Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Tiểu luận Chủ nghĩa hiện sinh Những biểu hiện và giải pháp đấu tranh chống tư tưởng hiện sinh trong lối sống của thanh niên Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.66 KB, 32 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chon đề tài :
Hệ tư tưởng tư sản là hệ thống những quan điểm về chính trị, đạo đức, triết học
tôn giáo, nghệ thuật... được các nhà tư tưởng tư sản đưa ra nhằm bảo vệ chế độ tư
bản và lợi ích của giai cấp tư sản. Như vậy, hệ tưởng tư sản cũng như bản chất của
giai cấp tư sản tất cả chỉ nhằm phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản và không
những thế tư tưởng của giai cấp tư sản trong giai đoạn hiện đại nó còn thể hiện bản
chất phản động, chống lại sự phát triển của xã hội loài người. Cụ thể những học
thuyết nổi bật nhất, đại diện cho chủ nghĩa tư sản như : chủ nghĩa Tômát mới; chủ
nghĩa chứng thực; chủ nghĩa hiện sinh;…Và những học thuyết của chủ nghĩa tư sản
đưa ra chỉ để là biện bạch, bảo vệ cho hệ tư tưởng tư sản, vuốt ve mơn trớn, che đậy
cho bản chất thật sự. Trong các tư tưởng của chủ nghĩa tư sản có chủ nghĩa hiện sinh
thể hiện rõ bản chất phản động và chống lại sự phát triển của khoa học kỷ thuật,
chống lại sự tiến bộ của loài người, không những thế chủ nghĩa hiện sinh nó còn làm
cho con người mất hết niềm tin vào cuộc sống, phát triển cái “tôi” bản ngã riêng của
mỗi người bản tính ích kỷ của cá nhân và con người tự do “vô hạn” không có một kỷ
cương.
Hệ tưởng tư sản và chủ nghĩa tư sản đi theo bước chân của những kẻ đi xâm
lược đã vào Việt Nam một cách tự do vào nó ảnh hưởng tất cả các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hóa - xã hội … Trong những học thuyết của chủ nghĩa tư sản đi vào
Việt Nam có chủ nghĩa hiện sinh, những kẻ đi xâm lược đã gieo dắt tư tưởng hiện
sinh vào trong đời sống nhân dân nhằm hủy hoại tư tưởng, làm cho nhân dân mất
niềm tin vào cuộc sống , suy nghĩ về một cuộc sống nhàm chán, không còn hi vọng
đấu tranh. Và chủ nghĩa hiện sinh nó luôn xoay quanh chúng ta và nó luôn tồn tại
bên chúng ta nhưng kiến thức về chủ nghĩa hiện sinh hầu hết là không có.
Hiện nay nước ta đang trong giai đoạn quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, đẩy
mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa xây dựng nông thôn mới. Nhưng dù
muốn hay không thì hệ tư tưởng của chủ nghĩa tư bản vẫn còn tồn tại rơi rớt trong xã



2

hội Việt Nam, mà trọng tâm là tư tưởng hiện sinh thể hiện qua lối sống của một số
bộ phận thanh niên hiện nay đang là vấn đề mà được toàn xã hội quan tâm, ảnh
hưởng tiêu cực đến bộ mặt tương lai của đất nước. Đó chính lý do tôi chọn đề tài
“Chủ nghĩa hiện sinh - Những biểu hiện và giải pháp đấu tranh chống tư tưởng
hiện sinh trong lối sống của thanh niên Việt Nam hiện nay”. Đây chính là một
trong những vấn đề cấp thiết đang được đặt ra có ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối
với thanh niên Việt Nam hiện nay.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu.
Tiểu luận nhằm làm rõ về mặt lý luận tư tưởng chủ nghĩa hiện sinh và ảnh
hưởng của nó đối với sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay, từ đó góp thêm tiếng
nói vào việc đánh giá đúng thực trạng và tìm giải pháp loại bỏ những hạn chế của tư
tưởng hiện sinh trong đời sống thanh niên ở Việt Nam hiện nay.
Nhằm làm rõ thêm về mặt lý thuyết và thực trạng của chủ nghĩa hiện sinh trong
đời sống của thanh niên ở Việt Nam hiện nay, đồng thời phê phán lối sống của tư
tưởng hiện sinh ở trong một số bộ phận thanh niên trong thời gian hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Do giới hạn của bản thân về hệ tư tưởng nên tiểu luận chỉ tập trung nghiên cứu
những ảnh hưởng của hệ tư tưởng hiện sinh thể hiện qua lối sống của thanh niên ở
Việt nam hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu :
Trong quá trình viết về đề tài tiểu luận, bản thân sử dụng các phương pháp:
logic; phân tích; tổng hợp; bình luận; và sử dụng các kiến thức của chính trị học, hệ
tư tưởng học; phương pháp quan sát xã hội, phương pháp lịch sử.
Tiểu luận được viết dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin ; tư tưởng
Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam.
5. Kết cấu của tiểu luận :
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận này
gồm 3 chương :

Chương 1 : Chủ nghĩa hiện sinh, những biểu hiện của chủ nghĩa hiện sinh.


3

Chương 2 : Thực trạng và sự ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh trong thanh
niên Việt Nam.
Chương 3 : Quan điểm và giải pháp chống tư tưởng hiện sinh trong lối của
thanh niên Việt Nam hiện nay.
Quá trình xây dựng tiểu luận tuy có nhiều cố gắng, thận trọng đối với từng nội
dung, nhưng bản thân chắc không tránh khỏi những hạn chế, sơ xuất nhất định.
Mong nhận được sự hướng dẫn, đóng góp của thầy để Đề tài tiểu luận được hoàn
thiện, mang tính khoa học thực tiễn của bản thân và địa phương.


4

CHƯƠNG 1
CHỦ NGHĨA HIỆN SINH VÀ
NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA CỦA NGHĨA HIỆN SINH
1.1. Chủ nghĩa hiện sinh :
Chủ nghĩa hiện sinh hay còn gọi là "triết học về tồn tại" là một trong những
trào lưu tư tưởng triết học phương tây hiện đại xem con người như là một bản thể
độc đáo, có một không hai, có khả năng tự quyết định số phận của mình. Chủ nghĩa
hiện sinh ra đời vào giữa hai cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất và chiến tranh thế
giới thứ hai và kéo dài cho đến cuối những năm 60 của thế kỷ XX . Chủ nghĩa hiện
sinh ra đời góp phần vào sự phát triển của triết học phương tây hiện đại và hệ tưởng
của chủ nghĩa tư sản. Tư tưởng hiện sinh không chỉ ảnh hưởng tới đời sống tinh thần
ở châu Âu nơi nó ra đời mà nó còn có tầm ảnh hưởng trên cả thế giới, không chỉ lúc
nó ra đời mà còn tận tới ngày nay.

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, châu Âu bước vào tình trạng khủng hoảng về
tất cả các mặt từ chính trị, xã hội, tư tưởng … Tình trạng bất an ngày càng gia tăng,
đặc biệt là chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra làm hàng triệu người trở thành nạn
nhân của “trò chơi chiến tranh”.
Tinh thần của con người lúc này rơi vào tình trạng hoang mang đến tột độ. Giờ
đây nhân tính được thay bằng thú tính, cơ cấu xã hội bị đảo lộn lung lay đến tận gốc
rễ, pháp luật chính trị trở thành trò chơi “ảo thuật trong tay những người cầm
quyền”, mọi luân lý bị xem thường, bao nhiêu nghịch cảnh thương tâm xảy ra. Con
người trong giai đoạn này dường như mất hết niềm tin vào cuộc sống, nghi ngờ mọi
giá trị, con người trở nên buồn chán, vô nghĩa và nhân cách bị tha hóa theo hoàn
cảnh sống.
Mặc dù trong hoàn cảnh chiến tranh xảy ra liên miên nhưng khoa học kỷ thuật
vẫn tiếp tục phát triển và đạt được nhiều thành tựu đáng kể góp phần vào việc tăng
năng suất tạo ra nhiều của vật chất hơn. Nhưng từ đó cũng là nguyên nhân làm cho
con người thêm phần nghi ngờ tại sao khoa học kỷ thuật phát triển làm ra nhiều của
cải hơn vậy sao lại vẫn có chiến tranh, sao không mang lại cho nhân loại cuộc sống
ấm no hạnh phúc. Trong bối cảnh ngự trị của tư duy duy lý cực đoan đó con người


5

chỉ như những đồ vật, những cái linh kiện máy móc của các thiết bị trong các nhà
máy công xưởng của các ông chủ tư bản mà thôi.
1.2. Nguồn gốc ra đời của chủ nghĩa hiện sinh.
Chủ nghĩa hiện sinh phản ánh bước tranh hiện thực về sự khủng hoảng tột độ
của chủ nghĩa tư bản chuyển vào giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Là sự phản ứng tiêu
cực của giới trí thức tư sản và tiểu tư sản đối với sự tha hóa xã hội và mặt trái của
khoa học kỷ thuật.
1.2.1. Điều kiện kinh tế xã hội :
Đây là giai đoạn mà kinh tế tư bản phát triển đến giai đoạn phồn thịnh nhất, nền

sản xuất tư bản được áp dụng những thành tựu của khoa học kỷ thuật nên tạo ra
năng suất cao hơn như C.Mác nói “phương thức sản xuất tư bản đã tạo ra lượng của
cải nhiều gấp mấy làn các phương thức sản xuất trước đã tạo ra”. Nhưng lượng của
cải này không phải là lượng của cải của toàn xã hội mà tập trung trong tay cuả giai
cấp tư sản giai cấp thống trị xã hội. Giai cấp công nhân và nhân dân lao động chính
là những người tạo ra nguồn của cải khổng lồ của chủ nghĩa tư bản nhưng chính họ
lại là những người sống dưới mức nghèo khổ chiếm phần lớn của xã hội còn giai cấp
tư sản chỉ chiếm một số lượng rất ít nhưng lại chiếm phần lớn của cải xã hội, không
những thế giai cấp công nhân và những người lao động họ không biết sẽ bị đẩy ra
ngoài đường lúc nào không biết, nguy cơ thất nghiệp là rất lớn.
Mọi người trong xã hội đặt ra câu hỏi rằng khoa học kỷ thuật phát triển tạo ra
một lượng của cải khổng lồ nhưng nền kinh tế tư bản lại không mang lại cho mọi
người cuộc sống ấm no, mà giai cấp công nhân và nhân dân lao động vẫn sống cuộc
sống nghèo khổ sống trong những khu nhà ổ chuột. Họ đang sống trong nền kinh tế
tư bản đầy bất công sự giàu có thì có thừa nhưng sao họ không được hưởng thụ và
đó cũng là những công sức mà họ làm ra.
Kinh tế phát triển nhưng kết quả của sự phát triển đó là chiến tranh xảy ra liên
miên chỉ chưa đầy 1/4 thế kỷ mà đã có hai cuộc chiến tranh xảy ra trên phạm vi thế
giới. Chiến tranh đẩy nhân dân vào vòng lầm than, khổ ải. Những cuộc chiến này
xảy ra không một chút chính nghĩa nào chỉ là để chứng tỏ “xem ai là kẻ đi ăn cướp
được nhiều nhất” kẻ nào thể hiện được bản chất ăn cướp của mình nhất. Vì chiến
tranh mà đã làm cho tất cả mọi thứ ở trên đời này không còn dù chỉ là một chút


6

nghĩa lý nào cả, tất cả đều vô nghĩa, con người mất đi niềm tin vào cuộc sống. Đây
chính là một chủ đề mà được các tác phẩm văn chương hay triết học trong giai đoạn
này đều mô tả và đề cập đến. Qua các tác phẩm này mỗi tác gia đều trở thành những
nhà hiện sinh, họ đều muốn tìm vào một nơi nào đó để chia sẻ sự chán chường về

cuộc sống thực tại đầy đau khổ, không lối thoát, mọi thứ trên đời trở nên phi lý buồn
bã, sự đảo lộn của xã hội, nhân sinh quan về cuộc sống của con người trong giai
đoạn này và những tác phẩm đó họ muốn lối thoát, họ muốn chứng minh sự tồn tại
của họ với xã hội.
1.2.2. Về điều kiện chính trị :
Trong xã hội tư bản quyền lực chính trị tập trung trong tay của giai cấp tư sản,
những tài phiệt tư bản đã biến quyền lực chính trị trong tay mình như những trò hề,
là con rối. Các nhà tư sản có tiền thì đồng nghĩa với việc có quyền lực và các đảng
phái tư sản thay nhau cầm quyền thống trị giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Giai cấp tư sản thực hiện các quyền lực chính trị để nhằm mục đích có lợi cho giai
cấp tư sản chữ không quan tâm đến lợi ích của các giai tầng khác trong xã hội.
1.2.3. Nguồn gốc tư tưởng :
Chủ nghĩa hiện sinh đã mượn một số yếu tố trong triết học đời sống, chẳng hạn
mượn ở Dilthey phương pháp chú giải học như một phương pháp đặc biệt khác với
các phương pháp khoa học, các phương pháp logic để nhận thức được cái tinh thần
hay “mượn” ở Nitzsche thái độ hạ thấp coi thường khoa học và tư duy khoa học
trong việc nhận thức đời sống bất tận với tư cách là một hiện thực đặc biệt, hay
“mượn ở Bergson với thuyết trực giác, bằng tình cảm, so với nhận thức bằng trí tuệ,
lý tính và khoa học. Chủ nghĩa hiện sinh còn đi xa hơn triết học đời sống. Nếu triết
học đời sống coi tư duy khoa học là thô thiển, nhưng vẫn là phương tiện để thích
nghi với cuộc sống, thì trái lại chủ nghĩa hiện sinh khẳng định sự bất lực của nó
trong việc giải quyết vẫn đề tồn tại của con người.
Chủ nghĩa hiện sinh đã sử dụng phương pháp hiện tượng học của Husserl,
phương pháp hướng vào việc nhìn thấu một cách trực tiếp bản chất của sự vật trong
quá trình trải nghiệm sự vật đó sau các giai đoạn quy giảm hiện tượng học và quy
giảm tiên nghiệm trên cơ sở phân tích ý hướng tính. Chủ nghĩa hiện sinh đã bản thể


7


luận hóa hiện tượng học của husserl hay hiện tượng học hóa bản thể luận của
kierkegaard, cố gắng qua đó tìm ra được cấu trúc tiên nghiệm của tồn tại con người.
Kierkegaard xem xét tồn tại con người, hiện sinh như một đối tượng triết học,
ông xác định cấu trúc hiện sinh với khái niệm “sợ hãi”, “sự tuyệt vọng” và “tính
cương quyết”. Theo Kierkegaard, chỉ có tư duy hiện sinh, chữ không phải là lý tính,
tư duy khoa học có khả năng tiếp cận nhận thức thế giới nội tâm của con người và
thâm nhập được vào tồn tại con người với tư cách hiện sinh, bởi vì tư duy khoa học
chỉ xuất phát từ sự quan tâm thuần túy, trừu tượng và vô tình, còn tư duy hiện sinh
liên quan đến những tình cảm của con người và đời sống nội tâm của con người.
Chủ nghĩa hiện sinh sau này đã tiếp nhận ở kierkegaard luận điểm này. Do vậy
kierkegaard đã thực sự trở thành cha đẻ của chủ nghĩa hiện sinh nói chung.
Triết học đời sống là một xu hướng triết học phi lý ở Đức và Pháp từ nửa cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, cố gắng làm sáng tỏ các vẫn đề về ý nghĩa, mục tiêu và
giá trị của cuộc sống. Triết học đời sống, xem xét mọi tồn tại như là biểu hiện của
cuộc sống, biểu hiện của một khởi nguyên nào đó không đồng nhất với cả vật chất
lẫn tinh thần và hiện thực đó có thể là nhận thức được nhờ trực giác.
Gắn liền với sự phát triển của sinh vật học, tâm lý học, triết học đời sống là sự
phản ứng của bức tranh thế giới, đối với chủ nghĩa duy vật máy móc. Triết học đời
sống có thể xem là một cố gắng khắc phục những hạn chế của duy vật máy móc đó
từ lập trường của chủ nghĩa duy tâm, từ quan điểm của chủ nghĩa phi duy lý, chủ
nghĩa hư vô, chủ nghĩa khoa học. Như vậy, triết học đời sống bênh vực tình cảm,
bản năng chống lại lý trí, trí tuệ, bênh vực trực giác chống lại khái niệm, bênh vực
cái sáng tạo chống lại cái máy móc.
Có hai nhóm chủ yếu trong triết học đời sống : Nhóm thứ nhất gồm có các đại
diện tiêu biểu chủ yếu như A.Schopenhauer (1788-1860), F.Nitzsche(18441900).W.Dilthey(1833-1911). Nhóm này xem cuộc sống như là ý chí, cảm tính bên
trong, như là trò chơi phi lý của các thế lực tinh thần. Nhóm này chống lại việc xem
xét các hiện tượng tinh thần, ý thức từ quan điểm của khoa học tự nhiên. Nhóm thứ
hai với đại diện là Bergson (1859-1941) xem xét cuộc sống dưới góc độ sinh học
cho toàn bộ hiện thực . Đưa ra thuyết trực tính , khoa học . Chủ nghĩa hiện sinh đã
tiếp nhận ít nhiều các yếu tố này ở các đại biểu khác nhau của triết học đời sống.



8

1.2.4. Nguồn gốc nhận thức :
Về mặt nhận thức, chủ nghĩa hiện sinh là sự phản ứng đối với chủ nghĩa duy lý
với các hình thái khác nhau của nó như tư tưởng khai sáng châu Âu và tư tưởng triết
học cổ điển Đức. Theo các nhà tư tưởng hiện sinh, đặc trưng cơ bản của tư duy duy
lý là ở chõ nó xuất phát giữa chủ thể và khách thể, chia thế giới thành hai lĩnh vực là
khách quan và chủ quan. Kết quả là, đối với nhà duy lý, toàn bộ thế giới hiện thực,
kể cả con người chỉ được xem như một đối tương hay bản chất nào đó của nền khoa
học và triết học khách quan. Sự tồn tại đặc thù của con người như một nhân cách tư
do đã không hề được chú ý đến. Nguồn nhận thức của tư tưởng hiện sinh chính là sự
khủng hoảng của nền khoa học, sự bất lực của nó đối với về ý nghĩa của con người.
Cho đến thế kỷ XIX, ngự trị một xu hướng cho rằng khoa học vai trò vạn năng
của khoa học, khoa học có thể giải quyết tất cả các vẫn đề về nhân sinh, rằng vũ trụ
không có gì là huyền nhiệm, với sự phát triển của khoa học kỷ thuật thì nhất định
con người có thể thỏa mãn tất cả các nhu cầu về tinh thần và vật chất . Tuy nhiên, sự
phát triển của khoa học kỷ thuật không đồng nhất với sự phát triển của xã hội. Lý trí
khoa học đã không cải thiện được nhân sinh. Khoa học bị rơi vào cuộc khủng hoảng
nền tảng sâu sắc. Cuộc khủng hoảng này gắn liền với cuộc khủng hoảng trong vật lý
và sự ra đời của thuyết tương đối của Anxtanh. Khoa học còn tỏ ra bất lực trước vẫn
đề tồn tại của con người, trước cảm giác sợ hãi, chán chường và bế tắc, bất lực của
con người. Đặc biệt khoa học và lý tính bị tố cáo là sai lầm, vì đã xem con người là
một hiện tương vật lý thuần túy, không thấy được vị trí đặc biệt của con người.
Yếu tố này đã đặt cơ sở cho tư tưởng hiện sinh - chủ nghĩa hiện sinh ra đời, xu
hướng nghiên cứu tồn tại đặc biệt của con người, vẫn đề tự do, vẫn đề ý nghĩa sự tồn
tại của con người, giải đáp các vẫn đề ý nghĩa tồn tại của con người, giải đáp các vẫn
đề khủng hoảng xã hội v.v…
Vì vậy, sự xuất hiện của chủ nghĩa hiện sinh đã có sưc hấp dẫn kỳ lạ đối với

các tầng lớp trí thức trẻ, nhất là giới sinh viên, vì nó đánh trúng tâm tư nguyện vọng
của họ muốn lý giải và thay đổi số phận của mình, không muốn tiếp tục tha hóa khỏi
bản chất của mình trong một thế giới buồn chán và phi lý, phá bỏ mọi quy tác trật tự
của xã hội tư bản chủ nghĩa, để đặt được tự do tuyệt đối cho cá nhân, đặt được bản
săc cá nhân độc đáo của mình.


9

1.3. Những đặc điểm chính của chủ nghĩa hiện sinh :
Xuất phát điểm của chủ nghĩa hiện sinh là hiện sinh với tư cách là hạt nhân của
cái tôi, của tồn tại con người. Để tiếp cận được tính độc đáo, tính không lặp lại bản
sắc riêng của hiện sinh, của đời sống, của đời sống nội tâm, của cái tôi cá nhân theo
chủ nghĩa hiện sinh, không thể dựa vào khoa học, vào sự phân tích lý tính. Việc nhận
thức bản thân mình với tư cách là hiện sinh ở con người chỉ có thể trong những tình
huống đặc biệt nhất của cuộc đời, tình huống giới hạn, chẳng hạn như thời điểm con
người bị hấp hối. phương pháp thâm nhập vào thế giới của hiện sinh chính là trực
giác hay linh cảm, là thông hiểu. Ở chủ nghĩa hiện sinh có thể nhận thấy sự kế thừa
phương pháp hiện tượng học cảu husserl được lý giải theo hướng phi duy lý.
Chống lại phương pháp tư duy duy lý, chủ nghĩa hiện sinh đưa ra phương pháp
và hình thức thể hiện độc đáo. Các nhà tư tưởng hiện sinh thường có xu hướng trình
bày các tư tưởng của mình chủ yếu thông qua các phương pháp, các loại hình nghệ
thuật, thơ, kịch, nhật ký v.v..., chứ không phải ở dang lý thuyết hệ thống thế nên các
nhà nghiên cứu hiện sinh cho rằng có bao nhiêu nhà hiện sinh thì có bấy nhiêu nhà
chủ nghĩa hiện sinh. Nhờ đó, mà tư tưởng hiện sinh dễ đi vào lòng người, đễ phổ cập
trong lòng xã hội, và sức lan tỏa rộng lớn. Vì thế mà mặc dù cũng là các luân điểm
triết học nhưng chủ nghĩa hiện không khô khan như các tư tương triết học khác.
Chống lại quan điểm coi con người chỉ là những đồ vật hay phương tiện nào
đó, chủ nghĩa hiện sinh cho rằng với tính cách là một phương thức sống hay thái độ
sống độc đáo ở con người là cái có trước bản chất, hơn nữa, còn sinh ra bản chất, có

thể tạo cho mình bản chất nào đó. Theo các nhà hiện sinh, khác biệt căn bản của con
người với các sự vật các sinh vật khác được xác định trước là ở điểm này : nếu só
phận và bản chất trong quá trình tồn tại của mình. Nói khác đi, nếu ở các sự vật hay
sinh vật, bản chất có trước tồn tại, thì ở con người sáng tao ra bản thân, bản chất của
mình một cách tự do, chẳng hạn người ta tự do tạo cho mình một bản chất là một kẻ
hèn nhát hay bản chất một người anh hùng. Theo tư tưởng hiện sinh, chính mỗi con
người chữ không phải do hoàn cảnh lịch sử xã hội quyết định bản chất của mình. Số
phận con người nằm trong tay mình và do chính mình quyết định bản chất của mình
thông qua các dự án của cá nhân, các thiết kế, các chương trình hành động cho cuộc
đời mình. Để nâng cao tính chủ quan tuyệt đối và bản sắc độc đáo của con người cá


10

nhân, tư tưởng hiện sinh lên tiếng chống lại kiểu con người đại chúng, con người
không có bản sắc riêng, con người bị tha hóa khỏi cuộc sống đích thực của mình.
Trong tư tưởng hiện sinh, vấn đề tự do có vị trí đặc biệt. Với tính cách là sự lựa
chọn một trong vô số các khả năng, tự do năng lực đặc biệt chỉ có ở con người, một
đặc trưng phân biệt con người với các đồ vật và sinh vật khác. Nhấn mạnh tính siêu
việt của con người, đòi hỏi luôn vượt lên chính mình để đạt được tự do của bản thân,
tư tưởng hiện sinh đòi hỏi tự do tuyệt đối cho mỗi cá nhân, thoát khỏi mọi sự ràng
buộc của quy tắc và trật tự xã hội. Tự do tuyệt đối là cái cao nhất của con người. Tư
do gắn liền với hiện sinh, với trách nhiệm về những gì mà bản thân đã chọn và thực
hiện. Con người không thể biện minh cho sai lầm của mình bằng hoàn cảnh. Tự do
không thể giải thích bằng lý trí.
Tư tưởng hiện sinh dương như xuất phát từ cái nhìn bi quan về thân phận của
co người. Con người được xem là con vật bị bỏ rơi, bị ruồng rẫy, bị ném vào trong
thế giới một cách bơ vơ, cô đơn với nỗi kinh hoàng khủng khiếp, để rồi lặng lẽ đi
vào cái chết hay sống tuyệt vọng, vì không lý giải được về sự tồn tại của mình trong
cuộc sống này được coi là vô nghĩa và phải tự lo liêu về số phận của minh, sự khủng

hoảng về cuộc sống.
Tư tưởng hiện sinh không thừa nhận sự tách rời giữa chủ thể và khách thể. Con
người không tách biệt với thế giới, mà gắn liền với thế giới riêng của mình. Đó là
quan hệ lưỡng hợp của chủ thể và khách thể, trong đó đối tượng bị quy định bởi tình
ý hướng của chủ thể, của ý thức và ý thức bao giờ cũng là ý thức về đối tượng.
1.4. Những đại diện tiêu biểu của chủ nghĩa hiện sinh :
E.Huserl (1859-1938) là người sáng lập hiện tượng học, nhờ đó chủ nghĩa hiện
sinh mới có cơ sở lý luận để trở thành một triết học. Lý luận của ông về ý thức và
tính ý hướng của nó, về sự tương hỗ năng tri đã có vai trò lớn để xây dựng luận đề
cở bản của chủ nghĩa hiện sinh là hiện sinh có trước bản chất.
Khi nghiên cứu về chủ nghĩa hiện sinh chúng ta không thể không nói tới
Kierkegaard (1812 - 1855) sinh ra tại Đan Mạch ông được coi là cha đẻ của chủ
nghĩa hiện sinh. Ông là triết gia đầu tiên đã đem đời mình, đời cha mình ra để suy
nghiệm về nỗi thống khổ của con người. Với ông, con người không phải là con
người trừu tượng, con người phổ quát, con người được đem ra làm vật thể để lý luận


11

như trong triết học duy lý của Heghen, con người mà ông khảo sát ở đây là chính
bản thân ông, với những giai đoạn trong đường đời. Đó là lý do khiến ông trở thành
ông tổ đích thực (authentique) của triết học Hiện Sinh. Người ta nói rằng “hiện
tượng học Đức + kierkegaard = chủ nghĩa hiện sinh”. Ông tiến hành phê phán chủ
nghĩa duy lý của A.Comte, đặc biệt là của heeghen, có thể nói chủ nghĩa hiện sinh đã
rút ra những chủ đề của mình từ sự phê phán Heghen. Sau này, Sartre, Camus,
Simone de Beauvoir và những tác giả có khuynh hướng hiện sinh khác, như các nhà
văn trong phong trào tiểu thuyết mới v.v... hầu như tất cả đều viết về mình, đều tra
khảo chính mình để tìm hiểu sự thật dưới các dạng thức khác nhau. Triết học của
Kierkergaard là triết học nghiệm sinh trên cá nhân tác giả.
1.5. Qúa trình du nhập của chủ nghĩa hiện sinh vào Việt Nam :

1.5.1. Thời kỳ trước năm 1945 :
Vào thời kỳ này ở châu Âu mà đặc biệt là ở Tây Âu chủ nghĩa hiên sinh đặt tới
mức độ toàn thịnh với điều kiện thuân lợi của sự phát triển của giới truyền thông và
sách báo chủ nghĩa hiện sinh càng có cở hội phát triển mạnh mẽ hơn.
Việt Nam trong giai đoạn này đang là thuộc địa của pháp, nước Việt Nam là
một nươc thuộc đia nửa phong kiến. Các tầng lớp nhân dân chụi nhiều tầng áp bức
bóc lột, đặc biệt là thực dân Pháp với các chương trình khai thác thuộc đia càng làm
cho nền kinh tế ngày càng kiệt quệ, xã hội hoảng loạn. Mọi tầng lớp nhân dân bị áp
bức, bóc lột đến tận xương tủy, nông dân bị mất đất, mất ruộng phải trở thành “cu
ly” trong các đồn điền cao su hay đi làm công nhân trong các xưởng với những đồng
lương chết đói không nhưng thế họ còn phải thường xuyên bị cúp phạt. Không chỉ
giai cấp nông dân mà còn các tầng lớp khác tư sản dân tộc thì bị tư sản mại bản và
tư sản Trung Hoa chen ép không ngóc đầu lên được. Tầng lớp tri thức tiểu tư sản
cùng tầng lớp sĩ phu và các giai tầng khác đều chịu chung sô phận như vậy cả, số
phận của những kẻ nô lê, mất nước, mất tư do.
Vì không cam chịu bị áp bức, không cam chịu làm nô lệ những người Việt Nam
yêu nước lúc bấy giờ đã đứng lên dương cao ngọn cờ chống ngoại xâm, song vì thực
dân Pháp lúc này con quá mạnh, hơn nữa họ chưa có một đường lối đấu tranh đúng
đắn chưa có một giai cấp lãnh đạo để đấu tranh gianh chính quyền về tay mình. Kết
quả của các cuộc đấu tranh đó là đều bị đàn áp trong biển máu. Cuộc sống của các


12

tầng lớp nhân dân lúc nay trở nên tuyệt vọng chán nản, họ dương như không còn tim
cho mình được một chỗ dựa thực sự nào có thể bấu víu vào được và họ muốn chạy
trốn thực tại.
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời (1930), đã thắp sáng lên niềm tin hi vọng vào
cuộc đấu tranh giành lại chủ quyền độc lập của dân tộc, nơi mà nhân dân đặt được hi
vọng của mình là có thể giải thoát khỏi thực tại cuộc sống đau khổ dưới ánh đô hộ

của thực dân pháp.
Như vậy, Việt Nam lúc này là một miếng đất màu mỡ để chủ nghĩa hiện sinh
tìm đến nơi mà chủ nghĩa hiện sinh có thể gieo mầm sinh sôi và nảy nở phát triển.
Bởi vì bản chất của chủ nghĩa hiện sinh là nó chỉ có thể sinh sôi nảy nở, phát triển
trên những vùng đất mà con người ở đó không còn niềm tin và hi vọng mọi giá trị về
cuộc sông không còn, con người nghi ngờ về cuộc sống thực tại.
Bao giờ cũng vậy tầng lớp mà chủ nghĩa hiện sinh có thể tiếp cận một cách
nhanh nhất đó thanh niên và tầng lớp tiểu tư sản, đó là tầng lớp nhạy cảm nhất về
mọi sự biến đổi trong cuộc sống thường ngày họ luôn muốn khăng định mình với xã
hội. Nhưng trong xã hội Việt Nam lúc bấy giờ tất cả mọi tầng lớp đều bị áp bức bị
bóc lột đều bị dồn đến “bước đường cùng” không cò lối thoát, bị bần cùng hóa thế
nên tư tưởng hiện sinh nhanh chóng ăn sâu vào trong tầng lớp này.
Và điều thể hiện rõ nét nhất mà chúng ta có thể nhận thấy về những tư tưởng
hiện sinh trong giai đoạn này là qua thơ văn. Các nhà văn, nhà thơ trong giai đoạn
này đều muốn thể hiện sự khóc than cho sự bất lực của mình qua các tác phẩm. Ta
thấy ở trong phong trào “Thơ mới” sự lãng mạn đến thê thảm và tuyệt vọng đối cuộc
đời . Ngay trong câu thơ “một nhành củi khô lạc mấy dòng” (Trang giang-Huy Cận)
hay “trên ruộng cánh cò phân vân” một cuộc sông không có phương hướng, họ
dường như không xác định được tương lai mình sẽ đi về đâu, mọi thứ lúc này đều là
con số không. Không chỉ trong các bài thơ của các nhà “Thơ mới” chúng ta có thể
thấy trong các tiểu thuyết các nhân vật trong đó là một trí thức tiểu tư sản nhận thấy
mình sống trên cuộc đời này là thừa thãi vô ích trong “Đời thừa-Nam Cao” hay
những con người bị xã hội thực dân đưa đẩy họ tới con đường tha hóa nhân cách, lôi
họ xuống đáy của xã hội nhấn chìm họ dưới đó dù họ có khao khát trở lại làm một
con người lương thiện nhưng không thể mà phải tự kết liễu đời mình trước ngưỡng


13

cửa quay lại với cuộc sống làm người “Chí Phèo-Nam Cao” và ta có thể tìm được

những con người như vậy trong hầu hết các tác phẩm văn học trong giai đoạn này.
1.5.2. Từ năm 1945 đến 1954 :
Đây là thời kỳ mà Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đã
dành được độc lập của đất nước song thực dân Pháp đã quay lai xâm lược thêm một
lần nữa “chúng muốn cướp nước ta thêm một lần nữa”(Chủ tịch Hồ Chí Minh).
Nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam lại bước vào
cuộc kháng chiến bảo vệ chủ quyền quốc gia dân tộc khi mà vùa mới dành lại chua
được bao lâu.
Cuộc kháng chiến chống Pháp được diễn ra toàn diện trên tất cả các lĩnh vực từ
kinh tế, chính tri, văn hóa, xã hội .., vì một mục tiêu lớn nhất đó là bảo vệ chủ quyền
dân tộc vì độc lập tự do của dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân. Thế nên chủ trương
của Đảng cộng sản Việt Nam lúc này là kêu gọi toan dân đoàn kết, tập hợp mọi lực
lượng, tất cả các giai tầng trong xã hội để quyết tâm giành cho được độc lập dân tộc
dù phải hi sinh bao nhiêu xương máu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tường nói : “dù phải
đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải dành cho được độc lập”. Vì lý do dân tộc vì
tổ quốc xã hội Việt Nam lúc bấy giờ trỏ thanh một ngôi trường tư tưởng lớn để hình
thành những con người có nhân cách tốt, chủ nghĩa anh hùng dân tộc, anh hùng cách
mạng lên ngôi, mọi người đều vì tổ quốc vì cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại của dân
tộc Việt Nam.
Tuy nhiên, ở những vùng địch tạn chiến thì tình hình hết sức phức tạp. Ở những
vùng đó thực dân pháp tích cực chống phá những hoạt động nhằm xây dựng lối sống
mới, chúng hết sức phản động trong việc tuyên truyền về những tư tưởng độc hại…
đặc biệt là lối sống của chủ nghĩa hiện sinh vào trong đời sống của nhân dân đặc biệt
là thanh niên. Đối với thanh niên chúng ra sức truyền bá những tư tưởng đồ trụy, lối
sống không lành mạnh, khuyến khích thanh niên đi vào con đường truy lạc, sống
không có định hướng gì cho tương lai. Mục đích thâm độc của chúng là nhằm cho
một lớp thanh niên trong xã hội Việt Nam lúc bấy giờ sống vô lý tưởng, không có
niềm tin vào tương lai của đất nước, sãn sàng bán nước, đi làm tay sai cho chúng
bán rẻ đất nước, làm cho Đảng không còn lược lượng nữa.



14

Đáng chú ý hơn là chúng lợi dụng tôn giáo để cài những tên gián điệp đội lốt
giáo sĩ, tổ chức các giáo hội, những thánh đường công khai chống lai tổ quốc. Đặc
biệt ở đây chủ nghĩa hiện sinh đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc tạo ra
những con người “anh hùng” sãn sàng làm những việc làm dù là tàn ác vô nhân tính
nhất. Những mẫu người như thế được chúng ca ngợi tán dương, tán tụng đến mức
“vứt bỏ” cả bộ đồ tu hành biến thành những con thú đội lốt người, giết người man
rợ. Đó là thứ chủ nghĩa hiện sinh như của kierkegaard đạt đến giai đoạn “tôn giáo”
hay đóng vai “siêu nhân” của Nietzsche.
1.5.3. Từ năm 1954 đến 1975 :
Đây là thời kỳ mà dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt
Nam, tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Việt Nam tạm thời bị chia cắt
làm hai miền, miền Bắc tiến hành xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội
đồng thời chi viên cho miền Nam chống chính quyền tay sai và đế quốc Mỹ
Trong giai đoạn này ở miền Bắc kiên định đi theo học thuyết Mác – lênin làm
nền tảng cho xã hội. Chủ nghĩa Mác – lênin đã thực sự làm thay đổi lối sống, tinh
thần con người sống nhân ái, đồng lòng, yêu cái thiện, ghét cái ác, mọi người trong
xã hội được nâng cao tinh thần trách nhiêm có ý thức với cộng đồng. Nền kinh tế
từng bước được đổi mới, chính vì những lý do đó mà nghững chủ nghĩa phi khong
học không có cơ hội để tồn tại.
Còn ở miền Nam, để chọn một lý thuyết triết học và mỹ học được du nhập và
có ảnh hưởng rộng rãi nhất trong lý luận và sáng tác văn học ở miền Nam Việt Nam
những năm 1954-1975, có lẽ nhiều người sẽ không ngần ngại chọn chủ nghĩa hiện
sinh. Ảnh hưởng đó thể hiện ở chỗ đây là trào lưu, tuy lúc đậm lúc nhạt, nhưng đã
hiện diện gần như trọn cả một giai đoạn lịch sử đen tối và phức tạp. Ảnh hưởng đó
thể hiện cả trên bình diện lý luận lẫn trên bình diện sáng tác, cả trong giới chuyên
môn lẫn trong độc giả phổ cập, cả trong nhà trường lẫn ngoài nhà trường. Điều đó
còn thể hiện ở chỗ đây là một ảnh hưởng đa chiều, có thuận có nghịch, có hiện sinh

và phản hiện sinh, có những sản phẩm chính cấp và sản phẩm thứ cấp, có những đứa
con chính thức lẫn “những người con hoang”.
Khi chính quyền Ngô Đình Diệm dưới sự bảo trợ của đế quốc Mỹ dựng lên một
chính quyền ở miền nam Việt Nam, lý thuyết triết học phương Tây mà người Sài


15

Gòn nghe nói đến đầu tiên không phải là chủ nghĩa hiện sinh, mặc dù đây là lúc chủ
nghĩa này đang hình thành một trào lưu sôi nổi ở Tây Âu. Lý thuyết được gia đình
họ Ngô đề cao và quảng bá lúc đó là chủ nghĩa nhân vị Nhưng chủ nghĩa hiện sinh
đã được đưa vào giảng dạy trong nhà trường và đồng thời cùng sách báo được du
nhập từ nước ngoài khiến chúng trở nên tạp nham. Nhưng mà mục đích thâm độc
của kẻ muốn gieo dắt nhưng tư tưởng này thì không thay đổi đó là muốn làm hư
hỏng , truy lạc, bại hoại con người mà chủ yếu hướng đến đó là tầng lớp thanh niên.
Đi kèm với những lý thuyết đó là quân đội viễn chinh mà đế quốc Mỹ đem
sang với những lối sống buông thả, đồ trụy, phóng đáng, bụi đời. Không những thế
lúc này ở niềm Nam những tệ nạn xã hội tràn lam, nhưng bang cướp có tổ chức mọc
lên đầy rẫy, cùng đủ loại giáo phái du nhập vào càng làm cho nền van hóa ở miềm
Nam lúc này trở nên hỗn tạp hơn bao giờ hết, những giá tri văn hóa dần dần bị biến
dạng bị hoại tử trong lòng xã hội. Trong xã hội bị xé toang từng mảnh về tinh thần
đế quốc Mỹ vầ bè lũ tay sai của chúng tích cực truyền bá về cái mà chúng cho là
“anh hùng” cho là “siêu nhân”
Nhưng bên cạnh những một xã hội bị đầu độc dẫn tới bị tổn hại nghiêm trọng
thì vẫn còn những lực lượng tiến bộ để giữ gìn những bản sắc văn hóa, những giá trị
truyền thống. Đó là Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.

1.5.4. Giai doạn từ 1975 đến nay :
Sau khi giải phóng miền Nam hoàn thành sự nghiệp cách mạng trên phạm vi

toàn quốc (1975) Đảng ta đã có nhiều biện pháp về văn hoá tư tưởng để loại bỏ
những tư tưởng tiêu cực của chế độ cũ còn lại trong những vùng mới được giải
phóng , đồng thời khắc phục những tư tưởng văn hóa độc hại.
Cải tổ lại các trường đại học và cả hệ thống giáo dục trong toàn quốc kiên
quyết chống những tư tưởng văn hoá độc hại của chủ nghĩa thực dân đế quốc. Đồng
thời với hệ thống giáo dục chúng ta cũng đang quản lý toàn diên về hệ thống truyền
thông và các nguồi văn hóa ngoại nhập không cho các luông tư tưởng phản động
xâm nhập vào nước ta.


16

Ngoài ra chúng ta cũng tích cực sử dụng các biện pháp trấn áp các loại tội
phạm như cướp giật, lưu manh còn tồn tại dưới chế độ cũ sót lại làm cho đời sống
thêm lành mạnh trong sạch.
Và chủ nghĩa hiện sinh trong giai đoạn mới này nó tồn tại dưới vỏ bọ mới tinh
vi hơn nhằm lừa sự cảnh giác của chúng ta về nó để cho chủ nghĩa hiện sinh con có
thể tồn tại được.Nhưng dù sao thì về mặt bản chất nó vẫn là một tư tưởng làm cho
con người xuống cấp về đạo đức làm cho con người mất niềm tin vào cuộc sống cần
phải loại bỏ .

CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA CHỦ NGHĨA HIỆN SINH
ĐỐI VỚI THANH NIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Những biểu hiện của tưởng hiện sinh của thanh niên Việt Nam hiện
nay :
Thanh niên trước hết mang đầy đủ những đặc điểm chung của con người, mà
theo Mác là "tổng hoà của các quan hệ xã hội". Nhưng họ còn mang những đặc điểm
riêng : Tuổi đời còn trẻ, thường từ 15 đến hơn 25 dễ thay đổi, chưa định hình rõ rệt
về nhân cách, ưa các hoạt động giao tiếp.

Thanh niên vì thế dễ tiếp thu cái mới, thích cái mới, thích sự tìm tòi và sáng
tạo. Đây cũng là tầng lớp xưa nay vẫn khá nhạy cảm với các vấn đề chính trị- xã hội,
đôi khi cực đoan nếu không được định hướng tốt. Chính vì điều này mà chủ nghĩa


17

hiện sinh có cơ hội len lỏi và trong đời sống của các thanh niên ăn sâu vào trong suy
nghĩ và tư duy về cuộc sống.
Đối với thanh niên, một thực tế là trong số họ hiện nay đang diễn ra qúa trình
phân hoá, với ba nguyên nhân cơ bản : Tác động của cơ chế thị trường dẫn đến khác
biệt giàu nghèo; sư phân hóa về vùng miền, trình độ học vấn. Dù vậy, vẫn có thể
nhìn thấy trong đó những đặc điểm tương đồng dưới đây.
Thể hiện ở việc chọn việc làm, ở việc hướng đến lựa chọn ngành nghề sao cho
đáp ứng nhu cầu thực tế, chuẩn bị kinh nghiệm làm việc cho tương lai, định hướng
công việc của mình, thích những công việc đem lại thu nhập cao, v. v... Thể hiên rõ
trong mục đích trong hành động và suy nghĩ rất rõ có những thanh niên trở thành
những người có ích hết lòng phục vụ đất nước và tích cực học tập đưa về cho tổ
quốc Việt Nam những vinh quang trên trường quốc tế họ xứng đáng như Nguyễn
Văn Thạc hay Đặng Thùy Trâm của thế hệ trẻ hôm nay cần noi theo và phát huy vì
đất nước Việt Nam tươi đẹp để đúng như lời chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “để sãnh
vai cùng với các cường quốc năm châu”. Song bên cạnh đó vẫn còn những thanh
niên có lối sống buông thả không có định hướng cho tương lai của mình, thích chạy
theo những thứ phù phiếm không thực tế.
Trong xã hội Việt Nam hiện nay xuất hiện một số lượng không nhỏ thanh niên
không có viêc làm, không đơn thuần vì thiếu việc làm mà do thái độ chây lười thích
ăn chơi đua đòi nên dẫn tới tình trạng sa và các tệ nạn xã hội đặc biệt là bộ phận
thanh niên ở thành phố. Hầu hết các thanh niên mà xảy ra tình trạng hư hỏng là do
coi thường gia đình, không quan tâm đến tương lai chỉ nhìn về những cái thiển cận.
Những thành niên này nổi lên chủ nghĩa cá nhân, đòi hỏi sự thể hiện mình và có sự

đề cao lợi ích hơn nghĩa vụ cá nhân. Sự hy sinh quan tâm đến người khác thấp đi, và
nếu có thì đánh giá dưới góc độ kinh tế thực dụng hơn là tình cảm và sự chia sẻ.
Xuất hiện thái độ bàng quan với xung quanh ở một bộ phận thanh niên, họ chạy theo
những trào lưu “sống vội” rồi từ đó không còn những định hướng gì cho tương lai
cuả cuộc đời mình. Đặc biệt hơn đó là tư tưởng sống thử trong sinh viên hiện nay,
trong tầng lớp sinh viên hiện nay cho rằng việc sống thử là cần thiết cho việc đi tới
hôn nhân nhưng tình yêu trong tầng lớp sinh viên thường không bền và thường
không có tính định hướng cho tương lai của tình yêu đó đi về đâu. Và từ những cặp
sinh viên sống thử dẫn tới nảy sinh những chuyện đáng tiếc và nó làm ảnh hưởng rất


18

lớn đến kết quả học tập của các sinh viên này. Và một xu hướng “đi bụi” của các cô
cậu học sinh cấp trung học phổ thông, chỉ cần xung khắc với bố mẹ là họ sẽ sẵn sàng
bỏ nhà đi không cần quan tâm đến những chuyện gì khác có thể xảy ra đối với họ.
Và từ những “cuộc đi bụi” này là thời cơ để cho những tệ nạn có cơ hội len lỏi vào
đời sống của các học sinh này.
Một đặc điểm rất đáng chú ý đang xuất hiện trong những người trẻ hôm nay,
liên quan đến sự phát triển của công nghệ thông tin với tư cách là một cuộc cách
mạng, đó là sự hình thành một môi trường ảo, hình thành một lối sống ảo. Đặc điểm
này chỉ biểu hiện trong giới trẻ, đặc biệt là thanh niên. Hình thành một phương pháp
tư duy của thời đại công nghệ thông tin: Ngôn ngữ ngắn gọn, viết bằng bàn phím
thay vì cây bút, có tính lắp ghép chính xác, hệ thống, hạn chế sự bay bổng về mặt
hình tượng trực quan. Con người vì thế sống trong một môi trường ảo, và cái hiện
thực ở đây là cái hiện thực ảo, giao tiếp ảo. Thực tế cho thấy đối tượng thanh niên
này có thể thức thâu đêm với những mạng giải trí xã hội như Yahoo Messenger,
Blog, facebook mà không cần quan tâm đến những chuyện khác và từ đó dần hình
thành những kỷ năng đánh bàn phím với những ngón tay nhanh thoăn thoắt mà
không cần qua trường lớp nào cả. Đây cũng chính là điều nảy sinh ra các vẫn đề như

tình trạng “cứu nét” những đối tượng thanh niên nay chỉ biết ngồi trong những quán
nét thâu ngày này qua ngay khác rồi dẫn tới không có tiền trả “nợ nét” rồi chờ người
tới trả tiền hoặc tình trạng “chơi game” không biết mệt mỏi chỉ cần là một mẩu bánh
mì hay một chai nước ngọt có thể ngồi ngày này qua ngày khác. Tình trạng này xuất
hiện khá phổ biến ở các thành phố lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và các thành
phố khác. Từ việc chơi các “game” bạo lực mà dần tới việc những đối tượng thanh
niên nay không còn nhận thức được việc mình làm nữa. Và từ đây những vụ án đau
lòng đã xảy ra như “cháu giết bà để lấy tiền chơi game” hay cướp giật, móc túi. Tình
trạng này hiện nay đang có chiều hướng gia tăng nhanh làm ảnh hưởng không nhỏ
tới nguồn lực tương lai của đất nước, những chủ nhân của đất nước trong tương lai
đang không có sống trong một lối sống không có tương lai ngoảnh mặt lại với hiện
thực cuộc sống một lối sống mà đó là con đường để chủ nghĩa hiện sinh có cơ hội để
tiếp tục tồn tại ở Việt Nam.


19

Ngoài những tác hại của Internet mà một số bộ phận thanh niên Việt Nam đang
mắc phải thì một tình trạng đáng buồn nữa của lối sống thanh niên hiện nay đó là
“tình dục không an toàn trước hôn nhân của thanh niên Việt Nam đang mắc phải".
Nhân ngày dân số thế giới 11/7, Ủy ban dân số-gia đình-và trẻ em vừa công bố
kết quả thống kê, báo động tình trạng thanh niên Việt Nam ngày nay thiếu kiến thức,
kém hiểu biết về các kỹ năng sống cơ bản liên quan đến giới tính, an toàn tình dục,
và sức khoẻ sinh sản. Khảo sát cho thấy trên 22% thanh thiếu niên có quan hệ tình
dục trước hôn nhân. Đáng quan ngại hơn, khoảng 30% trường hợp nạo phá thai hiện
nay là các phụ nữ trẻ, chưa lập gia đình. Đó quả là những con số đáng sợ. Hơn thế
nữa, thống kê đó là hoàn toàn có thật và tương đối chính xác. Đây là những con số
biết nói về thực trạng trong đời sống của thanh niên Việt Nam. Thực trạng thanh
niên Việt Nam có một lối sống “phóng khoáng thả phanh” không còn chút thuần
phong mỹ tục khi tiếp xúc với lối sống hiện đại được tiếp biến trong quá trình hội

nhập của đất nước.
Điều đang chú ý hơn là trong đại bộ phận của thanh niên Việt Nam là họ tự đặt
ra cho mình một lối tư duy của riêng mình và họ không cần quan tâm đến dư luận xã
hội hay những nét đẹp của giá trị truyền thống bao đời của cha ông đã xây dựng. Nói
như thế không phải là cho rằng thanh niên Việt Nam hiện nay đang phủ nhận lại
những giá trị đạo đức mà ông cha đã xây nên mà họ cho là những lối tư duy về đạo
đức đó không còn phù hợp trong xã hội ngày nay nữa. Nếu như những suy nghĩ đó
mà thanh niên Việt có thể hình thành nên những giá trị đạo đức tốt đẹp hơn thì là
điều cần thiết song đạo đức của thanh niên hiện nay đang chạy theo nhiều chiều
hướng khác nhau. Đối với gia đình họ dương như xem đó là một gánh nặng của bản
thân hơn là nghĩa vụ. Ngoài xã hội ta có thể dễ dàng bắt gặp những thái độ vô đạo
đức của thanh niên ở mọi nơi. Và điều đáng chú ý hơn là thanh niên hiện nay có
những câu nói mà xem là rất bình thương không có gì phải ngại không đang bận
tâm, nhưng mà nghe rõ chúng ta rất có thể nhân thấy ngay là nó “quá tục tíu”, “quá
mất đạo đức”. Không thể tin rằng thanh niên hiện nay lại có thể tập cho mình một lối
nói tục vô hạn như vậy mà xem là bình thường.
Và điều đáng lo lắng nhất ở thanh niên Việt Nam trong năm 2010 đó là một xu
hướng bạo lực nổi lên. Từ những cô nữ sinh đánh nhau không khác gì những tên “du
côn” hay những vụ án giết người không cò một chút nhân tính. Điển hình nhất là vụ


20

án giết người yêu cũ của Nguyễn Đức Nghĩa, Nghĩa đã thực hiện giết người yêu cũ
của mình một cách “ác nhân”, giết xong Nghĩa đã “cắt đầu” ném một nơi, “cắt các
ngón tay”. Những hành vi như vậy liệu có thể xem đó là một con người nữa. Điều
đáng chú ý là không đáng chú ý là hành vi giết người của Nguyễn Đức Nghĩa không
phải là của một kẻ giết người chuyên nghiệp, Nghĩa là một sinh viên đại học đã tốt
nghiệp. Điều mà chúng ta đáng lo lẵng ở đây là một lối sống bạo lực của thanh niên
Việt đang thể hiện đúng là một lối sống điển hình của “chủ nghĩa hiện sinh”. Liệu

những lối sống bạo lực này cứ tiếp diến thì liệu đời sống của thanh niên Việt Nam
thì sẽ bao nhiêu điều phải lo lẵng cho thế hệ tương lai sẽ đi về đâu.
2.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến chủ nghĩa hiện sinh trong thanh niên
Việt Nam hiện nay :
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 7%. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội gấp
2,5 lần so với giai đoạn 2001 - 2005, đạt 42,9% GDP. Mặc dù khủng hoảng tài chính
và suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta đạt
cao. Quy mô tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 tính theo giá thực tế đạt
101,6 tỉ USD, gấp 3,26 lần so với năm 2000; GDP bình quân đầu người đạt 1.168
USD. Hầu hết các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá. Sự phát
triển ổn định trong ngành nông nghiệp, nhất là sản xuất lương thực đã bảo đảm an
ninh lương thực quốc gia. Kinh tế nông thôn và đời sống nông dân được cải thiện hơn
trước. Việc tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, đầu tư, phát triển
giống mới có năng suất, chất lượng cao, phát triển các cụm công nghiệp, làng nghề,
tiểu thủ công nghiệp... đã có tác động tích cực đến việc sản xuất, tạo việc làm và xoá
đói, giảm nghèo. Sản phẩm công nghiệp phát triển ngày càng đa dạng và phong phú
về chủng loại, chất lượng được cải thiện, từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh,
đảm bảo cung cầu của nền kinh tế, giữ vững thị trường trong nước và mở rộng thị
trường xuất khẩu. Đã đầu tư phát triển một số ngành công nghiệp mới, công nghệ cao.
Khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng ổn định. Cơ cấu kinh tế tiếp tục được chuyển
dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cơ cấu lao động cũng có sự chuyển
dịch tích cực.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và
hoàn thiện; chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng tiếp tục được thể chế hoá thành
luật pháp, cơ chế, chính sách ngày càng đầy đủ, đồng bộ hơn; môi trường đầu tư,


21

kinh doanh được cải thiện; các yếu tố thị trường và các loại thị trường tiếp tục hình

thành, phát triển; nền kinh tế nhiều thành phần có bước phát triển mạnh.
Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hoá và các lĩnh vực xã hội có
tiến bộ, bảo vệ tài nguyên, môi trường được chú trọng hơn; đời sống các tầng lớp
nhân dân được cải thiện. Đổi mới giáo dục đạt một số kết quả bước đầu. Chi ngân
sách nhà nước cho giáo dục, đào tạo đạt trên 20% tổng chi ngân sách; việc huy
động các nguồn lực xã hội cho giáo dục, đào tạo, phát triển giáo dục, đào tạo ở
vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được quan tâm.
Quy mô giáo dục tiếp tục được phát triển. .
Giải quyết việc làm, xoá đói, giảm nghèo, thực hiện chính sách với người và gia
đình có công, chính sách an sinh xã hội đạt kết quả tích cực. Trong 5 năm, đã giải
quyết được việc làm cho trên 8 triệu lao động, tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị giảm còn
dưới 4,5%, tỉ lệ hộ nghèo giảm còn 9,5%. Công tác dân số, kế hoạch hoá gia đình,
chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân, bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ đạt
được một số kết quả quan trọng; mức hưởng thụ các dịch vụ y tế của nhân dân tăng
lên, đặc biệt với trẻ em, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số. Chỉ số phát triển
con người không ngừng tăng lên; Việt Nam đã hoàn thành phần lớn các Mục tiêu
Thiên niên kỷ.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa có tiến bộ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được
củng cố. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh,
hiệu lực và hiệu quả hoạt động được nâng lên. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng
được tăng cường, đạt một số kết quả tích cực.
Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều rộng dựa vào tăng đầu tư,
khai thác tài nguyên; các cân đối vĩ mô chưa vững chắc. Công nghiệp chế tạo, chế
biến phát triển chậm, gia công, lắp ráp còn chiếm tỉ trọng lớn. Cơ cấu kinh tế giữa
các ngành, lĩnh vực chuyển dịch theo hướng tích cực nhưng còn chậm. Cơ cấu
trong nội bộ từng ngành cũng chưa thật hợp lý. Năng suất lao động xã hội thấp hơn
nhiều so với các nước trong khu vực. Năng lực cạnh tranh quốc gia chậm được cải
thiện. Đầu tư vẫn dàn trải. Hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển chậm, thiếu đồng bộ,
đặc biệt đối với khu vực đồng bào dân tộc thiểu số. Quản lý, khai thác, sử dụng tài
nguyên thiên nhiên hiệu quả chưa cao, còn lãng phí. Tình trạng khai thác rừng,



22

khai thác khoáng sản bất hợp pháp vẫn còn xảy ra ở nhiều nơi, nhưng chưa có biện
pháp hữu hiệu, ngăn chặn kịp thời. Trình độ phát triển giữa các vùng cách biệt lớn
và có xu hướng mở rộng.
Những yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường
chưa được chú ý đúng mức. Một số tập đoàn kinh tế và doanh nghiệp nhà nước kinh
doanh thua lỗ, gây bức xúc trong xã hội. Chất lượng xây dựng và thực hiện quy
hoạch, kế hoạch phát triển một số ngành, vùng, nhất là quy hoạch sử dụng đất đai,
tài nguyên khoáng sản còn yếu, gây lãng phí, thất thoát lớn. Quản lý thị trường,
nhất là thị trường bất động sản, thị trường tài chính, có lúc còn lúng túng, sơ hở,
thiếu chặt chẽ dẫn đến tình trạng đầu cơ, làm giàu bất chính cho một số người;
chính sách phân phối còn nhiều bất hợp lý.
Các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hoá, xã hội, môi
trường còn nhiều hạn chế, yếu kém, gây bức xúc xã hội. Chất lượng giáo dục và đào
tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, nhất là đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao vẫn
còn hạn chế; chưa chuyển mạnh sang đào tạo theo nhu cầu của xã hội. Chưa giải
quyết tốt mối quan hệ giữa tăng số lượng, quy mô với nâng cao chất lượng, giữa dạy
chữ và dạy người. Chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học lạc hậu, đổi mới
chậm; cơ cấu giáo dục không hợp lý giữa các lĩnh vực, ngành nghề đào tạo; chất
lượng giáo dục toàn diện giảm sút, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Xu hướng thương mại hoá và sa sút đạo đức trong giáo
dục khắc phục còn chậm, hiệu quả thấp, đang trở thành nỗi bức xúc của xã hội.
Dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ.
Quyền làm chủ của nhân dân ở một số nơi, trên một vài lĩnh vực còn bị vi phạm.
Việc thực hành dân chủ còn mang tính hình thức; có tình trạng lợi dụng dân chủ gây
chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội. Xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh

tế và quản lý đất nước. Công tác xây dựng Đảng còn nhiều hạn chế, yếu kém, chậm
được khắc phục
2.3. Những yếu tố cần thiết phải khắc phục chủ nghĩa hiện sinh trong
thanh niên Việt Nam hiện nay :


23

Ngày nay, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp đất nước được thực hiện
trong điều kiện kinh tế thị trường và với “áp lực” ngày càng gia tăng đối với tư
tưởng thanh niên. Giá cả nông sản không ổn định, thu nhập và đời sống nông dân
thấp và tăng rất chậm so với thành thị, tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm ngày
càng nhiều…Thực trạng này đã và đang là “áp lực”, thách thức lớn “đè nặng” lên
tâm lý thanh niên, nhất là những thanh niên chuẩn bị ra trường. Chỉ thị 46-CT/TW,
ngày 27/7/2010 của Ban Bí thư chống xâm nhập của các sản phẩm văn hoá độc hại
gây huỷ hoại đạo đức xã hội nêu rõ "... tác động xấu đến tư tưởng, đạo đức, lối sống,
tâm lý, hành viên của một bộ phận nhân dân, nhất là thanh thiếu niên... 1-2". Song
thanh niên ở nông thôn ngày nay những đối tượng thanh niên nay chỉ biết ngồi trong
những quán nét thâu ngày này qua ngay khác rồi dẫn tới không có tiền trả “nợ nét”
rồi chờ người tới trả tiền hoặc tình trạng “chơi game” không biết mệt mỏi chỉ cần là
một mẩu bánh mì hay một chai nước ngọt có thể ngồi ngày này qua ngày khác. Từ
việc chơi các “game” bạo lực mà dấn tới việc những đối tượng thanh niên nay không
còn nhận thức được việc mình làm nữa. Và từ đây những vụ án đau lòng đã xảy ra
như “cháu giết bà để lấy tiền chơi game” hay cướp giật, móc tú. Tình trạng này hiện
nay đang có chiều hướng gia tăng nhanh làm ảnh hưởng không nhỏ tới nguồn lực
tương lai của đất nước, những chủ nhân của đất nước trong tương lai đang không có
sống trong một lối sống không có tương lai ngoảnh mặt lại với hiện thực cuộc sống
một lối sống mà đó là con đường để chủ nghĩa hiện sinh có cơ hội để tiếp tục tồn tại
ở Việt Nam. Ngoài những tác hại của Internet mà một số bộ phận thanh niên Việt
Nam đang mắc phải thì một tình trạng đáng buồn nữa của lối sống thanh niên hiện

nay đó là “tình dục không an toàn trước hôn nhân của thanh niên Việt Nam đang
mắc phải". Có lối sống thực dụng, vụ lợi, ích kỷ, thích hưởng lạc, sa đoạ...
Trong khi đó nước ta đang hội nhập kinh tế quốc tế và giao lưu văn hóa. Đảng Nhà nước ta gia nhập WTO, thì vai trò thanh niên ngày càng có vai trò quan trọng
hơn để góp phần vào việc thực hiện công cuộc xây dựng nông thôn mới, vì mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
Từ những đòi hỏi đó, thanh niên cần phải khắc phục triệt để những biểu hiện
của chủ nghĩa hiện sinh, thì mới có thể hoà nhập và tiến trình chung, đưa công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đi lên đúng hướng. Mặt khác, khi công nghiệp hoá thành
công thì đáp ứng được nhu công cuộc xoá đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm,


24

nâng cao thu nhập cho nhân dân; đảm bảo điều kiện học tập, chữa bệnh, sinh hoạt
văn hoá, thể dục thể thao ở hầu hết các vùng nông thôn, tạo kiện để nông dân tham
gia đóng góp và hưởng lợi nhiều hơn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển giữa nông thôn và thành thị. Tăng cường
xây dựng kiện toàn hệ thống chính trị ở nông thôn. Đảm bảo quốc phòng, an ninh
được giữ vững; môi trường sinh thái được bảo vệ.

CHƯƠNG 3
NHỮNG GIẢI PHÁP CHỐNG TƯ TƯỞNG HIỆN SINH TRONG LỐI SỐNG
THANH NIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY

Cuộc đấu tranh khắc phục tư tưởng tiểu tư sản chỉ có thể thắng lợi khi nó được
nhận thức và tiến hành một cách tự giác. Và phải có sự dẫn dắt và đi đầu của các cấp
đảng, nó là cuộc đấu tranh kiên trì, không khoan nhường, không lơi lỏng, diễn ra
trên tất cả các lĩnh vực. Trước hết chúng ta cần phải thực hiện một số giải pháp cụ
thể là :
3.1. Đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng trong cán bộ, đảng viên

và quần chúng nhân dân :
Nâng cao nhận thức của nhân dân về chủ nghĩa Mác-lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh là nhiệm vụ hàng đầu trong công tác giáo dục của Đảng, trong cuộc đấu tranh
khắc phục tư tưởng hiện sinh. Thường xuyên giáo dục chính trị tư tưởng mới giúp
cho đội ngũ cán bộ, đảng viên nhân thức được nhưng chủ trương, đường lối của
Đảng trong giai đoạn hiện nay về việc xây dựng lối sống văn hóa mới.


25

Trước hết là đổi mới và nâng cao hiệu quả tuyên truyền, giáo dục chính trị, coi
đây là quá trình bồi dưỡng, rèn luyện, nâng cao nhận thức và bản lĩnh chính trị cho
cán bộ, đảng viên, thanh niên. Nội dung giáo dục phải gần gũi, thiết thực; phương
thức giáo dục phải gợi mở cho thanh niên tìm hiểu, trao đổi có tranh luận, coi trọng
giáo dục bằng hoạt động thực tiễn thông qua các phong trào thi đua yêu nước. Triển
khai cho thanh niên học tập lý luận chính trị, quán triệt đường lối và các nghị quyết
của Đảng; đấu tranh chống các quan điểm sai trái, bảo vệ cương lĩnh, mục tiêu lý
tưởng và vai trò lãnh đạo của Đảng; tổ chức các diễn đàn thanh niên, tạo điều kiện
để thanh niên bày tỏ ý kiến và nâng cao nhận thức chính trị của mình.
Trong giáo dục truyền thống, coi trọng giáo dục truyền thống vẻ vang của dân
tộc, của Đảng, truyền thống đoàn kết, ý chí tự cường, tự tôn dân tộc, xây dựng khát
vọng chiến thắng chống nghèo nàn lạc hậu, tinh thần xung kích, tình nguyện vì cộng
đồng. Trong giáo dục đạo đức, lối sống, Đoàn đề cao giáo dục cho thanh niên lòng
yêu lao động, chống thói lười biếng, lối sống thực dụng, xa hoa, tiêu dùng quá khả
năng thu nhập của mình. Phát động đoàn viên, thanh niên đi đầu đấu tranh bài trừ
các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan, các văn hoá phẩm độc hại. Chủ động bồi dưỡng
cho thanh niên các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, định hướng cho thanh
niên tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, kịp thời định hướng, hướng dẫn thanh niên
trước những loại hình nghệ thuật mới; thông tin trên Internet v.v... Tăng cường nắm
bắt tình hình tư tưởng và dư luận xã hội trong thanh niên.

Tiếp tục đổi mới phương thức giáo dục luật pháp và ý thức công dân cho thanh
niên, góp phần hình thành lối sống "Sống và làm việc theo pháp luật", giúp cho
thanh niên thực hiện tốt hơn quyền và nghĩa vụ công dân, đồng thời giáo dục, cổ vũ
thanh niên gương mẫu chấp hành pháp luật, ý thức kỷ luật lao động, tôn trọng quy
ước cộng đồng, tuân thủ nội quy, quy định của tổ chức. Tổ chức rộng rãi các hình
thức tư vấn và trợ giúp pháp lý cho thanh niên, nhất là thanh niên nông thôn, thanh
niên khu vực đô thị và các khu chế xuất, khu công nghiệp.
Giáo dục ý thức quốc phòng toàn dân và tinh thần quốc tế chân chính, giúp cho
mỗi thanh niên nhận thức rõ trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay,
hiểu rõ bản chất các sự kiện và các quá trình quốc tế, xây dựng cho mình bản lĩnh
chính trị vững vàng, chủ động, sáng tạo trong quá trình hội nhập.


×