đã dám đứng lên gánh vác cả những trọng trách của xã hội. Họ đã
trở thành những anh hùng, thậm chí trở thành những biểu tượng đẹp đẽ của người Việt
Nam:
"O du kích nhỏ giương cao sung
Thằng Mĩ lênh khênh bước cúi đầu
Ra thế to ngang hơn béo bụng
Anh hung đâu cứ phải mày râu”
Mỗi thời đại lịch sử dân tộc Việt Nam đều có những anh hùng hào kiệt nhưng Nguyễn
Khoa Điềm không hề nhắc đến một tên riêng nào cả. Bởi theo cái nhìn của nhà thơ
người có cơng làm nên chiều dài lịch sử chính là nhân dân, những con người vơ danh
nhưng không hề vô nghĩa:
“Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Khơng ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước “
Chính những con người lặng thầm, ít nói nhất lại là những con người vĩ đại nhất. Khơng
cần tượng đồng, bia đá nhưng chính sự hi sinh hồn nhiên cho Đất Nước đã khiến họ
thành bất tử.
c.2. Đoạn 2: Tiếp.....hết: Đất Nước được nhìn từ chiều sâu văn hóa
- Nhân dân sáng tạo nên nền văn hóa vật chất
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái.”
2 h/ả nổi bật là hạt lúa và ngọn lửa. Lửa được coi là cứu tinh của loài người. Nhờ đó mà
con người tách khỏi và vượt qua cuộc sống mơng muội dã man của lồi vật. Thế hệ sau
thừa hưởng những thành quả lao động mà thế hệ trước để lại, đó là những đập, những
bờ, những cây, những trái. Năm chữ “họ” đứng đầu 5 dòng thơ đã tôn vinh những con
người vô danh thầm lặng, đồng thời gợi ra h/ả 1 cuộc chạy tiếp sức ko hề mệt mỏi và
chưa bao giờ đứt quãng trong suốt chiều dài lịch sử của bao thế hệ người Việt.
- NKĐ đã nhắc đến 1 trong những truyền thống nổi bật của người Việt là truyền thống
YN bất khuất trước mọi kẻ thù:
“ Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại.”
Chính ND bằng lối sống của mình đã sáng tạo nên 1 bề dày văn hóa cho ĐN. Bởi vậy Đất
Nước ko thuộc về 1 cá nhân nào cả mà thuộc về ND. Tư tưởng “ Đất Nước của ND”
xuyên suốt toàn bộ đoạn trích này. Chính ND, những người lam lũ nhọc nhằn lại có 1 tâm