Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

Luận văn sư phạm Khảo sát thực trạng dạy và học môn Công nghệ tại một số Trường THPT tỉnh Bắc Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (361.08 KB, 62 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA SINH – KTNN
VI THỊ THU THOẢ

KHẢO SÁT THỰC TRẠNG DẠY VÀ
HỌC MÔN CÔNG NGHỆ TẠI MỘT SỐ
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
TỈNH BẮC NINH
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH: KỸ THUẬT NÔNG NGHIỆP

Người hướng dẫn khoa học
Th.s: LƯU THỊ UYÊN

HÀ NỘI – 2010


MỤC LỤC
Phân 1: MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu.
Phần 2: NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lí luận của đề tài
1.1Chương trình THPT môn Công nghệ.
1.1.1.Tóm tắt chương trình Công nghệ THPT.
1.1.2.Thực hiện kế hoạch giáo dục môn Công nghệ.
1.1.3.Sử dụng thiết bị giáo dục dạy thực hành.
1.1.4.Đổi mới phương pháp dạy học.
1.2.Chuẩn trình độ giáo viên Công nghệ THPT.
1.2.1Hệ thống các trường, cơ sở đào tạo giáo viên Công nghệ
THPT.


1.2.2. Chuẩn trình độ giáo viên môn Công nghệ THPT.
1.3. Những nghiên cứu phản ánh thực trạng dạy và học môn
Công nghệ ở trường THPT.
Chương 2: Đối tượng - Nội dung – Phương pháp nghiên cứu.
2.1. Đối tượng nghiên cứu.
2.2. Nội dung nghiên cứu.
2.3. Phương pháp nghiên cứu.
Chương 3: Kết quả và thảo luận.
3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Ninh.
3.2. Thực trạng dạy và học môn học.
3.2.1. Đội ngũ giáo viên.

Trang


3.2.1.1. Trường THPT Yên Phong số 1.
3.2.1.2. Trường THPT Quế Võ số 1.
3.2.1.3. Trường THPT Quế Võ số 2.
3.2.1.4. Trường THPT Lí Nhân Tông.
3.2.1.5. Trường THPT Lí Thái Tổ.
3.2.2. Năng lực và tâm huyết nghề nghiệp của giáo viên.
3.2.3. Cơ sở vật chất.
3.2.4. Thực trạng học.
3.2.4.1. Tinh thần, thái độ, hứng thú học tập.
3.2.4.2. Kết qủa học tập.
Chương 4. Kết luận, giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học
môn Công nghệ.
4.1. Kết luận.
4.2. Giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học môn Công
nghệ.

Tài liệu tham khảo
Phụ lục


Lời cảm ơn
Tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn, giúp đỡ của Ban giám hiệu,
các thầy cô giáo trường THPT Yên Phong I, trường THPT Quế Võ I, trường
THPT Quế Võ II, trường THPT Lí Nhân Tông, trường THPT Lí Thái Tổđã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình nghiên cứu đề tài.
Tôi xin cảm ơn cô giáo Lưu Thị Uyên - người đã trực tiếp hướng dẫn
để tôi hoàn thành khoá luận.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến các bạn sinh viên, các em học sinh đã
hỗ trợ tôi để có được thành công trong khoá luận này.

Hà Nội, ngày

tháng

năm 2010.

Sinh viên
Vi Thị Thu Thỏa


Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đề tài “Khảo sát thực trạng dạy và học môn Công
nghệ ở một số trường trung học phổ thông tỉnh Bắc Ninh” là kết quả mà
tôi đã trực tiếp nghiên cứu tìm hiểu qua hai đợt thực tập. Trong quá trình
nghiên cứu tôi có tham khảo các bài viết của một số tác giả, tuy nhiên đó chỉ
là cơ sở để tôi rút ra những vấn đề cần tìm hiểu ở đề tài của mình.
Đây là kết quả của riêng cá nhân tôi, hoàn toàn không trùng với kết

quả của các tác giả khác. Những điều tôi vừa nói trên hoàn toàn đúng sự thật

Sinh viên
Vi Thị Thu Thoả


Phần 1. MỞ ĐẦU
1.1.

TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong thời đại của công nghệ, hội nhập và phát triển, nhân loại đều

hướng đến chân trời tri thức mà hạt nhân là giáo dục. Thước đo quan trọng
cho năng lực sáng tạo của mỗi người trong nền kinh tế tri thức chính là tốc
độ tư duy, khả năng biến đổi thông tin thành kiến thức, và từ kiến thức tạo ra
giá trị. “Trong xu thế đó, sản phẩm đào tạo phải là những con người năng
động, sáng tạo, có khả năng học thường xuyên, học suốt đời nhằm thích ứng
với những thay đổi nhanh chóng của khoa học, công nghệ và yêu cầu thị
trường lao động.” [ 5 ]
Muốn vậy, đòi hỏi chúng ta phải đổi mới giáo dục – đào tạo, trong đó
đổi mới giáo dục phổ thông và giáo dục ở trung học phổ thông nói riêng theo
xu thế 4 trụ cột của Giáo dục thế kỉ XXI do UNESCO đề xướng “ Học để
biết, học để làm, học để cùng chung sống, học để khẳng định mình” là hết
sức cần thiết nhằm đáp ứng sự phát triển kinh tế công nghiêp, kinh tế tri thức
và xu thế toàn cầu hoá mạnh mẽ trong những năm đầu của thế kỉ XXI.
Để đạt được mục tiêu đổi mới giáo dục và nâng cao chất lượng giáo dục
hướng đến chuẩn tiên tiến chúng ta đã thiết kế các chương trình dạy học các
bậc phổ thông theo mô hình giảng dạy phối hợp kiến thức cơ bản và kiến
thức ứng dụng như các nước tiên tiến. Ở trung học phổ thông, đã có môn
Công nghệ - một trong các môn học thuộc khối kiến thức ứng dụng. Nội

hàm của môn học này rất rộng bao gồm cả Kinh tế, Kỹ thuật Nông nghiệp,
Công nghệ và Kỹ thuật Công nghiệp, nhằm giúp học sinh nhận thức được
các kiến thức khoa học cơ bản là thực tế và hữu ích cho cuộc sống hàng


ngày; Cung cấp cho các em cơ hội thực hành các ngành nghề để tự khám
phá khả năng, sở thích và định hướng nghề nghiệp. Vai trò quan trọng của
môn Công nghệ rõ ràng không thể phủ nhận.
Tuy vậy, môn Công nghệ ở trung học phổ thông hiện nay đang được
phần lớn học sinh học một cách miễn cưỡng và xem đó là “môn phụ”. Giáo
viên Công nghệ cũng dần mất đi sự yêu thích trong giảng dạy. Và thực tế,
nhiều giáo viên Công nghệ cũng dần có khái niệm "lên lớp cho đủ giờ".
Tại Bắc Ninh - vùng đất giàu truyền thống hiếu học, một trong những
địa phương đi đầu trong công cuộc đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện, phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người dạy và
học, môn Công nghệ được giảng dạy thế nào? Học sinh học ra sao? Những
nhân tố nào chi phối hiệu quả dạy và học môn Công nghệ?
Để tìm câu trả lời cho những câu hỏi trên, chúng tôi đã chọn đề tài “
Khảo sát thực trạng dạy và học môn Công nghệ ở một số trường trung
học phổ thông tỉnh Bắc Ninh”.
1.2.MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
- Thực trạng dạy và học môn Công nghệ ở một số trường trung học phổ
thông tỉnh Bắc Ninh.
- Các nhân tố chi phối đến quá trình dạy và học môn Công nghệ
- Giải pháp để nâng cao hiệu quả việc dạy và học môn Công nghệ


Phần 2: NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1. 1. CHƯƠNG TRÌNH THPT MÔN CÔNG NGHỆ [ 3 ]

Chương trình khung do Bộ GDĐT ban hành là cơ sở pháp lí để thực
hiện nhiệm vụ môn học, đồng thời là kim chỉ nam cho hoạt động dạy học.
Môn Công nghệ cũng như tất cả các môn học khác ở phổ thông đều giữ vai
trò và vị trí nhất định. Nội dung và thời lượng môn học được xây dựng nhằm
đạt mục tiêu cao nhất trong việc nâng cao chất lượng toàn diện cho học sinh.
Mục tiêu và chuẩn kiến thức, kĩ năng của môn Công nghệ THPT đã
được Bộ GDĐT hướng dẫn trong tài liệu “Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến
thức, kỹ năng”. đảm bảo việc dạy học, kiểm tra, đánh giá bám sát chuẩn kiến
thức, kỹ năng, phù hợp với năng lực nhận thức của học sinh; không làm quá
tải nội dung dạy học; giúp học sinh thuận lợi trong việc tự học, tự kiểm tra,
đánh giá để nắm vững kiến thức, kỹ năng.
1.1.1. Tóm tắt chương trình Công nghệ trung học phổ thông
1.1.1.1. Chương trình Công nghệ 10:

37 tuần (52 tiết); gồm 2 phần

Phần 1: Nông, lâm, ngư nghiệp : Gồm 3 chương.
Chương 1: Trồng trọt, lâm nghiệp đại cương.
Chương 2:Chăn nuôi, thuỷ sản đại cương.
Chương 3: Bảo quản, chế biến nông, lâm, thuỷ sản.
Phần 2: Tạo lập doanh nghiệp : Gồm 2 chương.
Chương 4: Doanh nghiệp và lựa chọn lĩnh vực kinh doanh.
Chương 5: Tổ chức và quản lí doanh nghiệp.
1.1.1.2. Chương trình Công nghệ 11:

37 tuần(52 tiết); gồm 3 phần.


Phần 1: Vẽ kĩ thuật: gồm 2 chương.
Chương 1: Vẽ kĩ thuật cơ sở.

Chương 2: Vẽ kĩ thuật ứng dụng.
Phần 2: Chế tạo cơ khí: gồm 2 chương.
Chương 3: Vật liệu cơ khí và công nghệ chế tạo phôi.
Chương 4: Công nghệ cắt gọt kim loại và tự động hoá trong chế tạo cơ khí.
Phần 3: Động cơ đốt trong: gồm 3 chương.
Chương 5: Đại cương về động cơ đốt trong.
Chương 6 : Cấu tạo của động cơ đốt trong.
Chương 7 : Ứng dụng của động cơ đốt trong.
1.1.1. 3. Chương trình Công nghệ 12:

37 tuần( 35 tiết); gồm 2 phần.

Phần 1: Kĩ thuật điện tử: gồm 4 chương.
Chương 1: Linh kiện điện tử.
Chương 2: Một số mạch điện tử cơ bản.
Chương 3: Một số mạch điện tử điều khiển.
Chương 4: Điện tử dân dụng
Phần 2 : Kĩ thuật điện: gồm 3 chương.
Chương 5: Mạch điện xoay chiều ba pha.
Chương 6: Máy điện ba pha.
Chương 7: Mạng điện sản xuất.
1.1.2. Thực hiện kế hoạch giáo dục môn Công nghệ
1.1.2.1. Những vấn đề chung
Bộ GDĐT ban hành Khung phân phối chương trình trong đó quy định
thời lượng theo các phần, chương, các tiết thực hành, ôn tập và kiểm tra.
Môn Công nghệ với nội dung kiến thức và tổng số tiết được phân phối
cụ thể cho lớp 10, 11, 12 và được dạy trong 37 tuần, đồng thời giảm bớt một


số bài hoặc nội dung của một số bài, Bộ GDĐT chỉ đạo các Sở GDĐT chủ

động điều chỉnh thời lượng của các bài cho phù hợp với nội dung.
1.1.2.2. Thực hiện tích hợp nội dung các môn học
Bộ GDĐT chỉ đạo thực hiện dạy tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường,
giáo dục sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả và Hoạt động Giáo dục
hướng nghiệp vào môn Công nghệ, cụ thể:
- Đối với tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường: Căn cứ vào văn bản
hướng dẫn của Bộ GDĐT và tài liệu “Giáo dục bảo vệ môi trường trong
môn Công nghệ trung học phổ thông” do Nhà xuất bản Giáo dục phát hành
để tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường vào các nội dung cụ thể của bài học.
- Đối với tích hợp giáo dục sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả,
thực hiện theo hướng dẫn của Bộ GDĐT. Căn cứ vào tài liệu của Bộ, GV
chủ động lựa chọn các nội dung phù hợp với điều kiện địa phương để đưa
vào nội dung bài dạy nhưng phải đảm bảo không quá tải đối với học sinh.
- Đối với tích hợp Hoạt động giáo dục hướng nghiệp với môn Công
nghệ do giáo viên Công nghệ giảng dạy.
1.1.2.3. Thực hiện nội dung giáo dục địa phương
Bộ GDĐT có văn bản số 5977/BGDĐT-GDTrH ngày 07/7/2008 hướng
dẫn thực hiện các nội dung giáo dục địa phương đối với một số môn học,
trong đó có môn Công nghệ và yêu cầu các sở chỉ đạo các trường thực hiện
nghiêm túc hướng dẫn này.
1.1.3. Sử dụng thiết bị giáo dục, dạy thực hành
Do đặc thù của môn Công nghệ, có nhiều bài thực hành, giáo viên cần
triệt để sử dụng các thiết bị được Bộ, Sở GDĐT cung cấp, chủ động khai
thác các thiết bị đã có của trường, tự sưu tầm, làm thêm các thiết bị dạy học
để giảng dạy. Căn cứ điều kiện cơ sở vật chất, thiết bị dạy học của trường


giáo viên cần khai thác triệt để các thiết bị đã có để dạy đủ các bài thực
hành.
Trong quá trình giảng dạy phải đảm bảo hình thành cho học sinh những

kỹ năng cần thiết: hiểu, biết được quy trình công nghệ để vận dụng vào thực
tế sản xuất và đời sống. Tuỳ theo nội dung cụ thể từng bài với điều kiện
trang thiết bị dạy học của trường, vật liệu thực hành có ở địa phương để vận
dụng cho phù hợp.
Ở những trường không đủ điều kiện để tổ chức học thực hành, giáo viên
cần chủ động tổ chức cho học sinh tham quan theo yêu cầu của chương
trình. Nếu không có đủ điều kiện dạy thực hành, tổ chức tham quan các
trường cần báo cáo với Sở GDĐT để tìm phương án thay thế.
1.1.4. Đổi mới phương pháp dạy học
Để đảm bảo chất lượng giảng dạy, dạy phù hợp với cách biên soạn sách
giáo khoa mới, giáo viên cần chủ động, tích cực thực hiện đổi mới phương
pháp dạy học.
Trong quá trình vận dụng các hình thức dạy học cần phải thông qua việc
tổ chức các hoạt động học tập của học sinh, để học sinh tham gia vào quá
trình hoạt động nhận thức, tìm tòi, phát hiện những tri thức mới một cách tự
giác, tự lực dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
Trong quá trình dạy học cần tăng cường tính tự lực của cá nhân học
sinh đồng thời chú trọng sự hợp tác, tương tác giữa các cá nhân trong
nhóm, lớp nhằm đạt đựơc mục tiêu của bài học.
Giáo viên cần tăng cường sử dụng các trang thiết bị hiện đại, máy tính,
máy chiếu kết hợp với các tư liệu và phần mềm liên quan để góp phần thực
hiện đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng giảng dạy.
1.2.

CHUẨN TRÌNH ĐỘ GIÁO VIÊN MÔN CÔNG NGHỆ THPT


1.2.1. Hệ thống các trường, cơ sở đào tạo giáo viên môn công nghệ
THPT
Bộ GD-ĐT cho biết hầu hết các trường ĐH Sư phạm trong cả nước có

đào tạo viên môn công nghệ THPT, ngoài ra còn có các Khoa sư phạm của
nhiều trường kĩ thuật cũng tham gia đào tạo giáo viên môn Công nghệ như
các trường ĐH Bách khoa, các trường ĐH Nông nghiệp, ĐH Công nghiệp,
ĐH Khoa học tự nhiên …
Có trường đào tạo giáo viên dạy chuyên sâu phần Kĩ thuật Công
nghiệp ( ĐH Sư phạm Hà Nội, ĐH Sư phạm Hà Nội 2; ĐH Sư phạm Hưng
Yên; ĐH Sư phạm ĐH Vinh..v.v.), giáo viên dạy chuyên sâu phần Kĩ thuật
Nông nghiệp ( Khoa Sư phạm ĐH Nông nghiệp Hà Nội; ĐH Nông nghiệp –
ĐH Thái Nguyên; ĐH Nông lâm TP. Hồ Chí Minh..v.v. ) nhưng cũng có
trường đào tạo giáo viên dạy cả 2 nội dung Kĩ thuật nông nghiệp và Kĩ thuật
Công nghiệp ( ĐH Sư phạm Hà Nội, ĐH Sư phạm Hà Nội 2; ĐH Nông lâm
TP. Hồ Chí Minh..v.v.)
Mục tiêu của các cơ sở giáo dục, đào tạo: đào tạo đội ngũ giáo viên
Công nghệ THPT cho cả nước, đào tạo giáo viên cho các Trung tâm Kỹ
thuật tổng hợp - hướng nghiệp, dạy nghề; đào tạo giáo viên Sư phạm Kỹ
thuật cho một số trường đại học, cao đẳng sư phạm, cao đẳng và trung cấp
nghề v.v... phục vụ cho việc phát triển chương trình cải cách giáo dục theo
hướng phối hợp giảng dạy và định hướng nghề nghiệp.
Giáo viên giảng dạy môn Công nghề, dạy nghề, hướng nghiệp…đã và
đang góp phần không nhỏ vào việc trang bị kiến thức khoa học ứng dụng,
thực hành và định hướng nghề nghiệp cho học sinh THPT, làm tiền đề cho
giáo dục đại học thực hiện tốt việc “Đào tạo theo nhu cầu xã hội”.
1.2.2. Chuẩn trình độ giáo viên môn Công nghệ THPT


Một trong những yêu cầu của giáo dục đào tạo hiện nay là “ giáo dục
đào tạo phải đáp ứng yêu cầu của xã hội”. Nghiên cứu xây dựng chuẩn trình
độ giáo viên môn Công nghệ THPT là cơ sở để xây dựng chương trình đào
tạo giáo viên ở các cơ sở giáo dục đào tạo cũng như việc tuyển dụng, bồi
dưỡng đội ngũ giáo viên bộ môn này ở trường phổ thông.[ 3 ]

Chuẩn trình độ đào tạo giáo viên Công nghệ THPT là hệ thống các
yêu cầu cơ bản về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, kiến thức, kĩ năng
về công nghệ , kĩ năng sư phạm nhằm đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đối với
giáo viên bộ môn này ở trường THPT. [ 3 ]
Nhìn chung, một giáo viên dạy ở trường THPT nói chung cũng như
một giáo viên dạy môn Công nghệ THPT nói riêng phải là:
- Nhà giáo tận tâm với người học và việc học
- Nhà giáo cần nắm vững nội dung và phương pháp của môn học do
mình phụ trách
- Nhà giáo chịu trách nhiệm quản lí và giám sát việc học của người
học
- Nhà giáo tư duy hệ thống về công việc của mình, học tập qua kinh
nghiệm
- Nhà giáo là thành viên của cộng đồng học tập
Tuy vậy, theo tác giả Nguyễn Văn Khôi, người đã tham gia biên soạn
sách giáo khoa môn Công nghệ ở phổ thông : Môn Công nghệ mặc dù được
đưa vào dạy ở các trường phổ thông từ gần một nửa thế kỷ nay nhưng đội
ngũ giáo viên dạy môn Công nghệ ở THPT hiện nay vừa thiếu vừa không
đồng bộ về trình độ và đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau theo những chương
trình không thống nhất. Thực tế đó đã ảnh hưởng đến hiệu quả giáo dục, đào
tạo.


1.3. NHỮNG NGHIÊN CỨU PHẢN ÁNH THỰC TRẠNG DẠY VÀ
HỌC MÔN CÔNG NGHỆ Ở THPT
Các công trình nghiên cứu phản ánh thực trạng dạy và học môn Công
nghệ ở phổ thông không nhiều, ngoại trừ một số đề tài nghiên cứu của sinh
viên một số trường đại học có đào tạo giáo viên dạy Công nghệ. Tuy nhiên,
các đề tài cũng mới chỉ khảo sát trong phạm vi hẹp và tập trung vào phần
Công nghệ nông nghiệp.

Trong Hội thảo khoa học trường ĐH Nông lâm Thành phố Hồ Chí
Minh năm 2000, sinh viên Nguyễn Đăng Khôi đã phản ánh thực trạng dạy
và học môn Kỹ thuật nông nghiệp ở 4 trường THPT khu vực ngoại thành
TP. Hồ Chí Minh và rút ra kết luận: phần lớn học sinh không hứng thú với
môn học này và không ứng dụng vào thực tiễn sản xuất vì việc học tương tự
như “ cưỡi ngựa xem hoa” [ 4 ]
Phạm Thị Hiền: Tìm hiểu nhận thức của học sinh THPT về ứng dụng
kiến thức môn Công nghệ 10 vào thực tiễn [ 2 ], cũng cho kết quả không
mấy khả quan về khả năng ứng dụng kiến thức Nông, Lâm, Ngư nghiệp của
học sinh lớp 10 vào thực tiễn, tỷ lệ học sinh nhận thức được khối kiến thức
này cần thiết cho đời sống và sản xuất chỉ có 38%.
Khuất Thị Ngọc, Đỗ Thị Hải Vân với đề tài “ Nhận thức của học sinh
THPT về môn Kĩ thuật nông nghiệp ” nghiên cứu trên 1250 học sinh THPT
ở khu vực nông thôn miền Bắc đã đạt giải Ba Sinh viên nghiên cứu khoa
học, năm 2000. Kết quả cho thấy 76 % học sinh nhận thức được môn Kĩ
thuật nông nghiệp đã trang bị kiến thức cơ bản nhất về trồng trọt, chăn nuôi,
bảo quản nông sản, tuy vậy vận dụng được kiến thức này vào thực tiễn thì lại
khá thấp, chỉ có 21%.[ 6 ].
Mặc dù không có nhiều công trình đi sâu khảo sát thực trạng dạy và
học cũng như nghiên cứu đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả dạy và


học môn Công nghệ cũng như một số môn học vốn không được dùng thi tốt
nghiệp phổ thông, thi đại học nhưng lại có quá nhiều bài viết trên các
phương tiện truyền thông phản ánh tình trạng phân biệt “môn chính”, “ môn
phụ” trong trường phổ thông; trong đó có nhiều quan điểm trái chiều, tuy
vậy trong khuôn khổ của tài liệu này chúng tôi chỉ xin trích dẫn một số quan
điểm.
* Tác giả Trần Quang Đại, giáo viên trường THPT Trần Phú, Đức
Thọ, Hà Tĩnh có bài trên báo Vietnamnet [ 10 ] như sau: Một thực tế không

ai phủ nhận được, trong nhà trường phổ thông hiện nay đang diễn ra tình
trạng phân biệt “môn chính” và “môn phụ” rất rõ nét, mặc dù không được
thừa nhận một cách chính thức. Vậy nguyên nhân của tình trạng này là do
đâu? Theo ông Trần Quang Đại, có nhiều cách lí giải khác nhau, tuy nhiên,
từ góc độ của một giáo viên, có thể khẳng định chủ yếu là do mối quan hệ
cung - cầu, nhu cầu của học sinh, và nhu cầu đó được quyết định bởi nhu cầu
về nhân lực của nền kinh tế - xã hội.
Việc nhiều học sinh không học môn GDCD, Công nghệ…nêu ra các lí
do “chương trình không có tính thực tiễn, không ứng dụng trong đời sống, ít
thực hành, kém hấp dẫn…” chỉ là ngụy biện. Tác giả lập luận rằng: các
phương trình bậc hai, bậc ba, toán xác suất, vật lí hạt nhân,… thì có gì là
“gần gũi”, là “ thiết thực”, phương tiện thực hành cũng nghèo nàn nhưng học
sinh vẫn chăm chỉ, miệt mài “cày xới” ngày đêm? Vì nó gắn liền với các đại
học danh tiếng mà học sinh đang phấn đấu thi đỗ.
Ông Trần Quang Đại đã viết: chúng ta thường nói “Thầy nào trò nấy”
nhưng cũng nên nghĩ đến tác động theo chiều ngược lại, cũng mạnh mẽ
không kém là “Trò nào thầy nấy”. Học sinh không học, dẫn đến các thầy cô
không thiết tha với việc dạy. Học đối phó sẽ sinh ra dạy đối phó, mọi việc
của giáo viên vẫn rất bài bản: dạy đúng giờ, đúng chương trình, giáo án đầy


đủ và đẹp, thao giảng, dạy bằng giáo án điện tử, vẫn thi giáo viên giỏi, vẫn
có sáng kiến kinh nghiệm… nhưng hầu hết chỉ là đối phó mà thôi.
Tuy vậy, Ông Đại cũng cho rằng cái gọi là “nhu cầu của người học”
không phải là bản năng tự nhiên, mà do các quan điểm, chính sách, giải pháp
giáo dục của người lớn tạo ra. Vì vậy, muốn thay đổi tình trạng phân hoá
“môn chính”, “môn phụ” như hiện nay, đòi hỏi quyết tâm lớn, sự đầu tư bài
bản, có tính chiến lược, có chiều sâu, sự nỗ lực lớn của các gia đình và toàn
xã hội cũng như bản thân ngành giáo dục.
* Về việc học môn Công nghệ của học sinh, Báo Mực Tím online (

www.muctim.com.vn ) - cơ quan của Đoàn TNCS, TP. Hồ Chí Minh , số
ngày 05/ 11 / 2009 [ 8 ] đã cho biết:
Học sinh quan niệm "môn Công nghệ chỉ là môn phụ", không thi đại
học, không thi tốt nghiệp. Áp lực về điểm số, áp lực về ki thi tốt nghiệp, thi
đại học đẩy học sinh lao vào học những “môn chính”. Mặt khác, học sinh
cũng đánh giá nội dung môn công nghệ là khá nhàm chán, vì vậy khó tìm
được sự yêu thích trong bài học. Từ các nguyên nhân trên đẫn đến nhiều
giáo viên công nghệ cũng dần có khái niệm "lên lớp cho đủ giờ" [ 8 ]
Và đưa ra kết quả điều tra tại một lớp 11:
- 97% học sinh trong lớp nghĩ rằng môn Công nghệ là môn nhàm chán nhất
- 94% học sinh không thể hiểu nổi từ trước đến nay mình đã cho được gì vào
đầu từ môn Công nghệ.
- 90% học sinh không thể nhớ nổi tên đầu bài các tiết công nghệ đã học.
- 82% học sinh thú nhận đã từng quay sách khi kiểm tra công nghệ.
- Nhưng tỉ lệ học sinh trên 6.5 điểm phẩy môn công nghệ thì đạt đến 80%
* Trên Vietnamnet ngày 31/3/2008 [ ], có bài của tác giả Như Trung.
Bài viết gửi cho ông Nguyễn Văn Khôi, Chủ biên sách Công nghệ lớp 11
cùng các vị trong Ban biên tập và ông Nguyễn Thiện Nhân, Bộ trưởng Bộ


Giáo dục & Đào tạo. Ông Trung đã viết rằng học sinh lớp 11cũng như thầy
cô giáo dạy môn Công nghệ 11 phản đối quá nhiều về nội dung chương trình
Công nghệ 11. Ông Trung đã phân tích cả 3 lĩnh vực:
- Người dạy ( nhiều giáo viên không dạy được một số nội dung trong
sách giáo khoa, việc đào tạo không bắt kịp được yêu cầu mà nguyên nhân
lại là biên soạn chương trình sách giáo khoa không phù hợp, quá nặng. )
- Cơ sở vật chất để dạy môn Công nghệ lớp 11: quá nghèo nàn
- Học sinh: không có khả năng và không thể vận dụng kiến thức đã học
vào thực tiễn.
Câu hỏi ông Trung đặt ra là:“ Tại sao lại bắt các cháu lớp 11 học môn

này?”
* Phản hồi bài viết của tác giả Như trung, ông Nguyễn Kinh Đức - một
người làm công tác Tư vấn - Định hướng nghề nghiệp - Giới thiệu việc làm
đồng thời tham gia giảng dạy tại Trường Trung cấp Nghề và dạy môn Công
nghệ cho một trường THPT lại cho biết ông nhận thấy học sinh THPT học
môn Công nghệ (hay môn Kỹ thuật trước kia) là cần thiết và quý báu như
nhiều môn học khác. Bởi lẽ:
Về sách giáo khoa: Các môn học ở bậc học phổ thông được biên soạn
có những chuẩn mực cụ thể và nó là kiến thức cơ bản, mang tính phổ thông.
Và hiện nay, sau nhiều lần chỉnh sửa, sách môn Công nghệ đã đáp ứng được
điều đó.
Nói về kiến thức: ở bậc học phổ thông tất cả các môn học phối hợp, đan
kết với nhau nhằm trang bị cho học sinh các kiến thức phổ thông cơ bản nhất
để tạo lập cho học sinh năng lực tư duy, sáng tạo, giúp cho học sinh khả
năng nhận biết thế giới xung quanh ở một mức độ hợp lý theo độ tuổi. Khi
hết THPT học sinh đi học chuyên nghiệp sẽ được học tiếp các kiến thức


chuyên ngành ở mức độ nâng cao hơn, chuyên sâu hơn trong các trường Cao
đẳng, Đại học.
Dưới góc độ người làm công tác Tư vấn - Định hướng nghề nghiệp và
Giới thiệu việc làm, ông Đức nhận thấy môn Công nghệ(môn Kỹ thuật nói
chung) rất có ý nghĩa. Học sinh được học qua các dạng công nghệ tiêu biểu,
các ứng dụng điển hình của nó thể hiện ở nhiều ngành nghề khác nhau. Sau
đó học sinh tự xem mình có hứng thú với loại ngành nghề nào, đam mê với
loại công nghệ nào. Đồng thời soi lại bản thân xem mình có năng khiếu hay
sở trường, sở đoản ở lĩnh vực đó không. Nếu theo đuổi ngành nghề đó có
phù hợp với mình không?
Về giáo viên dạy Công nghệ: Người dạy là yếu tố vô cùng quan
trọng. Qua người thầy, học trò cảm nhận được thế giới công nghệ, phân biệt

được các loại ngành nghề. Có nhiều loại sản phẩm mà ở đời sống thường
nhật trong gia đình vẫn đang sử dụng, ngày ngày trông thấy nay được thầy
cô chỉ ra cho biết "cội nguồn" của nó. Xã hội ta hiện nay đang tồn tại cơ cấu
lao động không hợp lý. Đào tạo không gắn với sử dụng. Nhà nước, doanh
nghiệp và người lao động tốn rất nhiều tiền của, công sức để đào tạo lại do
có nhiều lý do nhưng trong đó có việc người lao động xác định sai năng lực
cá nhân, lựa chọn sai ngành nghề. Thực tế hiện nay chỉ ra, cần phải phân
luồng đào tạo để sắp xếp cơ cấu lao động hợp lý. Đó là một việc lớn nhiều
ngành nhiều cấp đang làm nhưng có một đội ngũ giáo viên đang âm thầm
tham gia làm công việc đó qua mỗi giờ lên lớp.
Hiện nay, ở một số ít trường có thể vẫn còn hiện tượng do thiếu giáo
viên Công nghệ nên lãnh đạo trường "bắt" ai đó dạy chưa đủ giờ, có kiến
thức họ hàng với Công nghệ thì lên dạy Công nghệ. Có thể nói rằng chính
chúng ta đã xem nhẹ môn này, mặc nhiên coi nó là môn phụ nên dành sự
quan tâm cho môn học chưa đúng mức. Giáo viên Công nghệ hiện nay còn


thiếu và yếu đó là một thực tế. Nhưng không phải là không có những thầy cô
dạy tốt.
* Cũng trong thời điểm đó thì nhà giáo Văn Như Cương [ 11 ] lại kiến
nghị bỏ một số môn học, bởi lẽ theo ông chương trình ở bậc THPT được
thiết kế qua nhiều môn học trong cùng một thời gian (hàng tuần đều có 13
môn học) làm cho học sinh rất căng thẳng và mệt mỏi, và vì thế việc nẩy
sinh ra môn chính, môn phụ là điều không tránh khỏi
Ông cho rằng cần phải có thái độ thực tế hơn để mạnh dạn cắt bỏ
chương trình của từng bộ môn và cắt bỏ cả những môn học không cần thiết
như Môn Công nghệ, môn Giáo dục quốc phòng và an ninh, hoạt động giáo
dục nghề phổ thông, hoạt động giáo dục hướng nghiệp.

Chương 2: ĐỐI TƯỢNG - NỘI DUNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN

CỨU
2.1.ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động dạy và học môn Công nghệ ở trường trung học phổ thông
1.3.2 Khách thể nghiên cứu
- Giáo viên và học sinh trong dạy và học môn Công nghệ THPT ở 5 trường
THPT được chọn nghiên cứu
- Bộ phiếu điều tra, phỏng vấn giáo viên và học sinh
2.2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
2.2.1. Nội dung nghiên cứu
- Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của khu vực nghiên cứu
- Thực trạng dạy môn Công nghệ THPT
- Thực trạng học môn Công nghệ THPT


- Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy và học môn Công nghệ
THPT
2.2.2. Các chỉ tiêu nghiên cứu
+ Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, giáo dục đào tạo của khu vực
nghiên cứu
+ Đội ngũ giáo viên dạy môn Công nghệ THPT
- Quy mô
- Trình độ
- Năng lực và đạo đức nghề nghiệp
+ Cơ sở vật chất phục vụ việc dạy và học môn Công nghệ THPT
+ Động cơ học tập và hứng thú học tập của học sinh
+ Kết quả học tập của học sinh ( điểm trung bình môn; khả năng vận
dụng vào thực tiễn; định hướng nghề nghiệp )
2.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.3.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu

Tổng hợp tài liệu về điều kiện tự nhiên, tình hình phát triển kinh tế, xã
hội có ảnh hưởng đến hoạt động dạy và học của giáo viên và học sinh.
Thống kê số liệu về lực lượng giáo viên dạy môn Công nghệ của 5
trường THPT khu vực nghiên cứu
2.3.2. Phương pháp quan sát
Quan sát giáo viên và học sinh trong quá trình dạy và học môn Công
nghệ
2.3.3. Phương pháp phỏng vấn, điều tra
- Xây dựng các phiếu điều tra thu thập dữ liệu từ giáo viên và học sinh
theo các chỉ tiêu nghiên cứu; Phỏng vấn trực tiếp giáo viên về tư tưởng, thái
độ, lòng yêu nghề đối với môn học họ được giao đảm nhiệm.


- Chọn mẫu để điều tra học sinh và thực hiện việc điều tra đến học
sinh.

Chương 3 . KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN KINH TẾ XÃ HỘI TỈNH BẮC NINH
Bắc Ninh là một tỉnh có diện tích nhỏ nhất cả nước – 804 km²; Gồm 1
thành phố và 7 huyện thị. Dân số thống kê ngày 01/04/2009 có 1.024.151
người, trong đó khu vực nông thôn chiếm 76,5%; thành thị: 23,5% ; Là một
tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Có nhiều làng nghề thủ công
truyền thống. Tổng giá trị sản xuất công nghiệp năm 2009 (giá thực tế) đạt
16.263,6 tỷ đồng, đứng thứ 6 miền Bắc (sau Hà Nội, Hải Phòng, Quảng
Ninh, Vĩnh Phúc và Hưng Yên). Cơ cấu nông, lâm thuỷ sản, công nghiệp,
xây dựng - dịch vụ: 34% - 37% - 29%. [ 1 ]
Về giáo dục- đào tạọ ngành GD-ĐT Bắc Ninh luôn giữ vững danh
hiệu là một trong những tỉnh, thành phố cả nước dẫn đầu về phát triển giáo
dục. Năm học 2008-2009, được Bộ GD-ĐT tặng Bằng khen, điển hình trên
các mặt: Chất lượng giáo dục đại trà ổn định, chất lượng giáo dục mũi nhọn

được nâng cao, thực chất và vững chắc; Cơ sở vật chất tiếp tục được đầu tư,
trang bị theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá; Đội ngũ giáo viên đủ về số
lượng, đồng bộ về cơ cấu ở tất cả các bậc học. Chỉ tính riêng bậc THPT, tỷ
lệ giáo viên đạt chuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ là 98,5% và tỷ lệ giáo viên
trên chuẩn 10%...Phấn đấu đến 2015 tỷ lệ giáo viên THPT có trình độ sau
đại học đạt khoảng 15% đến 18%.
Các kỳ thi trong năm học đều diễn ra an toàn, nghiêm túc, đúng quy chế với
94,14% học sinh đỗ tốt nghiệp THPT, xếp thứ 5 toàn quốc; Là 1 trong 10
tỉnh, thành phố có điểm thi ĐH cao nhất năm 2009. [ 1 ]


Tuy vậy, giáo dục – đào tạo Bắc Ninh vẫn còn một số hạn chế; Trong
đó đặc biệt phải kể đến vấn đề phân luồng học sinh sau tốt nghiệp THCS và
THPT.
3.2. THỰC TRẠNG DẠY VÀ HỌC MÔN CÔNG NGHỆ Ở THPT
Do điều kiện về thời gian, chúng tôi không triển khai đề tài được trên
diện rộng, trước mắt chọn 5 trường THPT thuộc một số huyện của tỉnh Bắc
Ninh để điều tra, nghiên cứu.
- Trường THPT Yên Phong số 1 - huyện Yên Phong
- Trường THPT Quế Võ số 1 - huyện Quế Võ
- Trường THPT Quế Võ số 2 - huyện Quế Võ
- Trường THPT Lí Nhân Tông - thành phố Bắc Ninh
- Trường THPT Lí Thái Tổ - huyện Từ Sơn
3.2.1. Qui mô và trình độ đội ngũ giáo viên môn Công nghệ
3.2.1.1. Trường THPT Yên Phong số 1
Trường THPT Yên Phong số 1 - một trong những cơ sở giáo dục uy
tín, chất lượng cao, từng nhiều năm đạt danh hiệu Lá cờ đầu khối THPT
công lập toàn tỉnh Bắc Ninh.
Quy mô học sinh năm học 2009-2010 của trường 54 lớp với 2871 học
sinh.

Trường hiện có 120 cán bộ, giáo viên thì 100% đã đạt chuẩn trong đó
có 7 Thạc sĩ, 8 giáo viên đang học Cao học. Việc học tập nâng chuẩn nhằm
nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu đổi mới hiệu quả
chương trình giáo dục phổ thông; phấn đấu đạt danh hiệu giáo viên giỏi các
cấp đã và đang trở thành phong trào thi đua sôi nổi trong toàn đội ngũ.
Những năm qua trường tiếp tục đạt nhiều kết quả đáng ghi nhận: số
giáo viên, học sinh giỏi các cấp; học sinh tốt nghiệp lớp 12 thi đỗ ĐH,CĐ, số


học sinh đỗ điểm cao của trường luôn đứng trong Tốp các đơn vị dẫn đầu
khối THPT công lập.
Trường THPT Yên Phong số 1 đang phấn đấu nâng tầm vị thế, phấn
đấu đến năm 2010 đạt chuẩn Quốc gia với tỷ lệ học sinh tốt nghiệp lớp 12
thi đỗ ĐH, CĐ hằng năm chiếm khoảng 50%. Trước mắt để chuẩn bị
phương pháp giảng dạy bằng giáo án điện tử, trường đã phổ cập Tin học cho
100% cán bộ, giáo viên; nỗ lực đổi mới hiệu quả hơn nữa phương pháp
giảng dạy, tăng cường nâng chuẩn đội ngũ, đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ
mới.
Kết quả điều tra về đội ngũ giáo viên dạy môn Công nghệ của trường
THPT Yên Phong số 1 được trình bày ở bảng 1.



Bảng 1: ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN THAM GIA DẠY MÔN CÔNG NGHỆ TRƯỜNG THPT YÊN PHONG SỐ 1
STT

Họ và tên giáo viên

Phân môn dạy
CN

Nông
nghiệp

1

2

3

4

5

Nguyễn Văn Trợ

Ngô Thị Mỹ Linh

Nghiêm Hồng Nhật

Nguyễn Văn Quy

Đàm Thận Dũng

CN
Công
nghiệp

+

+


Năm
công
tác

Trình độ/Hệ đào tạo/ Cơ sở đào tạo

Dạy kiêm nhiệm
hay dạy chuyên
trách

18

Cử nhân Sinh học/ ĐH tổng hợp

Dạy chuyên

(Đại học khoa học tự nhiên)

trách

Cử nhân SP Kĩ thuật/ ĐH Nông lâm

Dạy chuyên

Thái Nguyên

trách

Cử nhân SP Kĩ thuật/ ĐH Sư phạm Hà


Dạy chuyên

Nội

trách

Cử nhân SP Vật lí/ ĐH Sư phạm Hà Nội

Dạy chuyên

2

trách

Cử nhân SP Vật lí/ ĐH Sư phạm Hà Nội

Dạy kiêm nhiệm

5

+

+

+

11

13


6


×