Tải bản đầy đủ (.pdf) (54 trang)

Hệ thống câu hỏi và nội dung ôn tập Kiểm toán căn bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (655.72 KB, 54 trang )

HỆ THỐNG CÂU HỎI VÀ NỘI DUNG ÔN TẬP
KIỂM TOÁN CĂN BẢN
CHƯƠNG 1
Câu 1: Thế nào là kiểm toán? Thế nào là kiểm toán tuân thủ? Kiểm toán báo cáo tài
chính? Kiểm toán hoạt động? Thế nào là kiểm toán nội bộ báo cáo tài chính? Kiểm
toán độc lập về báo cáo tài chính? Kiểm toán báo cáo tài chính của kiểm toán Nhà
nước? Hiểu những nội dung cơ bản trong định nghĩa như thế nào?
Kiểm toán là quá trình các chuyên gia độc lập và có thẩm quyền tiến hành thu thập và
đánh giá các bằng chứng về các thông tin cần kiểm toán (có thể định lượng) của một đơn vị
cụ thể, nhằm mục đích xác nhận và báo cáo về sự phù hợp giữa các thông tin này với các
chuẩn mực đã được thiết lập.
Kiểm toán tuân thủ là việc kiểm tra và trình bày ý kiến của Kiểm toán viên về sự tuân thủ
hay chấp hành về luật pháp, chính sách, chế độ và những qui định của một đơn vị cụ thể.
Kiểm toán báo cáo tài chính là việc kiểm tra và trình bày ý kiến của Kiểm toán viên về
tính trung thực, hợp lý của báo cáo tài chính trên các khía cạnh trọng yếu.
Kiểm toán hoạt động là việc kiểm tra và trình bày ở kiến của Kiểm toán viên về tính hiệu
lực, hiệu quả và tính kinh tế của hoạt động được kiểm toán.
Kiểm toán nội bộ báo cáo tài chính là việc kiểm tra và trình bày ý kiến của Kiểm toán
viên nội bộ về báo cáo tài chính được kiểm toán.
Kiểm toán độc lập báo cáo tài chính là việc kiểm tra và trình bày ý kiến của Kiểm toán
viên độc lập về báo cáo tài chính được kiểm toán.
Kiểm toán báo cáo tài chính của Kiểm toán viên Nhà nước là việc kiểm tra và trình bày
ý kiến của Kiểm toán viên Nhà nước về báo cáo tài chính được kiểm toán.
Các nội dung cơ bản trong định nghĩa:
- Các chuyên gia (Kiểm toán viên) phải có trình độ chuyên môn và kinh nghiệm thực tiễn
theo qui định. Phải đáp ứng 06 yêu cầu cơ bản (Chuyên môn hay còn gọi là kỹ năng và khả
năng của Kiểm toán viên; Độc lập; Tôn trọng hay tuân thủ pháp luật; Tôn trọng chuẩn mực
chuyên môn nghề nghiệp; Bí mật; Đạo đức nghề nghiệp).
- Thu thập và đánh giá các bằng chứng là một qui trình có tính chất chuyên môn chặt chẽ
phù hợp với từng đơn vị được kiểm toán cụ thể.
- Các thông tin cần kiểm toán là các thông tin kinh tế, phi kinh tế, tài chính, phi tài chính.


- Đơn vị kiểm toán cụ thể chính là khách thể kiểm toán.
- Chuẩn mực đã được thiết lập là các chuẩn mực dùng để đánh giá thông tin được kiểm
toán. Mỗi loại kiểm toán khác nhau sẽ có những chuẩn mực dùng để đánh giá thông tin khác
nhau.
- Báo cáo kết quả là việc trình bày ý kiến của Kiểm toán viên về kết quả kiểm toán tuỳ
thuộc từng loại kiểm toán cụ thể.


Câu 2: Lịch sử ra đời, hình thành và phát triển kiểm toán ở nước ta và trên thế giới
có gì giống và khác nhau? Tại sao?
Trên thế giới, kiểm toán là một công cụ quản lý không thể thiếu được, ở đâu có sự xuất
hiện của đồng tiền, đồng thời có sự tách rời quyền sở hữu và quyền sử dụng của tài sản thì
ở đó có kế toán và có kiểm toán. Kiểm toán cổ điển ra đời từ thế kỷ thứ 3 trước công nguyên,
gắn liền với nền văn minh của Ai Cập và La Mã cổ đại. Ở đâu có Nhà nước thì ở đó có kiểm
toán Nhà nước, ở đâu có hoạt động của một doanh nghiệp, một tổ chức hiệu quả thì ở đó có
kiểm toán nội bộ. Ở đâu có nền kinh tế thị trường thì ở đó có kiểm toán độc lập.
Ở Việt Nam, trước năm 1986 thực hiện cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung (hay còn
gọi là cơ chế quan liêu bao cấp) nên không có kiểm toán. Mãi đến khi chuyển đổi sang cơ
chế thị trường xuất hiện nhiều thành phần kinh tế và đa phương hoá sở hữu, trước sức ép
của hội nhập và sự xuất hiện của các nhà đầu tư nước ngoài Việt Nam đã hình thành 02 công
ty kiểm toán đầu tiên (Công ty kiểm toán Việt Nam – VACO và công ty dịch vụ tư vấn tài
chính kế toán và kiểm toán – AASC được thành lập vào ngày 13.5.1991). Mãi đến ngày
11.07.1994 kiểm toán Nhà nước Việt Nam mới được thành lập và trực thuộc Chính phủ.
Đến năm 1997, kiểm toán nội bộ các doanh nghiệp Nhà nước được thành lập theo qui chế
kiểm toán nội bộ số 832 ngày 28.10.1997 của Bộ tài chính. Ở Việt Nam kiểm toán được
hình thành không theo qui luật của các nước phát triển trên thế giới, do thể chế chính trị và
cơ chế quản lý kinh tế quyết định.
Câu 3: Ý nghĩa, vai trò và sự cần thiết khách quan của kiểm toán trong quản lý?
+ Sự cần thiết khách quan của kiểm toán trong nền kinh tế thị trường:
Kiểm toán ra đời bắt nguồn từ thực tiễn và phục vụ cho quản lý thực tiễn.

Xã hội càng phát triển, thông tin kế toán ngày càng nhiều, đa dạng, đa chiều, phức tạp và
chứa đựng nhiều rủi ro. Đối tượng sử dụng thông tin ngày càng được mở rộng phong phú
và đa dạng, vì:
Thứ nhất: Khoảng cách lớn giữa người sử dụng thông tin và người cung cấp thông tin và
sự điều chỉnh thông tin có lợi cho người cung cấp thông tin. Các thông tin được cung cấp
có nguy cơ ngày càng bị hợp pháp hoá và thành tích hoá có lợi cho người cung cấp thông
tin.
Thứ hai: Khối lượng thông tin quá nhiều. xã hội càng phát triển, thông tin càng phong
phú, đa dạng với khối lương càng nhiều, khả năng chứa đựng những thông tin sai lệch trong
những thông tin đúng đắn ngày càng tăng.
Thứ ba: Tính phức tạp của thông tin và nghiệp vụ kinh tế ngày càng tăng, nguy cơ chứa
đựng những thông tin sai lệch là không thể tránh khỏi.
Thứ tư: Khả năng thông đồng trong xử lý thông tin có lợi cho người cung cấp thông tin
ngày càng lớn, rủi ro thông tin ngày càng cao.
Để làm giảm rủi ro thông tin, có 3 cách chủ yếu:
Cách 1: Người sử dụng thông tin tự kiểm tra các thông tin mà mình sử dụng. Cách này
không hiệu quả, tốn kém, không phù hợp với xu thế phát triển và chuyên môn hoá của thời
đại. Mặt khác, có thể có những hạn chế về năng lực của người sử dụng thông tin, đặc biệt
đối với những thông tin phức tạp.


Cách 2: Người cung cấp thông tin bị ràng buộc trách nhiệm pháp lý hoặc người sử dụng
thông tin chia sẻ rủi ro thông tin cùng nhà quản trị doanh nghiệp hay người cung cấp thông
tin theo sự thoả thuận giữa hai bên. Nhưng cách này lại không thể đáp ứng được mục tiêu
đặt ra khi người cung cấp thông tin bị giải thể, phá sản, hậu quả khi đó luôn thuộc về người
sử dụng thông tin.
Cách 3: Chỉ sử dụng thông tin trên báo cáo tài chính khi đã được kiểm toán độc lập xác
nhận. Cách này rất hiệu lực, gắn chặt giữa trách nhiệm pháp lý và trách nhiệm vật chất của
Kiểm toán viên với những ý kiến nhận xét, kết luận mà họ cung cấp.
Từ đó, kiểm toán ra đời phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu của người sử dụng thông tin, là

một sự cần thiết tất yếu khách quan.
Sự cần thiết của kiểm toán còn được thể hiện thông qua vai trò và những tác dụng mà
kiểm toán mang lại cho nền kinh tế. Kiểm toán sinh ra từ yêu cầu quản lý và phục vụ cho
quá trình quản lý, cụ thể:
Thứ nhất: Kiểm toán tạo niềm tin cho những người quan tâm.
Trong cơ chế thị trường, có nhiều đối tượng quan tâm tới tình hình tài chính của đơn vị
và sự phản ánh của tình hình này trong các tài liệu kế toán và báo cáo tài chính. Các đối
tượng quan tâm như: Chính phủ để quản lý vĩ mô nên kinh tế và để thu thuế; các nhà đầu tư
để đầu tư vốn; ngân hàng để cho vay; các cổ đông để mua cổ phiếu.v.v.
Thứ hai: Kiểm toán góp phần hướng dẫn nghiệp vụ, ổn định củng cố hoạt động tài chính,
kế toán nói riêng và hoạt động của các đơn vị được kiểm toán nói chung.
Thông qua kiểm toán, khi phát hiện gian lận sai sót, ktv uốn nắn, chỉ dẫn và đề nghị doanh
nghiệp sửa chữa, tư vấn giúp doanh nghiệp ổn định và kinh doanh hiệu quả. Hoạt động kiểm
toán không những củng cố hoạt động tài chính, kế toán cho doanh nghiệp nói riêng mà còn
làm lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia, đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế, nâng cao
hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài chính.
Thứ ba: Kiểm toán góp phần nâng cao hiệu quả và năng lực quản lý.
Ngoài chức năng xác nhận thông tin tài chính, kiêm toán còn có chức năng tư vấn cho các
doanh nghiệp, đơn vị được kiểm toán thấy được những hạn chế, yếu kém cần khắc phục,
uốn nắn, thấy được những vi phạm, lãng phí nhằm xử lý, ngăn chặn để thực hiện kinh doanh
hiệu quả, hạn chế rủi ro. Chức năng này được phát huy tác dụng rất lớn ở các đơn vị được
kiểm toán thường xuyên.
Kiểm toán nội bộ cung cấp thông tin phục vụ việc quản lý điều hành của chủ doanh
nghiệp, giúp chủ doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả, thuận lợi trong cạnh tranh, khai thác
triệt để và sử dụng hiệu quả nguồn lực của doanh nghiệp.
Kiểm toán nhà nước phục vụ việc quản lý vĩ mô của là nước, đảm bảo duy trì kỷ cương,
thực hiện nghiêm chính và thống nhất luật pháp, chính sách, chế độ, đồng thời sử dụng tiết
kiệm, hiệu quả vốn, tài sản và kinh phí của nhà nước.
Kiểm toán độc lập bảo vệ quyền lợi cho những người có liên quan và sử dụng thông tin
của đơn vị được kiểm toán, như: Chính phủ, cố đông, ngân hàng, nhà đầu tư... và cung cấp

thông tin rất hữu ích cho chính nhà quản lý của đơn vị được kiểm toán.


Câu 4: Kiểm toán có những chức năng gì? Sự phát triển của các chức năng này qua
các thời kỳ có gì giống và khác nhau không? Tại sao? Hãy liên hệ với Việt Nam?
Kiểm toán có 02 chức năng: Kiểm tra xác nhận (xác minh) và tư vấn (hay trình bày ý
kiến).
Chức năng kiểm tra xác nhận hay xác minh là chức năng đầu tiên, chức năng ra đời sớm
nhất nhằm xác nhận thông tin đã xảy ra, thông tin hướng về quá khứ. Xã hội càng phát triển,
chức năng tư vấn hướng đến tương lại được ra đời và phát triển mạnh mẽ vào những năm
80 của thế kỷ XX. Ngày nay, chức năng này giữ vị trí rất quan trọng trong kiểm toán và
ngày càng phát triển mạnh mẽ. Thời kỳ đầu khi kiểm toán mới hình thành, chức năng xác
minh hay xác nhận là số 1, chức năng tư vấn hay trình bày ý kiến là số 2. Nhưng ngày này
lại ngược lại, chức năng tư vấn là số 1 và chức năng xác minh hay xác nhận là số 2.
Việc các chức năng của kiểm toán thay đổi cũng là do yêu cầu thực tiễn và yêu cầu của
người sử dụng thông tin thay đổi đi từ nhìn nhận thông tin được kiểm toán hướng về quá
khứ sang nhìn nhận thông tin kiểm toán hướng về tương lai.
Ở Việt Nam cũng diễn ra tương tự do sự hội nhập kinh tế Quốc tế.
Câu 5: Phân biệt giữa: đối tượng và khách thể của kiểm toán? khách hàng và đơn
vị được kiểm toán? Khách hàng có phải là khách thể kiểm toán không? Ngược lại
khách thể kiểm toán có phải là khách hàng kiểm toán không? Tại sao?
Đối tượng kiểm toán là cái kiểm toán viên cần quan tâm, cần kiểm toán. Còn khách thể
kiểm toán là nơi diễn ra hoạt động và có đối tượng mà kiểm toán viên cần kiểm toán.
- Đối tượng kiểm toán là những tài liệu, nội dung mà Kiểm toán viên (chủ thể) phải thực
hiện kiểm toán. Còn khách thể kiểm toán là những nơi xảy ra, diễn ra hoạt động và công
việc cần kiểm toán. Đơn vị được kiểm toán cũng là khách thể kiểm toán. Khách hàng kiểm
toán cũng là khách thể kiểm toán, nhưng khách thể kiểm toán chưa hẳn đã là khách hàng
kiểm toán. Chỉ có kiểm toán độc lập thì khách thể kiểm toán mới trở thành khách hàng kiểm
toán. Hay khi ta nói khách thể của kiểm toán của kiểm toán độc lập chính là khách hàng, vì
kiểm toán độc lập cung cấp dịch vụ kiểm toán và thu phí kiểm toán từ khách hàng. Nói đến

khách hàng kiểm toán là nói đến khách thể của kiểm toán độc lập.
Câu 7: Phân biệt sự giống và khác nhau giữa kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân
thủ và kiểm toán báo cáo tài chính.
+ K/n 3 loại kiểm toán này.
+ Giống nhau:
- Đều là kiểm toán
- Đều là công cụ quản lý kinh tế
+ Khác nhau:
Tiêu thức so
sánh
Khái niệm

Kiểm toán hoạt động

Kiểm toán tuân thủ

Kiểm toán BCTC

Là việc kiểm tra và
Là việc kiểm tra và trình
Là việc kiểm tra và
trình bày ý kiến của kiểm bày ý kiến của Kiểm toán trình bày ý kiến của
toán viên về tính hiệu viên về sự tuân thủ luật KTV về BCTC được
lực, hiệu quả và tính kinh pháp, chính sách, chế độ và kiểm toán


tế của hoạt động được những qui định của đơn vị
kiểm toán
được kiểm toán
Mục đích


Đánh giá tính hiệu
Xác minh và cung cấp
lực, hiệu quả, và tính thông tin tin cậy về sự tuân
kinh tế của hoạt động thủ luật pháp, chính sách,
được kiểm toán
chế độ và những qui định
của đơn vị được kiểm toán

Xác minh tính trung
thực hợp lý của báo
cáo tài chính được
kiểm toán trên các
khía cạnh trọng yếu

Đối
tượng
Rất phong phú đa
Hành vi tuân thủ luật
Báo cáo tài chính,
kiểm toán
dạng từ phương án pháp, chính sách, chế độ sổ kế toán, chứng từ

kinh doanh, qui trình và những qui định của đơn hóa đơn, tài sản…
sản xuất, dự án đầu tư, vị được kiểm toán
hệ thống kiểm soát nội
bộ,…
Chuẩn mực
Kiểm
viên


Có phần chủ quan

toán Có trình độ cao, hiểu

biết nhiều lĩnh vực…

Tương đối khách quan

Tương đối khách quan

Chuyên gia nắm vững KTV chuyên nghiệp
luật pháp, chính sachs, chế (chuyên gia) có tiêu
chuẩn rõ ràng
độ và những quy định…

Kết quả

Độ tin cậy hạn chế

Có tính chủ quan

Chức năng

Tư vấn hay trình bày ý
kiến

Xác minh hay xác nhận

Có độ tin cậy cao

Cả xác minh và tư
vấn

Câu 8: Trình bày tác dụng và nội dung các giai đoạn của một qui trình kiểm toán?
Qui trình kiểm toán là trình tự các bước công việc được sắp xếp theo một qui định khoa
học, chặt chẽ. Qui trình kiểm toán có tính chất bắt buộc cho mọi cuộc kiểm toán. Qui trình
kiểm toán có tác dụng giúp Kiểm toán viên thực hiện kiểm toán theo đúng trình tự, thống
nhất, đảm bảo kết quả kiểm toán khoa học, tin cậy, hạn chế rủi ro.
Qui trình kiểm toán còn là căn cứ để kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán, chứng
minh cuộc kiểm toán khoa học và tin cậy.
Qui trình kiểm toán thường có 3 bước hay 3 giai đoạn:
- Giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán: Giai đoạn này bao gồm các công việc lập kế hoạch
chiến lược, kế hoạch tổng thể, kế hoạch chi tiết, và chương trình kiểm toán. Với mỗi loại
kiểm toán hoạt động, kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ hay kiểm toán nội bộ,
kiểm toán Nhà nước và kiểm toán độc lập và với tính chất mỗi cuộc kiểm toán khác nhau,
phức tạp, giản đơn hay nhiều năm ... mà những kế hoạch này cũng có sự khác nhau.
- Giai đoạn thực hiện kiểm toán: Giai đoạn này kiểm toán viên phải làm 2 công việc thực
hiện khảo sát tuân thủ và khảo sát kiểm soát nội bộ.
- Giai đoạn kết thúc kiểm toán (hay hoàn thành kiểm toán): Giai đoạn này Kiểm toán viên
phải làm các công việc lập báo cáo kiểm toán, hoàn chỉnh hồ sơ kiểm toán và giải quyết các
công việc, sự kiện phát sinh sau khi lập bản cáo tài chính và ký báo cáo kiểm toán.
Câu 9: Chuẩn mực kiểm toán là gì? Tác dụng của chuẩn mực kiểm toán?


Chuẩn mực kiểm toán là những qui định có tính chất nguyên tắc và những hướng dẫn cụ
thể để thực hiện nguyên tắc này. Chuẩn mực kiểm toán là những qui định cụ thể, hướng dẫn
công việc và điều chỉnh hành vi nghề nghiệp của Kiểm toán viên, đồng thời chuẩn mực kiểm
toán cũng là căn cứ đánh giá chất lượng và kết quả kiểm toán, để làm căn cứ thanh tra, kiểm
tra, kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán và xử lý vi phạm trong kiểm toán ...
Câu 10: Kiểm toán Nhà nước là loại nội kiểm hay ngoại kiểm? Kiểm toán Nhà nước

Việt Nam có gì khác biệt với kiểm toán Nhà nước của các nước phát triển? Tại sao?
Kiểm toán Nhà nước là loại nội kiểm toán với 5 lý do sau đây:
- Kiểm toán Nhà nước do các Kiểm toán viên là các viên chức Nhà nước thực hiện kiểm
toán. Các viên chức này được hưởng lương từ ngân sách Nhà nước.
- Kiểm toán Nhà nước được thực hiện theo kế hoạch do cơ quan mà kiểm toán Nhà nước
trực thuộc phê duyệt. Ngoài ra, kiểm toán Nhà nước còn thực hiện kiểm toán theo yêu cầu,
mệnh lệnh, chỉ thị của cơ quan mà nó trực thuộc.
- Kiểm toán Nhà nước thực hiện kiểm toán không thu phí kiểm toán từ các đơn vị, tổ chức
được kiểm toán.
- Quan hệ giữa kiểm toán Nhà nước (chủ thể kiểm toán) và đơn vị, tổ chức được kiểm
toán (khách thể kiểm toán) là quan hệ bắt buộc. Vì vậy, khi thực hiện kiểm toán không phải
ký hợp đồng kiểm toán.
- Kết thúc kiểm toán, kiểm toán Nhà nước có nhiệm vụ theo dõi việc thực hiện các ý kiến
đề xuất của kiểm toán Nhà nước đối với đơn vị, tổ chức được kiểm toán. Vì vậy trong qui
trình kiểm toán của kiểm toán Nhà nước giống với qui trình kiểm toán nội bộ bao gồm 4
bước (kiểm toán độc lập chỉ có 3 bước).
Kiểm toán Nhà nước là loại kiểm toán được phân chia theo mô hình tổ chức hay chủ thể
kiểm toán. Kiểm toán Nhà nước là của Nhà nước và theo thông lệ, kiểm toán Nhà nước chỉ
thực hiện kiểm toán ở các đơn vị, tổ chức có sử dụng công quỹ, tài sản của Nhà nước. Thông
lệ trên thế giới Nhà nước không kinh doanh nên không có doanh nghiệp Nhà nước. Ở Việt
Nam do đặc thù về thể chế chính trị và cơ chế quản lý nên có doanh nghiệp Nhà nước và
kiểm toán Nhà nước có nhiệm vụ kiểm toán ở các doanh nghiệp Nhà nước hay kiểm toán
về vốn sử dụng ở các doanh nghiệp này. Khi gia nhập WTO, theo tiến trình cam kết của
Việt Nam với WTO đến 2019 Việt Nam sẽ phải cổ phần hoá hết các doanh nghiệp Nhà
nước. Như vậy các doanh nghiệp có vốn Nhà nước sẽ được tiến hành kiểm toán độc lập chứ
không phải kiểm toán Nhà nước. Hiện nay ở Việt Nam, các doanh nghiệp 100% vốn Nhà
nước muốn thâm nhập và trường WTO đều phải bắt buộc kiểm toán báo cáo tài chính bởi
các tổ chức kiểm toán độc lập có uy tín, thương hiệu và đủ điều kiện theo qui định.
Câu 11: Trong kiểm toán báo cáo tài chính có những nội dung thuộc về kiểm toán
tuân thủ? Hãy chỉ ra một số trường hợp cụ thể thuộc nội dung này?

Trong kiểm toán báo cáo tài chính có những nội dung kiểm toán việc tuân thủ hệ thống
báo cáo tài chính, tuân thủ chứng từ kế toán, báo cáo quyết toán thuế, thời gian lập báo cáo
tài chính, tuân thủ việc mở sổ kế toán, tuân thủ các nguyên tắc kế toán phù hợp, trọng yếu,
thận trọng, ...khi kiểm toán loại này chính là loại kiểm toán tuân thủ.
Câu 12: Điều lệ của tổng công ty cũng là một loại chuẩn mực kiểm toán tuân thủ
đúng hay sai? Tại sao?


Điều lệ của tổng công ty được xây dựng và qui định bắt buộc trong phạm vi doanh nghiệp.
Mọi hoạt động của công ty đều phải tuân thủ điều lệ này. Vì vậy, khi kiểm toán tuân thủ thì
phải so sánh mọi hoạt động của công ty có tuân thủ đúng điều lệ của công ty không? Nên
điều lệ của công ty cũng là một loại chuẩn mực kiểm toán tuân thủ.
Câu 13: Tính độc lập của kiểm toán viên có nguy cơ bị đe doạ bở lý do nào? Hãy chỉ
ra ít nhất 2 giải pháp để loại bỏ nguy cơ này?
- Tính độc lập của kiểm toán viên có thể bị đe doạ bởi những nguy cơ về vật chất (kinh
tế) và về tình cảm (quan hệ ruột thịt).
- Ít nhất hai biện pháp bảo vệ:
+ Không cho kiểm toán viên này thực hiện kiểm toán.
+ Từ chối kiểm toán.
+ Kiểm toán viên muốn kiểm toán phải bán hết cổ phiếu của doanh nghiệp sẽ được kiểm
toán.
+ Tìm cách loại bỏ vi phạm này
+...
VVV
Câu 14: Trường hợp công ty kiểm toán vừa cung cấp dịch vụ kế toán, vừa thực hiện
kiểm toán báo cáo tài chính cho cùng một đơn vị khách hàng trong cùng một niên độ
kế toán sẽ tạo ra những loại nguy cơ gì? Biện pháp bảo vệ chủ yếu nào có thể được đưa
ra để đảm bảo tính độc lập của Kiểm toán viên?
Công ty vừa làm kế toán vừa kiểm toán sẽ vi phạm nguyên tắc độc lập. (Chuẩn mực kiểm
toán Việt Nam số 200 không cho phép thực hiện).

Nếu kiểm toán viên thực hiện như vậy thì phải tìm | cách loại bỏ, không để cho kiểm toán
viên cung cấp dịch vụ kế toán tham gia cuộc kiểm toán hoặc từ chối cung cấp dịch vụ kiểm
toán.
Câu 15: Tại sao khách thể kiểm toán lại được gọi là đơn vị được kiểm toán mà không
gọi là đơn vị bị kiểm toán?
Xuất phát từ chức năng của kiểm toán và vị trí vai trò tác dụng của kiểm toán trong quản
lý.
- Đứng ở góc độ chức năng, kiểm toán chỉ có 2 chức năng kiểm tra xác minh hay xác
nhận và tư vấn hay trình bày ý kiến. Kiểm toán không có chức năng xử lý. Vì vậy, sau khi
kiểm toán Kiểm toán viên chỉ đưa ra ý kiến xác nhận và tư vấn cho đơn vị, doanh nghiệp
hoạt động tốt hơn, hiệu quả hơn.
- Về vị trí vai trò, tác dụng của kiểm toán đối với đơn vị được kiểm toán:
Thứ nhất: Kiểm toán góp phần hướng dẫn nghiệp vụ và ổn định củng cố hoạt động tài
chính, kế toán nói riêng và hoạt động của các đơn vị được kiểm toán nói chung.
Thông qua kiểm toán, khi phát hiện gian lận sai sót, ktv uốn nắn, chỉ dẫn và đề nghị doanh
nghiệp sửa chữa, tư vấn giúp doanh nghiệp ổn định và kinh doanh hiệu quả hoạt động kiểm
toán không những củng cố hoạt động tài chính, kế toán cho doanh nghiệp nói riêng mà còn


làm lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia, đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế, nâng cao
hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài chính.
Thứ hai: Kiểm toán góp phần nâng cao hiệu quả và năng lực quản lý.
Ngoài chức năng xác nhận thông tin tài chính, kiểm toán còn có chức năng tư vấn cho các
doanh nghiệp, đơn vị được kiểm toán thấy được những hạn chế, yếu kém cần khắc phục,
uốn nắn, thấy được những vi phạm, lãng phí nhằm xử lý, ngăn chặn để thực hiện kinh doanh
hiệu quả, hạn chế rủi ro. Chức năng này được phát huy tác dụng rất lớn ở các đơn vị được
kiểm toán thường xuyên. Chính vì vậy, kiểm toán còn được ví như “Quan tòa công minh
của quá khứ, người dẫn dắt cho hiện tại và người cố vấn sáng suốt cho tương lai”.
Câu 16: Bình luận về quan điểm cho rằng kiểm toán có tính kinh tế rất lớn trong
đời sống kinh tế xã hội?

Kiểm toán là một hoạt động kinh tế. Thực tế đã chứng minh dù loại kiểm toán nào, kể cả
kiểm toán độc lập, kiểm toán nhà nớc hay kiểm toán nội bộ, những lợi ích mà kiểm toán
mang lại lớn hơn rất nhiều những chi phí phải chi ra cho kiểm toán. Đặc biệt kiểm toán độc
lập, đây là hoạt động kinh doanh, một hoạt động sinh lời, khi kiểm toán, đơn vị, doanh
nghiệp được kiểm toán phải trả phí kiểm toán, song dù trả phí kiểm toán bao nhiêu thì những
lợi ích do kiểm toán độc lập mang lại cho bản thân đơn vị được kiểm toán và các đơn vị
khác bên ngoài lớn hơn rất nhiều những chi phí phải chi ra cho nó. Trong bất kỳ một cuộc
kiểm toán nào, dù là kiểm toán độc lập, Nhà nước hay kiểm toán nội bộ, mục tiêu mà các
KTV theo đuổi là phải đạt đợc mức độ tin tưởng cao nhất trong kiểm toán với chi phí bỏ ra
là ít nhất. Mặt khác, các phân tích kinh tế đơn thuần cho thấy các KTV nên tiến hành nhiều
hơn các công việc kiểm toán trong một cuộc kiểm toán miễn là những lợi ích phụ thêm thu
được có giá trị nhiều hơn những chi phí phụ thêm của cuộc kiểm toán.
Câu 17: Tác dụng của kiểm toán tuân thủ và kiểm toán báo cáo tài chính đối với
đơn vị được kiểm toán?
+ Kết quả kiểm toán tuân thủ giúp cho giám đốc, người đứng đầu đơn vị được kiểm toán:
- Có căn cứ xử lý, ngăn chặn các sai phạm ở mọi lĩnh vực.
- Uốn nắm, điều chỉnh hoạt động và những qui định cho phù hợp với đơn vị.
- Quản lý, điều hành đơn vị đảm bảo chấp hành nghiêm chỉnh những qui định đã đặt ra.
+ Kết quả kiểm toán báo cáo tài chính.
- Biết được tình hình tài chính, kết quả kinh doanh
- Điều hành, quản lý và điều chỉnh hoạt động kinh doanh của đơn vị hiệu quả
CHƯƠNG 2
CÁC TỔ CHỨC KIỂM TOÁN
Câu 1: Trình bày vai trò của tổ chức kiểm toán nội bộ? Tổ chức kiểm toán độc lập
và tổ chức kiểm toán Nhà nước?
- Kiểm toán nội bộ cung cấp thông tin tin cậy phục vụ việc quản lý điều hành của chủ
doanh nghiệp, giúp chủ doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả, thuận lợi trong cạnh tranh, khai
thác triệt để và sử dụng hiệu quả nguồn lực của doanh nghiệp, đơn vị.



- Kiểm toán nhà nước thực hiện kiểm toán và cung cấp thông tin tin cậy phục vụ việc điều
hành quản lý vĩ mô của nhà nước đối với các đơn vị, tổ chức sử dụng tài sản, công quỹ của
Nhà nước, đảm bảo duy trì kỷ cương, thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất luật pháp, chính
sách, chế độ, đồng thời sử dụng tiết kiệm, hiệu quả vốn, tài sản và kinh phí của nhà nước.
- Kiểm toán độc lập thực hiện kiểm toán và cung cấp thông tin tin cậy nhằm bảo vệ quyền
lợi cho những người có liên quan và những đối tượng sử dụng thông tin của đơn vị được
kiểm toán, như: chính phủ, cổ đông, ngân hàng, nhà đầu tư... Đồng thời, kiểm toán độc lập
cũng là người cung cấp thông tin rất hữu ích và tin cậy cho chính nhà quản lý của đơn vị
được kiểm toán.
Câu 2: Phân biệt sự giống và khác nhau giữa 3 loại kiểm toán nội bộ, Nhà nước và
kiểm toán độc lập?
+ Giống nhau: Đều là kiểm toán, đều là công cụ quản lý kinh tế.
+ Khác nhau: Trên các tiêu thức: Khái niệm, người thực hiện, cơ cấu tổ chức, phương
thức hoạt động (phương thức thực hiện kiểm toán theo kế hoạch, thư mời, hợp đồng), tính
độc lập, đối tượng kiểm toán chủ yếu, chi phí kiểm toán, độ tin cậy của kết quả kiểm toán,
điều kiện tồn tại, báo cáo kết quả,...
Tiêu thức

Kiểm toán nội bộ

Kiểm toán Nhà nước

Kiểm toán độc lập

Nội dung

Kiểm toán nội bộ là
việc kiểm tra và trình
bày ý kiến của KTV nội
bộ về thông tin được

kiểm toán

Kiểm toán Nhà nước là
việc kiểm tra và trình bày
ý kiến của KTV Nhà nước
về thông tin được kiểm
toán

Kiểm toán độc lập là việc
kiểm tra và trình bày ý kiến
của KTV độc lập về thông
tin được kiểm toán

Người thực KTV nội bộ là những Là cac KTV nhà nước hay Là các chuyên gia hay KTV
hiện
người ông chủ sử dụng viên chức Nhà nước làm độc lập chuyên nghiệp
và bổ nhiệm
nhiệm vụ theo quy định
Cơ cấu tổ Thuộc chủ doanh
Tuỳ mỗi Quốc gia,
Các tập đoàn, hãng
chức
nghiệp, chủ đơn vị. kiểm toán Nhà nước có kiểm toán chuyên nghiệp

Phương
thức hoạt
động
(kiểm
toán)


Nếu đơn vị không có
HĐQT thì kiểm toán
nội bộ trực thuộc
giám đốc. Nếu có
HĐQT thì kiểm toán
nội bộ sẽ trực thuộc
chủ tịch HĐQT

thể trực thuộc Quốc hội, tầm cỡ Quốc gia, khu vực
tòa án, viện kiểm soát, và thế giới.
có thể trực thuộc chính
phủ hay tổng thống….

Theo kế hoạch được
chủ doanh nghiệp,
đơn vị phê duyệt,
hoặc theo quyết định,
mệnh lệnh, yêu cầu
của ông chủ

Theo kế hoạch được Theo hợp đồng hay thư mời
cơ quan mà kiểm toán kiểm toán
Nhà nước trực thuộc phê
duyệt, hoặc theo quyết
định, mệnh lệnh, chỉ thị,
yêu cầu của cơ quan mà
nó trực thuộc


Tính độc Bị hạn chế

lập

Bị hạn chế

Thỏa mãn tính độc lập

Độ tin cậy Không cao
về kết quả
kiểm toán

Cao

Rất cao

Phạm vi Chỉ nội bộ doanh
đối tượng nghiệp, đơn vị
sử dụng
thông tin

Chỉ Nhà nước

Mọi đối tượng thuộc thành
phần kinh tế trong và ngoài
nước

Giá
trị Không có giá trị pháp Có giá trị pháp lý cao
pháp lý



Có giá trị pháp lý cao

Đối tượng Chủ yếu thực hiện
kiểm toán kiểm toán hoạt động,
chủ yếu
ngoài ra kiểm toán
nội bộ vẫn thực hiện
kiểm toán tuân thủ và
kiểm toán BCTC

Chủ yếu thực hiện kiểm
toán BCTC, ngoài ra kiểm
toán độc lập vẫn thực hiện
kiểm toán tuân thủ và kiểm
toán nội bộ

Chủ yếu thực hiện kiểm
toán tuân thủ, ngoài ra
kiểm toán Nhà nước vẫn
thực hiện kiểm toán hoạt
động và kiểm toán
BCTC

Chi
phí Không thu phí kiểm Không thu phí kiểm Thu phí kiểm toán theo
kiểm toán toán
toán
quy định và theo thị trường
Điều kiện Mọi cơ chế
tồn tại


Mọi cơ chế

Cơ chế thị trường

Báo cáo Ông chủ
kết quả

Cơ quan mà nó trực Khách hàng
thuộc

Câu 3: Tại sao cuộc kiểm toán do tổ chức kiểm toán Nhà nước thực hiện không phải
ký hợp đồng kiểm toán:
Vì: Kiểm toán Nhà nước thực hiện kiểm toán ở các đơn vị, tổ chức có sử dụng công quỹ,
tài sản, Ngân sách Nhà nước. Quan hệ giữa kiểm toán Nhà nước (chủ thể kiểm toán) với
đơn vị, tổ chức được kiểm toán (khách thể kiểm toán) là quan hệ bắt buộc. Các đơn vị được
kiểm toán và bản thân kiểm toán Nhà nước phải thực hiện theo qui định của luật kiểm toán
Nhà nước, nên khi kiểm toán Nhà nước thực hiện kiểm toán không phải ký hợp đồng.
Câu 4: Kiểm toán viên Nhà nước là viên chức Nhà nước, hãy giải thích ngắn gọn?
Vì Kiểm toán viên Nhà nước được Nhà nước tuyến dụng để thực hiện nhiệm vụ kiểm
toán do Nhà nước giao nhiệm vụ và được hưởng lương do Nhà nước trả từ Ngân sách Nhà
nước tuân theo luật viên chức Nhà nước.
Câu 5: Hiệp hội nghề nghiệp của các tổ chức kiểm toán nội bộ, Nhà nước và kiểm
toán độc lập được thành lập nhằm mục đích gì? Chúng có vai trò gì?
Hiệp hội kiểm toán viên nội bộ kiểm toán viên nội bộ quốc tế IIA (institute of internal
auditors) thành lập từ năm 1941. Hiệp hội kiểm toán viên nội bộ này là cầu nối giữa các
kiểm toán viên nội bộ giữa các quốc gia và thực hiện việc tuyên truyền phổ biến những kinh
nghiệm hoạt động nghiệp vụ chuyên môn về kiểm toán nội bộ.



Ở cộng hoà Pháp hiệp hội kiểm toán viên nội bộ được thành lập đầu tiên vào năm 1965
và đến năm 1973 đã trở thành viện nghiên cứu kiểm toán viên nội bộ.
Trên phạm vi quốc tế, hiệp hội nghề nghiệp kiểm toán viên Nhà nước được hình thành từ
năm 1963, đó là tổ chức quốc tế các cơ quan kiểm toán tối cao (international organisation
of supereme audit institute – INTOSAI) được thành lập để thúc đẩy việc trao đổi chuyên
môn, quan điểm và kinh nghiệm nghề nghiệp. Kiểm toán Nhà nước công hoà Pháp được
thành lập khá sớm vào năm 1807 gọi là toà thẩm kế nhưng mãi đến năm 1976 cơ quan này
mới. chính thức thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính và quản lý các xí nghiệp công cộng.
Ở Mỹ, văn phòng tổng kế toán (GAO) được thành lập năm 1921 là cơ quan kiểm toán Nhà
nước thực hiện kiểm toán phục vụ cho việc điều hành của Quốc hội. Hiện nay trên Thế giới
đã có hơn 170 nước tham gia và đều là thành viên của INTOSAI. Ở Việt nam kiểm toán
Nhà nước được thành lập theo nghị định 70/CP ngày 11/07/1994 của Chính phủ và trực
thuộc Chính phủ. Đến năm 1997 kiểm toán Nhà nước Việt nam trở thành thành viên của
INTOSAI và năm 1998 trở thành thành viên kiểm toán Nhà nước Châu Á thái bình dương ASOSAI. Khu vực châu á, tổ chức các cơ quan kiểm toán tối cao ASOSAI (asian
organisation of supereme audit institute - asosai) thành lập năm 1979, hiện đã có hơn 40
thành viên, trong đó có kiểm toán nhà nước việt nam.
Từ khi luật kiểm toán Nhà nước được ban hành năm 2005 có hiệu lực chính thức từ ngày
1.1.2006 đã nâng cao địa vị pháp lý của kiểm toán Nhà nước Việt nam do Quốc hội thành
lập và hoạt động độc lập theo luật.
Hiệp hội kiểm toán viên độc lập liên đoàn kế toán quốc tế (international federation of
accountants- IFAC – thành lập năm 1977) là tổ chức hiệp hội nghề nghiệp chung cho cả hai
lĩnh vực kế toán và kiểm toán. IFAC có các uỷ ban trực thuộc đảm nhận từng mảng công
việc, trong đó có uỷ ban thực hành kiểm toán quốc tế (international auditing stices committee
– IAPC) chịu trách nhiệm soạn thảo, ban hành các chuẩn mực kiểm toán (trước đây là các
nguyên tắc chỉ đạo kiểm toán quốc tế - IAG) và hướng dẫn các dịch vụ khác có liên quan;
IFAC cùng với uỷ ban chuẩn mực kế toán quốc tế (international accounting standards
committee- IASC - thành lập năm 1973) đã ký tuyên bố chung tháng 1 năm 1983, theo đó,
nếu đã là thành viên của IFAC thì cũng có nghĩa là thành viên của IASC.
Mục tiêu chính của IFAC nêu trong hiến chương thành lập là “phát triển và tăng cường
sự phối hợp nghiệp vụ kế toán bằng các chuẩn mực hài hoà trên phạm vi toàn thế giới”.

Ở việt nam, sau khi chuyển đổi cơ chế quản lý năm 1986, đến cuối năm 1994 hội kế toán
thành lập (theo quyết định số 12/TTG ngày 10 tháng 01 năm 1994 của thủ tướng chính phủ)
lấy tên là Trung ương hội kế toán Việt nam sau đó đổi tên thành hội kế toán Việt nam. Đến
tháng 3/ 2004, sau đại hội lần thứ 3, hội kế toán việt nam đổi tên thành hội kế toán và kiểm
toán việt nam và đang là hiệp hội nghề nghiệp chung của cả kế toán và kiểm toán. Trong
hội kế toán và kiểm toán Việt nam có hội kiểm toán viên hành nghề để hướng dẫn, quản lý
và thúc đẩy sự phát triển của lĩnh vực kiểm toán nói riêng.
CHƯƠNG 3
BÁO CÁO KIỂM TOÁN
Câu 1: Báo cáo kiểm toán là gì? Từ đó suy ra báo nội - cáo kiểm toán về kiểm toán
báo cáo tài chính? Báo cáo về kiểm toán báo cáo tài chính của kiểm toán viên độc lập,
Kiểm toán viên Nhà nước và Kiểm toán viên nội bộ? Báo cáo kiểm toán chấp nhận


toàn phần chỉ được kiểm toán viên lập ra đối với Doanh nghiệp có lãi đúng hay sai tại
sao?
Báo cáo kiểm toán là văn bản do Kiểm toán viên lập ra thể hiện những ý kiến nhận xét
kết luận của Kiểm toán viên về thông tin được kiểm toán.
Báo cáo kiểm toán về kiểm toán báo cáo tài chính là văn bản do Kiểm toán viên lập ra thể
hiện những ý kiến nhận xét kết luận của Kiểm toán viên về báo cáo tài chính được kiểm
toán.
Báo cáo kiểm toán về kiểm toán báo cáo tài chính của Kiểm toán viên độc lập là văn bản
do Kiểm toán viên độc lập lập ra thể hiện những ý kiến nhận xét kết luận của Kiêm toán
viên độc lập về báo cáo tài chính được kiểm toán.
Báo cáo kiểm toán về kiểm toán báo cáo tài chính của viểm toán viên Nhà nước là văn
bản do Kiểm toán viên Nhà nước lập ra thể hiện những ý kiến nhận xét kết luận của Kiểm
toán viên Nhà nước về báo cáo tài chính được kiểm toán.
Báo cáo kiểm toán về kiểm toán báo cáo tài chính của Kiểm toán viên nội bộ là văn bản
do Kiểm toán viên nội bộ lập ra thể hiện những ý kiến nhận xét kết luận của Kiểm toán viên
nội bộ về báo cáo tài chính được kiểm toán.

Báo cáo kiểm toán chấp nhận toàn phần chỉ được kiểm toán viên lập ra đối với Doanh
nghiệp có lãi nói như vậy là sai tại vì báo cáo kiểm toán chấp nhận toàn phần được lập ra
khi báo cáo tài chính của doanh nghiệp, đơn vị không có sai phạm trọng yếu. Có nghĩa là
Kiểm toán viên hoàn toàn chấp nhận báo cáo tài chính của doanh nghiệp, đơn vị khi lập ra,
hay ban đầu báo cáo tài chính của doanh nghiệp, đơn vị có sai phạm trọng yếu nhưng đã
được sửa đổi theo ý kiến của Kiểm toán viên và được Kiểm toán viên hoàn toàn đồng ý.
Như vậy doanh nghiệp có lãi hay lỗ những báo cáo tài chính không có sai phạm trọng yếu
sẽ được kiểm toán viên lập ra một báo cáo kiểm toán chấp nhận toàn phần.
Câu 2: Trình bày ý nghĩa của báo cáo kiểm toán về Kiểm toán báo cáo tài chính?
Khi phạm vi kiểm toán bị hạn chế (có thể lớn hoặc nhỏ) mà kiểm toán viên không thể
khắc phục được thì kiểm toán viên có thể lập ra những loại báo cáo kiểm toán gì tại
sao?
Ý nghĩa của báo cáo kiểm toán:
- Đối với Kiểm toán viên, báo cáo kiểm toán thể hiện những ý kiến nhận xét kết luận của
Kiểm toán viên về thông tin đã được kiểm toán. Báo cáo kiểm toán là một văn bản pháp lý
công bố về kết quả của cuộc kiểm toán, nó có tính chất pháp lý, được pháp luật thừa nhận,
đồng thời Kiểm toán viên cũng phải chịu trách nhiệm về những ý kiến nhận xét kết luận mà
họ đã đưa ra trong báo cáo kiểm toán.
- Đối với những đối tượng sử dụng thông tin bên ngoài đơn vị như cơ quan thuế, cơ quan
chức năng, các cổ đông, ngân hàng, người mua, người bán,... báo cáo kiểm toán là căn cứ
giúp họ biết được mức độ trung thực, hợp lý, đáng tin cậy của thông tin đã được kiểm toán
từ đó có thể đưa ra những quyết định phù hợp.
- Đối với bản thân đơn vị được kiểm toán, báo cáo kiểm toán giúp cho đơn vị được kiểm
toán chứng minh được độ tin cậy, tính hợp lý, đúng đắn của thông tin mà họ cung cấp. Qua
đó, những đối tượng sử dụng thông tin sẽ yên lòng và tin tưởng vào những thông tin do đơn
vị được kiểm toán cung cấp. Từ đó, các đơn vị được kiểm toán sẽ có nhiều thuận lợi trong


việc thực hiện và giải quyết các mối quan hệ kinh tế với các bên liên quan. Tuy nhiên, mức
độ thuận lợi còn tuỳ thuộc vào tình hình tài chính tốt hay xấu, lãi hay lỗ của doanh nghiệp

được kiểm toán. Mặt khác, nếu vi được kiểm toán cung cấp thông tin sai lệch thì báo cáo
kiểm toán sẽ chỉ rõ những sai phạm đó cho người sử ng thông tin. Do vậy, nó sẽ rất khó
khăn, bất lợi thậm chí không thể giải quyết được các mối quan hệ với các đối tác có liên
quan. Mặt khác, đứng ở góc độ của người sử dụng tin, báo cáo kiểm toán còn cung cấp thông
tin tin cậy giúp cho chính các đơn vị được kiểm toán đưa ra các quyết định đúng đắn để
quản lý và điều hành đơn vị hiệu quả.
Trường hợp phạm vi kiểm toán bị hạn chế mà Kiểm toán viên không thể vượt qua được,
thì Kiểm toán viên sẽ lập ra báo cáo kiểm toán chấp nhận từng phần (nếu phạm vị kiểm toán
bị hạn chế ở mức độ nhỏ) hoặc báo cáo kiểm toán dạng từ chối hay từ bỏ (nếu phạm vi kiểm
toán bị hạn chế ở mức độ lớn).
Câu 3: Nội dung cơ bản của báo cáo kiểm toán loại Từ chối? Tại sao khi phạm vi
kiểm toán bị giới hạn nghiêm trọng mà kiểm toán viên không thể khắc phục được,
kiểm toán viên sẽ đưa ra ý kiến nhận xét từ chối? Khi từ chối một hợp đồng kiểm toán,
kiểm toán viên có lập ra báo cáo kiểm toán từ chối không? Tại sao? Khi đã lập ra báo
cáo kiểm toán từ chối kiểm toán viên có thu phí kiểm toán ở Doanh nghiệp được kiểm
toán không tại sao?
Báo cáo kiểm toán từ chối là báo cáo kiểm toán mà kiểm toán viên từ chối (không thể)
đưa ra ý kiến nhận xétdo phạm vi kiểm toán bị hạn chế ở mức độ lớn mà k toán viên không
thể vượt qua hay không thể thu thập được đầy đủ bằng chứng kiểm toán ở mức độ lớn.
Khi phạm vi kiểm toán bị hạn chế ở mức độ lớn mà Kiểm toán viên không thể khắc phục
được do nguyên nhân khách quan như bị cháy tài liệu, mất mát tài liệu quá nhiều ... mà Kiểm
toán viên không thể phục hồi được. Với tình huống này, Kiểm toán viên vẫn phải thực hiện
kiểm toán, phải làm bằng mọi cách, với mọi phương pháp kỹ thuật và thủ tục có thể để thực
hiện kiểm toán nhưng vẫn không thể phục hồi, khắc phục hay không thể vượt qua được. Khi
đó, Kiểm toán viên không có bằng chứng để đưa ra nhận xét kết luận nhưng vẫn phải lập
báo cáo kiểm toán và ý kiến nhận xét kết luận trong trường hợp này là từ chối đưa ra ý kiến
nhận xét. Khi đó Kiểm toán viên vẫn thu phí kiểm toán vì báo cáo kiểm toán trong trường
hợp này vẫn được chấp nhận về mặt pháp lý.
Khi từ chối một hợp đồng kiểm toán thì Kiểm toán viên không lập ra báo cáo kiểm toán
và Kiểm toán viên không thực hiện kiểm toán thì không có cứ và cơ sở để kết luận. Và nếu

Kiểm toán viên có thì kết luận cũng không được thừa nhận.
Câu 4: Khi không thể thu thập được đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp, kiểm
toán viên có đưa ra những loại ý kiến nhận xét gì? Tại sao Kiểm toán viên có sự bất
đồng với nhà quản lý doanh nghiệp được kiểm toán về các khoản mục trên báo cáo tài
chính, Kiểm toán viên có thể đưa ra những ý kiến nhận xét loại nào trên báo cáo kiểm
toán? Giải thích ngắn gọn, lý do?
Trường hợp Kiểm toán viên không thể thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp
thì Kiểm toán viên sẽ lập ra báo cáo kiểm toán chấp nhận từng phần (nếu không thu thập
đầy đủ bằng chứng ở mức độ nhỏ) hoặc báo cáo kiểm toán dạng từ chối hay từ bỏ (nếu
không thu thập đầy đủ bằng chứng ở mức độ lớn). Tại vì, khi đó chính là phạm vị kiểm toán


bị hạn chế ở mức độ nhỏ hay lớn nên ý kiến nhận xét đưa ra phù hợp với phạm vi kiểm toán
bị hạn chế.
Kiểm toán viên có sự bất đồng với nhà quản lý doanh nghiệp được kiểm toán về các khoản
mục trên báo cáo tài chính Kiểm toán viên sẽ đưa ra ý kiến nhật xét chấp nhận từng phần
(nếu bất đồng nhỏ) hoặc ý kiến trái ngược (nếu bất đồng lớn). Vì nếu Kiểm toán viên có sự
bất đồng với một vài khoản mục ở mức độ nhỏ có nghĩa là đa số các khoản mục khác trên
báo cáo tài chính vẫn là trung thực khi đó Kiểm toán viên sẽ đưa ý kiến chấp nhận từng
phần. Nếu Kiểm toán viên có sự bất đồng lớn với đa số các khoản mục trên báo cáo tài chính
khi đó chỉ một vài khoản mục trên báo cáo tài chính là trung thực nhưng đa số các khoản
mục là không trung thực nên Kiểm toán viên kết luận báo cáo tài chính là không trung thực
hay đưa ra ý kiến nhận xét bất đồng.
Câu 5: Khi Kiểm toán viên yêu cầu Doanh nghiệp được kiểm toán sửa chữa sai phạm
đã được phát hi. trên báo cáo tài chính khi kiểm toán mà Doanh nghiệp, vẫn không
sửa thì kiểm toán viên có thể sẽ lập ra loại báo cáo kiểm toán nào? Tại sao?
Khi đó, Kiểm toán viên sẽ lập ra báo cáo kiểm toán chấp nhận từng phần nếu phần không
sửa chữa là nhỏ hoặc lập ra báo cáo kiểm toán trái ngược nếu phần không sửa chữa là lớn.
Vì khi đó nếu sai phạm không sửa chữa nhỏ tức là Kiểm toán viên có sự bất đồng nhỏ, nếu
sai phạm không sửa chữa lớn tức Kiểm toán viên có bất đồng lớn với nhà quản lý doanh

nghiệp được kiểm toán, khi đó báo cáo kiểm toán tương ứng sẽ được lập ra với sai phạm
không được sửa chữa này.

CHƯƠNG 4
GIAN LẬN VÀ SAI SÓT - TRỌNG YẾU VÀ RỦI RO
Câu 1. Thế nào là gian lận và sai sót? Những yếu tố ảnh hưởng đến gian lận và sai
sót? Vận dụng khái niệm này trong kiểm toán như thế nào?
Gian lận là những hành vi cố ý (có chủ ý) lừa dối, có liên quan đến việc biến thủ, giấu
diếm tài sản, xuyên tạc hoặc làm sai lệch thông tin trên báo cáo tài chính nhằm đem lại lợi
ích cho bản thân mình (người gây ra) hoặc gây hậu quả cho người khác.
Sai sót: là những lỗi hoặc sự nhầm lẫn không cố ý nhưng có ảnh hưởng đến báo cáo tài
chính.
Những yếu tố ảnh hưởng đến gian lận và sai sót:
- Những vấn đề liên quan đến tính chính trực, năng lực của ban giám đốc, như:
+ Công tác quản lý bị một người hay một nhóm nhỏ độc quyền nắm giữ, không có ban,
hội đồng giám sát độc lập, có hiệu lực.
+ Cơ cấu tổ chức của khách hàng phức tạp một cách cố ý và khó hiểu.
+ Những yếu kém của hệ thống kiểm soát nội bộ và thống kế toán thường bị bỏ qua hoặc
tỏ ra bất lực trong khi thực tiễn những yếu kém này hoàn toàn có thể khắc phục được


+ Có sự thay đổi thường xuyên về người làm công tác kế toán hoặc người có trách nhiệm
ở bộ phận tài chính kế toán.
+ Thiếu nhiều nhân viên trong phòng kế toán trong một thời gian dài.
+ Bố trí người làm kế toán không đúng chuyên môn hoặc người bị pháp luật nghiêm cấm.
+ Có sự thay đổi thường xuyên về chuyên gia tư vấn pháp luật hoặc kiểm toán viên.
- Các sức ép bất thường bên trong hoặc bên ngoài đơn vị tồn tại trong báo cáo tài chính,
như:
+ Ngành nghề kinh doanh gặp khó khăn và số đơn vị phá sản ngày càng tăng.
+Thiếu vốn kinh doanh do lỗ hoặc do mở rộng quy mô hoạt động của doanh nghiệp quá

nhanh.
+ Mức thu nhập bị giảm sút.
+ Doanh nghiệp cố ý hạch toán tăng lợi nhuận nhằm khuyếch trương hoạt động.
+ Đầu tư quá nhanh vào ngành nghề mới hoặc loại sản phẩm mới làm mất cân đối tài
chính.
+ Doanh nghiệp bị lệ thuộc quá nhiều vào một số sản phẩm hoặc một số khách hàng.
+ Sức ép về tài chính từ những nhà đầu tư hoặc cấp quản lý đơn vị
+ Sức ép đối với nhân viên kế toán phải hoàn tất báo cáo tài chính trong thời gian quá
ngắn.
- Các nghiệp vụ và sự kiện không bình thường, như:
+ Các nghiệp vụ đột xuất, đặc biệt xảy ra vào cuối niên độ kế toán có tác động đến doanh
thu, chi phí và kết quả.
+ Các nghiệp vụ hoặc phương pháp xử kế toán phức tạp:
+ Các nghiệp vụ với các bên hữu quan như mua đặt, bán rẻ hoặc quan hệ với những khách
hàng có nhiều tiêu cực, không minh bạch,...
+ Các khoản chi phí quá cao so với những dịch vụ được cung cấp.
- Những điểm khó khăn liên quan đến thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp:
+ Tài liệu kế toán không đầy đủ hoặc không được cung cấp kịp thời
+ Lưu trữ tài liệu không đầy đủ về các sự kiện và nghiệp vụ kinh tế
+ Có chênh lệch lớn giữa sổ kế toán của đơn vị với các nhận của bên thứ ba mâu thuẫn
giữa các bằng chứng kiểm toán, không giải thích được sự thay đổi của các chỉ số hoạt động.
+ Ban giám đốc từ chối cung cấp giải trình hoặc trình không thoả mãn yêu cầu của kiểm
toán viên.
- Những nhân tố từ môi trường tin học liên quan đến các tình huống và sự kiện nêu trên,
như:
+ Không lấy được thông tin từ máy vi tính,
+Có thay đổi trong chương trình vi tính nhưng không lưu tài liệu, không được phê duyệt
và không được kiểm tra,



+ Thông tin, tài liệu in từ máy vi tính không phù hợp với báo cáo tài chính. 1062
+ Các thông tin in ra từ máy vi tính mỗi lần lại khác nhau
Câu 2: Tại sao gian lận khó phát hiện hơn là sai sót? Trình tự xử lý gian lận, sai sót
khi kiểm toán viên phát hiện gian lận, sai sót trong quá trình kiểm toán?
Hành vi gian lận luôn là cố ý nên luôn luôn được chuẩn i một cách chặt chẽ, chu đáo, che
đậy tinh vi và luôn nảy Ghh khi có cơ hội và kẽ hở, nên gian lận luôn khó phát hiện hơn là
sai sót. Gian lận tồn tại một cách tiềm ẩn trong hoạt động kinh tế và báo cáo tài chính của
doanh nghiệp.
Trình tự xử lý gian lận, sai sót khi kiểm toả. phát hiện gian lận sai sót trong quá trình
kiểm toán?
+ Khi đã phát hiện ra gian lận sai sót, KTV phải đánh giá sự ảnh hưởng của gian lận, sai
sót đơn lẻ hay ảnh hưởng theo nhóm (tổng hợp lại) đến báo cáo tài chính.
+ Mọi gian lận sai sót quan trọng khi phát hiện trong quá trình kiểm toán đều phải được
trao đổi với giám đốc hoặc người đứng đầu đơn vị được kiểm toán để sửa đổi, điều chỉnh.
Những gian lận, sai sót quan trọng đã được phát hiện trong quá trình kiểm toán Sau khi tổng
hợp mà doanh nghiệp không điều chỉnh, Kiểm toán viên phải đánh giá những gian lận, sai
sót đơn lẻ và tổng hợp có ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính không để đưa ra ý kiến
nhận xét kết luận phù hợp?
+ Khi đã phát hiện gian lận, sai sót trọng yếu công việc tiếp theo của Kiểm toán viên là
phải thông báo và yêu cầu doanh nghiệp, đơn vị được kiểm toán sửa đổi, điều chỉnh theo ý
kiến của Kiểm toán viên.
Câu 3: Gian lận là những sai phạm trọng yếu, còn sai sót thì không phải, nói như
vậy đúng hay sai? Tại sao?
Nói gian lận là những sai phạm trọng yếu, còn sai sót thì không là sai. Vì mọi sai phạm
(gồm cả gian lận và sai sót) nếu về độ lớn (lớn đến mức độ nào đó) hoặc về bản chất, định
tính mà làm ảnh hưởng đến sự thay đổi ý kiến của người sử dụng thông tin kiểm toán thì
những gian lận và Sai sót đó đều là sai phạm trọng yếu không phân biệt đó là gian lận hay
sai sót.
Câu 4: Mục đích kiểm toán có phải là đi tìm gian lận sai sót không? Tại sao kiểm
toán viên phải nghiên cứu gian lận sai sót trong quá trình kiểm toán?

Mục đích kiểm toán không phải đi tìm kiếm gian lận, sai sót mà là xác minh độ tin cậy
hay tính trung thực của thông tin được kiểm toán. Nhưng để có được căn cứ kết luận về
thông tin được kiểm toán có trung thực, tin cậy hay không thì Kiểm toán viên phải xem
thông tin (báo cáo tài chính) được kiểm toán có chứa đựng những sai phạm (gian lận, sai sót
trọng yếu hay không, gian lận, sai sót đó có độ lớn đến mức độ nào, về bản chất có ảnh
hưởng đến sự thay đổi quyết định của người sử dụng thông tin được kiểm toán hay không.
Hay nói cách khác, phải thông qua việc tìm kiếm gian lận, sai sót và đánh giá sự ảnh hưởng
trọng yếu của những gian lận sai sót này đến báo cáo tài chính mới kết luận được độ tin cậy
của thông tin cần kiểm toán.
Câu 5: Vận dụng khái niệm gian lận, sai sót trong kiểm toán hay trách nhiệm của
Kiểm toán viên đối với gian lận sai sót trong quá trình kiểm toán?


Trách nhiệm của doanh nghiệp đối với gian lận và sai sót
- Phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời gian lận sai sót trong doanh nghiệp.
- Xây dựng, thiết kế và thực hiện một cách thường xuyên hiệu lực đối với hệ thống kế
toán và hệ thống kiểm soát nội bộ trong việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các hiện
tượng gian lận, sai sót.
-Tiếp thu và giải trình một cách kịp thời, đầy đủ về các hiện tượng gian lận, sai sót do
kiểm toán viên phát hiện và yêu cầu sửa chữa trong quá trình kiểm toán,
Trách nhiệm của kiểm toán viên đối với gian lận sai sót
- Kiểm toán viên không phải chịu trách nhiệm về những gian lận sai sót trong báo cáo tài
chính của doanh nghiệp trách nhiệm này thuộc về doanh nghiệp được kiểm toán).
- Kiểm toán viên chỉ chịu trách nhiệm tìm kiếm bằng chứng kiểm toán chứng minh báo
cáo tài chính không có gian lận sai sót trọng yếu hay có gian lận sai sót trọng yếu nhưng đã
được phát hiện hoặc đã phản ánh đầy đủ trong báo cáo tài chính hoặc đã được sửa chữa theo
ý kiến của Kiểm toán viên. Đồng thời kiểm toán viên phải chỉ ra được sự ảnh hưởng của
gian lận, sai sót đó đến báo cáo tài chính.
- Khâu: Lập kế hoạch kiểm toán:
+ Kiểm toán viên phải lập kế hoạch, xây dựng các thủ tục kiểm toán phù hợp để đảm bảo

rằng mọi gian lận, sai sót trọng yếu trong báo cáo tài chính đều được phát hiện.
+ Kiểm toán viên nghi ngờ có gian lận sai sót trọng yếu phải dự kiến các thủ tục kiểm
toán để phát hiện các gian lận, sai sót này nhằm chứng minh hay giải toả nghi ngờ.
- Khâu thực hiện kiểm toán:
+ Kiểm toán viên nghi ngờ có gian lận sai sót trọng yếu phải thực hiện các thủ tục kiểm
toán để chứng minh hoặc giải toả nghi ngờ.
+ Khi đã phát hiện ra gian lận sai sót, Kiểm toán viên phải đánh giá sự ảnh hưởng của
gian lận, sai sót đơn lẻ hay ảnh hưởng theo nhóm (tổng hợp lại) đến báo cáo tài chính.
+ Mọi gian lận sai sót quan trọng khi phát hiện trong quá trình kiểm toán đều phải được
trao đổi với giám đốc hoặc người đứng đầu đơn vị được kiểm toán để sửa đổi, điều chỉnh.
Những gian lận, sai sót quan trọng đã được phát hiện trong qúa trình kiểm toán Sau khi tổng
hợp mà doanh nghiệp không điều chỉnh, Kiểm toán viên phải đánh giá những gian lận, sai
sót đơn lẻ và tổng hợp có ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính không để đưa ra ý kiến
nhận xét kết luận phù hợp.
+ Khi đã phát hiện gian lận, sai sót trọng yếu công việc tiếp theo của Kiểm toán viên là
phải thông báo và yêu cầu doanh nghiệp, đơn vị được kiểm toán sửa đổi, điều chỉnh theo ý
kiến của Kiểm toán viên.
- Việc dự kiến hoặc thực hiện những thủ tục kiểm toán thích hợp để chứng minh hoặc giải
toả nghi ngờ về gian lận hoặc sai sót trong khâu lập kế hoạch hay thực hiện kiểm toán tuỳ
thuộc vào những gian lận sai sót được đánh giá có ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài
chính hay không?
Việc xem xét, đánh giá ảnh hưởng của gian lận, sai sót đến báo cáo tài chính có trọng yếu
hay không còn phải kết hợp với các bằng chứng khác đã thu được trong quá trình kiểm toán,


đặc biệt là độ tin cậy của các bản giải trình mà ban giám đốc, chủ doanh nghiệp kiểm toán
đã cung cấp, hành vi có cố tình che dấu sai phạm, sự giải trình tích cực cầu thị hay lảng
tránh, nguỵ biện, cùng với mối quan hệ giữa các sai phạm, cũng như việc sử dụng Nhân viên
kiểm soát có năng lực, liêm chính, phù hợp cùng các thủ tục kiểm soát cụ thể đang áp dụng
có hiệu quả, phù hợp hay không?

- Kiểm toán viên phải có trách nhiệm thông báo mọi gian lận sai sót được phát hiện trong
quá trình kiểm toán với lãnh đạo trực tiếp ở bộ phận gây ra sai phạm trong thời gian sớm
nhất trước khi phát hành báo cáo kiểm toán. Nếu sai phạm liên quan đến PGĐ phải báo cáo
với GĐ. Nếu sai phạm liên quan đến GĐ phải báo cáo với cấp trên. Nếu không có cấp trên,
với nguyên tắc bảo mật, Kiểm toán viên báo cáo với các cơ quan chức năng về những vấn
đề thuộc Trách nhiệm pháp lý và nghề nghiệp.
- Những sai phạm liên quan đến pháp luật, Kiểm toán Viên phải báo cáo với cơ quan pháp
luật có liên quan.
- Những sai phạm cần sửa chữa, Kiểm toán viên phải tư vấn cho doanh nghiệp được kiểm
toán để thực hiện sửa chữa.
- Những sai phạm còn lại không được doanh nghiệp sửa chữa Kiểm toán viên thông báo
cho người sử thông tin được kiểm toán thông qua việc lập báo kiểm toán và nêu ý kiến nhận
xét của mình trong báo cáo kiểm toán.
- Kiểm toán viên có quyền rút khỏi hợp đồng khi toán, khi chủ doanh nghiệp được kiểm
toán không có tin, thần hợp tác sửa chữa cũng như thừa nhận về những sai phạm được phát
hiện hay thông báo về những sai phạm này với những người có trách nhiệm hay cơ quan
chức năng trong quá trình kiểm toán. Việc rút khỏi hợp đồng kiểm toán Kiểm toán viên cần
tham khảo ý kiến chuyên gia pháp luật.
Câu 6. Thế nào là tính trọng yếu trong kiểm toán? Trọng yếu có phải là những khoản
mục cơ bản, chủ yếu, có số tiền lớn hay không? Đánh giá, xét đoán và vận dụng tính
trọng yếu trong kiểm toán như thế nào?
Khái niện trọng yếu: Trọng yếu trong kiểm toán là một khái niệm chỉ độ lớn, tầm cỡ, bản
chất của sai phạm (kể cả việc bỏ sót thông tin kinh tế tài chính) hoặc là đơn lẻ hoặc là từng
nhóm mà trong bối cảnh cụ thể, nếu dựa vào các thông tin này để xét đoán thì sẽ không
chính xác hoặc rút ra những kết luận sai lầm. Nói cách khác, trọng yếu là độ lớn, bản chất
của sai phạm mà có làm thay đổi quyết định của người sử dụng thông tin.
Trọng yếu không phải là những khoản mục cơ bản, chủ có số tiền lớn vì nó không ảnh
hưởng đến sự thay đổi quyết định của người sử dụng thông tin thì không phải là trọng yếu.
Xét đoán tính trọng yếu:
Trong thực tế, việc xét đoán tính trọng yếu là một vấn đề nhạy cảm, phụ thuộc rất nhiều

vào bản thân mỗi kiểm toán viên về tính chủ quan và khả năng xét đoán nghề nghiệp. Tuy
nhiên, khi xét đoán tính trọng yếu kiểm toán viên phải hiểu rằng:
- Tính trọng yếu là một khái niệm tương đối hơn là tuyệt đối.
Có nghĩa là tuỳ điều kiện cụ thể mà xét đoán sai phạm đó có thể là trọng yếu hay không
trọng yếu. Không có một công thức nào để kết luận sai phạm bao nhiêu hay ảnh hưởng như
thế nào sẽ là trọng yếu.


- Tính trọng yếu luôn phải được xem xét trên cả 2 mặt định lượng và định tính. Định
lượng có nghĩa là với mỗi điều kiện cụ thể, độ lớn của sai phạm có thể làm thay đổi ý kiến
của người sử dụng thông tin hoặc với làm ảnh hưởng đến quyết định của người sử dụng
thông tin trên báo cáo tài chính thì những sai phạm như vậy sẽ trở thành sai phạm trọng yếu.
- Tính trọng yếu luôn phải được xem xét trong mối quan hệ chặt chẽ giữa các sai phạm
về mặt định lượng với nhau. Không thể có một công thức nào đưa ra để xác đị. độ lớn trọng
yếu của một sai phạm, có khi với một độ lớn nhất định của một sai phạm, ở doanh nghiệp
này, trường hợp này là sai phạm không trọng yếu, nhưng ở doanh nghiệp khác hoặc trường
hợp khác lại là sai phạm trong yếu hoặc nếu xét đơn lẻ sai phạm đó không là trọng yếu
nhưng xét tổng hợp các sai phạm thì nó lại là trọng yếu và ngược lại.
+ Về mặt định tính của tính trọng yếu nói lên bản chất của sai phạm. Có những sai phạm
không phân biệt độ lớn nhưng vẫn coi là quan trọng để xét đoán tính trọng yếu thậm chí
được coi là trọng yếu như:
• Các sai phạm liên quan đến luật pháp, chính sách, chế độ và những quy định có tính
nguyên tắc.
• Sai phạm liên quan đến tính trung thực của nhà quản lý cấp cao.
• Sai phạm có tính chất gây hậu quả phản ứng dây chuyền.
• Sai phạm về lợi nhuận, thu nhập của doanh nghiệp.
• Sai phạm đã được chỉ ra nhưng không được sửa chữa kịp thời
v.v...
Việc vận dụng tính trọng vếu trong kiểm toán được thực hiện thông qua 5 bước được sắp
xếp theo trình tự sau đây:

Bước 1: Ước lượng sơ bộ ban đầu về tính trọng yếu.
Bước 2: Phân bổ ước lượng ban đầu về tính trọng yếu cho từng bộ phận, từng khoản mục.
Bước 3: Ước tính sai sót trong từng bộ phận.
Bước 4: Ước tính sai sót kết hợp của các bộ phận.
Bước 5: So sánh sai sót kết hợp ước tính với ước lượng ban đầu (hoặc đã điền chỉnh) về
tính trọng yếu để đưa ra kết luận.
Câu 7. Thế nào là rủi ro kiểm toán, rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát
hiện? Phân tích các yếu tố ảnh hưởng và chiều hướng ảnh hưởng của các yếu tố này
đến các loại rủi ro này?
Rủi ro kiểm toán là rủi ro (khả năng) mà kiểm toán viên đưa ra ý kiến nhận xét không
thích hợp khi báo cáo tài chính đã được kiểm toán vẫn còn có những sai sót trọng yếu.
a. Rủi ro tiềm tàng: là khả năng trong báo cáo tài chính chứa đựng những sai phạm trọng
yếu hoặc những điều không bình thường kể cả có hay không có hệ thống kiểm soát nội bộ.
Rủi ro tiềm tàng là rủi ro tiềm ẩn, vốn có do khả năng từng nghiệp vụ, từng khoản mục
trong báo cáo tài chính chứa đựng những sai sót trọng yếu khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp,
cho dù có hay không có hệ thống kiểm soát nội bộ.
Rủi ro tiềm tàng phụ thuộc vào:


+ Bản chất kinh doanh của khách hàng, như: công việc sản xuất kinh doanh, các loại sản
phẩm và dịch vụ doanh nghiệp tạo ra được cung cấp cho thị trường, các vấn tố tác động của
ngành nghề, môi trường kinh tế, địa điểm hoạt động, cơ cấu vốn, tính chất thời vụ, sự biến
động của thị trường mua và bán...nếu các vấn đề này càng phức tạp thì rủi ro tiềm tàng càng
cao và ngược lại.
+ Bản chất của các bộ phận, khoản mục được kiểm toán, như: các khoản mục khác nhau
trên báo cáo tài chính thì khả năng chứa đựng những sai phạm trọng yếu sẽ khác nhau, như
khoản mục hàng tồn kho có khả năng chứa đựng những sai phạm trọng yếu nhiều hơn là
khoản mục tiền mặt vì hàng tồn kho phải thông qua rất nhiều khâu tính toán, đánh giá, tính
nhất quán của phương pháp tính giá xuất kho, phương pháp lập dự phòng giảm giá...
Các nghiệp vụ, khoản mục cần phải có sự tư vấn, xác nhận của chuyên gia, hay các khoản

mục phản ánh về tài sản dễ mất trộm, phải kiểm kê thường xuyên về hiện vật, về quy trình
và thời gian bảo quản... kể cả tính chủ quan của hệ thống kế toán đối với từng loại nghiệp
vụ và từng khoản mục. Tính chất này ảnh hưởng rất lớn đến những sai phạm trọng yếu trên
báo cáo tài chính.
+ Bản chất hệ thống kế toán và thông tin trong đơn vị như mức độ, tính chất phức tạp,
phạm vi hay hiệu quả của hệ thống điện toán hay của các phương tiện, thiết bị thông tin tính
toán áp dụng trong doanh nghiệp. Hệ thống kế toán càng khoa học, rủi ro tiềm tàng càng
thấp và ngược lại. Phạm vi điện toán hóa càng cao, các phương tiện tính toán áp dụng càng
nhiều rủi ro tiềm tàng càng lớn và ngược lại.
Rủi ro tiềm tàng tồn tại khách quan nằm ngay trong doanh nghiệp, nó không phụ thuộc
vào công việc kiểm toán.
b. Rủi ro kiểm soát:
- Rủi ro kiểm soát là khả năng hệ thống kiểm soát nội bộ không phát hiện và ngăn chặn
được những gian lận sai sót trọng yếu trong báo cáo tài chính. Hay rủi ro kiểm soát là khả
năng xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo cáo tài chính
khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ không
ngăn ngừa hết hoặc không phát hiện và sửa chữa kịp thời.
Rủi ro kiểm soát phụ thuộc vào:
+Tính chất mới mẻ và phức tạp của các loại giao dịch. Các giao dịch càng mới và càng
phức tạp thì rủi ro kiểm soát càng cao và ngược lại.
+ Khối lượng và cường độ của giao dịch. Khối lượng giao dịch càng nhiều, cường độ giao
dịch càng lớn thì rủi ro kiểm soát càng cao và ngược lại.
+ Số lượng và chất lượng của hệ thống nhân lực tham gia kiểm soát trong doanh nghiệp.
Số lượng nhân lực càng nhiều, chất lượng nhân lực càng cao thì rủi ro khi càng thấp và
ngược lại.
+ Tính hiệu lực, hợp lý và hiệu quả của các thủ tu khi soát và trình tự kiểm soát trong
doanh nghiệp. Nếu có tục và trình tự các thủ tục kiểm soát càng hiệu quả th. ro kiểm soát
càng thấp và ngược lại.
+ Tính khoa học, thích hợp và hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ như: việc sắp xếp
phân công đúng người đúng việc, việc bố trí sử dụng một cách tối ưu các phương tiện, thiết



bị kết hợp với con người trong quá trình kiểm soát càng hiệu quả thì rủi ro kiểm soát càng
thấp và ngược lại.
c. Rủi ro phát hiện:
- Là khả năng Kiểm toán viên không phát hiện được các gian lận và sai sót trong yếu
trong quá trình kiểm toán. Hay rủi ro phát hiện là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng
nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà trong
quá trình kiểm toán, kiểm toán viên không phát hiện được.
Rủi ro phát hiện phụ thuộc vào:
+ Phạm vi kiểm toán: với tính hiệu quả, khoa học và trình độ kinh nghiệm của kiểm toán
viên là cố định, nếu phạm vi kiểm toán càng rộng thì khả năng phát hiện gian lận, sai sót
càng tăng lên tức là khả năng không phát hiện ra gian lận sai sót giảm đi có nghĩa là rủi ro
phát hiện giảm và ngược lại.
+ Phương pháp kiểm toán: Nếu phương pháp kiểm toán càng khoa học, chặt chẽ và hiệu
quả thì khả năng phát hiện các gian lận, sai sót tăng lên tức là những gian lận, sai sót không
phát hiện được sẽ giảm xuống có nghĩa là rủi ro phát hiện giảm và ngược lại.
+ Trình độ, kinh nghiệm và khả năng xét đoán nghề nghệp của kiểm toán viên. Nếu kiểm
toán viên có trình độ cao, nhiều kinh nghiệm và khả năng xét đoán nghề nghiệp tốt thì những
gian lận, sai sót trọng yếu dễ bị phát hiện, khả năng không phát hiện ra gian lận, sai sót sẽ
giảm tức rủi ro phát hiện sẽ giảm.
Câu 8. Trình bày mối quan hệ giữa các loại rủi ro trong kiểm toán? Nếu rủi ro tiềm
tàng và kiểm soát đều cao thì tại sao phải làm nhiều công việc kiểm toán? Có quan
điểm cho rằng bất kỳ một doanh nghiệp nào có rủi ro tiềm tàng và kiểm soát đều cao
thì chắc chắn rủi ro kiểm toán sẽ cao. Nói như vậy có đúng không tại sao?
Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát tồn tại độc lập nằm ngay trong hoạt động của đơn vị
được kiểm toán. Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát không phụ thuộc vào công việc kiểm
toán có tiến hành hay không. Còn rủi ro phát hiện hoàn toàn phụ thuộc vào công việc kiểm
toán. Có rủi ro phát hiện là có rủi ro kiểm toán, tuy nhiên, giữa mức độ của rủi ro phát hiện
xảy ra và mức độ của rủi ro kiểm toán là hoàn toàn không giống nhau, nó còn phụ thuộc vào

rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát theo công thức:
RRKT = RRTT x RRKS x RRPH
Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát quyết định đến khối lượng, quy mô, phạm vi chi phí,
biên chế và thời gian kiểm toán. Nếu rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát đều cao thì kiểm
toán viên phải dự kiến rủi ro phát hiện cần phải đạt được là thấp, có nghĩa là trong trường
hợp này kiểm toán viên phải làm nhiều công việc kiểm toán với quy mô rộng, khối lượng
công việc kiểm toán nhiều, chi phí kiểm toán lớn để phát hiện ra nhiều gian lận sai sót hay
những gian lận sai sót không được phát hiện là thấp tức rủi ro phát hiện thấp. Mức độ rủi ro
phát hiện được kiểm toán viên dự kiến luôn có quan hệ ngược chiều với mức độ rủi ro tiềm
tàng và rủi ro kiểm soát. Mối quan hệ này được minh họa thông qua ma trận như sau:
RRTT
RRKS

Cao

Trung bình

Thấp


Cao

Thấp nhất

Thấp

Trung bình

Trung bình


Thấp

Trung bình

Cao

Thấp

Trung bình

Cao

Cao nhất

Ma trận minh họa về mối quan hệ giữa các loại rủi ro do kiểm toán viên dự kiến thường
được thực hiện ngay trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán. Tuy nhiên, trong thực tiễn khi
thực hành kiểm toán, nếu kiểm toán viên có bằng chứng để điều chỉnh lại rủi ro tiềm tàng
và rủi ro kiểm soát thì rủi ro phát hiện cũng được kiểm toán viên điều chỉnh lại.
Quan điểm cho rằng bất kỳ một doanh nghiệp nào có rủi ro tiềm tàng và kiểm soát đều
cao thì chắc chắn rủi ro kiểm toán sẽ cao. Nói như vậy hoàn toàn sai. Tại vì: Rủi ro kiểm
toán còn phụ thuộc vào rủi ro phát hiện chứ không phải hoàn toàn chỉ phụ thuộc vào rủi ro
tiềm tàng và rủi ro kiểm soát. Nếu rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát đều cao mà kiểm toán
viên dự kiến và thực hiện kiểm toán với rủi ro phát hiện thấp thì rủi ro kiểm toán không cao
mà luôn nằm trong phạm vi an toàn chấp nhận được.
Câu 9. Trình bày mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro trong kiểm toán? Tại sao
những sai phạm trọng yếu có thể chấp nhận được càng tăng lên thì rủi ro kiêm toán
càng giảm đi?
Trong một cuộc kiểm toán, mức trọng yếu và rủi ro kiểm toán luôn có quan hệ chặt chẽ
với nhau, đó là mối quan hệ ngược chiều (tỉ lệ nghịch) tức là nếu mức trọng yếu có thể chấp
nhận được càng tăng lên thì rủi ro kiểm toán sẽ càng giảm xuống và ngược lại. Bởi vì, khi

mức sai sót trọng yếu có thể chấp nhận được càng cao hay nói cách khác những sai phạm
có thể được bỏ qua càng tăng lên. khả năng xảy ra rủi ro kiểm toán sẽ giảm xuống. Mối quan
hệ này có một ý nghĩa rất quan trọng đối với kiểm toán viên khi lập kế hoạch kiểm toán để
nhằm xác định về nội dung, phạm vi, thời gian (lịch trình) của các thủ tục kiểm toán cần áp
dụng. Chẳng hạn như khi lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên xác định mức trọng yếu
có thể chấp nhận được là thấp thì rủi ro kiểm toán sẽ tăng lên, khi đó để giảm rủi ro kiểm
toán, trường hợp này kiểm toán viên có thể:
a, Giảm mức độ rủi ro kiểm soát đã được đánh giá bằng cách mở rộng hoặc thực hiện
thêm thử nghiệm kiểm soát để chứng minh cho việc giảm rủi ro kiểm soát hoặc.
b, Giảm rủi ro phát hiện bằng cách sửa đổi lại nội dung, lịch trình và phạm vi của những
thủ tục kiểm tra chi tiết đã dự kiến.
Câu 10: Nêu các nhân tố ảnh hưởng và trình bày chiều hướng ảnh hưởng của từng
nhân tố đến rủi ro kiểm soát?
- Rủi ro kiểm soát là khả năng hệ thống kiểm soát nội bộ không phát hiện và ngăn chặn
được những gian lận sai sót trọng yếu trong báo cáo tài chính. Hay rủi ro kiểm soát là khả
năng xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo cáo tài chính
khi tính hoặc tính gộp mà hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ không ngăn ngừa
hết hoặc không phát hiện và sửa chữa kịp thời.
Rủi ro kiểm soát phụ thuộc vào:
- Tính chất mới mẻ và phức tạp của các loại giao dịch. Các giao dịch càng mới và càng
phức tạp thì rủi ro kiểm soát càng cao và ngược lại.


- Khối lượng và cường độ của giao dịch. Khối lượng giao dịch càng nhiều, cường độ giao
dịch càng lớn thì rủi ro kiểm soát càng cao và ngược lại.
- Số lượng và chất lượng của hệ thống nhân lực tham gia kiểm soát trong doanh nghiệp.
Số lượng nhân lực càng nhiều, chất lượng nhân lực càng cao thì rủi ro kiểm soát càng thấp
và ngược lại.
- Tính hiệu lực, hợp lý và hiệu quả của các thủ tụ kiểm soát và trình tự kiểm soát trong
doanh nghiệp. Nếu các thủ tục và trình tự các thủ tục kiểm soát càng hiệu quả thì rủi ro kiểm

soát càng thấp và ngược lại.
+ Tính khoa học, thích hợp và hiệu quả của hệ thông kiểm soát nội bộ như: việc sắp xếp
phân công đúng người đúng việc, việc bố trí sử dụng một cách tối ưu các phương tiện, thiết
bị kết hợp với con người trong quá trình kiểm soát càng hiệu quả thì rủi ro kiểm soát càng
thấp và ngược lại.
Câu 11: Mức độ rủi ro kiểm soát cao hay thấp ảnh hưởng như thế nào đến khối
lượng, phạm vi, thời gian và chi phí của cuộc kiểm toán báo cáo tài chính?
Mức độ rủi ro kiểm soát cao tức là hệ thống kiểm soát nội bộ yếu kém, khả năng phát
hiện, ngăn chặn gian lận, sai sót trong báo cáo tài chính là kém. Khi đó, báo cáo tài chính
chứa đựng nhiều gian lận, sai sót nên phải thực hiện kiểm toán với khối lượng lớn, thời gian
lâu, phạm vi rộng, chi phí nhiều. Ngược lại, rủi ro kiểm soát thấp tức hệ thống kiểm soát nội
bộ mạnh, khả năng phát hiện, ngăn chặn gian lận, sai sót trên báo cáo tài chính tốt, báo cáo
tài chính chứa đựng ít gian lận, sai sót nên Kiểm toán viên sẽ thực hiện kiểm toán với khối
lượng nhỏ, thời gian nhanh, phạm vi hẹp, chi phí ít.
Câu 12: Khái niệm trọng yếu và rủi ro kiểm toán? Khi kiểm toán viên nghi ngờ báo
cáo tài chính có sai phạm trọng yếu hay khi phát hiện các sai phạm trong yếu công việc
tiếp theo mà kiểm toán viên phải làm là gì? Cách thức kiểm toán viên thông báo đến
bên thứ 3 như thế nào?
Khái niệm trọng yếu: Trọng yếu trong kiểm toán là một khái niệm chỉ độ lớn, tầm cỡ, bản
chất của sai pham (kể cả việc bỏ sót thông tin kinh tế tài chính) hoặc là đơn lẻ hoặc là từng
nhóm mà trong bối cảnh cụ thể, nếu dựa các thông tin này để xét đoán thì sẽ không chính
xác rút ra những kết luận sai lầm. Nói cách khác, trọng yếu là độ lớn, bản chất của sại phạm
mà có làm thay đổi quyết định của người sử dụng thông tin.
Rủi ro kiểm toán là rủi ro (khả năng) mà kiểm toán viên đưa ra ý kiến nhận xét không
thích hợp khi báo cáo tài chính đã được kiểm toán vẫn còn có những sai sót trọng yếu.
Khi kiểm toán viên nghi ngờ báo cáo tài chính có sai phạm trọng yếu xảy ra hai trường
hợp:
- Nếu trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, Kiểm toán viên nghi ngờ báo cáo tài chính
có sai phạm trọng yếu thì Kiểm toán viên phải dự kiến các thủ tục kiểm toán để phát hiện
chứng minh hoặc giải toả nghi ngờ này khi bước vào giai đoạn thực hiện kiểm toán.

- Nếu trong giai đoạn thực hiện kiểm toán, Kiểm toán viên nghi ngờ báo cáo tài chính có
sai phạm trọng yếu, Kiểm toán viên phải thực hiện ngay các thủ tục kiểm toán để chứng
minh hoặc giải toả nghi ngờ.


Khi phát hiện các sai phạm trọng yếu, công việc tiếp theo của Kiểm toán viên là phải yêu
cầu doanh nghiệp sửa đổi, điều chỉnh theo yêu cầu của Kiểm toán viên (chỉ những sai phạm
điều chỉnh được). Những sai phạm liên quan đến pháp luật, với trách nhiệm pháp lý của
Kiểm toán viên phải báo cáo với cơ quan pháp luật có liên quan. Những sai phạm đã được
sửa đổi điều chỉnh theo yêu cầu của Kiêm toán viên sẽ được kiểm toán viên chấp nhận.
Những sai phạm không được sửa đổi, điều chỉnh sẽ được Kiểm toán viên đưa ra ý kiến nhận
xét phù hợp.
- Cách thức kiểm toán viên thông báo kết quả kiểm toán đến bên thứ 3 bằng cách Kiểm
toán viên sẽ lập báo cáo kiểm toán thể hiện những ý kiến nhận xét, kết luận của mình để bên
thứ 3 và các đối tượng sử dụng thông tin được biết.
Câu 13: Thế nào là rủi ro phát hiện? Tại sao trong khâu lập kế hoạch kiểm toán,
kiểm toán viên lại phải dự kiến về mức độ rủi ro phát hiện? Khi nào rủi ro phát hiện
chuyển thành rủi ro kiểm toán?
Rủi ro phát hiện là khả năng Kiểm toán viên không phát hiện được các sai phạm (gian
lận, sai sót) trọng yếu trong quá trình kiểm toán.
Trong khâu lập kế hoạch kiểm toán, Kiểm toán viên phải dự kiến về rủi ro phát hiện vì:
Để xác định độ tin cậy, trung thực của báo cáo tài chính, Kiểm toán viên phải dựa vào mức
độ sai phạm trọng yếu chấp nhận được trong kiểm toán hay rủi ro kiểm toán chấp nhận được.
Với mức độ rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát là khách quan tồn tại ngay trong doanh
nghiệp, trong đơn vị được kiểm toán mà Kiểm toán viên dự kiến, Kiểm toán viên phải dự
kiến về mức độ rủi ro phát hiện để thực hiện công việc kiểm toán phí đảm bảo rủi ro trong
kiểm toán chấp nhận được với lượng công việc kiểm toán phù hợp, phạm vi kiểm toán vừa
phải, chi phí kiểm toán tối ưu. Tránh được rủi ro khi toán và sự lãng phí về chi phí, công
sức kiểm toán.
Rủi ro phát hiện trở thành rủi ro kiểm toán khi:

- Cuộc kiểm toán thực tế xảy ra và.
- Kiểm toán viên đưa ra ý kiến không thích hợp về báo cáo tài chính khi báo cáo tài chính
còn chứa đựng sai phạm trọng yếu.
Rủi ro phát hiện phải được kết hợp với rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát của doanh
nghiệp, đơn vị được kiểm toán (rủi ro kiểm toán = rủi ro tiềm tàng X rủi ro kiểm soát X rủi
ro phát hiện).
Câu 14: Căn cứ vào đâu để phân biệt được đâu là hành vi gian lận, đâu là hành vi
sai sót?
Gian lận và sai sót đều là sai phạm. Để phân biệt được Kiểm toán viên phải dựa vào:
- Tính chất của sai phạm: Sai phạm thường xuyên, nhiều lần, cố tình hay ngẫu nhiên.
Nhiều lần hay một lần. Đã được phát hiện và sửa chữa lần nào chưa? Sự tái diễn của sai
phạm có hay không?
- Sự thành khẩn và cầu thị của người gây ra: Tích cực tiếp thu, sửa chữa kịp thời hay cố
tình bào chữa, nguy biện, bao che, không chịu tiếp thu sửa chữa.


- Những sai sót thường được người gây ra tiếp thu tích cực, sửa chữa kịp thời với tinh
thần cầu thị và không tái diễn. Những gian lận thường là sự cố tình, hay tái phạm, cách bào
chữa và hoạt động rất tinh vi.
Câu 15: Thế nào là rủi ro kiểm soát? Rủi ro kiểm soát có phụ thuộc vào công việc
kiểm toán không? Tại sao?
Rủi ro kiểm soát là khả năng hay rủi ro mà hệ thống kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp
được kiểm toán không phát hiện và ngăn chặn được các gian lận, sai sót trọng yếu trong báo
cáo tài chính.
Rủi ro kiểm soát không phụ thuộc vào công việc kiểm toán. Rủi ro kiểm soát luôn tồn tại
khách quan ngay trong doanh nghiệp, đơn vị được kiểm toán. Dù hệ thống kiểm soát nội bộ
có mạnh, hiệu quả đến đầu những rủi ro kiểm soát là không tránh khỏi do những hạn chế cố
hữu của hệ thống kiểm soát nội bộ.
Câu 16: Gian lận và sai sót đều có thể là sai phạm trọng yếu đúng hay sai? Tại sao?
Gian lận và sai sót đều có thể là sai phạm trọng yếu là đúng. Vì khi gian lận và sai sót xét

cả về định lượng và định tính chúng làm thay đổi quyết định của người sử dụng thông tin
được kiểm toán sẽ là trọng yếu.
Câu 17: Gian lận thường là những sai phạm trọng yếu còn sai sót thì không. Nói như
vậy đúng hay sai tại sao?
Nói gian lận thường là những sai phạm trọng yếu còn sai sót thì không là hoàn toàn sai.
Vì mọi gian lân và sai sót xét về mặt định lượng (độ lớn) và định tính (bản chất) khi làm
thay đổi ý kiến của người sử dụng thông tin sẽ trở thành sai phạm trọng yếu.
Câu 18: Nếu trình tự những công việc kiểm toán viên phải làm khi nghi ngờ báo cáo
tài chính có gian lận sai sót? Khi Kiểm toán viên phát hiện được gian lận, sai sót trong
báo cáo tài chính?
Khi Kiểm toán viên nghi ngờ báo cáo tài chính có gian lận, sai sót:
- Đối với khâu lập kế hoạch kiểm toán: Khi Kiểm toán viên nghi ngờ báo cáo tài chính
có gian lận, sai sót, Kiểm toán viên phải dự kiến các thủ tục kiểm toán cần thiết để phát hiện
các gian lận, sai sót này nhằm chứng minh hoặc giải toả nghi ngờ.
- Đối với khâu thực hiện kiểm toán: Khi thực hiện kiểm toán, Kiểm toán viên nghi ngờ
báo cáo tài chính có gian lận, sai sót, thì phải thực hiện ngay các thủ tục kiểm toán để tìm
bằng chứng chứng minh hoặc giải toả nghi ngờ.
- Khi Kiểm toán viên đã phát hiện được các gian lận, sai sót trong báo cáo tài chính công
việc thứ nhất là Kiểm toán viên phải đánh giá ảnh hưởng của gian lận, sai sót đến báo cáo
tài chính. Nếu gian lận sai sót trọng yếu Kiểm toán viên phải báo cáo với chủ doanh nghiệp
được kiểm toán và yêu cầu sửa đổi điều chỉnh theo ý kiến của Kiểm toán viên. Nếu không
trọng yếu Kiểm toán viên phải đánh giá sự ảnh hưởng tổng hợp hay tính gộp đối với các
gian lận, sai sót khác đã được phát hiện để xem có ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài
chính không? Về mặt lý thuyết, Kiểm toán viên chỉ yêu cầu doanh nghiệp sửa đổi những
gian lận, sai sót ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính nhưng về mặt thực tế, mọi gian
lận sai sót khi được phát hiện (kể cả ảnh hưởng trọng yếu hay không trọng yếu) Kiểm toán
viên vẫn phải yêu cầu chủ doanh nghiệp sửa đổi để luôn đảm bảo mọi gian lận, sai sót được



×