Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Tiểu luận Con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.81 KB, 34 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
-----------

Sau hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống giặc ngoại xâm và giành được
độc lập, đất nước ta đã và đang tiếp tục con đường mình lựa chọn đó là con đường
đi lên Chủ nghĩa Xã hôi (CNXH), chúng ta đang vững bước tiến vào thế kỷ mới với
những thách thức và khó khăn mới, nhưng không vì thế mà ta chịu lùi bước, chịu
khuất phục trước những khó khăn.
Một lần nữa khẳng định, chúng ta sẽ tiếp tục đi theo con đường mà chúng ta
đã lựa chọn, đồng thời đề ra nhiệm vụ, phương hướng để dẫn chúng ta tới thắng
lợi. Do đó, để tiến đến được CNXH chúng ta còn phải trải qua nhiều chặng đường
đầy gian lao và thử thách, đó là quá độ lên Chủ nghĩa xã hội để Tổ quốc Việt Nam
có thể sánh vai với các cường quốc hùng mạnh trên thế giới, đó là bước quá độ để
tiến đến chế độ mới, chế độ Cộng sản chủ nghĩa, một chế độ mà mọi người đều
được hưởng ấm no, hạnh phúc và công bằng.
Tuy nhiên, từ giờ đến đó chúng ta còn bao nhiêu công việc phải làm, bao
nhiệm vụ phải hoàn tất. Con đường mà chúng ta đang đi đầy chông gai, đòi hỏi
chúng ta phải có được phương hướng đúng đắn. Phải nêu rõ được nhiệm vụ cơ
bản mà chúng ta cần làm. Để có thể làm được điều đó, chúng ta cần có nhận thức
đúng về CNXH và con đường quá độ để tiến lên CNXH thì tất cả chúng ta cùng
phải đồng lòng, chung tay, góp sức vun đắp cho nó. Đặc biệt là đối với thế hệ trẻ
chúng em, càng phải cố gắng học tập, nỗ lực hết mình để góp phần vào công cuộc
xây dựng và phát triển đất nước tiến lên. Đó chính là lý do em chọn đề tài này.
* Đối tượng nghiên cứu:
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Hệ thống chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Không gian
+ Trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội,..
+ Trên phạm vi cả nước Việt Nam
-Thời gian


1


+ Miền Bắc bắt đầu từ năm 1954 và từ 1975 , sau khi cuộc cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân hoàn thành thắng lợi, đất nước hoàn toàn thống nhất đi lên
CNXH.
+ Thành tựu xây dựng CNXH của Việt Nam từ sau đổi mới 1986 đến nay.
* Phương pháp nghiên cứu:
+ Sử dụng phương pháp thu thập thông tin, phân tích, đánh giá.
+ Sử dụng phương pháp so sánh và đối chiếu.
* Kết cấu đề tài: Có lời nói đầu; Mục lục; nội dung có 3 chương, lời kết và
danh mục tham khảo tài liệu.

2


Chương I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ ĐI
LÊN CHỦ NGHIÃ XÃ HỘI
I/- Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lê nin về thời kỳ quá độ lên Chủ
Nghĩa xã hội:
1/ - Khái niệm thời kỳ quá độ lên CNXH:
Thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để và
toàn diện từ xã hội cũ sang xã hội mới- xã hội XHCN. Nó diễn ra trong toàn bộ
nền các lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo ra các tiền đề vật chất,, tinh thần cần thiết
để hình thành một xã hội mới mà trong đó những nguyên tắc căn bản của xã hội
XHCN từng bước được thực hiện. Thời kỳ này bắt đầu từ khi giai cấp vô sản giành
được chính quyền, bắt tay vào xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và kết thúc khi đã
xây dựng xong về cơ bản cơ sở vật chất- kỹ thuật của xã hội.
2/- Nội dung và thực chất của thời kỳ quá độ lên CNXH:


2.1/- Nội dung:
- Trên lĩnh vực kinh tế: Thực hiện việc sắp xếp, bố trí lại các lực lượng sản
xuất hiện có của xã hội, cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất
mới theo hướng tạo ra sự phát triển cân đối của nền kinh tế, bảo đảm phục vụ ngày
càng tốt đời sống của nhân dân lao động. Việc sắp xếp, bố trí lại các lực lượng sản
xuất của xã hội nhất định không thể theo ý muốn chủ quan nóng vội mà phải tuân
theo tính tất yếu khách quan của các quy luật kinh tế, đặc biệt là quy luật quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Đối với những nước chưa trải qua quá trình công nghiệp hóa tư bản chủ
nghĩa, tất yếu phải tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa nhằm tạo ra được
cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đối với những nước này, nhiệm vụ
trọng tâm trong thời kỳ quá độ là tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nền kinh tế theo hướng xã hội chủ nghĩa. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa diễn ra ở các nước khác nhau với điều kiện khác nhau có thể tiến hành với
những nội dung, hình thức, bước đi khác nhau.
-Trên lĩnh vực chính trị: tiến hành đấu tranh với các thế lực thù địch, chống
phá sự nghiệp xây dựng XHCN. Tiến hành xây dựng, củng cố nhà nước và nền dân
3


chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng vững mạnh, đảm bảo quyền làm chủ trong mọi hoạt
động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của nhân dân lao động; xây dựng Đảng ngày
càng trong sạch, vững mạnh ngang tầm với các nhiệm vụ của mỗi thời kỳ lịch sử.
- Trên lĩnh vực tư tưởng- văn hóa: Tuyên truyền, phổ biến các tư tưởng
khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân trong toàn xã hội; khắc phục những
tư tưởng và tâm lý có ảnh hưởng tiêu cực đối với tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội; xây dựng nền văn hóa mới, tiếp thu giá trị tinh hoa của các nền văn hóa trên
thế giới.
-Trong lĩnh vực xã hội: phải khắc phục những tệ nạn xã hội do xã hội cũ để
lại; từng bước khắc phục sự chênh lệch phát triển giữa các vùng miền, các tầng lớp

dân cư trong xã hội nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng xã hội; xây dựng mối quân
hệ tốt đẹp giữa người với người.
2.2/- Thực chất:
Thực chất của thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kỳ diễn ra cuộc đấu tranh
giai cấp giữa giai cấp tư sản đã bị đánh bại, không còn là giai cấp thống trị và
những thế lực thù địch chống phá CNXH với giai cấp công nhân và quần chúng
nhân dân lao động. Cuộc đấu tranh này diễn ra trong hoàn cảnh mới là giai cấp
công nhân giành được chính quyền nhà nước và nó diễn ra trong mọi lĩnh vực.
II/- Vì sao qúa độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội bỏ qua chế độ tư bản là một tất
yếu lịch sử với nước ta:
1/- Tính tất yếu của thời kỳ tiến lên CNXH:
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được lí giải từ các căn cứ sau:
- Một là: CNTB và CNXH khác nhau về bản chất, CNTB được xây dựng trên
cơ sở chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, dựa trên chế độ áp bức
bóc lột. Còn CNXH xây dựng trên cơ sở công hữu tư liệu sản xuất là chủ yếu,
không còn các giai cấp đối kháng, không còn chế độ áp bức, bóc lột. muốn có được
xã hội như vậy thì ta cần phải có một khoảng thời gian nhất định.
- Hai là: CNXH được xây dựng trên nền sản xuất đại công nghiệp có trình độ cao.
CNTB đã tạo ra tiền đề vật chất- kỹ thuật nhất định cho CNXH. Nhưng muốn tiền đề đó
phục vụ cho CNXH thì CNXH cần phải tổ chức, sắp xếp lại. Đối với những nước chưa
4


trải qua công nghiệp hóa, hiện đại hóa tiến lên XHCN thì thời kỳ quá độ có thể phải kéo
dài với nhiệm vụ trọng tâm là tiến hành công nghiệp hóa XHCN.
- Ba là: Các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự phát nảy sinh
trong lòng chế độ tư bản chủ nghĩa, đó là kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo
xã hội chủ nghĩa. Dù sự phát triển của CNTB có ở mức cao đến mấy thì cũng chỉ
tạo ra tiền đề vật chất – kỹ thuật, điều kiện hình thành các quan hệ xã hội mớiXHCN. Do vậy, cần phải có thời gian để xây dựng, phát triển các quan hệ đó.
- Bốn là: Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một công cuộc mới mẻ, khó khăn và

phức tạp, cần phải có thời gian để giai cấp công nhân từng bước làm quen với
những công việc đó. Thời lỳ quá độ ở những nước có trình độ phát triển kinh tế xã
hội khác nhau thì khác nhau. Nước đã phát triển lên trình độ cao thì tương đối
ngắn, còn những nước lạc hậu, kém phát triển thì phải kéo dài hơn và gặp phải
nhiều khó khăn phức tạp hơn.
Theo V.I.Lênin, sự cần thiết khách quan phải có thời kỳ quá độ lên CNXH là
do đặc điểm ra đời, phát triển của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa và
cách mạng vô sản quy định.
Quan hệ sản xuất phong kiến và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đều dựa
trên cơ sở chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Do vậy, quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa có thể ra đời từ trong lòng xã hội phong kiến. Sự phát triển của phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa đến một trình độ nhất định, sẽ làm sâu sắc thêm mâu
thuẫn của xã hội phong kiến, cách mạng tư sản sẽ nổ ra. Nhiệm vụ của cách mạng
tư sản chủ yếu chỉ là giải quyết về mặt chính quyền Nhà nước, làm cho kiến trúc
thượng tầng thích ứng với cơ sở hạ tầng của nó.
Cuộc cách mạng vô sản khác với các cuộc cách mạng khác ở chỗ: các cuộc
cách mạng trước đó giành được chính quyền là kết thúc cuộc cách mạng vì nó dựa
trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Còn cuộc cảch mạng vô sản
giành được chính quyền mới chỉ là bước đầu, còn vấn đề chủ yếu cơ bản hơn đó là
giai cấp vô sản phải xây dựng một xã hội mới, cả về lực lượng sản xuất lẫn quan hệ
sản xuất, cả về cơ sở hạ tầng lẫn kiến trúc thượng tầng, cả về tồn tại xã hội và ý
thức xã hội.
5


* Lý luận của V.I.Lênin về thời kỳ quá độ lên CNXH ở các nước chưa có
CNTB phát triển bao gồm một số luận điểm cơ bản sau đây:
* Một là, luận điểm về việc giành lấy chính quyền làm điều kiện tiên quyết
để xây dựng tiền đề kinh tế cho CNXH. Để phản đối cuộc Cách mạng Tháng Mười
năm 1917, những người theo Quốc tế II cho rằng, nước Nga chưa nên làm cách

mạng XHCN vì lực lượng sản xuất của nước Nga chưa phát triển đầy đủ. V.I.Lênin
chỉ ra rằng, luận điểm này là trái với phép biện chứng cách mạng của chủ nghĩa
Mác vì chủ nghĩa Mác cho rằng, tính quy luật chung của sự phát triển trong lịch sử
toàn thế giới không loại trừ, trái lại, còn bao hàm một số hình thức phát triển đặc
thù ở một số quốc gia riêng biệt.
Như vậy, những người theo Quốc tế II không thấy được thời kỳ cách mạng
mới gắn với những mâu thuẫn gay gắt của CNTB thế giới; không hiểu được tình
thế cách mạng có thể xuất hiện ở nơi này hay nơi khác khiến cho các dân tộc có thể
bước vào cuộc chiến tranh để thoát khỏi CNTB và giành lấy sự tiến bộ xã hội, từ
đó V.I.Lênin nêu luận điểm: ở một nước kém phát triển có thể và cần phải tạo ra
nhưng điều kiện tiên quyết để thực hiện CNXH, bắt đầu bằng một cuộc cách mạng
thiết lập chính quyền công nông, thông qua chính quyền ấy mà tiến lên và đuổi kịp
dân tộc khác.
* Hai là, luận điểm về thời kỳ quá độ với một loạt những bước quá độ. Luận
điểm này của V.I.Lênin được rút ra sau những sai lầm dẫn tới khủng hoảng kinh tế,
chính trị ở nước Nga Xô Viết sau nội chiến. Phân tích nguyên nhân khủng hoảng ở
Nga, V.I.Lênin chỉ ra rằng, đối với một nước mà CNTB chưa phát triển cao như
nước Nga, không thể thực hiện quá độ trực tiếp lên CNXH được mà phải trải qua “
một loạt những bước quá độ ”.
2/- Chính sách kinh tế của Lê nin:
-Dùng thuế lương thực thay cho trưng thu lương thực thừa trong chính sách
cộng sản thời chiến.
- Thiết lập quan hệ hàng hóa, tiền tệ, phát triển thị trường, thương nghiệp….
thay cho Chính sách cộng sản thời chiến.

6


- Sử dụng nhiều thành phần kinh tế, các hình thức kinh tế quá dộ, khuyến
khích phát triển kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân thay cho chính sách cộng sản

thời chiến, sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước, chuyển các xí nghiệp nhà nước
sang chế độ hạch toán kinh tế, chủ trương phát triển kinh tế với các nước phương
Tây để tranh thủ vốn, kỹ thuật….
* “Chính sách kinh tế mới” của Lê nin có ý nghĩa to lớn:
+ Về thực tiễn, nhờ có chính sách đó nước Nga Xô viết đã làm khôi phục
nhanh chóng nền kinh tế sau chiến tranh, khắc phục được khủng hoảng kinh tế và
chính trị.
+ Về lý luận, nó phát triển nhận thức sâu sắc về CNXH, về thời kỳ quá độ lên
CNXH. Ở nước ta từ khi bước vào thời kỳ đổi mới, những quan điểm kinh tế của
Đảng ta đã thể hiện sự nhận thức và vận dụng “chính sách kinh tế mới ” của Lê nin
phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của thời kỳ quá độ ở nước ta.
3/- Các hình thức lên Chủ Nghĩa Xã Hội :
a/- Quá độ lên Chủ Nghĩa xã hội từ nước tư bản chủ nghĩa đi lên Chủ
Nghĩa xã hội (theo quy luật tư nhiên của thời đại).
Loại quá độ này phản ánh quy luật phát triển tuần tự của xã hội loài người.
Là sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở các nước mà CNTB đã phát triển đầy đủ, lực
lượng sản xuất đã xã hội hoá cao mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất dựa trên
chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN; mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp
tư sản đến độ chín muồi. Cách mạng XHCN nổ ra và thắng lợi, chính quyền nhà
nước của giai cấp công nhân được thiết lập, mở đầu thời kỳ quá độ từ CNTB lên
CNXH. Cho đến nay loại hình này chưa xuất hiện trong thực tế, do những nguyên
nhân khách quan và chủ quan ...
b/- Quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội nước có nền kinh tế chưa phát triển.
Loại quá độ này phản ánh quy luật phát triển nhảy vọt của xã hội loài người.
Tư tưởng về loại quá độ thứ hai đã được C.Mác và Ph.Ăngghen dự kiến. Theo
C.Mác và Ph.Ăngghen, sau khi chủ nghĩa xã hội ở các nước tư bản Tây Âu giành
được thắng lợi, thì các nước lạc hậu có thể đi thẳng lên CNXH.

7



Tiếp tục tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã chỉ ra bản chất
giai cấp, nội dung và các điều kiện của quá độ tiến thẳng tới chủ nghĩa xã hội, bỏ
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa .
Tư tưởng của V.I.Lênin về bản chất giai cấp và nội dung của quá độ tiến
thẳng lên CNXH, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN được trình bày trong bài phát
biểu nước Cộng hoà Nhân dân Mông Cổ năm 1921.
c/- Vì sao với nước ta lại phù hợp với xu thế của thời đại nếu đi lên Chủ
Nghĩa Xã Hội:
Một trong những tư tưởng quan trọng của V.I.Lênin về quá độ tiến thẳng lên
CNXH, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN, là các điều kiện tiến thẳng.
Theo V.I.Lênin, một nước lạc hậu có thể tiến thẳng lên CNXH khi có điều
kiện khách quan và điều kiện chủ quan .
* Các điều kiên cụ thể để có thể khẳng định điều đó:
- Về khả năng khác quan: Điều kiện bên ngoài của sự phát triển này là phải
có một bước dành được thắng lợi trong cách mạng vô sản, tiến lên xây dựng
CNXH. Công cuộc xây dựng thành công CNXH ở nước này là tấm gương và tạo
điều kiện để giúp đở các nước lạc hậu tiến lên CNXH, bỏ qua giai đoạn phát triển
TBCN. V.I.Lênin chỉ rỏ “với sự giúp đở của giai cấp vô sản của cá nước tiên tiến,
các nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ xô viết và trải qua một vài trình độ phát
triển nhất định sẻ tiến tới chủ nghĩa cộng sản, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN”
- Về những tiền đề chủ quan: Điều kiện bên trong của sự quá độ tiến thẳng là
phải hình thành được các tổ chức đảng cách mạng và cộng sản, phải dành được
chính quyền về tay mình, xây dựng được các tổ chức nhà nước mà bản chất là xô
viết nông dân và xô viết những người lao động. V.I.Lênin cho rằng không thể thiếu
hai điều kiện khách quan và chủ quan trên của quá độ tiến lên CNXH, bỏ qua giai
đoan phát triển TBCN.

8



Chương II.
QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI NHẬN THỨC VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CON
ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM.
1/- Quan điểm của Đảng ta về mô hình Chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội trước 1986.
Sự hình thành quan điểm của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội gắn liền với lịch
sử đấu tranh cách mạng của Đảng và của dân tộc suốt hơn bảy thập kỷ qua kể từ
khi có Đảng ra đời năm 1930.
1.1/- Bước đầu hình thành đường lối cách mạng XHCN ở miền Bắc.
- Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ mới bắt đầu khi cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp thắng lợi, miền Bắc bắt đầu xây dựng hoà bình sau năm
1954. Hội nghị Trung ương lần thứ tám khoá III ( 8-1955) mới đặt vấn đề miền
Bắc ra sức thực hiện kế hoạch hai năm khôi phục và phát triển kinh tế-xã hội để
“củng cố miền Bắc và tranh thủ miền Nam”, đẩy mạnh cuộc đấu tranh hoà bình
thống nhất đất nước. Trong khi đó, văn kiện đề cập mấy vấn đề về đường lối cách
mạng Việt Nam (1-1956) của Bộ Chính trị khẳng định từ khi hoà bình được lập lại,
miền Bắc đã chuyển sang cách mạng XHCN. Còn xây dựng đường lối cách mạng
XHCN chỉ được thực sự đặt ra vào cuối năm 1957. Trong báo cáo tại Hội nghị lần
thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương (12-1957) có nhận định: “ Miền Bắc đã bước
vào giai đoạn quá độ tiến lên CNXH từ gần ba năm nay nhưng Trung ương chưa đề
ra đường lối chung của thời kỳ quá độ. Nhiệm vụ cách mạng XHCN ở miền Bắc đã
do thực tế khách quan đề ra rồi, mà nhận thức và tư tưởng của cán bộ, đảng viên ta
nói chung vẫn còn ở trong giai đoạn cách mạng cũ, chưa chuyển kịp” 1. Trong khi
đó thì “ những biến cố mới lại xảy ra trên thế giới và trong nước làm cho tư tưởng
cán bộ, đảng viên và quần chúng diễn biến phức tạp thêm” 2. Từ đó, Trung ương đề
ra nhiệm vụ “Xây dựng đường lối chung của thời kỳ quá độ tiến lên CNXH ở miền
Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà ” 3.
Qúa trình cách mạng XHCN ở miền Bắc diễn ra trong sự tác động qua lại
giữa đường lối của Đảng và thực hiện phong trào quần chúng. Đường lối của Đảng

từng bước được bổ sung, hoàn thiện trong quá trình phát triển của nhận thức lý
9


luận trên cơ sở thực tiễn tổ chức thực hiện đường lối. Vấn đề đặt ra là phải làm rỏ
những bước đi, những nhiệm vụ cụ thể trong mỗi bước đi. Điều đó đòi hỏi phải
đẩy mạnh công tác lý luận của Đảng.
Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương (12-1957) cho rằng “Từ nay ta
phải “chuyển” về công tác tương và công tác lý luận”. Cùng với việc “Xây dựng đường
lối cách mạng trong giai đoạn mới và tổng kết kinh nghiệm về một số vấn đề thuộc về
công tác và lãnh đạo của Đảng”, Hội nghị đề ra nhiệm vụ “tổ chức cho cán bộ được
dần dần học tập chủ nghĩa Mác-Lênin một cách có hệ thống”. Việc Chủ tịch Hồ Chí
Minh đích thân đọc diễn văn khai mạc lớp học lý luận khoá đầu tiên cho cán bộ cao cấp
và trung cấp của Đảng tại Trường Nguyễn ái Quốc (7-9-1957) đã nói lên điều đó. Trong
diễn văn khai mạc, Người nói: “Đảng ta là một Đảng Mác-Lênin, đã được rèn luyện,
thử thách lâu dài trong đấu tranh gian khổ, vì thế Đảng ta có rất nhiều ưu điểm... Tuy
vậy, Đảng ta còn có nhiều nhược điểm mà một trong những nhược lớn là trình độ lý luận
còn thấp kém”1. Vì trình độ lý luận thấp kém cho nên trước nhiệm vụ cách mạng ngày
càng mới và phức tạp, trong việc lãnh đạo, Đảng ta không khỏi lúng túng, không tránh
khỏi sai lầm, khuyết điểm. Trong giai đoạn quá độ lên CNXH ở miên Bắc hiện nay,
chúng ta “phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác-Lênin để dùng lập trường,
quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác-Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm
của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có như
thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt
Nam, định ra những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng
XHCN thích hợp với tình hình nước ta”2.
Hội nghị lần thứ 14 của Trung ương (11-1958) chủ trương: “đẩy mạnh cuộc
cải tạo XHCN với thành phần kinh tế cá thể của nômg dân, thợ thủ công và cuộc
cải tạo XHCN đối với thành phần kinh tế tư bản tư doanh, đồng thời phải ra sức
phát triển thành phần kinh tế quốc doanh là lực lượng lãnh đạo toàn bộ nền kinh tế

quốc doanh”, lấy hợp tác hoá nông nghiệp làm khâu trung tâm trong toàn bộ cuộc
cải tạo XHCN.
Chỉ đến Đại hội III của Đảng đánh dấu một mốc lịnh sử quan trọng của cách
mạng Việt Nam, vạch ra con đường tiến lên CNXH ở miền Bắc và con đường giải
10


phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đại hội khẳng định: “Đường lối chung của
miền Bắc trong thời kỳ quá độ tiến lên CNXH là: Đại đoàn kết toàn dân, phát huy
tinh thần yêu nước nồng nàn và truyền thống phấn đấu anh dũng, lao động cần cù
của nhân dân ta, đồng thời tăng cường đoàn kết với các nước XHCN anh em do
Liên xô đứng đầu, để đưa miền Bắc tiền nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên
XHCN, xây dựng đời sống âm no, hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc
thành cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà,
góp phần tăng cường phe XHCN, bảo vệ hoà bình ở Đông- Nam Á và thế giới.
Muốn đạt được mục tiêu ấy, phải sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân làm
nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản để thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối
với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản
chủ nghĩa tư doanh, phát triển thành phần kinh tế quốc doanh, thực hiện công nghiệp
hoá XHCN bằng cách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời
ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ; đẩy mạnh cách mạng XHCN về tư
tưởng, văn hoá và kỷ thuật, biến nước ta thành một nước XHCN có công nghiệp hiện
đại, nông nghiệp hiện đại, văn hoá và khoa học tiên tiến”1.
Nhìn một cách tổng quát, thực hiện đường lối cách mạng do Đại hội Đảng lần
thứ III nêu, miền Bắc đã có những bước tiến và phát triển nhanh các lĩnh vực kinh tế
và xã hội; cơ sở vật chất trong công nghiệp, nông nghiệp và kết cấu hạ tầng được xây
dụng, phát triển tương đối nhanh, xã hội miền Bắc trở thành xã hội do những người
lao động làm chủ, đời sống tinh thần lành mạnh. Chính nhờ những thành tựu này mà
miền Bắc trở thành hậu phương vững chắc cho cách mạng cả nước.
1.2/- Quá trình bổ sung và hoàn chỉnh đường lối cách mạng XHCN của

Đảng ta:
Thời kỳ tìm tòi, thử nghiệm cũng là thời kỳ diễn ra nhiều cuộc họp bàn, thảo
luận khá sôi nổi trong Bộ Chính trị, trong Trung ương và trong toàn Đảng, trong
các cơ quan nhà nước, trong giới khoa học-lý luận cũng như trong quần chúng
nhân dân với nhiều ý kiến phong phú, đa dạng về nhiều vấn đề quan trọng trong
đời sống chính trị, kinh tế và các mặt khác của đất nước.

11


Tất cả những vấn đề ấy đều tập trung vào mục tiêu: làm thế nào đưa đất
nước thoát khỏi khủng hoảng, làm thế nào đưa đất nước đi lên CNXH trong tình
hình thế giới đã và đang có những biến động lớn. Sự thảo luận, bàn bạc đi đôi với
những tìm tòi, thử nghiệm trong hoạt động thực tiễn ở nhiều địa phương, cơ sở với
nhiều điển hình sinh động có sức thuyết phục, đã bổ sung cho nhau, tạo cơ sở cho
đổi mới nhận thức về CNXH. Cuộc đấu tranh cho việc ra đời những ý tưởng mới,
những quan điểm mới, thay thế cho những quan điểm cũ càng diễn ra sôi nổi hơn
từ cuối năm 1985 sang năm 1986, khi công việc chuẩn bị cho Đại hội Đảng lần thứ
VI đã được đặt ra. Đại hội chuẩn bị rất công phu. Mọi cuộc họp bàn, thảo luận,
tranh luận đều tập trung vào ba vấn đề quan trọng nhất:
- Một là, cần làm rõ cơ cấu các thành phần kinh tế: có bao nhiêu thành phần
kinh tế trong nền kinh tế quốc dân, ở miền Nam có gì khác ở miền Bắc; vấn đề cải
tạo XHCN và củng cố quan hệ sản xuất mới, mục tiêu và tốc độ cải tạo, thái độ đối
với thành phần kinh tế tư bản tư nhân và cá thể, vai trò của kinh tế quốc doanh, tốc
độ hợp tác hoá nông nghiệp, các loại hình hợp tác xã.
- Hai là, cần làm rõ cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu đầu tư: công nghiệp hoá
XHCN là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ, hiểu thế nào cho đúng, cái gì cần
ưu tiên đầu tư, phát triển; quan hệ giữa công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ; con
đường công nghiệp hoá có thích hợp với điều kiện nước ta; làm thế nào để nông
nghiệp là mặt trận hàng đầu.

- Ba là, về cơ cấu quản lý: phải xoá bỏ cơ chế quản lý cũ tập trung quan liêu
bao cấp để xây dựng cơ chế quản lý mới là tấp trung dân chủ, hạch toán kinh tế và
kinh doanh XHCN, cần làm rỏ cơ chế này với cơ chế thị trường, cơ chế thi trường
với “chủ nghĩa xã hội thị trường”, quan hệ giữa kế hoạch và thị trường, việc vận
dụng các quy luật của kinh tế hàng hoá trong CNXH, đặc biệt là quy luật giá trị,
quan hệ cung - cầu quan hệ hàng hóa - tiền tệ... nhằm phục vụ cho những mục tiêu
của xã hội.
1.3/- Cả nước quá độ lên CNXH và công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi
xướng và lãnh đạo.

12


Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, Hội nghị lần thứ 24 Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (8-1975) đã xác địng nhiệm vụ chiến lược của cách
mạng nước ta trong giai đoạn mới là: hoàn thành thống nhất nước nhà, đưa cả nước
tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH. Miền Bắc phải tiếp tục đẩy mạnh
sự nghiệp xây dựng CNXH và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, miền
Nam phải đồng thời tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng CNXH.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đánh
giá tình hình đất nước từ năm 1976 đến 1980 là thời kỳ nền kinh tế ở trạng thái trì
trệ. Trên mặt trận kinh tế, đát nước ta đứng trước những vấn đề gay gắt. Kết quả
thực hiện kế hoạch kinh tế 5 năm (1976-1980) chưa thu hẹp những mát cân đối
nghiêm trọng của nền kinh tế quốc dân. Sản xuất phát triển chậm trong khi dân số
tăng nhanh. Thu nhập quốc dân chưa bảo đảm được tiêu dùng xã hội, một phần
phải dựa vào vay và viện trợ, nền kinh tế chưa tạo được tích luỹ thị trường và vật
giá không ổn định. Đời sống người lao động gặp nhiều khó khăn.
Chính những khó khăn của đất nước buộc Đảng ta phải suy nghĩ, phân tích
tình hình và nguyên nhân, tìm ra các giải pháp, từ đó thực hiện đội mới ở các cơ
sở, địa phương đề ra những chính sách cụ thể, có tính chất đổi mới từng phần như:

khẳng định sự cần thiết của nền kinh tế nhiều thành phần ở miền Nam trong một
thời gian nhất định; cải cách một phần mô hình hợp tác xã qua Chỉ thị về khoán
sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã (Chỉ thị 100); cải tiến công
tác kế hoạch và hạch toán kinh tế ở các xí nghiệp quốc doanh nhằm phát huy
quyền chủ động sản xuất-kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của xí nghiệp
(Quyết định 25/CP); hai lần cải cách giá và lương, coi đó là khâu đột phá có tính
chất quyết định để chuyển hẳn nền kinh tế sang hạch toán kinh tế và kinh doanh xã
hội chủ nghĩa. Mặc dù không thành công trong phạm vi cả nước, song trong quá
trình cải cách đã đè cập đến việc phải dứt khoát xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp, thực hiện hạch toán kinh tế và kinh oanh xã hội chủ nghĩa, đề cập đến mối
quan hệ giữa kế hoạch và thị trường, vận dụng những quy luật của sản xuất hàng
hoá... Tóm lại, lúc này nước ta đã có những quan niệm, chủ trương ban đầu đổi

13


mới mô hình kinh tế cũ theo tư tưởng “làm cho sản xuất bung ra”, nghĩa là mới
hình thức quan hệ sản xuất đẻ giải phóng lực lượng sản xuất.
Mô hình cốt lõi của nền kinh tế mới về cơ bản đã hoàn thành.Sự phát triển
tiệm tiến này đã dẫn đén bước nhảy vọt trong Đại hội dại biểu toàn quốc lần thứ VI
về mô hình kinh tế mới. Đại hội quyết định đường lối đổi mới và nó đã nhanh
chóng đi vào cuộc sống vì đó là một đường lối đúng, được chuẩn bị trước không
chỉ về mặt nhận thức, lý luận mà cả về mặt tổ chức thực tiễn.
2/- Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn
đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế
phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư
liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người
có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân

tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng
phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân
dân các nước trên thế giới.
Đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái
cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển,
nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen. Tuy nhiên, chúng ta có nhiều thuận
lợi cơ bản. Đó là: có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ
tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, có bản lĩnh chính trị vững vàng và dày
dạn kinh nghiệm lãnh đạo; dân tộc ta là một dân tộc anh hùng, có ý chí vươn lên
mãnh liệt; nhân dân ta có lòng yêu nước nồng nàn, cần cù lao động và sáng tạo,
luôn ủng hộ và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng; chúng ta đã từng bước xây
dựng được những cơ sở vật chất - kỹ thuật rất quan trọng; cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ hiện đại, sự hình thành và phát triển kinh tế tri thức cùng với quá
trình toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập quốc tế là một thời cơ để phát triển.
14


Mục tiêu tổng quát đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng
xong về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về
chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở làm cho nước ta trở thành một nước
xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh.
Mục tiêu của chặng đường đầu là: Thông qua đổi mới toàn diện, xã hội đạt
tới trạng thái ổn định vững chắc, tạo thế phát triển nhanh ở chặng đường sau. Đại
hội X của Đảng trên cơ sở tổng kết lý luận –thực tiễn 20 năm đổi mới đã nêu ra 8
phương hướng sau đây:
- Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
- Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước;
- Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh

thần của xã hội;
- Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc;
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân;
- Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh;
- Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia;
- Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh theo con đường XHCN điều
quan trọng nhất là phải cải biến căn bản tình trạng kinh tế xã hội; phải xây dựng
một nền kinh tế XHCN với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ
thuật tiên tiến. Muốn vậy trong thời kỳ quá độ chúng ta cần phải thực hiện những
nhiệm vụ kinh tế cơ bản sau:
2.1/- Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Cương lĩnh năm 1991 nhấn mạnh: phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp
hóa đất nước theo hướng hiện đại gắn với phát triển phát triển một nền nông
nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chấtkỹ thuật của CNXH, không ngừng nâng cao năng sức lao động xã hội và cải thiện
đời sống nhân dân. Khi kết thúc thời kỳ quá độ, hình thành về cơ bản nền kinh tế

15


công nghiệp với cơ cấu kinh tế công- nông nghiệp – dịch vụ gắn với phân công và
hợp tác kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Phát triển nông-lâm ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng
nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định tình hình kinh tế- xã
hội. Xây dựng nền công nghiệp nặng với bước đi thích hợp, trước hết là các ngành
trực tiếp phục vụ nông nghiệp.
Phát triện công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn
diện các hoạt động kinh tế -xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang
việc sử dụng một cách phổ biến sức lao động với khoa học và công nghệ hiện đại,

tiên tiến, tạo ra năng xuất lao động cao.
Chỉ có hoàn thành nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước mới có
thể xây dựng được cơ sở vật chất- kỹ thuật cho xã hội mới, nâng cao năng xuất lao
động đến mức chưa từng có để làm cho tình trạng rồi dào sản phẩm trở thành phổ
biến. Ra sức phấn đấu nước ta đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công
nghiệp (Đại hội VIII, IX); đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại (Đại hội X)
2.2./- Xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng XHCN.
Phải xây dựng từng bước những quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất
và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mới. Nhưng việc xây dựng quan hệ
sản xuất mới không thể thực hiện theo ý muốn chủ quan duy ý chí mà phải tuân
theo những quy luật khách quan về mối quan hệ giữu lực lượng xản xuất và quan
hệ sản xuất. Xuất phát từ quan điểm cho rằng bất cứ sự cải biến nào về mặt quan
hệ sở hữu cũng đều phải là kết quả tất yếu của việc cải tạo nên những lực lượng
sản xuất mới. Vì vậy, việc xây dựng quan hệ sản xuất mới ở nước ta phải được phát
triển từng bước, theo định hướng XHCN.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở những nước như nước ta, chế độ sở hữu
tất yếu phải đa dạng, ở cơ cấu kinh tế tất yếu phải có nhiều thành phần: kinh tế nhà
nước; kinh tế hợp tác mà nòng cốt là các hợp tác xã; kinh tế tư bản nhà nước; kinh
tế cá thể và tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần có ý nghiã chiến lược lâu dài, có tác
16


dụng to lớn trong việc động viên mọi nguồn lực cả bên trong lẫn bên ngoài, lấy nội
lực làm chính để xây dựng kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất. Chỉ có thể cải tạo
quan hệ sở hữu hiện nay một cách dần dần, bởi không thể làm cho lực lượng sản
xuất hiện có tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế
công hữu thuần nhất một cách nhanh chóng.
Vì quan hệ sở hữu là đa dạng cho nên phải có nhiều hình thức phân phối và

nhiều hình thức tổ chức quản lý hợp lý, cũng như việc xác lập địa vị làm chủ của
người lao động trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân phải diển ra từng bước, dưới
nhiều hình thức và đi từ thấp đến cao.
2.3/- Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc:
Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa;
làm chi thế giới quan Mác-Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ
đạo trong đời sống tinh thần xã hội; kế thừa và phát huy những truyền thống văn
hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân
loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá của
con người; chống tư tưởng văn hóa phản tiến bộ…
Qua các kỳ Đị hội, Đảng tiếp tục bổ sung, phát triển đường lối văn hóa.
Khẳng định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động
lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội; nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; là nền văn hóa thống nhất mà đa
dạng trong cộng đồng các dân tộc; xây dựng và phát triển văn hóa và sự nghiệp của
toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng; văn
hóa là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng
lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng. Làm cho nền
văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng
gia đình, từng tập thể và cộng đồng, mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người
(Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII).
2.4/ Xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước
pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân:

17


Đặc trưng rất quan trọng của xã hội, xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây
dựng là: do nhân dân làm chủ, xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân

và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng cộng sản lãnh đạo.
Thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội,
chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. Tổ
chức hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tác tập trung dân chủ, thống
nhất quyền lực, có sự phân công, phân cấp, đồng thời đảm bảo sự lãnh, chỉ đạo
thống nhất của Trung ương. Nhà nước Việt nam thống nhất ba quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp.
* Các quan điểm cơ bản xây dựng nhà nước pháp quyền là:
Một là: xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, lấy
liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền
tảng, do Đảng cộng sản lãnh đạo.
Hai là: thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỹ cương
xã hội, liêm chính với mọi hoạt động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.
Ba là: quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các
cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Bốn là: thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động
của Nhà nước.
Năm là: tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước (Hội nghị
Trung ương 8 khóa VII).
2.5/ - Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại:
Đứng trước xu thế toàn cầu hoá kinh tế và sự tác động của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ, nền kinh tế nươc ta không thể là nền kinh tế khép kín, mà
phải tích cực mở rộng quan hệ nền kinh tế đối ngoại. Đó là xu thế tất yếu của thời
đại, là vấn đề có tính quy luật trong thời đại ngày nay. Chúng ta “mở cửa” nền kinh
tế, thực hiện đa dạng, đa phương hoá quan hệ kinh tế quốc tế, nhằm thu hút các
nguồn lực phát triển từ bên ngoài và phát huy lợi thế kinh tế trong nước làm thay
đổi mạng mẻ về công nghệ, cơ cấu ngành và sản phẩm ... mở rộng phân công lao
18



động quốc tế, tăng cường liên doanh, liên kết, hợp tác, là cơ sở để tạo điều kiện và
kích thích sản xuất trong nước phát triển, vươn lên bắt kịp trình độ thé giới. Mở
rộng quan hệ kinh tế quốc tế phải trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi và không
can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
Muốn vậy, phải từng bước nâng cao sức cạnh tranh quốc tế; tích cực khai
thác thị trường thế giới; tối ưu hoá cơ cấu xuất – nhập khẩu; tích cực tham gia hợp
tác kinh tế khu vực và hệ thống mậu dịch đa phương toàn cầu; xử lý đúng đắn mối
quan hệ mở rộng giữa kinh tế đối ngoại với độc lập tự chủ, tự lực cánh sinh, bảo vệ
an ninh kinh tế quốc gia.
2.6/ Đường lối xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam:
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu
trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.
Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách
và chủ trương công tác; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ
chức kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Xây dựng Đảng
trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang tầm với nhiệm vụ,
đảm bảo cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta.
3/- Một số thành tựu và hạn chế trong quá trình xây dựng đi lên CNXH
ở nước ta:
- Trải qua gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã
hội, kể từ Ðại hội VI (năm 1986), và hơn 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) đến nay, Việt Nam
đã thu được những thành tựu to lớn, hết sức quan trọng. Thực hiện đường lối đổi
mới, với mô hình kinh tế tổng quát là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, đất nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo được
những tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

19


3.1/- Về phát triển kinh tế:
3.1.1/ Đất nước ra khỏi khủng hoảng, kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh:
Giai đoạn 1986 - 1990: Đây là giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới. Chủ
trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế dần dần khắc phục được những
yếu kém và có những bước phát triển. Kết thúc kế hoạch 5 năm (1986 - 1990),
công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng: GDP
tăng 4,4%/năm; tổng giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 3,8 - 4%/năm;
công nghiệp tăng bình quân 7,4%/năm, trong đó sản xuất hàng tiêu dùng tăng 13
-14%/năm; giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng 28%/năm. Việc thực hiện tốt ba
chương trình mục tiêu phát triển về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và
hàng xuất khẩu đã phục hồi được sản xuất, tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát,
… Đây được đánh giá là thành công bước đầu cụ thể hóa nội dung của công nghiệp
hóa XHCN trong chặng đường đầu tiên. Điều quan trọng nhất, đây là giai đoạn
chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý cũ sang cơ chế quản lý mới, thực hiện một bước
quá trình đổi mới đời sống kinh tế - xã hội và bước đầu giải phóng được lực lượng
sản xuất, tạo ra động lực phát triển mới.
Giai đoạn 1991 - 1995: Đất nước dần dần ra khỏi tình trạng trì trệ, suy thoái.
Nền kinh tế tiếp tục đạt được những thành tựu quan trọng: đã khắc phục được tình
trạng trì trệ, suy thoái, tốc độ tăng trưởng đạt tương đối cao, liên tục và toàn diện,
hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu đều vượt mức: GDP bình quân tăng 8,2%/năm; giá trị
sản xuất công nghiệp tăng 13,3%/năm; nông nghiệp tăng 4,5%/năm; lĩnh vực dịch
vụ tăng 12%/năm; tổng sản lượng lương thực 5 năm (1991 - 1995) đạt 125,4 triệu
tấn, tăng 27% so với giai đoạn 1986 - 1990. Hầu hết các lĩnh vực kinh tế đều đạt
nhịp độ tăng trưởng tương đối khá. “Nước ta đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội nghiêm trọng và kéo dài hơn 15 năm, tuy còn một số mặt chưa vững chắc,
song đã tạo được tiền đề cần thiết để chuyển sang một thời kỳ phát triển mới: đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.

Giai đoạn 1996 - 2000: Đây là giai đoạn đánh dấu bước phát triển quan
trọng của kinh tế thời kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
20


Mặc dù cùng chịu tác động của khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực (giai đoạn
1997 - 1999) và thiên tai nghiêm trọng xảy ra liên tiếp, đặt nền kinh tế nước ta
trước những thử thách khốc liệt, tuy nhiên, Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng
trưởng khá. GDP bình quân của cả giai đoạn 1996 - 2000 đạt 7%; trong đó, nông,
lâm, ngư nghiệp tăng 4,1%; công nghiệp và xây dựng tăng 10,5%; các ngành dịch
vụ tăng 5,2%. “Nếu tính cả giai đoạn 1991 - 2000 thì nhịp độ tăng trưởng GDP
bình quân là 7,5%. So với năm 1990, GDP năm 2000 tăng hơn hai lần”.
Giai đoạn 2001 - 2005: Sự nghiệp đổi mới ở giai đoạn này đi vào chiều sâu,
việc triển khai Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 và Kế hoạch 5
năm 2001 - 2005 mà Đại hội IX của Đảng thông qua đã đạt được những kết quả
nhất định. Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, theo hướng tích cực, năm
sau cao hơn năm trước. GDP tăng bình quân 7,5%/năm, riêng năm 2005 đạt 8,4%;
trong đó, nông nghiệp tăng 3,8%; công nghiệp và xây dựng tăng 10,2%; các ngành
dịch vụ tăng 7%. Riêng quy mô tổng sản phẩm trong nước của nền kinh tế năm 2005
đạt 837,8 nghìn tỷ đồng, tăng gấp đôi so với năm 1995. GDP bình quân đầu người
khoảng 10 triệu đồng (tương đương 640 USD), vượt mức bình quân của các nước
đang phát triển có thu nhập thấp (500 USD). Từ một nước thiếu ăn, mỗi năm phải
nhập khẩu từ 50 vạn đến 1 triệu tấn lương thực, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu
gạo lớn trên thế giới. Năm 2005, Việt Nam đứng thứ nhất thế giới về xuất khẩu hạt
tiêu; đứng thứ hai về các mặt hàng gạo, cà phê, hạt điều; thứ 4 về cao su;…
Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ mô được duy trì, bảo
đảm sự ổn định chính trị, xã hội, quốc phòng và an ninh, bước đầu phát huy được
nhiều lợi thế của đất nước, của từng vùng và từng ngành; cải cách thể chế kinh tế,
từng bước hoàn thiện các cơ chế chính sách quản lý và hệ thống điều hành; cải
cách và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống tài chính, tiền tệ; phát triển

nguồn và chất lượng lao động, khoa học và công nghệ;…
Giai đoạn 2006 - 2010: Nền kinh tế vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khá, tiềm
lực và quy mô nền kinh tế tăng lên, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, từ
nhóm nước thu thập thấp đã trở thành nước có thu nhập trung bình (thấp). GDP
bình quân 5 năm đạt 7%. Mặc dù bị tác động của khủng hoảng tài chính và suy
21


thoái kinh tế toàn cầu (từ cuối năm 2008), nhưng thu hút vốn đầu tư nước ngoài
vào Việt Nam vẫn đạt cao. Tổng vốn FDI thực hiện đạt gần 45 tỷ USD, vượt 77%
so với kế hoạch đề ra. Tổng số vốn đăng ký mới và tăng thêm ước đạt 150 tỷ USD,
gấp hơn 2,7 lần kế hoạch đề ra và gấp hơn 7 lần so với giai đoạn 2001 - 2005.
Tổng vốn ODA cam kết đạt trên 31 tỷ USD, gấp hơn 1,5 lần so với mục tiêu đề ra;
giải ngân ước đạt khoảng 13,8 tỷ USD, vượt 16%. GDP năm 2010 tính theo giá
thực tế đạt 101,6 tỷ USD, gấp 3,26 lần so với năm 2000. Năm 2008, đánh dấu mốc
phát triển của nền kinh tế VN chuyển từ nhóm nước có thu nhập thấp nhất sang
nhóm nước có thu nhập trung bình.
Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng GDP và GDP bình quân trên đầu người của Việt
Nam giai đoạn 1990-2008
Nguồn: Tính toán từ số liệu Niên giám thống kê VN, WB và IMF
Trong năm 2011, mặc dù sự phục hồi kinh tế sau khủng hoảng tài chính toàn
cầu còn rất chậm, song mức tăng trưởng kinh tế bình quân vẫn đạt 7%/năm, tuy
thấp hơn kế hoạch (7,5% - 8%), nhưng vẫn được đánh giá cao hơn bình quân các
nước trong khu vực. Như vậy, trong vòng 20 năm (1991 - 2011), tăng trưởng GDP
của Việt Nam đạt 7,34%/năm, thuộc loại cao ở khu vực Đông Nam Á nói riêng, ở
châu Á và trên thế giới nói chung; quy mô kinh tế năm 2011 gấp trên 4,4 lần năm
1990, gấp trên 2,1 lần năm 2000 (thời kỳ 2001 - 2011 bình quân đạt 7,14%/năm).
Năm 2012, GDP tăng 5,03% so với năm 2011. Mức tăng trưởng tuy thấp
hơn mức tăng 5,89% của năm 2011, nhưng trong bối cảnh kinh tế thế giới gặp khó
khăn thì đây là mức tăng trưởng hợp lý. Về sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

ước tính tăng 3,4% so với năm 2011; công nghiệp tăng 4,8% so với năm 2011. Chỉ
số giá tiêu dùng năm 2012 tăng 6,81%. Đầu tư phát triển tăng 7% so với năm
trước và bằng 33,5% GDP. Xuất, nhập khẩu hàng hóa tăng 18,3%. Kim ngạch
xuất khẩu có thể vượt qua mốc 100 tỷ USD, tỷ lệ kim ngạch xuất, nhập khẩu so với
GDP năm 2011 đã đạt xấp xỉ 170%, đứng thứ 5 thế giới. Vốn FDI tính từ 1988 đến
tháng 7-2012 đăng ký đạt trên 236 tỷ USD, thực hiện đạt trên 96,6 tỷ USD. Vốn
ODA từ 1993 đến nay cam kết đạt gần 80 tỷ USD, giải ngân đạt trên 35 tỷ USD.
22


Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá,
trong đó sự phát triển ổn định trong ngành nông nghiệp, nhất là sản xuất lương
thực đã bảo đảm an ninh lương thực quốc gia; sản phẩm công nghiệp phát triển
ngày càng đa dạng và phong phú về chủng loại, chất lượng được cải thiện, từng
bước nâng cao khả năng cạnh tranh, bảo đảm cung cầu của nền kinh tế, giữ vững
thị trường trong nước và mở rộng thị trường xuất khẩu; chú trọng đầu tư phát triển
một số ngành công nghiệp mới, công nghệ cao; khu vực dịch vụ có tốc độ tăng
trưởng ổn định. Sự phục hồi và đạt mức tăng trưởng khá này đã tạo cơ sở vững
chắc để quá trình thực hiện kế hoạch 5 năm (2011 - 2015) trong những năm sau
đạt kết quả vững chắc hơn.
3.1.2/- Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, gắn sản xuất với thị trường:
Về cơ cấu kinh tế tiếp tục được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần, năm 1986 là 46,3%, năm
2005 còn 20,9%, năm 2010 còn 20,6%; cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi đã chuyển
dịch theo hướng tiến bộ, tăng tỷ trọng các sản phẩm có năng suất và hiệu quả kinh
tế cao, các sản phẩm có giá trị xuất khẩu.
Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng nhanh và liên tục với thiết bị, công
nghệ ngày càng hiện đại: năm 1988 là 21,6%, năm 2005 lên 41%. Tỷ trọng khu
vực dịch vụ đã tăng từ 33,1% năm 1988 lên 38,1% năm 2005. Nông nghiệp có sự

biến đổi quan trọng, đã chuyển từ độc canh lúa, năng suất thấp và thiếu hụt lớn,
sang không những đủ dùng trong nước, còn xuất khẩu gạo với khối lượng lớn,
đứng thứ hai thế giới, góp phần vào an ninh lương thực quốc tế; xuất khẩu cà phê,
cao su, hạt điều, hạt tiêu, thủy sản với khối lượng lớn đứng thứ hạng cao trên thế
giới. Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu
cầu của sản xuất và đời sống: ngành du lịch, bưu chính viễn thông phát triển với
tốc độ nhanh; các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý;... có bước
phát triển theo hướng tiến bộ, hiệu quả.
3.1.3/- Thực hiện có kết quả chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần, phát huy ngày càng tốt hơn tiềm năng của các thành phần kinh tế:
23


Kinh tế nhà nước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả,
tập trung hơn vào những ngành then chốt và những lĩnh vực trọng yếu của nền
kinh tế. Cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước được đổi mới một bước quan trọng
theo hướng xóa bao cấp, thực hiện mô hình công ty, phát huy quyền tự chủ và trách
nhiệm của doanh nghiệp trong kinh doanh. Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, huy
động ngày càng tốt hơn các nguồn lực và tiềm năng trong nhân dân, là một động
lực rất quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Năm 2005, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 38% GDP của cả nước.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, trở thành
một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân; là cầu nối quan trọng
với thế giới về chuyển giao công nghệ, giao thông quốc tế, đóng góp vào ngân sách
nhà nước và tạo việc làm cho nhiều người dân.
3.1.4 /- Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần dần
được hình thành, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định:
Trải qua hơn 25 năm đổi mới, hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận
hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng tương
đối đồng bộ. Hoạt động của các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế nhiều

thành phần và bộ máy quản lý của Nhà nước được đổi mới một bước quan trọng.
Với chủ trương tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, quan hệ kinh tế của
Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế ngày càng được mở rộng.
Việt Nam đã tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), thực hiện
các cam kết về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định Thương mại
Việt Nam - Hoa Kỳ, gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO),... Đến nay,
Việt Nam đã có quan hệ thương mại với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ, ký hơn 90
hiệp định thương mại song phương với các nước, tạo ra một bước phát triển mới
rất quan trọng về kinh tế đối ngoại.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây
dựng và hoàn thiện; chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng tiếp tục được thể chế
hóa thành luật pháp, cơ chế, chính sách ngày càng đầy đủ, đồng bộ hơn; môi
trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện; các yếu tố thị trường và các loại thị
24


trường tiếp tục hình thành, phát triển; nền kinh tế nhiều thành phần có bước phát
triển mạnh. Việc kiện toàn các tổng công ty, thí điểm thành lập các tập đoàn kinh tế
nhà nước đạt một số kết quả. Giai đoạn 2006 - 2010, số doanh nghiệp tăng hơn 2,3
lần, số vốn tăng 7,3 lần so với giai đoạn 2001 - 2005. Doanh nghiệp cổ phần trở
thành hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh phổ biến.
3.2/ Về phát triển các mặt xã hội:
Thành công nổi bật, đầy ấn tượng qua hơn 25 năm thực hiện đổi mới, đầu
tiên phải kể đến việc chúng ta đã giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế với phát triển văn hóa; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; các
cơ hội phát triển được mở rộng cho mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư,
khuyến khích, phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân dân.
GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái của Việt Nam
năm 1988 chỉ đạt 86 USD/người/năm - là một trong những nước thấp nhất thế
giới, nhưng đã tăng gần như liên tục ở những năm sau đó, giai đoạn 2005 - 2010

đạt 1.168 USD/người/năm, nước ta đã ra khỏi nhóm nước thu thập thấp để trở
thành nước có thu nhập trung bình (thấp). Trong lĩnh vực lao động và việc làm:
Từ năm 1991 đến năm 2000, trung bình mỗi năm cả nước đã giải quyết cho
khoảng 1 - 1,2 triệu người lao động có công ăn việc làm; những năm 2001 - 2005,
mức giải quyết việc làm trung bình hằng năm đạt khoảng 1,4 - 1,5 triệu người;
những năm 2006 - 2010, con số đó lại tăng lên đến 1,6 triệu người. Công tác dạy
nghề từng bước phát triển, góp phần đưa tỷ lệ lao động qua đào tạo từ dưới 10%
năm 1990 lên khoảng 40% năm 2010. Công tác xóa đói giảm nghèo đạt được kết
quả đầy ấn tượng. Theo chuẩn quốc gia, tỷ lệ hộ đói nghèo đã giảm từ 30% năm
1992 xuống khoảng 9,5% năm 2010. Còn theo chuẩn do Ngân hàng thế giới (WB)
phối hợp với Tổng cục Thống kê tính toán, thì tỷ lệ nghèo chung (bao gồm cả
nghèo lương thực, thực phẩm và nghèo phi lương thực, thực phẩm) đã giảm từ
58% năm 1993 xuống 29% năm 2002 và còn khoảng 17% năm 2008. Như vậy,
Việt Nam đã “hoàn thành sớm hơn so với kế hoạch toàn cầu: giảm một nửa tỷ lệ
nghèo vào năm 2015”, mà Mục tiêu Thiên niên kỷ (MDGs) của Liên hợp quốc đã
đề ra. Tại cuộc Hội thảo quốc tế với tiêu đề Xóa đói, giảm nghèo: Kinh nghiệm
25


×