Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Văn mẫu lớp 12: 5 bài văn mẫu phân tích đoạn 1 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 20 trang )

Luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

VĂN MẪU LỚP 12: TÂY TIẾN – QUANG DŨNG
5 BÀI VĂN MẪU “PHÂN TÍCH ĐOẠN 1 BÀI THƠ TÂY TIẾN CỦA QUANG DŨNG”

BÀI MẪU SỐ 1:
"Tây Tiến" của Quang Dũng có thể coi là một trong những bông hoa tươi thắm nhất của chùm
hoa thơ viết về anh bộ đội cụ Hồ trong thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ ngay từ khi ra đời đã
tạo một sức sống hết sức mạnh mẽ và bền bỉ trong lòng người đọc. Sức sống ấy có được là nhờ ngịi
bút của QDũng đã từ những cảm hứng vừa hiện thực, vừa bay bổng lãng mạn khi khắc hoạ hình tượng
người chiến sĩ vệ quốc như một khúc ca bi tráng vang lên giữa một bản đại hùng ca của toàn dân tộc
trong những tháng năm bảo vệ đất nước mình. Hình tượng người lính với sự hoà trộn các sắc màu
vừa hiện thực vừa lãng mạn đã được hiện ra ngay từ phần thứ nhất của bài thơ, phần mơ tả vẻ đẹp
của người lính gắn liền với những chặng đường hành quân của họ. Thiên nhiên và con người đan xen
hoà quyện lẫn nhau để tạo nên sự hoành tráng của bức tranh cuộc sống, sự kỳ vĩ lớn lao của con
người.
"Tây Tiến", nói đúng ra là những hoài niệm đầy nhớ thương và tự hào của QDũng về những
người đồng đội của mình trong đồn binh Tây Tiến, đồn binh có nhiệm vụ từ HNội, Hà Tây tiến
thẳng lên Tây Bắc giải phóng vùng biên giới Việt-Lào rồi giúp nước bạn giải phóng vùng thượng
Lào, tạo nên một vùng an toàn cho chiến khu của chúng ta; về những tháng năm vô cùng gian khổ
nhưng rất đỗi hào hùng của đoàn binh Tây Tiến gắn liền với những vùng đất mà họ đã đi qua, đã
chiến đấu, và chiến thắng. Sau những bước chân trường chinh, Tây Tiến, đoàn binh đã được phiên
chế thành những đơn vị khác. Vì thế bài thơ lúc đầu có tựa đề "Nhớ Tây Tiến", về sau QD mới đổi
thành "Tây Tiến".
Bài thơ, như những dòng ghi chú cuối cùng, được làm tại Phù Lưu Chanh, một làng ven bờ
sơng Đáy. Phải chăng vì thế mà nỗi nhớ Tây Tiến lại được bắt đầu bằng nỗi nhớ về một dịng sơng
với âm hưởng vơ cùng tha thiết
"Sơng Mã xa rồi Tây Tiến ơi!"
Đó là âm hưởng ngân lên từ những chữ "xa rồi" và chữ "ơi" đầy cảm xúc nhớ thương. Nhà thơ
như để tiếng gọi yêu thương "Tây Tiến ơi" vọng về với một thời gian khổ nhưng nghĩa tình, đầy


những hy sinh nhưng cũng đầy những gắn bó, vọng về một miền đất xa xơi, vọng tới những người
đồng đội của mình dù nằm lại nơi viễn xứ hay đang chiến đấu ở những chiến trường khác nhau. "Sông
Mã xa rồi Tây Tiến ơi!", thấm đượm biết bao nỗi nhớ, niềm yêu thương của Quang Dũng.
Hình tượng con sơng Mã mở đầu cho hồi niệm về Tây Tiến như một sự khẳng định âm hưởng
hào hùng, bi tráng của những "tháng năm Tây Tiến" đã không thể phai mờ trong tâm trí khơng chỉ
mỗi người lính Tây Tiến mà của cả dân tộc, của cả đất nước. Con sông Mã đã trở thành biểu tượng
cho sức mạnh, cho vẻ đẹp của đoàn binh Tây Tiến. Và Quang Dũng đã để con sông Mã ấy xa dần, xa
dần nhưng vẫn chảy suốt bài thơ để khi thì hiện lên thành những con thác chiều chiều oai linh gầm

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 1


Luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

thét, khi lại thành dòng nước lũ với con thuyền độc mộc, với "hoa đong đưa" và cuối cùng là hiện ra
một cách đầy đủ trong khúc ca bi tráng của nó khi "Sơng Mã gầm lên khúc độc hành". Và phải chăng
con sông Mã ấy cũng chính là dịng sơng cảm xúc mà QDũng đã từ nó thể hiện bao nhiêu tự hào, cảm
phục, nhớ thương đối với những người đồng đội của mình.
14 dịng thơ mở đầu là sự khắc tạc hình ảnh người lính Tây Tiến gắn liền với chặng đường hành
quân gian khổ của họ. Vì thế thiên nhiên được mô tả cũng gắn liền với những chặng đường hành quân
này. Thiên nhiên và con người như đan xen, như hoà quyện lẫn nhau. Dừng lại những chặng đường
hành quân của người lính Tây Tiến, 14 dịng thơ như những thước phim tư liệu nhưng lại đầy giá trị
nghệ thuật về cuộc sống, cuộc chiến đấu của người lính Tây Tiến.
Trước hết phải thấy Quang Dũng đã tạo nên trong Tây Tiến một thiên nhiên vừa hùng vĩ vừa
bí hiểm, vừa thơ mộng vừa khắc nghiệt như một cái nền làm nổi bật hình tượng người lính.
Cho nên sau câu thơ như một tiếng gọi tha thiết "Sông Mã xa rồi TT ơi !" là hình ảnh của một
vùng rừng núi bao la như chao nghiêng trong ống kính của người nghệ sĩ quay phim, như chơi vơi

trong nỗi nhớ của Quang Dũng. "Nỗi nhớ chơi vơi" là một sáng tạo độc đáo của nhà thơ, bởi chơi vơi
thường mang ý nghĩa chỉ không gian. Không gian tồn tại của sự vật, đi vào nỗi nhớ của Quang Dũng
"chơi vơi" trở thành không gian của tâm tưởng, của cảm xúc. Từ bức tranh toàn cảnh "chơi vơi" một
nỗi nhớ này, hồi niệm như ống kính quay phim làm hiện lên những chặng đường đã qua của đoàn
binh Tây Tiến với những địa danh, khơng phải khơng có sự lựa chọn một cách kỳ công, gợi biết bao
cảm giác về sự xa xôi hiểm trở như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai
Châu...Những địa danh với người đọc thuở ấy cịn đầy bí hiểm, hoang sơ, thậm chí nó từng khiến Vũ
Quần Phương cho rằng 2 chữ "Mường Hịch" nghe như bước chân cọp dậm dịch rình người, cịn 2
chữ "Mai Châu" tự nó đã ủ sẵn hương thơm của nếp rừng. Mới biết sức gợi tả của các địa danh thơi
cũng đã có thể làm lay động trí tưởng tượng của người đọc.
Bức tranh thiên nhiên trong Tây Tiến của Quang Dũng cịn vơ cùng đặc sắc bởi nó được tạo
nên từ một thứ ngơn ngữ rất giàu tính tạo hình. Mơ tả thiên nhiên mà ta như thấy những bước chân
quả cảm của đoàn binh Tây Tiến đang đạp bằng mọi gian khổ mà thiên nhiên thử thách, mọi hiểm trở
mà thiên nhiên đe doạ. Ta không chỉthấy một Sài Khao sương lấp, một Mường Lát hoa về trong đêm
hơi mà còn thấy cả những chặng đường khúc khuỷu, cheo leo
"Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm - Heo hút cồn mây súng ngửi trời - Ngàn thước lên cao,
ngàn thước xuống - Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi "
Đó là hình ảnh trập trùng dốc đứng đèo cao như dựng lên trước mắt đoàn binh Tây Tiến. Những
thanh trắc tiếp nối nhau tạo cảm giác về sự gập gềnh khúc khuỷu. Điệp từ "dốc" như mở ra trước mắt
người đọc hình ảnh những con dốc tiếp nối nhau lên tới người. Nhịp của câu thơ càng làm tăng thêm
nỗi vất vả của người lính bởi nó như tiếng thở hối hả, giục giã, gấp gáp. Đó là nhịp điệu:
Dốc lên / khúc khuỷu / dốc / thăm thẳm
Đó là một nhịp điệu ít thấy trong câu thơ 7 chữ cổ điển: 2/2/1/2. Hơn nữa nhà thơ cịn sử dụng
liên tiếp những từ láy gợi hình, những từ láy mà tự nó đã có giá trị biểu hiện như "khúc khuỷu", "thăm
thẳm", tiếp đó là "heo hút".
Tuy nhiên cần phải thấy thơ QDũng có một đặc điểm rất nổi bật, bao trùm, đó là những hình
ảnh tương phản có giá trị nâng đỡ lẫn nhau về mặt cảm xúc. Cho nên những "dốc lên", "khúc khuỷu",
"thăm thẳm", "heo hút" đã trở thành vô nghĩa trong sự thử thách của thiên nhiên đối với con người.

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!


Trang | 2


Luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

Vì sau tất cả những thử thách ấy, ta bỗng bắt gặp một cảm xúc đầy kiêu hãnh của người lính. Người
lính đã bất chấp mọi thử thách để vươn tới một tầm cao +++g lộng giữa đỉnh trời. QDũng đã tạo nên
một hình ảnh hết sức bất ngờ từ sự tương phản này, hình ảnh "súng ngửi trời". Từ hình ảnh ấy, người
lính hiện ra rất thực, thực với những người lính xuất thân từ học sinh, sinh viên trí thức HNội. Đó là
hình ảnh được hiện ra từ cái nhìn của những người lính trẻ thơng minh mà tinh nghịch, những người
lính đã vượt qua muôn trùng dốc để vươn tới tận trời, để súng ngửi trời. Khơng phải là những người
lính như người lính trong đồn binh Tây Tiến khó có thể liên tưởng từ "mũi súng" đến "súng ngửi
trời"
Thời đại đã đem đến cho Quang Dũng không chỉ một liên tưởng lạ lùng, kỳ thú mà cịn là hình
tượng thơ hết sức kỳ vĩ. Khẩu súng cùng với người lính như đang đứng ở đỉnh cao của thời đại gợi ta
nhớ tới hình ảnh ngươì chiến sĩ vệ quốc trong câu thơ của Phạm Ngũ Lão:
"Hồnh sóc giang san cáp kỉ thu"
Hình tượng người anh hùng vệ quốc cầm ngang ngọn giáo đứng giữa non sơng hoặc người lính
trong câu thơ của Tố Hữu. "Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều - Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo - Núi
không đè nổi vai vươn tới - Lá nguỵ trang reo với gió đèo" ( Lên Tây Bắc )
Song ở câu thơ của QDũng, người lính thật hồn nhiên và lãng mạn, vừa thật, vừa khái quát, vừa
giàu ý nghĩa tượng trưng.
Thiên nhiên có lúc vụt hiện ra từ những câu thơ giàu giá trị tượng hình, một đỉnh cao nghìn
thước. Đó là câu thơ:
"Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống"
Khơng ít người u thích câu thơ này bởi sự ngắt nhịp giữa dòng đã bẻ gập câu thơ , tạo nên
cái đỉnh cao nghìn thước kia. Nhưng thực ra, cái độ cao nghìn thước ấy được tạo nên từ chính cấu
trúc ngữ nghĩa của câu thơ. Nhà thơ đã tạo nên cái tương phản giữa nghìn thước lên và nghìn thước

xuống để đúng giữa câu thơ là cái ngất trời của một chữ "cao". Chính cấu trúc ngữ nghĩa ấy đã tạo
nên đỉnh cao nghìn thước giữa câu thơ. Chẳng những thế, câu thơ với chữ "lên", "xuống" còn gợi ra
hình ảnh trập trùng của đồn binh Tây Tiến đang vượt dốc cao vực thẳm.
Mô tả thiên nhiên, Quang Dũng chỉ nhấn mạnh sự dữ dội hiểm trở của nó mà cịn gợi ra hình
ảnh hết sức thơ mộng. Bên cạnh cái hiểm trở của đỉnh cao nghìn thước, của con thác gầm thét, của
Mường Hịch cọp trêu người cịn có khung cảnh của Lũng Sa
"Nhà ai Pha Lng mưa xa khơi"
Một câu thơ toàn thanh bằng gợi nên cái mênh mông xa vời, chơi vơi. Sự tương phản về thanh
điệu tự nó cũng đã gợi ra cái trập trùng của núi non nhưng đặc sắc hơn còn là chất lãng mạn gợi ra từ
một khung cảnh thiên nhiên như vậy. Phải là người lính đầy chất thơ trong tâm hồn mới có thể cảm
nhận được vẻ đẹp ấy sau khi đã vượt dốc, qua cồn mây, đạp bằng đỉnh cao nghìn thước.
Nói đến thiên nhiên trong Tây Tiến, khơng thể khơng nói tới một thiên nhiên hùng vĩ như một
cái nền làm nổi bật tầm vóc của con ngươì ở những câu thơ này. Quang Dũng đã mơ tả thiên nhiên
để mô tả con người. Quang Dũng đã mơ tả thiên nhiên bằng cả hình, cả âm, cả nhịp điệu và đặc biệt
là bằng cảm hứng lãng mạn để sự hiểm trở của thiên nhiên chỉ càng khơi gợi cảm hứng chinh phục
của con người.

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 3


Luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

Đó là cảm hứng khơng phải khơng có sự ảnh hưởng của thơ ca lãng mạn như "Nhớ rừng" của
Thế Lữ, sự ảnh hưởng từ câu thơ:
"Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng - Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt"
Đến câu thơ:
"Chiều chiều oai linh thác gầm thét"

Cảm hứng lãng mạn ở Tây Tiến còn là sự ảnh hưởng từ hồn thơ lãng mạn của Lý Bạch bởi
những câu thơ "Dốc lên ... ngửi trời" đã gợi ta nhớ đến "Thục Đạo Nan" của Lý Bạch
"Thục đạo nan, thục đạo chi nan - Nan ư thướng thanh thiên"
Đọc câu thơ:
"Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người"
Ta lại nhớ đến "Thục đạo nan" với câu thơ:
"Triêu tỵ trường xà - Tịch tỵ mãnh hổ"
Con đường Tây Tiến có khác gì con đường vào "Thục" xưa trong câu thơ của Lý Bạch. Chính
QDũng cũng nói về sự ảnh hưởng này trong các câu thơ của ơng.
Với 14 dịng thơ mở đầu, tuy hình ảnh người lính chỉ thấp thống ẩn hiện giữa thiên nhiên qua
ống kính quay cận cảnh của QDũng nhưng đoạn thơ vẫn khắc hoạ những vẻ đẹp hết sức đặc sắc từ ý
chí, nghị lực đến khí phách, tâm hồn của đồn binh Tây Tiến. Hình tượng người lính ở đây cũng mang
màu sắc được hoà trộn từ cảm hứng hiện thực cho đến cảm hứng lãng mạn, một sự hồ trộn mang
tính đặc trưng của thơ QDũng. Hiện thực và lãng mạn luôn nâng đỡ lẫn nhau trong các câu thơ trong
từng hình ảnh.
Đó là hình ảnh người lính hiện ra như một đoàn quân mỏi nhưng cũng lại là người lính tâm hồn
tràn đầy chất thơ nên giữa bao nhiêu mỏi mệt vẫn cảm nhận được vẻ đẹp của núi rừng, vẻ đẹp của
một "Mường Lát hoa về trong đêm hơi". Người lính như thả hồn vào cõi mộng của đêm hơi giữa núi
rừng, tận hưởng hương thơm của hoa rừng. Nếu cảm nhận câu thơ " Mường Lát hoa về trong đêm
hơi" như một sự cách điệu hình ảnh đồn binh Tây Tiến với những bó đuốc trên tay, hành quân qua
Mường Lát như một ai đó đã nói thì sẽ khơng thể hiểu được ý tưởng của nhà thơ muốn làm nổi bật
cái tinh tế, cái thi vị- chất thơ như một vẻ đẹp trong tam hồn người lính.
Đó cịn là hình ảnh những người lính vượt muôn trùng dốc với bao nhiêu vất vả bởi những
"khúc khuỷu", "thăm thẳm", "heo hút" nhưng đột nhiên lại xuất hiện ở tầm cao đỉnh trời trong tiếng
cười lạc quan với chi tiết "súng ngửi trời". Ta như nghe thấy tiếng cười rũ sạch mọi mệt nhọc gian
nan, rũ sạch cả bụi trường chinh trên tấm áo người chiến sĩ. Quả thực như đã nói, cho đến "Tây Tiến",
chưa ở đâu trong văn học nước ta, người lính vệ quốc, anh bộ đội cụ Hồ được đặt ở một tầm cao như
vậy. Đó là hình ảnh người lính vượt những đỉnh cao nghìn thước khơng chỉ là đỉnh cao của thiên
nhiên mà cịn là đỉnh cao của những khó khăn, thử thách nhưng tâm hồn vẫn thảnh thơi, vẫn mơ mộng
khi để lịng trải ra mênh mơng giữa khung cảnh

"Nhà ai Pha Lng mưa xa khơi"
Đó cịn là hình ảnh về sự hy sinh lặng lẽ mà rất anh hùng của những người lính Tây Tiến dọc
theo chặng đường hành quân. Thương nhớ vô cùng trong 2 chữ "anh bạn" mà nhà thơ đã nói về đồng
đội của mình bởi đó là những người bạn đã nằm lại dọc đường hành quân. Nhưng QDũng không biến
nỗi đau ấy thành sự bi luỵ khi nhà thơ viết về sự hy sinh của những người bạn như viết về giấc ngủ
Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 4


Luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

của họ. "Anh bạn dãi dầu không bước nữa - Gục lên súng mũ bỏ quên đời", nhưng tinh thần của họ
lại vút lên cùng sông núi . Họ coi cái chết nhẹ nhàng như đi vào giấc ngủ nhưng sông núi lại để niềm
nhớ thương và kiêu hãnh hoá thân thành những ngọn thác để chiều chiều oai linh gầm thét, vừa thể
hiện nỗi đau xé lòng lại vừa thể hiện khúc tráng ca muôn đời của sông núi hát về sự hy sinh của họ.
Thủ pháp tương phản được sử dụng một cách triệt để để làm vút lên vẻ đẹp tâm hồn hết sức hào
hoa của người lính, để dựng lên hình ảnh những người lính dẫu sống giữa một vùng đất hoang sơ đầy
bí hiểm, nơi cọp cịn trêu người, nhưng tâm hồn họ vẫn ngời lên một vẻ đẹp phong nhã, hào hoa trong
câu thơ:
"Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xơi "
Bao nhiêu lãng mạn gửi vào những chữ "nhớ ôi Tây Tiến...", "Mai Châu mùa em ...". Đó là
những chữ đã để lại trong tâm hồn người lính những vẻ đẹp của miền núi hoang sơ kia, vẻ đẹp mang
đậm tình người với "cơm lên khói" và "mùa em thơm nếp xơi". Lịng người Tây Tiến nhớ mãi "mùa
em", mùa những người lính Tây Tiến gặp em giữa khung cảnh hạnh phúc của xóm làng. Hương nếp
xơi cũng từ mùa em mà thơm mãi trong tâm hồn người lính.
Dẫu 14 dịng thơ mở đầu chủ yếu là khắc tạc bức tranh thiên nhiên vơ cùng hoang sơ, hiểm trở
thì cũng phải thấy Quang Dũng muốn từ thiên nhiên ấy mà làm nổi bật hình ảnh những ngươì lính
Tây Tiến với tầm vóc lớn lao, với ý chí kiên cường, với tâm hồn phơi phới niềm tin, niềm lạc quan

đã tạo nên sức mạnh đạp bằng mọi gian khổ hy sinh để đi tới. Đây là câu thơ có sức tạo hình hết sức
độc đáo. Cảm hứng lãng mạn đã làm cho hình tượng người lính trở nên rực rỡ. Hình tượng nghệ thuật
vừa bám sát hiện thực lại có sự bay bổng trong sức tưởng tượng của người đọc bởi chất lãng mạn ấy
của hồn thơ Quang Dũng.

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 5


Luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

BÀI MẪU SỐ 2:
Quang Dũng là một nhà thơ mang hồn thơ phóng khống, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa. Quang
Dũng đã sống một cuộc đời vơ cùng sơi nổi. Ơng đi nhiều, viết nhiều. Ông đã để lại nhiều tác phẩm
thể hiện được cá tính và phong cách nghệ sĩ độc đáo của một nhà thơ. Trong số nhiều tác phẩm ấy thì
bài thơ "Tây Tiến" là một trong những sáng tác đặc sắc của ông. Bài thơ "Tây Tiến" ra đời trong
những năm tháng không thể nào quên của đất nước và cuộc đời Quang Dũng. Thông qua nỗi nhớ về
một miền đất dữ dội và một quãng đời chiến đấu gian khổ cùng đồng đội sống chết bên nhau, bài thơ
đã ghi lại hào khí lãng mạn của tuổi trẻ Việt Nam trong buổi đầu kháng chiến chống Pháp. Đặc sắc
nhất là đoạn thơ miêu tả cảnh Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội và thấp thống hiện ra người lính Tây Tiến.
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi.
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm.
Heo hút cồn mây súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống.
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.

Anh bạn dãi dầu không bước nữa.
Gục lên súng mũ bỏ quên đời.
Chiều chiều oai linh thác gầm thét.
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói.
Mai Châu mùa em thơm nếp xơi.
Hai câu thơ đầu là cảm xúc ban đầu của tác giả, đó là tiếng gọi thiết tha như bật thốt tự đáy
lịng.
Sơng Mã xa rồi Tây Tiến ơi !
Nhớ về rùng núi nhớ chơi vơi.
Tác giả mở đầu bằng một câu thơ gợi nỗi nhớ nuối tiếc về quá khứ đã qua: "Sông Mã xa rồi
Tây Tiến ơi !" Trong câu thơ bảy chữ mà đã xuất hiện tới hai danh từ riêng. Nhũng tên riêng đó khơng
hề vơ cảm, vơ hồn mà lại như có linh hồn. Nó gợi cho mọi người thấy hình ảnh Tây Bắc và những
đồng đội của tác giả. Đó là những hình ảnh chưa phải đã cụ thể nhưng đã gọi lên nỗi nhớ nao lòng.
Niềm nuối tiếc về quá khứ được thể hiện trong hai từ "xa rồi". "Xa rồi" gọi sự chia li, cách biệt, "xa
rồi" Tây Bắc, "xa rồi" sông Mã, "xa rồi" những người đồng chí, đồng đội đã từng gắn bõ một thời với
nhà thơ.
Câu thơ đầu tiên nỗi nhớ chưa được cụ thể hóa, nhưng đến câu thơ thứ hai, nỗi nhớ được miêu
tả rất cụ thể: "Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi". Câu thơ ngắt nhịp 3/4. Ở vế đầu gợi khơng gian nhớ,
đối tượng nhớ, sau đó tác giả gọi tên nỗi nhớ là "nhớ chơi vơi". Hai vế khơng có sự đối lập mà tạo
nên sự tương đồng, tương hỗ với nhau. Nỗi nhớ về núi rừng là nguyên nhân tạo nên nỗi "nhớ chơi
Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 6


Luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

vơi". "Nhớ chơi vơi" là nỗi nhớ cồn cào, ám ảnh, là nỗi nhớ da diết, khắc khoải. Nó tạo nên cái cảm

giác hụt hẫng, hững hờ trước cảnh và người đã gắn bó thân thiết từ lâu. Hai từ "nhớ" lặp đi lặp lại
trong câu thơ như những đợt sóng lịng khơng dứt cứ ào ạt đổ về trong lòng tác giả. Sự da diết, khắc
khoải, hụt hẫng cứ dâng trào khơng gì khảo lấp được. Nó đọng lại trong lịng người đọc một nỗi nhớ
rất riêng của nhà thơ Quang Dũng. Âm hưởng của câu thơ ngân dài, lan tỏa bởi vần "ơi" lặp lại tới
ba lần, như tiếng vọng vào vách đá, vang xa, vang mãi. Tiếng gọi "Tây Tiến ơi" tha thiết như tiếng
gọi người yêu. Sau tiếng gọi ấy là bao nhiêu hình ảnh của quãng đời chiến đấu gian khổ đã qua hiện
về trong tâm tưởng nhà thơ như những thước phim quay chậm.
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi.
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm.
Heo hút cồn mây súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống.
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Trong đoạn thơ này, cảnh rừng núi miền Tây Bắc hiện ra thật sinh động dưới ngòi bút tả thực
sắc xảo của nhà thơ. Đoạn thơ là một thế giới của một quá khứ hiện về lung linh trong nỗi nhớ với
nét đẹp dữ dội, hoang sơ xen lẫn vẻ tươi mát, thơ mộng của thiên nhiên. Hai câu thơ: "Sài Khao sương
lấp đoàn quân mỏi - Mường Lát hoa về trong đêm hơi" miêu tả những không gian cụ thể là "Sài Khao"
và "Mường Lát". Ở đây ta bắt gặp hai địa danh với cái tên rất lạ, gợi đến miền đất xa xôi, vắng vẻ,
hoang vu và bí hiểm. Sài Khao hiện về một đồn qn mệt mỏi đi trong "sương lấp" - đó là những
mảng sương dày tưởng chừng như che lấp tầm mắt con người. Nó gợi cho ta thấy hồn cảnh đồn
qn Tây Tiến lúc bấy giờ phải đối mặt với khí hậu khắc nhiệt trong khi thể chất đang mệt mỏi.
Mường Lát làm hiện lên sự đối lập với không gian Sài Khao, vì nó xuất hiện hình ảnh "hoa" - hình
ảnh tượng trưng cho cái đẹp. Có thể đó là những bơng hoa rừng được người lính Tây Tiến cảm nhận
thấy qua khứu giác, qua thị giác, hay cũng có thể là hoa trong tâm tưởng. Nhưng dù hiểu theo cách
nào, dù là hoa thực hay hoa trong tâm tưởng cũng đều gợi đến cái đẹp, đó là sự minh chứng cho vẻ
đẹp tinh thần và tâm hồn người lính. Vẻ đẹp ấy của những người lính thật lãng mạn và thơ mộng.
Sự khó khăn và gian khổ của người lính phải trải qua đâu chỉ có sương lấp, sương dày nữa mà
cịn có biết bao khó khăn và nguy hiểm hơn.
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm.
Heo hút cồn mây súng ngửi trời.

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống.
Đầu tiên là con đường hành quân hiện lên khúc khuỷu, thăm thẳm: "Dốc lên khúc khuỷu dốc
thăm thẳm". Đây là câu thơ giàu chất tạo hình. Tác giả dùng từ láy tượng hình "khúc khuỷu, thăm
thẳm" để vẽ lên dốc núi quanh co, nguy hiểm mà lại tạo nên độ cao, độ sâu đến khôn cùng. Câu thơ
xuất hiện hai vế tiểu đối đã làm nổi bật nên sự hùng vĩ, hiểm trở của dốc núi. "Dốc lên" lại vừa cao,
vừa khúc khuỷu, dốc xuống thì sâu hun hút. Hai từ "dốc" đứng đầu hai vế tiểu đối tạo nên không gian
ba chiều: chiều cao, chiều rộng và chiều sâu. Dường như dốc núi còn được miêu tả hùng vĩ, dữ dội
hơn ở câu thơ: "Heo hút cồn mây súng ngửi trời". "Heo hút" là từ láy tượng hình khơng chỉ hàm chúa
độ cao, độ sâu mà còn hàm chứa sự lạnh lẽo, hoang vu, vắng lặng. Đó là biểu hiện của không gian
cao vô cùng - là không gian lên tận trời mây. Và trong không gian này ta thấy thấp thoáng những
Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 7


Luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

người lính Tây Tiến qua hình ảnh "súng ngửi trời". Đây là cách nói rất lính thể hiện tinh thần của
người lính với tâm hồn vơ tư và hồn nhiên. Qua đó chúng ta không chỉ thấy được độ cao vô cùng của
dốc núi mà cịn thấy được ý chí của những người lính Tây Tiến mặc dù thân xác bé nhỏ nhưng tinh
thần của họ rất lớn vì "dốc núi có cao nhưng lịng quyết tâm cịn cao hơn núi". Với ý chí và tinh thần
như vậy, những người lính đi qua những dốc núi đẹp. Những bước chân của các anh dường như đã
đo đếm được độ dài của dốc núi: "Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống". Câu thơ ngắt nhịp 4/3 với
hai vế tiểu đối, đối lập giữa cao và thấp, giữa lên và xuống. Câu thơ như bẻ làm đôi, diễn tả dốc núi
vút lên cao rồi đổ xuống gần như thẳng đứng. Độ cao được xác định là "ngàn thước" đã gợi độ gấp
khúc cho con đường hành qn thì sự khó khăn, vất vả và nguy hiểm mà những người lính phải trải
qua ngày càng nhiều.
Quang Dũng là một nhà thơ rất khéo tài khi sử dụng những thanh bằng, thanh trắc trong thơ.
Trong ba câu thơ này thì tác giả sử dụng tồn thanh trắc, kết hợp với nhiều từ láy có tác dụng gợi cảm

cho con đường hành quân khúc khuỷu và hiểm trở, song đó cũng là bức tranh thiên nhiên hồnh tráng,
hùng vĩ của miền Tây. Đó là những câu thơ được vẽ bằng những nét vẽ gân guốc thì đến câu thơ tiếp
theo được vẽ bằng một nét vẽ mềm mại với thanh bằng khiến cho người đọc có cảm giác như đang
trong trạng thái căng thẳng tới tột cùng bỗng được trở về với sự yên tĩnh của tâm hồn: "Nhà ai Pha
Luông mưa xa khơi". Một không gian nữa lại xuất hiện, đó là khơng gian "Pha Lng", một khơng
gian êm đềm và bình n. Dường như đó là giấc mơ của người lính Tây Tiến về một mái ấm gia đình.
Khơng gian đó rất xa xơi vì thấp thống ẩn hiện trong những cơn "mưa xa".
Những cuộc hành quân trong hồn cảnh gian khổ, khắc nghiệt khiến cho khơng ít những người
lính Tây Tiến đã ngã xuống trên đường hành qn. Ngịi bút của Quang Dũng khơng bỏ qua hiện thực
khốc liệt ấy:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa.
Gục lên súng mũ bỏ quên đời !
"Dãi dầu" là hoàn cảnh người lính Tây Tiến phải trải qua. Hồn cảnh ấy làm cho người lính
Tây Tiến "khơng bước nữa" và "gục lên súng mũ" rồi "bỏ quên đời". Những cụm từ đã diễn tả sự hi
sinh của người lính Tây Tiến trong hồn cảnh rất riêng. Sự hi sinh đó khơng phải vì súng đạn mà là
sự hi sinh do hoàn cảnh khắc nghiệt cảu thiên nhiên. Bởi vậy, dường như cái chết từ lâu đã nằm trong
tiền thức của những người lính Tây Tiến. Vậy mà họ vẫn đối mặt với cái chết nhẹ nhàng, bởi vì họ
coi cái chết nhẹ tựa hồng mao. Họ đúng là những con người dũng cảm và ngoan cường.
Hai câu thơ tiếp theo miêu tả thiên nhiên hùng vĩ, hoang dã đầy đe dọa với núi cao, vực thẳm,
thác gầm, thú dữ,... tưởng chừng nuốt chửng, đè bẹp những ai muốn đối đầu với nó:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét.
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Hai câu thơ xuất hiện hai hình ảnh "thác" và "cọp". Thác diễu võ dương oai với con người bởi
âm thanh "gầm thét". Thứ âm thanh vang dội, rùng rợn - oai linh của rừng già. Oai linh đó cịn thể
hiện qua hình ảnh "cọp trêu người". Những người lính Tây Tiến cịn phải đối mặt rất gần với chúa tể
rừng xanh. "Trêu" là động từ khiến cho cái nỗi sợ hãi của người lính lù xa. Đây là sự dí dỏm, hài hước
của anh bộ đội cụ Hồ. Vẻ hoang sơ, dữ dội chứa đầy bí ẩn của núi rừng miền Tây được nhà thơ miêu
tả khơng chỉ theo chiều khơng gian mà cịn được khám phá ở chiều thời gian. Tác giả mở đầu hai câu
thơ bằng cụm từ "chiều chiều, đêm đêm" để gợi tả thời gian liên tiếp theo vịng tuần hồn. Và do vậy,


Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 8


Luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

người lính Tây Tiến luôn phải đối mặt với oai linh rừng rạp vừa rất gần, vừa lại liên tục. Nó ln là
mối nguy hiểm đáng sợ đối với con người.
Hai câu thơ cuối gợi cảm giác tươi mát, ngọt ngào về cuộc sống thanh bình thống bắt gặp trên
đường hành qn:
Nhớ ơi Tây Tiến cơm lên khói.
Mai Châu mùa em thơm nếp xơi.
Câu thơ mở đầu bằng cụm từ cảm thán "nhớ ôi" cho ta thấy tình cảm của tác giả được hướng
vào nội tâm. Và nỗi nhớ ấy khơng kìm nén nổi để rồi bật thốt thành lời. Từ nỗi nhớ đó, nhà thơ gọi
về rất nhiều hình ảnh trong hồi niệm, trong q khứ. Hình ảnh "cơm lên khói" đã tác động vào thị
giác, khướu giác, vị giác và tâm hồn nhà thơ. Đây nữa "Mai Châu" một bản làng với cái tên rất đẹp
và nỗi nhớ gọi về cái hương vị thơm nồng của "nếp xôi". Trong câu thơ Quang Dũng sử dụng một từ
hoàn toàn sáng tạo "mùa em" - mùa nằm trong quyền sở hữu của em. Đọng lại trong hai câu thơ là
hình ảnh người con gái Mai Châu cần cù, tần tảo và có vẻ đẹp tâm hồn trong sáng.
Mở đầu đoạn thơ là nỗi nhớ, kết thúc đoạn thơ cũng là nỗi nhớ và nỗi nhớ ấy bàng bạc trong
cả đoạn thơ. Qua nỗi nhớ tác giả đã gọi về những âm thanh, hương vị, cảnh vật và con người. Và qua
nỗi nhớ ấy ta thấy được tình yêu của Quang Dũng với mảnh đất Tây Bắc, con người Tây Bắc, với
những người đồng chí, đồng đội của mình. Đó cũng là tình u q hương, đất nước và con người
của nhà thơ đã được khắc họa rõ nét, sâu sắc qua đoạn thơ.

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 9



Luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

BÀI MẪU SỐ 3:
Năm 1948. cuộc kháng chiến của quân và dân ta chống thực dân Pháp bước sang năm thứ ba.
Ta vừa thắng lớn trên chiến trường Việt Bắc thu đông 1947.
Chặng đường lịch sử phía trước của dân tộc cịn đầy thử thách gian nan. Cuộc kháng chiến đã
chuyển sang một giai đoạn mới. Tiền tuyến và hậu phương tràn ngập tinh thần phấn chấn và quyết
thắng. Thời gian này, văn nghệ kháng chiến thu được một số thành tựu xuất sắc. Một số bài thơ hay
viết về anh bộ đội Cụ Hồ nối tiếp nhau xuất hiện: Lên Tây Bắc (Tố Hữu), Đồng Chí (Chính Hữu),
Nhớ (Hồng Nguyên)... và Tây Tiến của Quang Dũng.
Quang Dũng viết Tây Tiến vào năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, một làng ven con sông Đáy hiền
hòa. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ đồng đội thân yêu, nhớ đoàn binh Tây Tiến, nhớ bản
mường và núi rừng miền Tây, nhớ kỉ niệm đẹp một thời trận mạc... Nói về nỗi nhớ ấy, bài thơ đã ghi
lại hào khí lãng mạn của tuổi trẻ Việt Nam, của “bao chiến sĩ anh hùng” trong buổi đầu kháng chiến
chống Pháp vô cùng gian khổ mà vinh quang.
Tây Tiến là tên gọi của mội đơn vị bộ đội hoạt động tại biên giới Việt - Lào, miền Tây tỉnh
Thanh Hóa và Hịa Bình. Quang Dũng là một cán bộ đại đội của “đồn binh khơng mọc tóc” ấy, đã
từng vào sinh ra tử với đồng đội thân yêu.
Hai câu thơ đầu nói lên nỗi nhớ, nhớ miền Tây, nhớ núi rừng, nhớ dịng sơng Mã thương yêu:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi.
Đã “xa rồi” nên nỗi nhớ không thế nào ngi được, nhớ da diết đến quặn lịng, đó là nỗi nhớ
“chơi vơi”. Tiếng gọi “Tây Tiến ơi” vang lên tha thiết như tiếng gọi người thân yêu. Từ cảm “ơi!”
bắt vần với từ láy “chơi vơi” tạo nên âm hưởng câu thơ sâu lắng, bồi hồi, ngân dài, từ lòng người
vọng vào thời gian năm tháng, lan rộng lan xa trong không gian. Hai chữ “xa xôi” như một tiếng thở
dài đầy thương nhớ, hô ứng với điệp từ “nhớ” trong câu thơ thứ hai thể hiện một tâm tình đẹp của
người chiến binh Tây Tiến đối với dịng sơng Mã và núi rừng miền Tây. Sau tiếng gọi ấy, biết bao

hoài niệm về một thời gian khổ hiện về trong tâm tưởng.
Những câu thơ tiếp theo nói về chặng đường hành quân đầy thử thách gian nan mà đoàn binh
Tây Tiến từng nếm trải. Các tên bản, tên mường: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch,
Mai Châu... được nhắc đến không chỉ gợi lên bao thương nhớ vơi đầy mà còn để lại nhiều ấn tượng
về sự xa xôi, heo hút, hoang dã, thâm sơn cùng cốc... Nó gợi trí tị mị và háo hức của những chàng
trai “Từ thuở mang gươm đi giữ nước - Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long”. Đồn binh hành
qn trong sương mù giữa núi rừng trùng điệp:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
Bao núi cao, đèo cao, dốc th ẳng dựng thành phía trước mà các chiến sĩ Tây Tiến phải vượt qua.
Dốc lên thì “khúc khuỷu” gập gềnh , dốc xuống thì “thăm thẳm” như dẫn đến vực sâu. Các từ
“khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” đặc tả gian khổ, gian truân của nẻo đường hành quân chiến
đấu: “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm - Heo hút cồn mây súng ngửi trời!”. Đỉnh núi mù sương
cao vút. Mũi súng của người chiến binh được nhân hóa tạo nên một hình ảnh: “súng ngửi trời” giàu

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 10


Luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

chất thơ, mang vẻ đẹp cảm hứng lãng mạn, cho ta nhiều thi vị. Nó khẳng định chí khí và quyết tâm
của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao mà đi tới "Khó khăn nào cũng vượt qua - Kẻ thù nào cũng
đánh thắng!”. Thiên nhiên núi đèo xuất hiện như để thử thách lòng người: “Ngàn thước lên cao, ngàn
thước xuống”. Hết lên lại xuông, xuống thấp lại lên cao, đèo nối đèo, dốc tiếp dốc, không dứt. Câu
thơ được tạo thành hai vế tiểu đối: “Ngàn thước lên cao // ngàn thước xuống”, hình tượng thơ cân
xứng hài hịa, cảnh tượng núi rừng hùng vĩ được đặc tả, thể hiện một ngịi bút đầy chất hào khí của
nhà thơ — chiến sĩ.

Có cảnh đồn qn đi trong mưa: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Câu thơ dược dệt bhng
những thanh bằng liên tiếp, gợi tả sự êm dịu, tươi mát, của tâm hồn những người lính trệ, trong gian
khổ vẫn lạc quan yêu đời. Trong màn mưa rừng, tầm nhìn của người chiến binh Tây Tiến vẫn hướng
về những bản mường, những mái nhà dân hiền lành và yêu thương, nơi mà các anh sẽ đến, đem xương
máu và lòng dũng cảm để bảo vệ và giữ gìn.
Ta trở lại đoạn thơ trên, gian khổ không chỉ là núi cao dốc thẳm, khơng chỉ là mưa lũ thác ngàn
mà cịn có tiếng gầm của cọp beo nơi rừng thiêng nước độc, nơi đại ngàn hoang vu:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đèm Mường Hịch cọp trêu người.
“Chiều chiều...” rồi “đêm đêm” ln có nhừng tiếng gầm thét, những âm thanh ấy khẳng định
cái bí mật, cái uy lực khủng khiếp ngàn đời của chốn rừng thiêng. Chất hào sảng trong thơ Quang
Dũng là lấy ngoại cảnh núi rừng miền Tây hiểm nguy để tơ đậm và khắc họa chí khí anh hùng của
đồn qn Tây Tiến. Mỗi vần thơ đã để lại trong tâm trí người đọc một ấn tượng: gian nan tột bậc mà
cũng can trường tột bậc! Đoàn quân vẫn tiến bước, người nối người, băng lên phía trước. Uy lực thiên
nhiên như bị giảm xuống và giá trị con người như được nâng cao hẳn lên một tầm vóc mới. Quang
Dũng cũng nói đến sự hi sinh của đồng đội trên những chặng đường hành quân vô cùng gian khổ:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời...
Hiện thực chiến tranh xưa nay vốn như thế! Sự hi sinh của người chiến sĩ là tất yếu. Xương
máu đổ xuống để xây đài tự do. Vần thơ nói đến cái mất mát, hi sinh nhưng không chút bi lụy, thảm
thương.
Hai câu cuối đoạn thơ, cảm xúc bồi hồi tha thiết, như lời nhắn gửi của một khúc tâm tình, như
tiếng hát cúa một bài ca hoài niệm, vừa bâng khuâng, vừa tự hào:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xơi.
“Nhớ ơi!” là tình cảm dạt dào, là tiếng lịng của các chiến sĩ Tây Tiến “đồn binh khơng mọc
tóc”. Câu thơ đậm đà tình qn dân. Hương vị bản Mường với “cơn lên khói”, với “mùa em thơm
nếp xơi” có bao giờ qn? Hai tiếng “mùa em” là một sáng tạo độc đáo về ngôn ngữ thi ca, có hàm
chứa bao tình thương nỗi nhớ, điệu thơ trở nên uyển chuyển, mềm mại, tình thơ trở nên ấm áp. Cũng
nói về hương nếp, hương xơi. về “mùa em” và tình quân dân, sau này Chế Lan Viên viết trong bài

Tiếng hát con tàu.
Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vất xôi nuôi quân em giấu giữa rừng

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 11


Luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

Đất Tây Bắc tháng ngày khơng có lịch
Bữa xơi đầu cịn tỏa nhớ mùi hương.
“Nhớ mùi hương”, nhớ “cơm lên khói”, nhớ “thơm nếp xơi” là nhớ hương vị núi rừng Tây Bắc,
nhớ tình nghĩa, nhớ tấm lòng cao cả của đồng bào Tây Bắc thân yêu.
Mười bốn câu thơ trên đây là phần đầu bài Tây Tiến, một trong những bài thơ hay nhất viết về
người lính trong chín năm kháng chiến chống Pháp. Bức tranh thiên nhiên hồnh tráng, trên đó nổi
bật lên hình ảnh chiến sĩ can trường và lạc quan, đang dấn thân vào máu lửa với niềm kiêu hãnh
“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh...”. Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến
mà sự thành cơng là ở sự kết hợp hài hịa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Nửa thế
hệ đã trôi qua, bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng vẫn giữ được giá trị cùa mình.

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 12


Luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai


BÀI MẪU SỐ 4:
Mở bài
Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viêt văn, vẽ tranh, soạn nhạc. Nhưng trước hết ông
vẫn là một nhà thơ xuất sắc của thi ca Việt Nam hiện đại, một nhà thơ trưởng thành từ cuộc sống
kháng chiến chống Pháp, một hồn thơ phóng khống và tâm huyết, một tiếng thơ tinh tế và lãng mạn...
Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ Quang Dũng, thể hiện tập trung những nét đặc sắc trong
phong cách nghệ thuật của nhà thơ. Tây Tiến cũng là một trong số những bài thơ hay nhất viết về đề
tài người lính của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Cả bài thơ là nỗi nhớ da diết của Quang Dũng
hướng về những kỉ niệm không thể nào quên với miền Tây và trung đoàn Tây Tiến.
II. Thân bài
Trong 14 câu đầu, nỗi nhớ của nhà thơ chủ yếu hướng về chặng đường hành quân gian nan, vất
vả của đoàn quân Tây Tiếnqua vùng rừng núi miền Tây. Thông qua những kỉ niệm với thiên nhiên,
con người, Quang Dũng đã khắc họa vẻ đẹp hào hoa, hào hùng của con người chiến binh Tây Tiến.
Câu thơ đầu chia thành hai vế trong nhịp ngắt 4 - 3:
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!"
Sơng Mã là dịng sơng chảy dọc theo địa bàn biên giới Việt - Lào của các tỉnh Mộc Châu, Sầm
Nưa, Mai Châu, Quan Hóa... Đây là dịng sơng nhiều ghềnh thác đổ dốc dữ dội, một mình băng băng
giữa núi rừng hùng vĩ, hai bên bờ sông còn rải rác mồ của các chiến sĩ Tây Tiến. Vì thế, sơng Mã là
một cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, là hình ảnh của thiên nhiên miền Tây; nhưng dịng sơng Mã cịn là
dịng sơng gắn liền với chặng đường hành quân của trung đòan, từng chia sẻ và chứng kiến những
buồn vui, những mất mát, hi sinh, từng "gầm lên khúc độc hành" tiễn đưa tử sĩ... Sông Mã đựng đầy
kỉ niệm về trung đoàn Tây Tiến năm xưa. Hành hương trở về quá khứ, Quang Dũng đã nhắc tới sông
Mã như một biểu tượng đầu tiên của nỗi nhớ
Bài thơ được viết khi Quang Dũng đang ở Phù Lưu Chanh, xa trung đoàn, xa đồng đội, xa núi
rừng miền Tây và dịng sơng Mã thân u. Nhịp ngắt 4 - 3 tạo cảm giác như có một phút ngừng lặng
để cảm nhận sự trống trải, mênh mông trong thực tại bởi"sơng Mã xa rồi...", để sau đó, hiện thực mờ
đi, nỗi nhớ ùa vào trong tiếng gọi tha thiết hướng về quá khứ: "Tây Tiến ơi!".Tiếng gọi ấy không
dừng lại trong câu thơ đầu mà như để ngân nga nỗi tiếp trong vần "ơi" của từ láy "chơi vơi" trong câu
thứ hai. Phép điệp vần tinh tế khiến tiếng gọi như âm vang, đập vào vách đá, dội lại lòng người, da

diết, bâng khuâng... Sau tiếng gọi ấy, nỗi nhớ ào ạt, trào dâng trong câu thơ tiếp theo:
"Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi!"
Từ "nhớ" điệp lại ở đầu hai vế câu diễn tả một nỗi nhớ day dứt, ám ảnh, không thể nguôi ngoai.
Vế đầu của câu thơ xác định đối tượng của nỗi nhớ: "nhớ về rừng núi". Đó là khơng gian mênh mơng
của miền Tây với những địa danh như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông... những địa danh vừa gợi
lên kỉ niệm về con đường hành quân gian truân, vất vả, vừa gây ấn tượng mạnh mẽ về miền đất heo
hút, hoang sơ...
Và vì thế, nỗi nhớ khơng chỉ dừng lại ở "rừng núi", nỗi nhớ còn hướng về những năm tháng
quá khứ đầy kỉ niệm và những đồng đội thân yêu nay kẻ còn người mất.
Vế sau của câu thơ dành để miêu tả sắc thái của nỗi nhớ. "Chơi vơi" là từ láy vần gợi đọ cao
phiêu du, bay bổng, là từ láy thật phù hợp để miêu tả nỗi nhớ hướng về vùng núi cao miền Tây. Hơn
Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 13


Luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

nữa, từ láy "chơi vơi" còn gợi cảm giác về nỗi nhớ da diết, mơ hồ, đầy ám ảnh, một nỗi nhớ lơ lửng
ăm ắp khơn ngi. Có thể thấy hai câu thơ đầu đã thể hiện cảm hứng chủ đạo của đoạn thơ, cũng là
của bài thơ, đó là nỗi nhớ tha thiết của người cựu chiến binh miền Tây hướng về miền Tây, về trung
đòan Tây Tiến, về những năm tháng quá khứ khơng thể nào qn.
a. Kí ức về miền Tây
Thơng qua những nét vẽ thật tài hoa, vừa chân thực, vừa thấm đẫm chất lãng mạn, Quang Dũng
đã làm hiện lên bức tranh của thiên nhiên miền Tây heo hút, hiểm trở nhưng vô cùng hùng vĩ, thơ
mộng và xiết bao kì thú. Nét đặc sắc đầu tiên của thiên nhiên miền Tây trong kí ức của Quang Dũng
chính là màn sương rừng mờ ảo: sương phủ dày ở Sài Khao, sương bồng bềnh ở Mường Lát... Đó
khơng chỉ là màn sương của thiên nhiên mà còn là màn sương mờ của kỉ niệm, của nỗi nhớ nhung:
"Sài Khao sương lấp đòan quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi"
Bút pháp hiện thực trong câu thơ trên đã miêu tả một đồn qn dãi dầu, mệt mỏi, thấp thống
ẩn hiện trong sương. Nhịp ngắt 4 - 3 khiến trọng tâm câu thơ rơi và chữ "lấp" - một động từ có sức
gợi tả; màn sương rừng miền Tây mênh mơng, dày đặc, che kín của một "địan qn", trùm phủ, khuất
mờ rừng núi khiến con đường hành quân của chiễn sĩ thêm vất vả, gian lao. Tới câu thơ sau, hiện thực
khắc nghiệt đã được thi vị hóa bởi cảm hứng lãng mạn: đêm sương trở thành "đêm hơi" bồng bềnh;
những ngọn đuối soi đường di chuyển dọc theo con đường chiến sĩ hành qn được nhìn thành những
đóa "hoa" chập chờn, lung linh, huyền ảo...Những thanh bằng nhẹ bỗng trong câu thơ càng làm đậm
thêm sự hư ảo của màn sương rừng. Sự khắc nghiệt của thiên nhiên đã được cảm nhận một cách thi
vị bởi những tâm hồn lãng mạn, hào hoa.
Nhớ đến miền Tây, không thể nào quên được sự hiểm trở và hùng vĩ vô cùng của dốc núi. Ba
câu thơ tiếp theo đã miêu tả thật sắc nét khung cảnh thiên nhiên hùng vũ và hiểm trở ấy, qua đó làm
hiện lên cuộc hành quân gian lao, vất vả, ý chí bất khuất, kiên cường, tinh thần lạc quan, yêu đời của
người lính Tây Tiến. Câu thơ thứ nhất tập trực tiếp miêu tả dốc núi miền Tây trập trùng, hiểm trở:
"Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm"
Sự phối hợp dày đặc của năm thanh trắc đã tạo ra âm hưởng gập ghềnh cho một câu thơ bảy
chữ khiến người đọc có thể hình dung ra phần nào cuộc hành quân gian truân, vất vả vơ cùng của
chiến sĩ Tây Tiến trong một địa hình mà sự hiểm trở được gợi ra ngay trong nhạc điệu của câu thơ.
Câu thơ ngắt nhịp 4 - 3, từ "dốc" điệp lại ở đầu hai vế câu thơ đã thể hiện sự trùng điệp, chồng chất,
nối tiếp như tới vô tận của những con dốc, cũng phần nào gợi lên nỗi nhọc nhằn của người lính trên
đường hành quân: con dốc này chưa qua, con dốc khác lại đợi sẵn, núi rừng miền Tây như muốn thử
thách ý chí, nghị lực của các anh.
Sự hiểm trở của dốc núi miền Tây cũng hiện ra trong ý nghĩa tạo hình và biểu cảm của những
từ láy "khúc khuỷu" và"thăm thẳm". "Khúc khuỷu" miêu tả sự gồ ghề, gập ghềnh của dốc núi ngay
dưới chân chiến sĩ. Còn từ láy "thăm thẳm"lại gợi độ cao hun hút, độ xa vời khi đưa mắt nhìn tiếp
con đường hành quân vẫn cheo leo, ngút ngàn như khôn cùng. Con đường lên miền Tây quả là "khó
như đi lên trời xanh".
Dốc núi miền Tây còn được gợi tả gián tiếp trong câu thơ sau với việc tô đậm ấn tượng về một
độ cao chót vót:
"Heo hút cồn mây súng ngửi trời"

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 14


Luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

Từ láy "heo hút" vừa gợi cao, vừa gợi xa, vừa gợi vắng được đảo lên đầu câu như để nhấn mạnh
sự hoang sơ, xa vắng, thăm thẳng như vô tận của dốc núi miền Tây trong cảm nhận của chiến sĩ Tây
Tiến - những chàng trai đến từ thủ đơ hoa lệ. Cịn "cồn mây" lại là một ẩn dụ đặc sắc cho thấy mây
núi miền Tây bồn bề, chồng chất, dựng lên thành dốc, thành cồn; từ đó câu thơ gián tiếp cho thấy dốc
núi miền Tây cao đến mứa con đường như lấn vào mây, mây bao phủ đường lối, mây mờ mịt trập
trùng, mây khiến con đường hành quân của chiến sĩ càng thêm cheo leo, hiểm trở, hoang vu. Vế sau
của câu thơ cũng tiếp tục gợi tả độ cao của dốc núi khi người lính như đi trong mây, mũi súng như
chạm tới đỉnh trời. Đó là một cảm nhận có thực của thị giác khi những người lính hành qn trên dốc
núi miền Tây, địa hình heo hút, hiểm trở, làm tăng thêm những vất vả, gian trn cho người lính.
Nhưng bằng cách nói tếu táo, hóm hỉnh đầy chất lính trong hình ảnh nhân hóa "súng ngửi trời", Quang
Dũng đã cho thấy tâm hồn trẻ trung của những người lính phong trần coi thường gian lao, vất vả. Có
nhà thơ đã cho rằng hình ảnh "súng ngửi trời" là "trung tâm hùng tráng của bức tranh hiểm trở, bởi ở
chỗ cao ấy, có con người". Và do vậy, câu thơ không chỉ gợi lên sự hiểm trở của dốc núi, sự tươi trẻ,
lạc quan của chiến sĩ Tây Tiến, tứ thơ còn khiến các anh hiện ra trong dáng vẻ ngang tàng, kiêu dũng
của những chàng trai chinh phục độ cao.
Dốc núi lại tiếp tục được miêu tả trong một nét vẽ sắc sảo và gân guốc:
"Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống"
Điệp ngữ "ngàn thước" là một ước lệ nghệ thuật có tính định lượng, khắc họa vẻ đẹp hùng vĩ,
chênh vênh, kì thú của núi rừng miền Tây. Yếu tố tương đồng của điệp ngữ "ngàn thước" và tính chất
tương phản của các động từ "lên - xuống"trong hai vế câu đã tạo ra cảm giác về một nét gập đột ngột,
dữ dội cho câu thơ, cũng là cách để nhà thơ gợi tả thật tài hoa độ của của dốc, độ sâu của vực: bên
này đường lên núi dựng đứng, vút cao; bên kia vực đổ xuống hun hút, hiểm trở.

Trong cả ba câu thơ đặc bịêt giàu tính tạo hình và biểu cảm, dốc núi miền Tây được miêu tả
hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp nhưng đều khắc họa được đồng thời cả sự hiểm trở lẫn vẻ đẹp hùng vĩ,
kì thú. Thơng qua bức tranh thiên nhiên, có thể thấy vẻ đẹp tâm hồn của những người lính Tây Tiến:
họ lạc quan, mạnh mẽ, coi thường mọi gian truân, vất vả; những thử thách của thiên nhiên chỉ càng
làm rõ hơn ý chí, sức mạnh, tâm hồn trẻ trung và tư chất nghệ sĩ của họ.
Sau những câu thơ hun hút, nhọc nhằn miêu tả dốc núi, câu thơ tả mưa miên man trong bảy
thanh bằng, cùng với rất nhiều âm tiết mở; câu thơ đã gợi tả một không gian mênh mang, dàn trải,
nhạt nhịa trong mưa:
"Nhà ai Pha Lng mưa xa khơi"
Hình ảnh "mưa xa khơi" có thể coi là một ẩn dụ cho thấy cả thung lũng mờ mịt như lỗng tan
trong miền mưa, khơng gian bỗng như mênh mang, xa vời hơn... Sau những chặng đường hành qn
gian khổ, người lính như đang dừng chân đâu đó, đưa mắt nhìn cả núi rừng chìm trong mưa. Ánh mắt
những người lính xa nhà bâng khuâng hướng tới những ngơi nhà bồng bềnh, thấp thống, ẩn hiện
trong màn mưa hư ảo... Sắc thái phiếm chỉ khiến cụm từ "nhà ai" trở nên mơ hồ, xa xăm. Sắc thái
nghi vấn lại gợi nỗi trăn trở trong lòng người. Cả câu thơ chỉ có duy nhất tiếng "nhà" mang thanh
huyền như một thống trầm lắng, suy tư để rồi sau đó, tất cả những thanh không chơi vơi trong nỗi
nhớ. Giữa mưa rừng buốt lạnh, giữa núi rừng mênh mơng, hình ảnh ngôi nhà gợi cảm giác ấm áp,
nhớ nhung dễ làm xao xuyến lòng người xa quê.
Núi rừng miền Tây tiếp tục được miêu tả trong những nét vẽ đầy ấn tượng:

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 15


Luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

"Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người"

"Thác gầm thét" và "cọp trêu người" là hai hình ảnh nhân hóa thể hiện sự dữ dội, hoang sơ đầy
bí hiểm của núi rừng miền Tây. Bút pháp đối lập của cảm hứng lãng mạn được sử dụng trong phép
đối thanh rất tinh tế ở hai câu thơ này. Nếu câu trên có các tiếng "thác", "thét" mang thanh trắc ở âm
vực cao thì câu dưới là các tiếng "Hịch", "cọp" cũng mang thanh trắc nhưng lại thuộc âm vực thấp.
Và có thể thấy những dấu sắc trong câu trên như gợi âm thanh của tiếng thác nước man dại ở vòm
cao thăm thẳm; những dấu nặng liên tiếp trong câu thơ dưới lại như một phỏng tiếng bước chân nặng
nề của thú dữ, gợi ra cái thâm u, bí ẩn đầy đe dọa ở vòm tối thấp của núi rừng.
"Chiều chiều" và "đêm đêm" là những trạng ngữ chỉ dòng thời gian tuần hòan, miên viễn, vĩnh
hằng. Những sức mạnh thiên nhiên khủng khiếp đã ngự trị núi rừng miền Tây không phải một chiều,
một đêm mà là "chiều chiều - đêm đêm" - sự ngự trị muôn đời! Nhưng cũng chính điều này lại càng
khiến chân dung người chiến sĩ Tây Tiến thêm hào hùng, mạnh mẽ: họ đã hành quân qua những vùng
đất hoang sơ, dữ dội, vắng bóng con người, những vùng đất tưởng như chỉ là vương quốc riêng của
heo hút mây trời, của rừng thiêng nước độc; vùng đất ấy nay đã in dấu chân của những người chiến
sĩ kiên cường, dũng cảm trong đoàn quân Tây Tiến.
b. Kí ức về người lính Tây Tiến trên đường hành quân
Sự vất vả, gian truân cũng như vẻ đẹp trong tâm hồn người lính Tây Tiến đã ít nhiều thể hiện
trong những câu thơ miêu tả cảnh thiên nhiên miền Tây và hành trình qua miền Tây, ngịai ra cịn có
những câu thơ trực tiếp miêu tả hình ảnh người lính cũng như những kỉ niệm của họ trong chặng
đường hành quân. Trước hết là một kí ức sâu đậm của Quang Dũng về hình ảnh một người chiến sĩ
Tây Tiến trên đường hành quân:
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!"
Từ láy "dãi dầu" đã thể hiện tòan bộ những vất vả, nhọc nhằn của các anh khi hành quân qua
miền Tây, khi vượt qua những núi cao, vực sâu, thác ghềnh dữ dội, vượt qua những nắng mưa, sương
gió miền Tây . . . Hai câu thơ tựa nhưa một bức kí họa đầy ấn tượng về người lính Tây Tiến. Có thể
hiểu đây là hình ảnh người lính phong trần bng mình vào giấc ngủ hiếm hoi trong phút dừng chân,
một giấc ngủ mệt nhọc nhưng vô tư, trẻ trung. Cũng có thể hiểu đây là câu thơ miêu tả một thực tế
đau xót trên chiến trường khi người lính kiệt sức gục ngã khơng thể bước tiếp cùng đồng đội. Tuy
nhiên có thể thấy người lính gục xuống khi đang đi giữa hàng quân nhưng "súng mũ" vẫn bên mình.
Như vậy là dù khơng vượt qua được khó khăn nhưng các anh cũng khơng thóai lui, chùn bước, khơng

đầu hàng khó khăn, khơng rời bỏ đội ngũ. Và nhất là với cách diễn đạt chủ động trong hai cụm từ
"không bước nữa" và "bỏ quên đời", Quang Dũng đã làm hiện lên sự kiêu bạt, ngang tàng của những
chiến binh dãi dầu mưa nắng. Hiện thực khắc nghiệt của chiến tranh đã được Quang Dũng biểu hiện
bằng cách nói thật lãng mạn góp phần tơ đậm vẻ đẹp bi tráng của người lính Tây Tiến, qua đó nhà
thơ đã làm hiện lên khơng phải khó khăn mà là tinh thần dũng cảm vượt lên trên khó khăn của những
người chiến sĩ, kiên cường đối diện với mọi gian truân, thử thách.
Con đường hành quân của chiến sĩ Tây Tiến khơng chỉ có gian trn thử thách,vất vả mà cịn
có cả những kỉ niệm ngọt ngào, thắm thiết ân tình; miền Tây khơng chỉ có núi cao rừng sâu, mà còn

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 16


Luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

có những bản làng nên thơ mới khói lam chiều ấm áp quyện bên sườn núi, có hương thơm quyến rũ
của xơi nếp nương và nhất là có những sơn nữ tình tứ và xinh đẹp:
"Nhớ ơi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi"
Hai câu thơ là những cụm từ ngũ đã được xóa bỏ các yếu tố kết nối để thành một tập hợp những
ấn tượng sâu đậm còn lại trong tiềm thức,trong nỗi nhớ của thi nhân. Đó là những ấn tượng của thị
giác, thính giác, khứu giác và xúc giác về cảnh và tình miền Tây. Mở đầu bằng cụm từ "nhớ ôi", câu
thơ đã bộc lộ cảm xúc nhớ nhung dâng trào mãnh liệt. Sau những chặng đường hành quân giữa mưa
rừng buốt lạnh, giữa núi cao vực sâu, giữa những tiếng chân thú rừng rình rập đầy đe dọa..., phút
dừng chân bên một bản làng miền Tây với bát cơm nếp mới thơm ngào ngạt, cùng làn khói bếp ấm
áp mỏng manh vương vấn đã đem đến cho các chiến sĩ cảm giác thanh bình thật hiếm hoi, quí giá
trong chiến tranh. Giống như âm thanh tiếng gà trưa trên đường hành quân cảu anh chiến sĩ trong bài
thơ của Xuân Quỳnh, hương thơm bát xôi nếp đầu mùa ở Mai Châu sẽ mãi là một kỉ niệm khó qn

về tình qn dân ấm áp trong đời người lính.
Câu thơ "Mai Châu mùa em thơm nếp xơi" gợi ra nhiều cách hiểu. Có thể hiểu các chiến sĩ Tây
Tiến dừng chân ở Mai Châu giữa mùa lúa chín, đón nhận bát xơi ngào ngạt hương nếp đầu mùa từ
bàn tay dịu dàng của cô gái miền Tây. Cũng có thể hiểu những câu thơ theo một nét nghĩa lãng mạn
từ hai chữ "mùa em". Người ta thường chỉ nói về mùa hoa, mùa quả...đó là thời điểm căng tràn, sung
mãn, đầy ắp sắc hương của hoa trái... Quang Dũng đã tạo ra một nét nghĩa mới mẻ, táo bạo và thật đa
tình trong tập hợp "mùa em" khiến cho Mai Châu không chỉ là một địa danh gắn với kỉ niệm thơm
thải của xôi nếp đầu mùa, của tình yêu quân dân sâu nặng; Mai Châu cịn gợi nhớ tới hình ảnh những
cơ gái miền Tây dun dáng. Có người lính nào qn được giây phút dừng chân ở Mai Châu, khi
nồng ấm xung quanh các anh là dân làng, là các sơn nữ sóng sánh ánh mắt, rạng ngời nụ cười, nồng
nàn hương sắc...Những thanh bằng trong câu thơ đã gợi tả tình tế cảm giác bồng bềnh, xao xuyến tới
ngất ngây, đê mê trong tâm hồn những chàng trai Hà Thành hào hoa, lãng mạn.
III. Kết bài
Với sự kết hợp uyển chuyển giữa bút pháp hiện thực và cảm hứng lãng mạn, giữa chất họa và
chất nhạc, 14 câu thơ đầu trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng đã tái hiện sinh động và gợi cảm
về vùng đất miền Tây hiểm trở, khắc nghịêt mà thơ mộng, kì thú gắn liền với chặng đường hành quân
của trung đoàn Tây Tiến. Qua những kỉ niệm hiện lên trong nỗi nhớ da diết về quá khứ, Quang Dũng
đã thể hiện chân thức bức chân dung của những người lính Tây Tiến kiêu dũng và hào hoa, góp phần
làm đậm thêm cảm hứng chủ đạo cho bài thơ.

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 17


Luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

BÀI MẪU SỐ 5:
Giữa cái bộn bề của thị trường thơ hôm nay, lật trang sách cũ, gặp Tây Tiến của Quang Dũng,

chợt xôn xao cõi lòng theo những vần thơ đượm màu kiêu bạc hào hoa: Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi...
Thơ hay có sức rung động mãnh liệt là vậy. Khơng cần tỉ mẩn bóc từng câu từng chữ mà thấm
vào lòng người sự rung cảm chân thật đến run rẩy từng làn da thớ thịt. Tây Tiến đã thực sự chinh
phục người đọc bằng tâm trạng của người trai ra đi cứu nước trong buổi đầu kháng chiến – với tâm
tư in bóng trong dáng hình sơng núi:
”Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi...”
Cảnh ấy cũng là tình. Cũng là sương, là hoa, là mây, là mưa – những chi tiết thường gặp trong
thơ cổ – nhưng cịn đượm thêm khơng khí trầm hùng của thời đại được diễn tả bằng những từ ngữ,
thanh điệu khi đọc lên ta cảm thấy ngang tàng. Hình ảnh của một đoàn quân mỏi đi trong cái khúc
khuỷu, thăm thẳm, heo hút, giữa cái bồng bềnh sương khói chơi vơi được tác giả phác hoạ bằng những
nét chấm phá tài tình. Con mắt thơ khơng dừng lại ở trong khơng gian rừng núi mà cịn mở ra một
khơng gian – tâm trạng của một hồn thơ chiến sĩ. Phảng phất một chút Lý Bạch trước Hoàng Hà –
ngút ngát chí tang bồng của người trai thời loạn. Trong gian nan của người chiến sĩ Tây Tiến, ta vẫn
gặp chút hóm hỉnh ở hình ảnh súng ngửi trời. Chạm mặt với thực tế khắc nghiệt – song chất hào hoa
lãng tử không mất đi mà lại càng được tô đậm thêm, chân thật sống động trong những câu thơ đượm
tình quê, tình đồng đội, tình quân dân. Một hiện thực về người lính Tây Tiến – anh Bộ đội Cụ Hồ
trong những năm đầu chiến đấu gian khổ. Đó là cơn mưa gợi nỗi nhớ nhà sâu thẳm, là sợi khói cơm
thơm quyện chặt tình người, một bóng hình đong đưa làm xao xuyến những trái tim trai trẻ...
Bài thơ có nói đến hy sinh, mất mát, gian khổ nhưng cảm xúc hào hùng của lớp người “ra đi
bảo tồn sông núi” đã lấn át cái bi luỵ buồn thương. Đoàn binh Tây Tiến trong thơ Quang Dũng như
một sự kết tụ của tráng khí mn đời, pha chút lãng mạn kiểu Kinh Kha “một đi không trở lại”. Phải
chăng với tinh thần “coi cái chết nhẹ tựa lông hồng” mà tồn bài thơ mặc dù có nói đến chết chóc
nhưng giọng điệu rất bình thản: anh về đất? Phải chăng khi xác định chiến trường đi chẳng tiếc đời
xanh, người chiến sĩ đã nhận ra mục đích của cuộc chiến đấu còn lớn hơn gấp vạn lần những gian

khổ , hy sinh?
Bài thơ khơng cường điệu hố cảm xúc dẫu trong âm điệu gân guốc, khoẻ khoắn của tồn bài
có những từ ngữ mang hơi hướng cổ điển như xiêm áo, dữ oai hùm, mồ viễn xứ, áo bào, khúc độc
hành và cách diễn đạt tưởng chừng lạ lẫm tràn ngập khơng khí lãng mạn. Nếu chỉ chăm chăm đi tìm
chất thép trong bài thơ theo quan điểm xã hội học thiển cận thì chẳng khác nào cầm dao đâm vào cái
đẹp. Cái đẹp của bài thơ viết ra từ lửa máu đã làm rung lên những cảm xúc đồng điệu của bao thế hệ.

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 18


Luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

Nhà thơ Trần Lê Vân, người bạn thân, đã từng sống nhiều năm, từng in thơ chung với Quang
Dũng viết về hòan cảnh Quang Dũng sáng tác bài thơ Tây Tiến như sau:
“Đoàn quân Tây Tiến, sau một thời gian hoạt động ở Lào trở về thành lập trung đoàn 52. Đại
đội trưởng Quang Dũng ở đó đến cuối năm 1948 rồi được chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ
chưa bao lâu, ngồi ở Phù Lưu Chanh (một làng thuộc tỉnh Hà Đông cũ), anh viết bài tho Tây Tiến.”
Muốn hiểu được bài thơ Tây Tiến, truớc hết cần phải có những hiểu biết về đoàn quân Tây Tiến
cùng với địa bàn hoạt động của nó. Khoảng cuối mùa xuân năm 1947, Quang Dũng gia nhập đồn
qn Tây Tiến. Đó là một đơn vị thành lập vào đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào
để bảo vệ biên giới Lào-Việt, đánh tiêu hao địch ở Thượng Lào để hỗ trợ cho cuộc kháng chiến ở
những vùng khác trên đất Lào. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng, bao gồm vùng
rừng núi Tây Bắc Việt Nam và Thuợng Lào: từ Châu Mai, Châu Mộc sang tận Sầm Nứa rồi vòng về
qua miền tây Thanh Hóa. Những nơi này, lúc đó cịn rất hoang vu và hiểm trở, núi cao, sơng sâu,
rừng dày, có nhiều thú dữ.
Những người lính Tây Tiến phần đong là thanh niên Hà Nội, thuộc nhiều tầng lớp khác nhau,
trong đó có cả những học sinh, sinh viên. Sinh hoạt của những người lính Tây Tiến hết sức gian khổ,

ốm đau khơng có thuốc men, tử vong vì sốt rét nhiều hơn vì đánh trận, tuy vậy, họ vẫn sống rất lạc
quan và chiến đấu rất dũng cảm. Vượt lên trên mọi thử thách khắc nghiệt của chiến tranh và hòan
cảnh sống cực kì gian khổ, họ vẫn giữ được cái cốt cách hào hoa, thanh lịch, rất yêu đời và cũng rất
lãng mạn.
Bài thơ Tây Tiến có hai đặc điểm nổi bật: cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng. Cảm hứng
lãng mạn thể hiện ở cái tôi đầy tình cảm, cảm xúc của nhà thơ. Nó phát huy cao độ trí tưởng tượng,
sử dụng rộng rãi những yếu tố cường điệu và phóng đại, những thủ pháp đối lập để tô đậm cái phi
thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái hùng vĩ và cái tuyệt mĩ.
Thiên nhiên Tây Bắc, qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng, được cảm nhận với vẻ đẹp vừa
đa dạng vừa độc đáo, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, hoang sơ mà ấm áp. Hình ảnh những cơ gái, những
con người Tây Bắc càng tơ đậm thêm chất huyền bí, thơ mộng của núi rừng. Chất lãng mạn được thể
hiện chủ yếu ở cảm hứng hướng tới cái cao cả, sẳn sàng xả thân, hy sinh tất cả cho lý tưởng chung
của cộng đồng, của tịan dân tộc.
Tây Tiến khơng hề che giấu cái bi. Nhưng bi mà không lụy. Cái bi được thể hiện bằng một
giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ, hào hùng. Chất lãng mạn hòa hợp với chất bi tráng tạo nên
vẻ đẹp độc đáo của bài thơ.
Cảm xúc chủ đạo xuyên suốt bài thơ là một nỗi nhớ da diết, bao trùm lên cả không gian và thời
gian:
Sông Mã xa rồi Tay Tiến ơi !
Nhớ về rừng núi nhó chơi vơi
Sài Khao sương lấp địan quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
Nỗi nhớ đơn vị cũ trào dâng, khơng kìm nén nỗi, nhà thơ đã thốt lên thành tiếng gọi. Hai chữ
“chơi vơi” như vẽ ra trạng thái cụ thể của nỗi nhớ, hình tượng hóa nỗi nhớ, khơi nguồn cho cảnh núi
cao, dốc sâu, vực thẳm, rừng dày,…liên tiếp xuất hiện ở những câu thơ sau:

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 19



Luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Khổ thơ này là một bằng chứng “thi trung hữu họa”. Chỉ bằng bốn câu thơ, Quang Dũng đã vẽ
ra một bức tranh hòanh tráng diễn tả sự hiểm trở và dữ dội, hoang vu và heo hút của núi rừng Tây
Bắc, địa bàn họat dộng của đòan quân Tây Tiến. Hai câu thơ đầu, những từ đẩy giá trị tạo hình khúc
khủyu, thăm thẳm. cồn mây, súng ngửi trời đã diễn tả thật chính xác sự hiểm trở, trùng điệp và độ
cao ngất trời của núi đồi Tây Bắc. Hai chữ “ngửi trời” được dùng rất hồn nhiên và cũng rất táo bạo,
vừa ngộ nghĩnh, vừa có chất tinh nghịch của người lính. Núi cao tưởng chừng chạm mây , mây nổi
thành cồn “heo hút”. Người lính trèo lên những ngọn núi cao tưởng chừng như đang đi trên mây, mũi
súng chạm tới đỉnh trời. Câu thứ ba như bẻ đôi, diễn tả dốc núi vút lên, dổ xuống gần như thẳng đứng,
nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm. Nếu như câu thứ ba là nhìn lên và nhìn xuống thì
câu thứ tư là nhìn ngang. Có thể hình dung cảnh những người lính tạm dừng chân bên một dốc núi,
phóng tầm mắt ngang ra xa qua một không gian mịt mùng sương rừng mây núi thấy thấp thống
những ngơi nhà như đang bồng bềnh trơi giữa biển khơi.
Bốn câu thơ này phối hợp với nhau tạo nên một âm hưởng đặc biệt. Sau ba câu thơ được vẽ
bằng những nét gân guốc, câu thứ tư được vẽ bằng một nét rất mềm mại. Quy luật này cũng giống
như cách sử dụng những gam màu trong hội họa: giữa những gam màu nóng, tác giả sử dụng một
gam màu lạnh làm dịu lại, như xoa mát cả khổ thơ.
Cái vẻ hoang dại dữ dội, chứa đầy bí mật ghê gớm của núi rừng Tây Bắc được nhà thơ tiếp tục
khai thác. No’ không chỉ được mở ra theo chiều khơng gian mà cịn được khám phá ở cái chiều thời
gian, luôn luôn là mối đe dọa khủng khiếp đối với con người:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Vậy là, cảnh núi rừng Tây Bắc hoang sơ và hiểm trở qua ngòi bút Quang Dũng, hiện lên với đủ

cả núi cao, vực sâu, dốc thẳm, mưa rừng, sương núi, thác gầm, cọp dữ,….Những tên đất lạ Sài Khao,
Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, những hình ảnh giàu trí tạo hình, những câu thơ nhiều vần trắc
đọc lên nghe vất vả nhọc nhằn được xoa dịu bằng những câu có nhiều vần bằng ở cuối mỗi khổ thơ,
đã phối hợp với nhau thật ăn ý, làm hiện hình lên thế giới khác thường vừa đa dạng, vừa độc đáo của
núi rừng Tây Bắc.
Đọan thơ được kết thúc đột ngột bằng hai câu thơ:
Nhớ ơi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Cảnh tượng thật đầm ấm. Sau bao nhiêu gian khổ băng rừng, vượt núi, lội suối, trèo đèo, những
người lính tạm dừng chân, được nghỉ ngơi ở một bản làng nào đó, quây quần bên những nồi cơm
đang bốc khói. Khói cơm nghi ngút và hương thơm lúa nếp ngày mùa xua tan vẻ mệt mỏi trên khuôn
mặt những người lính , khiến họ tươi tỉnh hẳn lai. Hai câu thơ này tạo nên một cảm giác êm dịu, ấm
áp, chuẩn bị tư thế cho người đọc bước sang đọan thơ thứ hai.
Sưu tầm: Mod Ngữ văn HỌC247

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 20



×