Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

SKKN: Sử dụng hệ thống câu hỏi phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong giờ học văn bản Ngữ văn 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.93 KB, 26 trang )

PHẦN THỨ NHẤT: MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Hoạt động dạy học ở bậc phổ thông tập trung ở hai khâu lớn: Thiết kế bài
học (giáo án) và lên lớp (biến giáo án thành hoạt động dạy- học). Đối với người
giáo viên Ngữ văn THCS, cái cần nhất trong hai khâu ấy để hình thành giáo án và
bài học Văn chính là hệ thống câu hỏi hướng dẫn học sinh chiếm lĩnh lấy văn bản
nghệ thuật. Chưa có hệ thống câu hỏi ứng với văn bản nghệ thuật và phù hợp với
yêu cầu tích hợp coi như chưa có chất liệu chính để làm giáo án Văn, cũng có
nghĩa là chưa có nguyên liệu để tạo thành việc làm cho hoạt động dạy học trên lớp.
Đáp ứng mục Đọc - hiểu văn bản - một yêu cầu nội dung lớn trong cấu trúc tổng
thể một bài học tích hợp. Đối với người giáo viên nói chung, người giáo viên Ngữ
văn nói riêng nếu chưa ý thức được vai trò của hệ thống câu hỏi trong hoạt động
dạy văn bản nghệ thuật thì không thể có một bài học trên lớp thành công.
Những điều đó xác nhận vai trò quan trọng của phương pháp dạy học bằng hệ
thống câu hỏi trong tư cách hành nghề của người giáo viên nói chung, cũng như giáo
viên Ngữ văn đứng lớp hôm nay. Với phân môn Văn học cần làm sao cho học sinh
biết chủ động tiếp cận tác phẩm theo hướng đọc -> suy ngẫm -> liên tưởng. Muốn
vậy giáo viên phải thiết kế được hệ thống câu hỏi khả thi để có thể phát huy tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Qua nhiều năm giảng dạy môn Ngữ văn THCS,
tôi luôn suy nghĩ, trăn trở và tìm tòi phương pháp nào ưu việt trong việc thiết kế bài
dạy thành công, để học sinh yêu thích và tiếp thu tích cực có hiệu quả môn Ngữ văn.
Qua quá trình vận dụng thực tế, cùng với việc trao đổi với bạn bè đồng nghiệp, tôi
mạnh dạn đưa ra một số kinh nghiệm của mình về việc: "Sử dụng hệ thống câu hỏi
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong giờ học văn bản Ngữ
văn 9"
2. Mục đích nghiên cứu
Đổi mới về phương pháp dạy học là một trong những yêu cầu cấp thiết của
ngành giáo dục, nhằm đưa chất lượng dạy và học ngày một nâng cao hơn.
Mà mục đích quan trọng của đổi mới phương pháp dạy học chính là nhằm
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Như chúng ta vần thường
nói, văn học thường mang tính trừu tượng, lan man, không nhiều tính rõ ràng, cụ


thể như những môn học khác, mà đặc biệt trong giờ học văn bản, để học sinh tiếp
xúc, làm quen, hiểu và cảm nhận rồi rút ra được những điều mà người nghệ sĩ
muốn gửi gắm qua tác phẩm của mình thì rất cần đến việc người giáo viên phải sử


dụng đến hệ thống câu hỏi phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
Và khi đó giờ học văn bản sẽ không còn khô khan, trừu tượng, khó hiểu nữa. Học
sinh sẽ hứng thú hơn, hiểu bài nhanh hơn và giờ học đó chắc chắn sẽ đạt được kết
quả tốt.
Giờ học để đạt được hiệu quả cao thì rất cần đến tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của học sinh, đặc biệt là trong giờ học văn.
Vậy nên khi vận dụng sáng kiến kinh nghiệm này vào quá trình dạy học, tôi
rất mong muốn mỗi giờ dạy văn và học văn sẽ là những giờ học đầy lý thú và bổ
ích và luôn luôn hấp dẫn với học sinh.
3. §èi tîng ph¹m vi nghiªn cøu.
- Nghiªn cøu lý luËn vÒ ph¬ng ph¸p"Sử dụng hệ thống câu hỏi phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong giờ học văn bản Ngữ văn
9" ¸p dông ph¬ng ph¸p nµy vµo mét sè tiÕt d¹y cô thÓ.
4. Giới hạn, phạm vi nội dung nghiên cứu.
Trong chương trình Ngữ văn trước đây, bộ môn này được tách thành ba
phân môn: Văn - Tiếng Việt - Tập làm văn. Giáo viên hầu như chỉ xây dưng hệ
thống câu hỏi làm thế nào để bài giảng của mình phát huy tính tích cực của học
sinh mà chưa phân loại rõ ràng từng loại câu hỏi và sắp xếp chúng một cách có hệ
thống. Cho nên việc sử dụng hệ thống câu hỏi sao cho phát huy được tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của học sinh trong một giờ học văn bản của môn Ngữ văn vẫn
còn là điều khó khăn với nhiều giáo viên. Vì thế việc xây dựng và sử dụng hệ
thống câu hỏi phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh vẫn luôn là
vấn đề được nhiều giáo viên giảng dạy môn Ngữ văn quan tâm.
Và những văn bản được dạy ở phân môn văn đều được lấy làm ngữ liệu để
phân tích, tìm hiểu rút ra kiến thức cơ bản của phân môn tiếng Việt và tập làm văn.

Trường tôi là một trường học thuộc vùng cao. Trình độ nhận thức của học sinh thì
còn rất nhiều hạn chế và đó là một vấn đề hết sức khó khăn cho việc dạy văn của
giáo viên và học văn của học sinh. Đặc biệt là trong các giờ học văn bản, làm thế
nào để học sinh làm quen, tiếp xúc với văn bản, với các tác giả, rút ra được những
điều mà mỗi nhà văn, nhà thơ muốn gửi gắm qua tác phẩm của mình lại là một vấn
đề vô cùng khó khăn. Các văn bản được đưa vào trong chương trình Ngữ văn 9
thường rất dài và mức độ kiến thức lại là cao nhất, khó nhất trong bậc học THCS.
Học sinh vùng cao thường thiếu tính năng động, sáng tạo, tích cực mà đa phần các
em rất nhút nhát, hay ỷ lại, trông chờ vào bạn khác. Trong các giờ học văn các em
nhìn chung đều rất thụ động tiếp thu kiến thức từ người thầy. Vậy nên việc sử dụng


h thng cõu hi phỏt huy tớnh tớch cc, ch ng, sỏng to ca hc sinh li cng
cn thit hn.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Từ việc tìm hiểu cơ lý luận của "S dng h thng cõu hi phỏt huy
tớnh tớch cc, ch ng, sỏng to ca hc sinh trong gi hc vn bn Ng vn 9",
để thực nghiệm áp dụng vào một số tiết dạy cụ thể.
6. Phơng pháp nghiên cứu.
a. Phơng pháp nghiên cứu lý thuyết:
Đọc sách và các tài liệu liên quan đến phơng pháp hợp tác
nhóm làm cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu phần thực trạng.
b. Phơng pháp quan sát.
Thông qua việc dự giờ môn Ngữ văn để thu thập thông tin
cần thiết.
c.Phơng pháp điều tra.
Điều tra cơ bản để nhằm tìm hiểu mức độ nhận thức của
học sinh và hứng thú học tập môn Ngữ văn của học sinh làm
cơ sở để thực nghiệm đề tài.
d. Phơng pháp trao đổi đàm thoại.

Trao đổi với các giáo viên dạy môn Ngữ văn để tìm hiểu
vic"S dng h thng cõu hi phỏt huy tớnh tớch cc, ch ng, sỏng to ca hc
sinh trong gi hc vn bn Ng vn 9" đồng thời qua đó học hỏi kinh
nghiệm trong việc áp dụng để tổ chức các hoạt động dạy học.
e. Phơng pháp thực nghiệm.
Thực nghiệm áp dụng h thng cõu hi vào một số tiết dạy học
cụ thể.
f. Phơng pháp thống kê toàn học.
Thống kê lại kết quả điều tra cũng nh kết quả thực nghiệm
qua đó rút ra nhận xét.
7. Thi gian nghiờn cu
V xut phỏt t thc t trờn, tụi ó mnh dn vn dng sỏng kin kinh
nghim: "S dng h thng cõu hi phỏt huy tớnh tớch cc, ch ng, sỏng to
ca hc sinh trong gi hc vn bn Ng vn 9 " t nm hc 2012 cho n nay v
cng ó t c mt s kt qu kh quan nh: hc sinh hng thỳ hn vi mi gi
hc vn bn. Giỏo viờn t c mc ớch ó ra. Cht lng hc tp ca hc
sinh ó cú s chuyn bin rừ rng, t l hc sinh khỏ gii tng hn, t l hc sinh
yu kộm gim hn so vi khi cha ỏp dng sỏng kin.


PHẦN THỨ HAI: NỘI DUNG

Chương I. Cơ sở lý luận của đề tài
1- Làm thế nào để thiết kế các loại câu hỏi và hệ thống câu hỏi cho thật
khả thi.
1.1 Lấy lí luận dạy học hiện đại làm định hướng thiết kế hệ thống câu hỏi.
Sự thay đổi căn bản quan niệm về vai trò của người học và người dạy so với
lí luận dạy học cổ truyền là tư tưởng nổi bật có tính cách mạng của lí luận dạy học
hiện đại. Dạy học hướng vào học sinh, lấy học sinh làm trung tâm, thầy là người tổ
chức hướng dẫn... tư tưởng ấy thấm nhuần và nhất quán trong tư duy dạy học của

nhà sư phạm bậc thầy. Tack giả Phan Trọng Luân trong khi khẳng định tính thời
đại của tư duy dạy học cuối thế kỉ XX đã dẫn lời Bộ trưởng Giáo dục Pháp về xu
thế: "Đặt người học vào trung tâm của quá trình dạy học "Tác giả Trần Bá Hoành
sau khi nhấn mạnh: "Trong quá trình dạy học lấy học sinh làm trung tâm, toàn bộ
quá trình dạy học hướng vào nhu cầu, khả năng, lợi ích của học sinh " đã nêu
chuẩn mới của người giáo viên giỏi không còn là năng lực giảng bài mà là năng
lực phát triển trí sáng tạo của học sinh: " Ngày nay, người giáo viên phải là người
biết giúp đỡ học sinh tiến bộ nhanh trên con đường phát triển năng lực tự
học...Quyền của giáo viên không còn dựa trên sự thụ động, dốt nát của học sinh
mà dựa trên năng lực của giáo viên góp phần vào sự phát triển tột đỉnh của học
sinh thông qua sự tham gia tích cực của chúng ".
Tư tưởng dạy học hiện đại làm xuất hiện cấu trúc mới của một bài học. Điều
này đã được Giáo sư Hồ Ngọc Đại trình bày một cách thuyết phục trong cuốn "
Bài học là gì ? " được Nhà xuất bản Giáo dục ấn hành năm 1985, năm tiến hành
cải cách giáo dục đến bậc THCS. Mô hình "thầy thiết kế bài học - trò thi công” từ
đó dần trở nên gần gũi đối với tư duy dạy học của các giáo viên.
Tư tưởng dạy học hiện đại một lần nữa được các tác giả của chương trình mới
và sách giáo khoa tích hợp quán triệt, khi đề cao ý nghĩa của phương pháp chữ tích
là tích cực "Phải phát huy tối đa tính tích cực, tính sáng tạo của học sinh, chủ thể
học tập".
Từ đây chúng ta nhận thức rằng không thể có một hình thức dạy học nào
được gọi là mới, là tích cực nếu nó đưa hoạt động trượt khỏi quỹ đạo của tư tưởng


dạy học hiện đại. Dạy học bằng hệ thống câu hỏi sẽ chỉ là một biện pháp, một giải
pháp sư phạm tích cực khi nó được thiết kế theo tư tưởng hiện đại của lí luận dạy
học. Xét trên đơn vị một bài học Văn thì hệ thống câu hỏi là một biện pháp dạy học
tác phẩm văn chương có khả năng cụ thể hoá tốt nhất cho mô hình công nghệ dạy
học hiện đại: Thầy thiết kế (sáng tạo câu hỏi), trò thi công (sáng tạo cách trả lời).
1.2 Thiết kế hệ thống câu hỏi dựa trên thành tựu của tâm lí học hiện đại.

Chức năng của học là chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng " Muốn người học có kết
quả, người học phải tích cực tiến hành các hoạt động học tập bằng nỗ lực của
chính mình, nhờ đó tâm lí được thay đổi, phát triển dần dần tự hoàn thiện nhân
cách. Trong nhà trường, hoạt động học không diễn ra tự phát, tuỳ tiện mà được
điều khiển một cách có ý thức của người dạy ".
Ở đây, tâm lí học đã nhìn nhận bản chất của hoạt động dạy học. Nếu hoạt động
dạy học diễn ra nhịp nhàng, hô ứng ở cả hai phía dạy và học nhằm cải biến đối tượng,
thì hệ thống câu hỏi sẽ là giải pháp sư phạm tích cực cho hoạt động này. Một bài học
Văn, hệ thống câu hỏi sẽ là biện pháp dạy học có khả năng thoả mãn cả hai hoạt động
của một quá trình dạy học: vừa là phương tiện hoạt động dạy của thầy (làm giáo án
bằng hệ thống câu hỏi, tổ chức dạy học trên lớp bằng hệ thống câu hỏi) lại vừa là cách
hoạt động chủ yếu của trò nhằm tự mình chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng bài học. Đó là lí
do cho một cách học văn mới, lấy hệ thống câu hỏi làm nòng cốt cho hoạt động dạy
học có cấu trúc song hành, hô ứng trong hoạt động của cả hai chủ thể trong một bài
học.
1.3. Lấy hệ thống các loại câu hỏi: Phát hiện, nêu vấn đề, cảm thụ, phân
tích, bình, khái quát… làm công cụ thiết kế hệ thống câu hỏi.
Trong một bài giảng Văn, để có thể thấy cái hay, cái đẹp của từng tác phẩm,
giáo viên phải sử dụng đa dạng, linh hoạt các loại câu hỏi để tránh đơn điệu, nhàm
chán. Có sử dụng đa dạng, linh hoạt các loại câu hỏi có câu hỏi dễ ( dành cho học
sinh trung bình yếu ) như câu hỏi phát hiện, phân tích nêu vấn đề và các loại câu
hỏi khó ( dành cho học sinh khá và giỏi ) gồm các loại câu hỏi cảm thụ, phân tích,
khái quát...có sử dụng đa dạng các loại câu hỏi dành cho nhiều đối tượng mới phát
huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh và giờ học mới đạt hiệu
quả cao.
1.4. Lấy yêu cầu của bài học phần Văn làm mục đích thiết kế hệ thống câu
hỏi.
Bản chất của hoạt động dạy học là giúp học sinh " lĩnh hội nền văn hoá xã
hội, phát triển tâm lí, hình thành nhân cách " bản chất của hoạt động học là " chiếm



lĩnh tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, hướng vào làm thay đổi chính mình ". Các chỉ dẫn trên
của tâm lí dạy học đã quy định một bài học trước hết phải xác định đúng các yêu cầu
sư phạm. Ở dạng khái quát, một bài học Ngữ văn cần phải đạt được ba yêu cầu giáo
dục: Yêu cầu về kiến thức, kĩ năng và thái độ. Các yêu cầu trên được cụ thể hoá
trong mỗi bài học là mục tiêu thực hiện mà hoạt động dạy học cần phải đạt tới để tạo
thành các hiệu quả sư phạm. Chỗ khác nhau trong phương pháp truyền thống so với
phương pháp hiện đại không phải ở sự thay đổi khái niệm "mục đích yêu cầu " hay
"yêu cầu", " điểm cần đạt được" hay "kết quả cần đạt " mà ở cái cách dạy học đạt
tới: một đằng người dạy tìm cách đạt tới các yêu cầu bài học chủ yếu bằng nỗ lực
soạn giảng của chính bản thân mình, còn một đằng người dạy tìm cách tổ chức cho
người học tự tiến tới yêu cầu của bài học. Trong số các giải pháp sư phạm nhằm đạt
tới yêu cầu bài học văn phải kể đến hệ thống câu hỏi cảm thụ, phân tích tác phẩm.
Một hệ thống câu hỏi giúp học sinh chiếm lĩnh đúng các giá trị tác phẩm (kiến thức)
rèn luyện cách đọc và phân tích tương ứng đối với tác phẩm (kĩ năng) đồng thời
khơi dạy ở họ tình cảm đạo đức trong sáng, cao quý khi học tác phẩm (thái độ) đó sẽ
là một hệ thống câu hỏi có hiệu quả dạy học tích cực. Xa rời các yêu cầu bài học hệ
thống câu hỏi sẽ thừa thãi, chông chênh thậm chí là vô nghĩa và vận hành một hệ
thống câu hỏi như thế thật lãng phí biết bao.
1.5. Thiết kế hệ thống câu hỏi cho bài học phần Văn còn phải thể hiện
được quan điểm thực hành và tích hợp của chương trình Ngữ văn mới.
Chương trình THCS môn Ngữ văn của Bộ Giáo dục và Đào tạo nhấn mạnh
tinh thần đổi mới trên hai quan điểm: thực hành và tích hợp. Trọng tâm của việc
rèn kĩ năng Ngữ văn cho học sinh là làm cho học sinh có kĩ năng sơ giản về phân
tích tác phẩm văn học, lúc đầu có năng lực cảm nhận và bình giá văn học. Phương
pháp dạy học truyền thống chấp nhận lối học một chiều: thầy nói - trò nghe, thầy
đọc - trò ghi chép. Theo quan điểm hiện đại thì nói chưa phải là dạy học. Dạy học
là khơi dạy hoạt động bên trong của người học. Nghe và ghi một cách thụ động lời
thầy giảng rồi sao chép lại trong một bài làm văn cũng chưa phải là năng lực thực
hành đích thực của người học. Lấy văn băn nghệ thuật là nội dung dạy học chủ

yếu, môn Văn trong hệ thống Ngữ văn có nhiều cơ hội để khơi dạy không chỉ năng
lực thực hành, cảm thụ, phân tích, bình giá văn học mà còn có thể rèn luyện các kĩ
năng nghe, nói và viết. Dạy văn theo quan điểm thực hành trước hết là tìm cách đặt
người học vào vị thế phải tự làm việc để tiến tới tác phẩm. Trong các hình thức,
việc làm mà người dạy học tạo ra cho người học có hệ thống câu hỏi cảm thụ, phân
tích tác phẩm. Và khi hoạt động dạy học diễn ra trên chính hệ thống câu hỏi thì


người học đã thể hiện một cách tích cực kỹ năng phân tích, bình giá văn học.
Nhưng ngay cả các kĩ năng thực hành khác như nghe, nói,viết vốn thuộc về các
phần tiếng Việt và Tập làm văn cũng xa lạ với phần Văn, nếu phần Văn được dạy
học bằng hệ thống câu hỏi. Đặt câu hỏi chính xác, trúng và hay rèn luyện cách
nghe và nói của người học. Trực tiếp trả lời câu hỏi là người học không chỉ tập
trung tư duy mà tập cả cách trình bày ý tưởng của mình, từ đó năng lực diễn đạt
bằng lời nói được rèn luyện. Như thế dạy học bằng câu hỏi tỏ ra phù hợp với yêu
cầu của chương trình Ngữ văn mới. Kĩ năng viết là nhiệm vụ chủ yếu của phần
Tập làm văn, nhưng ngay ở phần Văn học cũng có thể tạo cơ hội cho việc rèn
luyện kĩ năng này.
Lấy quan điểm tích hợp làm theo nguyên tắc chỉ đạo chương trình và
phương pháp dạy học sách giáo khoa Ngữ văn đã cố gắng tìm ra sự đồng quy của
ba phân môn: Văn, Tiếng Việt, Tập làm văn. Vấn đề đặt ra là chương trình tích hợp
của sách Ngữ văn trung học cơ sở có quan hệ thế nào đối với các phương pháp dạy
học phần Văn và có chi phối như thế nào đối với hệ thống câu hỏi như một công
cụ dạy học tích cực của phần Văn. Vì thế hệ thống câu hỏi không chỉ phục vụ cho
lợi ích của việc cảm thụ văn chương mà còn bao gồm các lợi ích gần hoặc xa của
việc học phần tiếng Việt và Tập làm văn ở bậc học này. Tinh thần này được quán
triệt trong cách làm sách giáo khoa Ngữ văn tích hợp ở sự gia tăng việc chú thích
từ ngữ trong văn bản ở một số câu hỏi khai thác các kiểu cấu trúc văn bản có liên
quan gần hay xa đến kiến thức văn bản của phần Tập làm văn và các kiến thức
khác của phần tiếng Việt. Chẳng hạn khi dạy phân môn Văn ta có thể tích hợp các

câu hỏi sau :
H: Truyện được kể theo lời của nhân vật nào, thuộc ngôi thứ mấy ?
H: Hãy tìm một số câu văn trong truyện có sử dụng phép so sánh và chỉ ra tác
dụng của những phép so sánh ấy ?
Đó chính là các nguyên tắc để giáo viên Ngữ văn nói chung và giáo viên
Ngữ văn lớp 9 nói riêng làm cơ sở để thiết kế các loại câu hỏi và hệ thống câu hỏi
sao cho phù hợp để bài dạy đạt kết quả tối ưu.


2. Các loại câu hỏi và hệ thống câu hỏi trong giờ học Văn:
2.1. Câu hỏi nêu vấn đề
Đây là dạng câu hỏi nhằm phát huy tính tích cực, khả năng tổng hợp của học
sinh.
Câu hỏi này thường là câu hỏi chuyển từ phần nọ sang phần kia, đoạn này
sang đoạn khác, ý nọ sang ý kia.
Chẳng hạn trong bài "Con cò"- Chế Lan Viên, khi dạy văn bản này giáo viên
có thể sử dụng một số câu hỏi nêu vấn đề như sau:
H: Cò đã trở thành người bạn thân thiết theo bé vào giấc ngủ. Cò còn đồng hành
với em ở thời điểm nào ?
H: Vậy trong giấc ngủ của con, hình ảnh nào lại hiện lên trong đoạn thơ thứ 3 ?
2.2 Câu hỏi phát hiện chi tiết
Đây là dạng câu hỏi yêu cầu học sinh phát hiện các chi tiết có sẵn trong văn
bản theo yêu cầu của giáo viên (câu hỏi đọc trên dòng). Loại câu hỏi này thường
để dùng cho học sinh có lực học trung bình, yếu. Chẳng hạn khi dạy bài "Con cò"Chế Lan Viên, giáo viên có thể sử dụng một số câu hỏi:
H: Vậy biểu tượng cách cò theo em vào giấc ngủ được thể hiện qua những lời thơ
nào ?
H: Tìm những câu thơ chứng tỏ Cò có quan hệ bạn bè với em bé ?
H: Tác giả đã sử dụng những biện pháp nghệ thuật gì khi viết những dòng thơ này ?
2.3 Câu hỏi phân tích, bình
Đây là dạng câu hỏi yêu cầu học sinh phân tích các chi tiết đã phát hiện

đựơc cũng như tác dụng của các biện pháp nghệ thuật đó. Sau khi đã phân tích chi
tiết, giáo viên dùng hệ thống các loại câu hỏi để giúp học sinh bình các chi tiết và
việc tác giả sử dụng các biện pháp nghệ thuật đó.
Ví dụ :
H: Em hãy nêu tác dụng của biện pháp nghệ thuật ?
H: Cảm nhận của em về các câu thơ này ?
H: Em có cảm nhận như thế nào về hai câu thơ:
"Con dù lớn vẫn là con của mẹ
Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con"
2.4 Câu hỏi đánh giá, khái quát
Đây là dạng câu hỏi nhằm phát huy tính tích cực, khả năng khái quát hoá
vấn đề cho học sinh. Dạng câu hỏi này thường được giáo viên sử dụng để tổng kết
từng đoạn, từng nội dung. Chẳng hạn:


H: Em thấy đó là một quan hệ như thế nào ?
H: Vậy đoạn thơ thứ II, hình ảnh con cò mang ý nghĩa biểu tượng gì ?
H: Em cảm nhận như thế nào về ý nghĩa của lời ru thứ III ?
2.5 Câu hỏi liên tưởng, tưởng tượng:
Đây là loại câu hỏi nhằm phát huy trí tưởng tượng, liên tưởng, sáng tạo của
học sinh, kích thích khả năng tưởng tượng, sáng tạo của người học.
Ví dụ: Khi dạy bài "Con cò" - Chế Lan Viên, giáo viên có thể sử dụng một
số câu hỏi như:
H: Qua hình ảnh “con cò” em liên tưởng tới số phận của người nào trong xã hội
phong kiến xưa ?
H: Tác giả đã đề cập đến vấn đề lời ru trong thời hiện đại này có ý nghĩa như thế
nào ?
Trên đây là hệ thống các loại câu hỏi trong một giờ Ngữ văn nói chung và
giờ phân môn Văn nói riêng. Trong giờ học môn Ngữ văn cũng như tất cả các môn
học khác. Vấn đề có vai trò hết sức quan trọng, quyết định chất lượng giờ giảng dạy

của người giáo viên đó chính là xác lập được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
học sinh. Do đó hệ thống câu hỏi đối với các môn học nói chung cũng như môn Ngữ
văn nói riêng, đặc biệt trong giờ học Văn thì hệ thống các loại câu hỏi phải đa dạng,
phong phú, phù hợp với mọi đối tượng. Có câu hỏi dễ dành cho học sinh trung bình,
yếu nhưng cũng có câu hỏi khó, cần sự sáng tạo của học sinh dành cho học sinh khá,
giỏi. Trong các loại hệ thống câu hỏi trên chúng ta có thể khá quát, thu gọn vào 2
dạng chính: Dạng câu hỏi tái hiện (phát hiện chi tiết) và dạng câu hỏi sáng tạo (câu
hỏi nêu vấn đề, phân tích, bình, đánh giá, khái quát, liên tưởng, tưởng tượng) nhằm
huy động tối đa năng lực, hiểu văn bản của người học.
Nếu hệ thống câu hỏi này của thiết kế này khả thi thì chúng ta có thể thiết kế
câu hỏi cho bài học phần Văn tương đối khác so với câu hỏi trong sách giáo khoa
theo nguyên tắc kế thừa và phát triển. Trong đổi mới sách giáo khoa là chuẩn song
không phải duy nhất và độc nhất. Các tài liệu tham khảo cho sách giáo khoa có thể
cần thiết và phải đa dạng, phong phú hơn nhiều.

Chương II. Thực trạng của đề tài
1. Tình hình thực tế trong việc dạy học thông qua các loại câu hỏi và hệ


thống câu hỏi trong giờ học Văn hiện nay ở Trường THCS.
Thực tế, trong việc dạy học Văn nhìn chung các giáo viên đã thiết kế được
một hệ thống câu hỏi khá đa dạng, phong phú, bao gồm các loại câu hỏi: Nêu vấn
đề, phát hiện chi tiết, phân tích chi tiết, bình chi tiết, khái quát, nâng cao, liên
tưởng tưởng tượng. Tuy nhiên qua việc giảng dạy của tôi và việc dự giờ thăm lớp
của tôi với một số giáo viên thì việc sắp xếp các loại câu hỏi đôi khi còn chưa hợp
lí, chưa theo một hệ thống nhất định.
Ví dụ: Khi phát hiện chi tiết xong, giáo viên phải cho học sinh tìm biện
pháp nghệ thuật, thông qua biện pháp nghệ thuật mà toát nên nội dung. Nhưng qua
việc giảng dạy của tôi cũng như việc dự giờ thăm lớp của tôi đôi khi lại không chú
ý đến trình tự đó. Mà sau khi phát hiện chi tiết -> nội dung -> nghệ thuật, như vậy

là chưa hợp lí.
Chẳng hạn trong bài thơ “Con cò "- Chế Lan Viên khi khai thác hình tượng
con cò trong đoạn II.
H: Vậy biểu tượng cánh cò theo em vào trong giấc ngủ được thể hiện qua những lời
thơ nào ?
H: Qua những lời thơ này, em thấy cò có quan hệ như thế nào với em bé ?
H: Để nói nên mối quan hệ đó, tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật gì. Tác dụng
của nó ?
Hay khi khai thác hình ảnh con cò trong đoạn thơ thứ III.
H: Biểu tượng cuộc đời trong cánh cò còn được diễn tả qua những lời thơ nào ?
H: Từ cánh cò và câu hát thành cuộc đời vỗ cánh qua lôi. Liên tưởng này, gợi cho
em cảm nghĩ gì ?
H: Biện pháp nghệ thuật khi viết lời thơ này ?
Hoặc đôi khi trong quá trình giảng dạy lại đi ngược với hệ thống câu hỏi
như giáo viên đưa câu hỏi đánh giá khái quát nên trước dạng câu hỏi phân tích,
bình. Mà theo hệ thống câu hỏi thì câu hỏi phân tích, bình phải đứng trước câu hỏi
khái quát.
Ví dụ: Trong bài Con cò:
H: Hình ảnh con cò trong đoạn thơ thứ II mang ý nghĩa biểu tượng gì.
H: Em cảm nhận như thế nào về hai câu thơ:
" Mai khôn lớn con theo cò đi học
Cánh trắng cò lại bay hoài không nghỉ”
Hoặc theo hệ thống câu hỏi thì câu hỏi nêu vấn đề phải được đặt trước câu
hỏi phát hiện chi tiết, nhưng trong quá trình giảng dạy của bản thân cũng như qua


một số tiết dự giờ thăm lớp của tôi với một số giáo viên khác thì đôi khi do không
để ý nên đi ngược lại trình từ trên, đưa câu hỏi phát hiện chi tiết nên trước câu hỏi
nêu vấn đề.
Ví dụ: Trong bài Con cò - Chế Lan Viên khi khai thác hình ảnh con cò trong

đoạn thơ thứ III.
H: Vậy biểu tượng con cò trong đoạn thơ thứ III là gì ?
H: Trong giấc ngủ của con hình ảnh nào lại tái hiện lên trong đoạn thơ này ?
Chính vì những lí do trên, mà trong quá trình giảng dạy của tôi cũng như
thông qua việc dự giờ thăm lớp của tôi với một số giáo viên khác việc thiết kế một
hệ thống câu hỏi phù hợp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học
sinh là một vấn đề quan trọng, cần thiết của giáo viên các môn học nói chung và
giáo viên môn Ngữ văn nói riêng, đặc biệt là giáo viên giảng dạy môn Ngữ văn lớp
9.
2. Nhiệm vụ cần giải quyết:
- Thiết kế và sử dụng hệ thống câu hỏi phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của học sinh trong giờ học văn bản Ngữ văn 9.
- Áp dụng vào một bài dạy học văn bản Ngữ Văn lớp 9.
- Khảo sát qua số liệu cụ thể.

Chương III. Giải quyết vấn đề.
1. Để giải quyết vấn đề tôi đã thực hiện các biện pháp sau:
- Thiết kế và sử dụng hệ thống câu hỏi phát huy tính tích cực, chủ động,


sỏng to ca hc sinh trong gi hc vn bn Ng vn 9.
- p dng vo mt bi dy hc vn bn Ng Vn lp 9 c th.
- Kho sỏt qua s liu c th.
- Thng kờ tng loi cõu hi c s dng trong bi ging
1.1. p dng vo thc t.
Tụi ó s dng h thng cõu hi phỏt huy tớnh tớch cc, ch ng, sỏng to
ca hc sinh vo thc t ging dy vn bn: "on thuyn ỏnh cỏ"- Huy Cn
trong chng trỡnh Ng vn lp 9 ( tp 1 ).
Ngữ văn : Tiết 50 - Bài 11
Văn bản :


Đoàn thuyền đánh cá
Huy Cn

I . Mc tiờu
* Mức độ cần đạt
- Thấy đợc nguồn cảm hứng dạt dào của tác giả trong bài thơ viết
về cuộc sống của ngời lao động trên biển cả những năm đầu
xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Thấy đợc những nét nghệ thuật nổi bật về hình ảnh, bút pháp
nghệ thuật, ngôn ngữ trong một sáng tác của nhà thơ thuộc thế
hệ trởng thành trong phong trào thơ mới.
- Học sinh biết yêu quí ngời dân lao động, biết bảo vệ môi trờng biển.
* Trọng tâm kiến thức, kĩ năng
1. Kiến thức
- HS có những hiểu biết bớc đầu về tác giả Huy Cận và hoàn cảnh
ra đời của bài thơ.
- Những xúc cảm của nhà thơ trớc biển cả rộng lớn và cuộc sống
lao động của ng dân trên biển.
- Nghệ thuật ẩn dụ, phóng đại, cách tạo dựng những hình ảnh
tráng lệ, lãng mạn.
2. Kĩ năng
- Rèn kĩ năng đọc - hiểu một tác phẩm thơ hiện đại. Phân tích
đợc một số chi tiết nghệ thuật tiêu biểu trong bài thơ.
- Cảm nhận đợc cảm hứng về thiên nhiên và cuộc sống lao động


của tác giả đợc đề cập đến trong tác phẩm.
II. Các kĩ năng sống cơ bản đợc giáo dục trong bài.
III. Đồ dùng dạy học

- Giáo viên: T liệu về tác giả, tác phẩm.
- Học sinh: Đọc trớc bài thơ và trả lời câu hỏi SGK
IV. Phơng pháp
- Vấn đáp, nêu và giải quyết vấn đề, động não, giảng bình/KTDH: động não
V. Tổ chức giờ học
1. ổn định tổ chức(1p)
2. Kiểm tra đầu giờ (2 phút )
- Giáo viên treo bảng phụ, học sinh lên bảng làm.
H: Nối nội dung cột A với cột B sao cho phù hợp
A
1. Cảnh đoàn thuyền đánh cá

Ni
1-

B
a. Khổ thơ thứ 3,4,5,6

lên đờng

2-

b. Khổ thơ thứ 7

2. Cảnh đoàn thuyền đánh cá

3-

c. Khổ thơ thứ 1,2


trên biển
3. Cảnh đoàn thuyền đánh
cá trở về
- Học sinh nhận xét

- Giáo viên nhận xét, cha
3. Tổ chức các hoạt động dạy học.(40p)
HĐ 1: Khởi động (1p)
ở tiết trớc, cô cùng các em đã tìm hiểu xong cảnh đoàn
thuyền đánh cá lên đờng và tâm trạng háo hức phấn khởi của ng
dân vùng biển. Vậy các khổ thơ còn lại cú giá trị nghệ thuật và
nội dung nh thế nào. Tiết này cô cùng các em sẽ tìm hiểu tiếp.

H 2: Hng dn HS tỡm hiu vn bn III. Tỡm hiu vn bn
- HS c 4 kh th tip:
2. 2 Bn kh th tip
H: 4 kh th em va c cú ni dung
gỡ ?


( cảnh đánh cá một đêm trên vịnh Hạ
Long).
H: Cảnh đoàn thuyền ra khơi được gợi
tả qua những chi tiết nào ?
- HS phát hiện chi tiết, trả lời
H: Trong thực tế các em có thấy hình
ảnh này không ( không ) -> đây là hình
ảnh do tác giả tưởng tượng ra ?
H: Em có nhận xét gì về vịêc sử dụng từ
loại, hình ảnh, nhịp thơ trong khổ thơ

này?
H: Vịêc sử dụng động từ, nghệ thuật
phóng đại, hình ảnh tráng lệ, nhịp thơ
hối hả có tác dụng gì trong việc thể hiện
mối quan hệ giữa thiên nhiên và con
người ?
GV phân tích, bình: Thuyền ra khơi có
gió làm lái, có trăng làm thuyền phóng
như bay với một tốc độ phi thường đến
ngư trường để "dò bụng biển", ngư dân
khẩn trương lao động vào công vịêc
"dàn đan thế trận lưới vây giăng". Giữa
cái vất vả vẫn sáng lên tình yêu lao
động, niềm tin vào sức mạnh của con
người. Con người làm chủ thiên nhiên,
dung hoà trong thiên nhiên. Hình ảnh
con thuyền nhỏ bé giữa biển khơi nhưng
nhờ có bàn tay, sức mạnh con người đã
trở nên lớn lao kì vĩ cùng thiên nhiên và
sự khéo léo cuả người lao động trong
quá trình chinh phục biển khơi. Hình
ảnh "dò bụng biển", "lưới vây giăng "
cho thấy trước khi ra khơi những ngư
dân vùng biển đã đến thăm dò khám
phá nguồn tài nguyên biển. "Dàn đan

+ Thuyền: “lái gió, lướt mây cao, biển
bằng, dò bụng biển, lưới vây giăng...”

- Sử dụng động từ, phóng đại, hình ảnh

tráng lệ, nhịp thơ hối hả
-> mối quan hệ hài hoà giữa thiên nhiên và
con người, con người ngang tầm với vũ trụ,
làm chủ thiên nhiên.


thế trận lưới vây giăng " cho thấy cuộc
đánh cá thực sự như một trận đánh đã
được bài binh bố trận một cách rất tỉ mỉ,
cẩn thận với chiến lược, chiến thuật rất
thành thục.
- GV: Như vậy ở khổ 3, các em đã thấy
được mối quan hệ hài hoà giữa thiên
nhiên và con người, con người làm chủ
thiên nhiên, ngang tầm thiên nhiên. Vậy
sự giàu có của biển cả được thể hiện + Cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song.
như thế nào chúng ta sang khổ thơ thứ
“Cá nhụ, cá chim cùng cá đé
4.
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
H: Trong khổ thơ thứ 4 em thấy hình
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”
ảnh những loài cá nào xuất hiện ? Và
được thể hiện rõ qua các câu thơ nào ?
H: Vậy em hiểu gì về các loài cá này ?
- Học sinh dựa vào chú thích SGK trả
lời
- Giáo viên giải thích thêm: Cá nhụ còn
gọi là cá lụ, lận, là loài cá thon dài, dẹt,
mình dày, khoảng 25 cm đến 30 cm, thịt

ngon và lành. Cá chim thân thon dài,
chiều cao gấp 3, 4 lần chiều cao thân.
Đêm chúng thường nổi lên từng đàn cho
đến rạng đông. Cá song thuộc loài cá
với nhiều chủng loại (còn gọi là cá mú).
Màu sắc rực rỡ, da sẫm có vằn đỏ như
lửa.
H: Có gì đặc sắc về nghệ thuật trong - Liệt kê, nhân hoá
khổ thơ này ? Tác dụng?
-> Khẳng định sự giàu có của biển cả
đẹp như một bức tranh sơn mài, qua đó
cho thấy tình cảm yêu quý sản vật thiên
nhiên của nhà thơ.
- GV: ở đoạn thơ thứ 2, tác giả đã khẳng
định sự giàu có của biển cả song trong


đoạn thơ này sự giàu có của biển cả lại
rõ hơn với nhiều loài cá hơn. Biển không
chỉ giàu về tài nguyên mà còn là một
bức tranh đẹp, lộng lẫy với đủ màu sắc"
lấp lánh đuốc đen hồng , trăng - vàng
choé". Những chiếc đuôi cá vẫy nước
làm ánh trăng lấp lánh và dường như đó
cũng chính là tình cảm của những ngư
dân, của tác giả dành cho biển khi gọi cá
là "em". Thuỷ triều lên xuống tạo thành
hơi thở của biển đêm, đốm sao bóng trên
mặt nước cũng nâng lên hạ xuống một
cách kì ảo làm cho cảnh lao động của

ngư dân thi vị hơn. Biển giàu có là vậy,
đẹp là vậy song tâm trạng của ngư dân ra
sao. Chúng ta sang khổ thơ thứ 5
- HS chú ý vào khổ thơ thứ 5
H: Trong khổ thơ này từ ngữ nào diễn +
“Ta hát bài ca gọi cá vào”
tả tâm trạng của người lao động trên - Khúc hát tráng ca, say mê, hào hứng
biển ? Qua đó cho thấy tâm trạng gì của trong lao động của người dân vùng biển.
người lao động trên biển ?
H: Trong bài thơ có nhiều từ “hát” vậy
những khúc hát ấy thể hiện tâm trạng gì
của người lao động ?
- GV bình: Sung sướng nhìn đàn cá đến
"dệt lưới", những người dân chài cất lên
tiếng hát ngọt ngào. Lần thứ 2 tiếng hát
vang lên trên biển và dường như với
người dân chài cá đã quá thân thiết đối
với họ và dường như cá đã quen với
giọng nói, hơi thở, tiếng hát, tiếng gõ
thuyền.
H: So với khổ 1 thì ở khổ thơ này em
thấy thời gian đã có sự thay đổi chưa ?
(thay đổi rồi)


H: Vậy nếu có sự thay đổi thì thay đổi
như thế nào và sự thay đổi đó có tác
dụng gì ? (khổ 1- hoàng hôn xuống, khổ 5trăng lên cao ).
H: Hình ảnh "gõ thuyền đã có nhịp
trăng cao" em hiểu như thế nào. Trong

thực tế có hình ảnh này không ? Qua
đó, em thấy tác giả là người như thế nào
?
- GV: Như vậy khổ 1 là hoàng hôn
xuống "đêm sập cửa" báo hiệu trời đã
tối hoàn toàn. Ở khổ thơ này đã có sự
chuyển biến về thời gian: trăng đã lên
cao, trăng sáng và thời gian dường như
cũng đồng hành cùng những ngư dân
biển "trăng cao". Khi màn đêm buông
xuống mọi vật đã chìm sâu vào giấc ngủ
thì những ngư dân lại bắt đầu một ngày
lao động mới. Như vậy lúc này đã có sự
đối lập: cảnh vật yên tĩnh - con người
thì hoạt động, đó chính là điểm mới của
con người lao động xã hội chủ nghĩa và
cũng chính là niềm tin của tác giả vào
những con người lao động mới.
H: Có gì đặc sắc về nghệ thuật trong
hai câu thơ cuối ?
H: Với biện pháp nghệ thuật đó toát lên
nội dung gì ?
- GV: '' Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào"
Biển bao la rộng lớn, biển hào phóng
cho nhân dân nhiều tôm cá, muối và hải
sản. Biển bao dung ưu đãi con người.
Ví biển như lòng mẹ để nói lên lòng tự
hào của người dân chài đối với biển.


+
“Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao”
- Tưởng tượng
-> Tác giả là người yêu thiên nhiên, tin
tưởng vào những con người lao động mới.

+ “Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”
- So sánh, nhân hoá
-> Sự hào phóng của biển, lòng tự hào
của người dân chài.


Như các em đã biết tình yêu của mẹ bao
la, rộng lớn và dường như không có
ngôn từ nào có thể diễn tả hết tình yêu
của mẹ và ở đây tác giả so sánh biển
như lòng mẹ dường như lúc nào biển
cũng ưu ái với con người, luôn che chở,
luôn ôm ấp trong lòng. Biển không chỉ
cho ta những hải sản quý mà dường như
biển còn là người nuôi nấng nâng đỡ
người dân chài qua bao thế hệ, thế hệ
này nối tiếp thế hệ kia. Người dân biển
từ khi sinh ra đã gắn bó với biểnvà cứ
thế họ lớn lên với sự chứng kiến của
người mẹ thứ hai đó là biển. Sự hào
phóng của biển là vậy, lòng tự hào của
người dân chài đối với biển là vậy song
sau một đêm lao động vất vả thành quả

thu được của họ là gì chúng ta sang khổ
thơ thứ 6.
- Ở khổ thơ này so với khổ 5 các em
thấy có sự chuyển biến về thời gian.
Nếu ở khổ thơ thứ 5 là trăng lên cao thì
ở khổ thơ này trời đã gần sáng.
H: Em hiểu câu thơ "Sao mờ kéo lưới
kịp trời sáng" như thế nào ?
H: Vậy sau một đêm lao động thành
quả của ngư dân được gợi tả qua những
chi tiết hình ảnh nào ?
H: Có gì đặc sắc trong cách viết này ?
H: Em hiểu "kéo xoăn tay" là như thế
nào ? Và trong câu thơ này, tác giả đã sử
dụng những biện pháp nghệ thuật gì ?
H: Qua đó em thấy hình ảnh người lao
động hiện lên ra sao ?
H: Hình ảnh ''chùm cá nặng " giúp em

+
“Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng”
- Động từ, hình ảnh ẩn dụ.
-> Thái độ lạc quan tin tưởng vào thành
quả lao động.


hiểu gì về thành quả của ngư dân sau
một đêm lao động vất vả ?
H: Qua những hình ảnh này, em thấy
thái độ nào của ngư dân cũng như thái

độ nào của nhà thơ được bộc lộ ?
- GV: nếu như ở các đoạn thơ trước, tác
giả đơn thuần chỉ là tưởng tượng thì ở
khổ thơ này đó là những hình ảnh rất
chân thực về những con người lao động,
về những hoạt động của con người.
- Với dân chài khi làm việc "kéo xoăn
tay" đó là những con người khoẻ mạnh,
vạm vỡ, cơ bắp nổi cuồn cuộn, những
cánh tay rắn chắc và cơ man nào là cá
mắc vào lưới như những chùm quả treo
lủng lẳng. Sau một đêm lao động các
khoang thuyền đầy ắp cá. Vàng và bạc
là hai kim loại rất quý mà ở đây tác giả
viết "vẩy bạc - đuôi vàng "-> tài
nguyên biển ngoài sự giàu có còn quý
như vàng bạc. Chữ "loé" thật hay vừa
gợi ánh bình minh đang đến vừa gợi sự
nhảy nhót của đàn cá trong lưới cho
thấy gam màu rực rỡ, lộng lẫy.
H: Qua việc phân tích 4 khổ thơ này giúp
em hiểu thêm khát vọng gì của người lao
động ?
- GV: Mong muốn của người lao động
cũng chính là mong muốn của nhà thơ
cảm hứng lãng mạn về cuộc sống mới
trong thời miền Bắc bước vào thời kì
xây dựng chủ nghĩa xã hội và cũng
chính là cảm hứng vũ trụ của tác giả.
Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về như

thế nào chúng ta sang khổ thơ thứ 7.

=> Khát vọng chinh phục biển khơi, con
người hoà hợp với thiên nhiên, làm chủ
thiên nhiên, làm chủ cuộc sống.

2.3 Khổ thơ thứ 7


+ “Câu hát căng buồm cùng gió khơi
H: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”
được mô tả qua những chi tiết nào ?
- Nhịp sống hối hả, con người làm chủ
- HS phát hiện chi tiết từ văn bản trả lời cuộc sống.
H: Qua hai câu thơ này, em hiểu gì về
nhịp sống của người dân biển, thiên
nhiên, con người ?
- GV: Lại một lần nữa ngư dân trên biển
lại cất cao tiếng hát: Tiếng hát thắng lợi
hân hoan. Câu hát đưa thuyền đi nay lại
đưa thuyền về. Nhưng với tư thế mới:
chạy đua cùng mặt trời. Con thuyền nhỏ
bé trước biển khơi nhưng với bàn tay
sức mạnh của con người đã "chạy đua
cùng mặt trời". Đoàn thuyền phóng như
bay, như cướp lấy thời gian và trong
cuộc chạy đua này con người đã chiến
thắng, con người đã về đích trước ->
nâng cao vị thế, tầm vóc của con người

ngang tầm với thiên nhiên, với vũ trụ.
+ “mặt trời (1) - hòn lửa” -> hoàng hôn
H: Em hãy so sánh hình ảnh mặt trời ở xuống
khổ thơ thứ nhất với hình ảnh mặt trời ở + “mặt trời (7) - màu mới” -> bình minh
khổ thơ thứ 7, rút ra nhận xét ?
lên
- GV: Mặt trời vừa đội biển mà lên đem -> thành quả của người lao động.
màu đỏ sáng cho đất trời thì đoàn
thuyền đã về bến từ lâu, cá đã dỡ xuống
phơi dài muôn dặm, ánh nắng ban mai
làm cho thành quả lao động thêm rực
rỡ, huy hoàng, lại diễn ra trong sự hoà
hợp nhịp nhàng giữa con người lao
động với vũ trụ. Câu thơ "Mặt trời đội
biển nhô màu mới" miêu tả chính xác
chuyển động của mặt trời, từ từ, ánh
sáng nhô lên, mặt trời ló rạng. Mặt trời
nhô lên kết thúc một đêm lao động hô


ứng với "Mặt trời xuống biển như hòn
lửa" ở đầu bài thơ.
H: Qua việc phân tích bài thơ, em có
nhận xét gì về cảm xúc, cách nhìn của tác
giả với công việc lao động và người lao
động trong công cuộc xây dựng xã hội
chủ nghĩa ?

=> Cảm xúc mãnh liệt, lạc quan, tin
tưởng vào công cuộc xây dựng xã hội

chủ nghĩa, con người luôn làm chủ thiên
nhiên, niềm phấn chấn tự hào cao độ
trước vẻ đẹp cuộc sống nơi biển cả.

- GV: Như vậy qua thơ Huy Cận,
chúng ta như được sống trong những
đêm trăng đẹp trên Vịnh Hạ Long ta tự
hào về đất nước ta có hơn 3000 cây số
bờ biển, biển ta giàu có, bao tiềm năng
dồi dào hải sản. Cảnh đánh cá trên biển
miêu tả với cảm hứng lãng mạn. Lao
động thật sự là niềm vui. Trong xã hội
ta, cái đáng quý nhất là lao động, người
đáng quý nhất là người lao động. Hình
ảnh người dân chài trong bài thơ là hiện
thân của sức sống cần lao. Họ cần cù,
dũng cảm, chịu khó. Cuộc đời của họ đã
gắn với sóng gió, mưa nắng biển khơi,
khai thác nhiều hải sản. Chính họ đã
đem lại muối mặn và hương vị biển cho
mọi gia đình gần xa, bữa cơm trở nên
đậm đà với con tôm, con cá. Cùng với
nhà nông "một nắng hai sương" những
người dân chài đã cho ta bài học về đức
tính cần cù, tinh thần lạc quan trong lao
động.
H§ 3: HD tæng kÕt rót ra ghi IV. Ghi nhớ:
nhí
1. Nghệ thuật:
H: Cho biÕt gi¸ trÞ nghÖ thuËt, - Thể thơ thất ngôn trường thiên

néi dung cña bµi th¬ ?
- Hình ảnh thơ vừa thực, vừa ảo


- Giáo viên chia lớp làm 4 nhóm:
+ Nhóm 1, nhóm 3: nghệ thuật
+ Nhóm 2, nhóm 4: nội dung
- Gọi đại diện nhóm trình bày, nhóm
khác nhận xét, bổ sung
- GV nhận xét, chốt kiến thức trên bảng
phụ

H§ 4: Hướng dẫn HS luyện tập

- Âm hưởng khoẻ khoắn, sôi nổi
- Các biện pháp nghệ thuật sử dụng một
cách linh hoạt
2. Nội dung:
- Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá đã khắc
hoạ nhiều hình ảnh đẹp, tráng lệ, thể hiện
sự hài hoà giữa thiên nhiên và con người
lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào
của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống
V. Luyện tập:
Học thuộc lòng các khổ thơ 3,4,5

- GV hướng dẫn cách học
- HS về nhà làm
4. Củng cố:
H: Qua bài học hôm nay, em hãy kể thêm những điều em biết về Hạ Long ?

HS suy nghĩ, trả lời – GV nhận xét, điều chỉnh, khái quát kiến thức của bài
5. Hướng dẫn học ở nhà:
- Học thuộc lòng bài thơ. Nắm các nội dung đã phân tích. Làm bài tập phần luyện tập
- Soạn bài: Bếp lửa (Bằng Việt)
+ Đọc bài thơ, tìm hiểu những nét chính về tác giả, tác phẩm
+ Chia bố cục, trả lời câu hỏi phần đọc – hiểu văn bản.

1. 2. Khảo sát các loại câu hỏi trong bài giảng trên:
- Tổng số câu hỏi: 29 câu
- Câu hỏi nêu vấn đề: 3/29
- Câu hỏi phát hiện chi tiết: 14/29
- Câu hỏi phân tích, bình: 6/29
- Câu hỏi khái quát, đánh giá: 4/29
- Câu hỏi liên tưởng, tưởng tượng: 2/29
Đó chính là các loại câu hỏi và hệ thống câu hỏi trong một bài giảng văn, phân môn


văn thuộc Ngữ văn 9. Trong đó số câu hỏi phát hiện chi tiết chiếm số lượng nhiều nhất:
14/29, sau đó đến câu hỏi phân tích, bình: 6/29, câu hỏi đánh giá, khái quát: 4/29, câu hỏi
liên tưởng tưởng tượng: 2/29. Tuỳ từng bài, giáo viên có thể đưa những câu hỏi và hệ
thống câu hỏi sao cho bài giảng đạt kết quả cao, học sinh hiểu bài.
2. Hiệu quả của áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
* Qua thực tế dạy học tôi thấy: Nếu trong một giờ học Văn, người giáo viên sử
dụng hệ thống câu hỏi phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh thì giờ học
sẽ đạt hiệu quả tốt hơn. Cụ thể là:
- Góp phần phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
- Tiếp thu kiến thức một cách nhẹ nhàng, thoải mái hơn
- Hứng thú với bài học hơn
* Kết quả khảo nghiệm của năm học 2011-2012:
Đối với lớp 9b, khi dạy văn bản ''Đoàn thuyền đánh cá'' - Huy Cận tôi không

áp dụng hệ thống câu hỏi này thì kết quả đạt được như sau:
Thời gian
( tiết học )
50

Lớp
9b

Kết quả cụ thể
Tổng số
Yếu
Trung bình
Khá, giỏi
học sinh
Số HS
%
Số HS
%
Số HS
%
34
6
17,6
23
67,6
5
14,8

Đối với học sinh lớp 9C, khi dạy văn bản ''Đoàn thuyền đánh cá''- Huy Cận tôi
sử dụng hệ thống câu hỏi phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Kết

quả đạt được như sau :

Thời gian
( tiết học )
50

Lớp
9A

Tổng số
Yếu
học sinh
Số HS
%
29
0
0

Kết quả cụ thể
Trung bình
Khá, giỏi
Số HS
%
Số HS %
10
34,4
19
65,5

Như vậy qua bảng số liệu trên, cho thấy khi dạy một văn bản cụ thể nếu giáo viên

sử dụng hệ thống câu hỏi phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh thì tỉ lệ
học sinh khá giỏi tăng, tỉ lệ học sinh trung bình, yếu giảm, chứng tỏ việc sử dụng hệ
thống câu hỏi trên là có hiệu quả, tránh được sự mệt mỏi, nhàm chán của học sinh khi
học văn bản Ngữ văn .
PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN
1. Ý nghĩa của sáng kiến đối với công việc thực hiện


Sáng kiến của tôi khi được vận dụng vào thực tiễn giảng dạy các văn bản đã mang
lại hiệu quả tốt. Như vậy việc sử dụng hệ thống câu hỏi phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của học sinh trong giờ học văn bản Ngữ văn nói chung và Ngữ văn 9 nói riêng
là rất cần thiết đối với mỗi người giáo viên dạy văn.
2. Nhận định chung về việc áp dụng khả năng phát triển của sáng kiến kinh
nghiệm.
Nếu sáng kiến kinh nghiệm này được áp dụng cho tất cả các giáo viên dạy văn nói
chung và giáo viên dạy văn ở đơn vị tôi nói riêng thì mỗi giờ học văn của học sinh sẽ
không còn nhàm chán và nặng nề đối với học sinh nữa. Các em sẽ thấy hứng thú hơn,
tiếp thu bài nhanh hơn.
3. Bài học kinh nghiệm:
Qua thực tế giảng dạy môn Ngữ văn nói chung cũng như môn Ngữ văn lớp 9 nói
riêng chúng tôi thấy việc sử dụng hệ thống câu hỏi phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của học sinh không phải là một công việc khó, cũng không phải là một công
việc hoàn toàn mới. Bước đầu tôi đã đúc rút được một số kinh nghiệm khi sử dụng hệ
thống câu hỏi phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong giờ học văn
bản Ngữ văn 9 như sau:
a. Về phía giáo viên:
- Phải thực sự yêu nghề, tâm huyết với việc giảng dạy môn Ngữ văn nói chung, cũng
như văn bản Ngữ văn lớp 9 nói riêng .
- Có ý thức tự giác, tinh thần học hỏi ở các đồng nghiệp .
- Bồi dưỡng cho học sinh lòng yêu thích, hứng thú khi học văn.

b. Về phía học sinh:
- Phải chuẩn bị bài học mới chu đáo.
- Tự giác, say sưa trong học tập.
- Có ý thức suy nghĩ, tìm tòi kiến thức ở tất cả các môn học nói chung cũng như môn
Ngữ văn nói riêng.
c. Điều kiện áp dụng:
- Kinh nghiệm này, có thể áp dụng đối với tất các giáo viên dạy Ngữ văn và các đối
tượng học sinh ở bậc THCS.
- Bản thân từng giáo viên và các nhóm, tổ chuyên môn cần suy nghĩ, tìm tòi, bàn bạc,
trao đổi để thống nhất khi sử dụng các loại câu hỏi và hệ thống câu hỏi này.
* Tóm lại: Hệ thống câu hỏi là một trong những vấn đề quan trọng, cần thiết đối
với mỗi người giáo viên trong giờ học lên lớp. Nó có ảnh hưởng rất lớn đến việc quyết
định chất lượng của mỗi học sinh. Chính vì vậy, giáo viên phải làm thế nào để thiết kế


một hệ thống câu hỏi phù hợp với tất cả các đối tượng học sinh. Trong quá trình thực
hiện Sáng kiến kinh nghiệm này, tôi đã được các đồng chí đồng nghiệp trong tổ chuyên
môn đóng góp nhiều ý kiến quý báu. Tuy nhiên không tránh khỏi những thiếu xót, hạn
chế. Rất mong các đồng chí và các bạn góp ý, bổ sung thêm để sáng kiến kinh nghiệm
của tôi được hoàn thiện hơn.
4. Ý kiến đề xuất với trường
Với kết quả thu được như trên, tôi rất mong muốn BGH trường THCS Hợp Thành
xem xét và có thể triển khai vận dụng, thực hiện sáng kiến này tới tất cả những giáo viên
dạy văn trong trường để góp phần đưa chất lượng học tập của học sinh trong môn Ngữ
văn dần dần đi lên.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Hợp Thành, ngày 05 tháng 01 năm 2013
Người viết

Nguyễn Thị Thu Huyền


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thiết kế hệ thống câu hỏi Ngữ văn 9 ( Trần Đình Chung)
2. Đổi mới phương pháp dạy học ở bậc THCS ( những vấn đề chung ) GS- TS Trần Bá


×