Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Ảnh hưởng của FDI đối với tăng trưởng kinh tế việt nam giai đoạn 1988 2018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.39 KB, 22 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH DOANH VÀ CÔNG NGHỆ HÀ NỘI

~~~~~~*~~~~~~

BÀI TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI

Ảnh hưởng của FDI đối với tăng trưởng kinh
tế Việt Nam giai đoạn 1988-2018

HÀ NỘI– 2020


Chương 1: TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Tại nhiều quốc gia trên thế giới, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được
xem là một nguồn vốn quan trọng ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến tăng trưởng kinh tế.
Mối quan hệ hai chiều giữa FDI và tăng trưởng kinh tế đã, đang và sẽ là một trong những
vấn đề quan trọng trong nền kinh tế mỗi quốc gia và Việt Nam cũng không ngoại lệ. Với
dấu mốc quan trọng là sự ra đời của Luật đầu tư nước ngoài (1987) cùng với việc ký kết
các hiệp định thương mại song phương và đa phương đã giúp Việt Nam đạt được nhiều
thành tựu đáng kể. Kết quả sau 30 năm thu hút đầu tư nước ngoài thể hiện chủ trương
đúng, kịp thời của Đảng và Nhà nước, tạo ra bước ngoặt cho phát triển kinh tế. Khu vực
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ngày càng khẳng định vai trò quan trọng đối với
phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, việc thu
hút và sử dụng vốn FDI thời gian qua đã bộc lộ những hạn chế, bất cập như liên kết của
khu vực FDI với khu vực trong nước và hiệu ứng lan tỏa năng suất chưa cao, chuyển giao
công nghệ từ khu vực FDI chưa đạt hiệu quả mong muốn, cơ cấu vốn đầu tư chưa đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế, và một số vấn đề về môi trường…. Nhận thức đúng mức về
những vấn đề nảy sinh để có phương hướng chỉ
đạo tiếp là cực kỳ quan trọng nếu chúng ta muốn Việt Nam trở thành nơi thu hút ngày


càng nhiều hơn vốn FDI. Để có căn cứ xây dựng và điều chỉnh chính sách thì việc
nghiên cứu, đánh giá được những tác động của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội ở
Việt Nam trong thời gian vừa qua là một việc làm hết sức cần thiết. Do vậy nhóm em
đã lựa chọn đề tài: “Ảnh hưởng của FDI đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai
đoạn 1988-2018” để phân tích các tác động của FDI đối với tăng trưởng kinh tế Việt
Nam từ đó tìm ra giải pháp về mặt chính sách nhằm thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn
vốn FDI góp phần thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng hơn.

Chương 2: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign direct investment - FDI) không chỉ là
nguồn lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế mà còn là nhân tố có tác động lan tỏa đến
rất nhiều khu vực khác. Cũng vì vậy và ở Việt Nam cũng như trên thế giới có nhiều
nghiên cứu liên quan đến FDI, hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội của FDI.

2.1 Các nghiên cứu nước ngoài
Page
1


2.1.1 IMF working paper
“FDI, Global Value Chains, and Local Souring in Developing Countries”
(FDI, Chuỗi giá trị toàn cầu và tìm nguồn cung ứng địa phương ở các nước đang phát
triển).
Được chuẩn bị bởi Vito Amendolagine, Andrea F. Presbitero, Roberte Rabellotti,
Marco, được ủy quyền phân phối bởi Ali Mansoon (tháng 12, 2017)
Nguồn cung ứng sản phẩm trung gian tại địa phương là một trong những kênh
chính cho đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Bài viết này nghiên cứu xem liệu sự tham
gia và định vị trong chuỗi giá trị toàn cầu (GVC) của nước sở tại có liên quan đến
nguồn cung ứng địa phương của các nhà đầu tư nước ngoài hay không? Đầu tiên, bằng
việc kết hợp hai bộ dữ liệu cấp độ của 19 quốc gia châu Phi cận Sahara và Việt Nam

với các biện pháp tham gia GVC ở cấp quốc gia, tác giả đã chỉ ra rằng sự tham gia của
GVC mạnh mẽ hơn và chuyên môn hóa thượng nguồn có liên quan đến tỷ lệ đầu vào
cao hơn của các nhà đầu tư nước ngoài. Tiếp theo, phần 2, tác giả đã cung cấp một cuộc
thảo luận ngắn gọn về các tài liệu ngoại tác lan truyền và GVC. Phần 3, trình bày một
số bằng chứng mô tả về sự tham gia của GVC và các đặc điểm của nhà đầu tư. Phần 4
mô tả khung thực nghiệm, phần 5 thảo luận về các kết quả chính, và phần cuối cùng là
kết luận.
Phần thứ 2 trong bài báo, để đánh giá sự tham gia và vị trí của GVC có liên quan
đến số lượng đầu vào được mua bởi các nhà đầu tư nước ngoài hay không, tác giả đã
bổ sung một mô hình được sử dụng rộng rãi để điều tra các yếu tố quyết định của
nguồn cung ứng địa phương bằng hai biện pháp liên quan đến GVC:
Yijn = GVC PARTICIPATIONjn + GVC POSITIONjn + ∑Xijn + γj + δx + λn + εi

Page
2


Giải thích:
GVC PARTICIPATIONjn

Yijn

Sự tham gia từng ngành “j” tại một quốc
gia nhất định “n”
Vị trí tương đối của khu vực “j” ở quốc
gia “n” trong
Nhà đầu tư + đầu tư nét đặc trưng tại quốc
gia “n”
Cường độ tìm nguồn cung ứng địa phương


x
n
j

Hiệu ứng cố định cho các quốc gia xuất xứ
Điểm đến của nhà đầu tư nước ngoài
Ngành công nghiệp đích

GVC POSITIONjn
Xijn

Trong đó, biến phụ thuộc Yijn đo lường cường độ tìm nguồn cung ứng địa phương
như là một phần của các yếu tố đầu vào có nguồn gốc từ các nhà đầu tư nước ngoài “i”
trong ngành “j” và quốc gia “n”. Sau các nghiên cứu khác về các yếu tố quyết định liên kết
, tập hợp các biến kiểm soát (Xijn) bao gồm nhà đầu tư và đầu tư nét đặc trưng . Các đặc
điểm cụ thể của công ty bao gồm kinh nghiệm địa phương của các công ty nước ngoài,
được đo bằng nhật ký năm kể từ lần đầu tư đầu tiên (AGE); cổ phần nước ngoài trong
quyền sở hữu của các nhà đầu tư ( ngoại hối ); quy mô của các nhà đầu tư, được đo bằng
nhật ký số lượng nhân viên; năng suất lao động, được đo bằng nhật ký bán hàng của nhân
viên ( năng suất lao động); tình trạng nhà xuất khẩu, được đo bằng một biến giả xác định
nhà đầu tư nước ngoài xuất khẩu ( xuất khẩu ). Cuối cùng, tác giả đã kiểm soát chế độ đầu
vào và động lực đầu tư bằng cách sử dụng hai biến giả lấy giá trị 1 nếu đó là đầu tư trên
đồng xanh và bằng 0 nếu đó mua lại và 1 nếu lý do chính để đầu tư là tìm kiếm thị trường
và không vì bất kỳ lý do nào khác ( tìm kiếm market ). Tính không đồng nhất có thể ảnh
hưởng đến cả mức độ tham gia của GVC và xu hướng vững chắc để thực hiện tìm nguồn
cung ứng tại địa phương. Kết quả của tác giả cho thấy mức độ và phương thức tham gia
GVC có ý nghĩa đối với việc tìm nguồn cung ứng sản phẩm trung gian tại địa phương của
các nhà đầu tư nước ngoài. Ở các quốc gia và lĩnh vực liên quan nhiều đến GVC, các nhà
đầu tư nước ngoài có nhiều
Page

3


khả năng tìm nguồn đầu vào của họ tại địa phương. Điều này cũng áp dụng cho các
quốc gia chuyên về các giai đoạn thượng nguồn của GVC nơi có nguồn cung ứng địa
phương cao hơn.
Sự tham gia ngày càng tăng của các nước đang phát triển trong GVC có thể có
tác động tích cực đến các nền kinh tế địa phương bằng cách tăng cường sức lan tỏa của
FDI thông qua việc tăng nhu cầu đầu vào trong nước ( được gọi là hiệu ứng nhu cầu)và
chuyển giao kiến thức từ các nhà đầu tư nước ngoài cho các nhà cung cấp trong nước
( hiệu ứng hỗ trợ). Tác giả kiểm tra giả thuyết này bằng cách kết hợp dữ liệu từ hai
cuộc khảo sát về vai trò của các nhà đầu tư nước ngoài tại 19 quốc gia SSA và tại Việt
Nam, với dữ liệu về bảng I/O có thể so sánh quốc tế và tính toán hai chỉ số về sự tham
gia của GVC ở cấp quốc gia. Kết quả cho thấy các quốc gia và ngành công nghiệp có
sự tham gia nhiều hơn vào GVC là những quốc gia mà các nhà đầu tư nước ngoài
thường báo cáo mức độ cao hơn của nguồn cung ứng địa phương. Tác giả đã chỉ ra
rằng đó là vị trí trong các vấn đề GVC; Các quốc gia chuyên về các giai đoạn sản xuất
ngược dòng thu hút các nhà đầu tư nước ngoài có tiềm năng tìm nguồn cung ứng cao
hơn và sẵn sang hỗ trợ nhiều hơn cho các nhà cung cấp địa phương. Những kết quả này
đặc biệt phù hợp với các quốc gia, bao gồm hầu hết các quốc gia SSA.
Nghiên cứu của tác giả đã đóng góp cho các tài liệu đang phát triển nhấn mạnh lợi
ích của sự tham gia GVC, đặc biệt là đối với các nước thu nhập thấp. Qua đó, các tác giả
cũng đề xuất một kênh bổ sung thông qua đó lợi ích từ việc tham gia vào GVC có thể lan
rộng qua nền kinh tế địa phương: thu hút các nhà đầu tư nước ngoài để thiết lập các liên
kết tìm nguồn cung ứng địa phương. Sự tham gia nhiều hơn vào GVC có thể cải thiện hệ
sinh thái kinh doanh trong đó các nhà đầu tư nước ngoài quyết định sản xuất và nâng cao
năng lực địa phương, chất lượng sản xuất và kiến thức về nhu cầu nước ngoài. Ngoài ra,
tác giả cũng đề xuất rằng các chính sách hỗ trợ gia nhập và nâng cấp các quốc gia trong
GVC có thể tối đa hóa khả năng lan tỏa từ các nước trong GVC vốn đầu tư nước ngoài.
Phát hiện của tác giả có một số hàm ý chính sách thú vị. Các tổ chức hoạt động tốt và các

tác nhân địa phương có ta nghề cao hơn làm tăng đáng kể mối quan hệ tích cực giữa sự
tham gia của GVC và sự lan tỏa của FDI. Tuy nhiên, việc đạt được mức độ tham gia của
GVC cao không đảm bảo nguồn FDI có tiềm năng tìm nguồn cung ứng cao. Các quốc gia
và lĩnh vực có sự tham gia của GVC cao vẫn có thể thu hút đầu tư với mức độ liên kết địa
phương thấp; nó là cần thiết để có thể cung cấp cho các nhà đầu tứ nước ngoài đầu vào chi
phí thấp và các cơ sở khác. Một số quốc
Page
4


gia SSA thu hút đầu tư chỉ yêu cầu liên kết địa phương cấp thấp. Các chính sách hỗ trợ
tương tác mạnh mẽ hơn với các nhà cung cấp địa phương, nâng cấp và cải thiện chất
lượng sản xuất là cần thiết.
Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả đã làm rõ được nội dung của chuỗi giá trị
toàn cầu và tìm nguồn cung ứng địa phương- một trong những kênh chính cho đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI).
2.1.2 Economic Report of WB “Vietnam: Deepening Reform for Growth.
Foreign capital flows in Vietnam: Trend, Impact, and Policy implications”
(Báo cáo kinh tế của Ngân hàng thế giới “Việt Nam: Cải cách sâu rộng để tăng
trưởng.Dòng vốn nước ngoài tại Việt Nam: xu hướng tác động và chính sách thực
hiện”) ,25/11/1997
Nghiên cứu về đầu tư trực tiếp nước ngoài này đã được chuẩn bị làm báo cáo nền tảng
cho báo cáo năm 1997 của Ngân hàng Thế giới, là tài liệu chính thức của Ngân hàng Thế giới
tại Cuộc họp nhóm tư vấn cho  Việt Nam tại Tokyo vào tháng 12 năm 1997. Nghiên cứu này
tập trung vào dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam kể từ khi giới thiệu cải
cách đổi mới năm 1986 và ban hành Luật Đầu tư nước ngoài đầu tiên vào năm 1987.

Trước tiên, bài nghiên cứu đã trình bày tổng quan về các đặc điểm, xu hướng,
nguồn và hiệu suất chính của dòng vốn lớn ở Việt Nam. Sau khi giới thiệu cải cách đổi
mới vào cuối những năm 1980, Việt Nam đã trải qua một sự gia tăng mạnh mẽ của

dòng vốn đầu tư bên ngoài trong những năm 1990, được thúc đẩy chủ yếu bởi dòng
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) mạnh mẽ. Dòng vốn FDI lớn vào Việt Nam đã
được tạo điều kiện thuận lợi nhờ vào tiến bộ ban đầu trong ổn định kinh tế vĩ mô, chế
độ đầu tư được cải thiện và định hướng hướng ngoại. Có ba loại hình hoạt động FDI ở
VIệt Nam: doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (FOE) bao gồm hình thức Xây dựng Vận hành - Chuyển giao (BOT); liên doanh (JV); và, hợp đồng hợp tác kinh doanh
(BCC). Các dự án FDI đã tập trung vào một số lĩnh vực chính, bao gồm: sản xuất (cả
công nghiệp nặng và nhẹ), các dự án liên quan đến xây dựng như khách sạn và du lịch,
phát triển văn phòng và căn hộ, cơ sở hạ tầng (bao gồm cả giao thông và viễn thông),
và khí đốt  và thăm dò dầu. Phân phối vốn FDI của ngành ở Việt Nam tương phản với
Page
5


nhiều nước đang phát triển khác, bị chi phối bởi các ngành công nghiệp thay thế nhập
khẩu và các ngành không thể giao dịch. FDI định hướng xuất khẩu ở Việt Nam, chủ
yếu trong các ngành công nghiệp nhẹ thâm dụng lao động, do phần lớn dòng vốn FDI
vào các ngành công nghiệp nặng thâm dụng vốn như các dự án lắp ráp ô tô đã được
nhắm mục tiêu thay thế nhập khẩu.
Tiếp theo, nghiên cứu đã phân tích tác động của dòng vốn FDI trong các lĩnh
vực khác nhau của nền kinh tế Việt Nam:
Thứ nhất, FDI tạo ra sức lan tỏa công nghệ liên quan đến đầu tư trực tiếp và hoạt
động của các chi nhánh của các công ty xuyên quốc gia tại các nền kinh tế địa phương.
Thứ hai, hiệu quả của FDI phần lớn là tích cực đối với nền kinh tế trong nước Việt Nam, mang đến động
lực tăng trưởng kinh tế bằng cách tăng năng lực sản xuất và nâng cao năng suất.  Các hoạt động có vốn đầu tư
nước ngoài hiện đóng góp tới gần 10% GDP Việt Nam, hơn 30% tổng vốn hình thành, 8% tổng xuất khẩu.

Thứ ba, FDI đã tạo ra lượng lớn việc làm cho người lao động. Mức lương trung
bình cho người lao động tại các dự án FDI cao hơn đáng kể. Hầu hết các liên doanh
cung cấp các chương trình đào tạo đặc biệt cho nhân viên được lựa chọn tại trụ sở của
các công ty mẹ của họ, cho phép họ tiếp cận trực tiếp với các bí quyết kỹ thuật và quản

lý tiên tiến.
Mặt khác, FDI đóng góp tương đối yếu vào việc cải thiện hiệu suất thương mại
của Việt Nam. Nghiên cứu cũng chỉ ra tác động ròng của FDI đối với cán cân thương
mại của Việt Nam là tiêu cực. Thâm hụt thương mại dai dẳng đã được ghi nhận là kết
quả của hoạt động trực tiếp của các dự án FDI (chủ yếu do tỷ lệ thấp của các dự án định
hướng xuất khẩu), với đóng góp của họ để nhập khẩu gấp đôi tỷ lệ xuất khẩu.
Duy trì dòng vốn FDI cao và tối đa hóa đóng góp của họ cho tăng trưởng kinh tế
sẽ là một thách thức lớn đối với các nhà hoạch định chính sách. Để phát huy vai trò tích
cực của FDI, nghiên cứu đã đưa ra đánh giá về triển vọng duy trì dòng vốn này ở mức
cao và các chính sách cần thiết để duy trì và sử dụng hiệu quả dòng chảy này. Một số
giải pháp nghiên cứu này đưa ra nhằm nâng cao hiệu quả tác động của FDI tưới sự phát
triển kinh tế - xã hội bao gồm: Tăng cường nền tảng kinh tế vĩ mô bằng cách tăng
Page
6


cường cải cách cơ cấu; Theo đuổi các chế độ thương mại và đầu tư cởi mở hơn để cạnh
tranh lớn hơn; Thúc đẩy phát triển ngành tài chính và khả năng phục hồi của hệ thống tài
chính; Thúc đẩy cải cách doanh nghiệp nhà nước và phát triển khu vực tư nhân.

Bài nghiên cứu này đã làm rõ được đặc điểm chính của dòng vốn ở Việt Nam
cùng những tác động tích của dòng vốn FDI đến nền kinh tế Việt Nam và đưa ra những
chính sách cần thiết cho việc nâng cao hiệu quả dòng vốn FDI. Tuy nhiên, trong nghiên
cứu này, nhiều tác động tiêu cực về môi trường, cạnh tranh…của FDI vẫn chưa được đề
cập đến.

2.2 Các nghiên cứu trong nước
2.2.1 Ấn phẩm “ Doanh Nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giai đoạn 2006-2011”
Tổng cục thống kê, NXB Thống kê - Hà Nội, 2014
Trong phần 1: Tổng quan về hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam giai

đoạn 2006-2011 đã đề cập đến tác động của FDI đến phát triển kinh tế Việt Nam bao
gồm:
Thứ nhất, Tỷ trọng đóng góp của khu vực FDI vào GDP không ngừng tăng lên,
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tập trung chủ
yếu vào sản xuất công nghiệp. FDI tác động tích cực tới việc mở rộng thị trường xuất
khẩu sang các nước châu Âu, đặc biệt là thị trường xuất khẩu sang Mỹ
Thứ hai, doanh nghiệp FDI tăng trưởng nhanh cả về số lượng doanh nghiệp, quy
mô và kết quả sản xuất kinh doanh, tăng trưởng ổn định ở hầu hết các lĩnh vực, đóng
góp vào ngân sách Nhà nước của khu vực này năm 2011 là 166 nghìn tỷ đồng, gấp 1,9
lần năm 2006, bình quân tăng 14,1%/năm.
Thứ ba, FDI được đầu tư vào nhiều các ngành kinh tế và các địa phương. Các
ngành công nghiệp then chốt như: công nghiệp khai thác, điện tử, dệt may, công nghiệp
hóa chất đều được đầu tư và có các bước phát triển mạnh mẽ
Thứ tư, FDI giúp tạo công ăn việc làm cho người dân, góp phần đáng kể vào
giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động.

Page
7


Ngoài ra ấn phẩm cũng chỉ ra những ngành có tốc độ gia tăng nhanh về đầu tư
vốn cho sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp FDI phải kể đến: Điện tử, máy vi
tính và sản phẩm quang học; và một số ngành kinh tế khác như: Hoạt động tài chính,
ngân hàng, bảo hiểm; Hoạt động dịch vụ; Bất động sản;... Một số ngành có xu hướng
thu hẹp về nguồn vốn gồm: Dịch vụ lưu trú và ăn uống, phân phối điện, khí đốt, ... Tuy
nhiên cũng có những ngành thuộc công nghiệp chế biến, chế tạo có xu hướng giảm dần
về vốn FDI như: Dệt; sản xuất giường, tủ, bàn ghế; sản xuất các sản phẩm bằng chất
khoáng phi kim loại... Ngược lại với công nghiệp chế biến, chế tạo, ngành nông nghiệp,
lâm nghiệp và thủy sản là ngành vẫn chưa thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài.
Mặc dù Việt Nam là quốc gia có lợi thế lớn để phát triển nông nghiệp nhưng việc thu

hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu vực này lại rất hạn chế.
2.2.2 Ấn phẩm “ Tổng điều tra kinh tế 2017 - Kết quả hoạt động của doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giai đoạn 2011-2016” NXB Thống kê, 2018
Trong phần 1: Tổng quan về hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam giai
đoạn 2011-2016 đã đề cập đến tác động của FDI đến phát triển kinh tế Việt Nam bao
gồm:
Thứ nhất, khu vực FDI có đóng góp tích cực vào tổng sản phẩm trong nước
(GDP) với mức độ đóng góp tăng dần qua các năm, luôn là khu vực phát triển năng
động nhất của nền kinh tế.
Thứ hai, trong lĩnh vực công nghiệp, khu vực FDI thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng hiện đại, góp phần hình thành một số ngành công nghiệp chủ lực
của nền kinh tế, làm tăng năng lực sản xuất của nền kinh tế.
Thứ ba, trong lĩnh vực dịch vụ của Việt Nam, FDI đã tạo ra nhiều dịch vụ có
chất lượng cao, từng bước tạo điều kiện cho thị trường dịch vụ phát triển và tăng khả
năng hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ tư, thông qua FDI, Việt Nam có điều kiện tiếp cận với công nghệ tiên tiến
của thế giới để phát triển các ngành kinh tế sử dụng công nghệ hiện đại, như: công
nghệ sinh học, bưu chính viễn thông, công nghiệp phần mềm, điện tử... Nhiều công
nghệ mới đã được chuyển giao, tạo bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp phát triển
một số ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước, như: dầu khí, viễn thông, lắp ráp,…
Page
8


Thứ năm, khu vực FDI có tác động tích cực tới việc mở rộng thị trường xuất
khẩu sang các nước châu Âu và đặc biệt là một số thị trường trọng tâm như: Đức, Pháp,
Anh, Hà Lan, Italy.
Thứ sáu, khu vực FDI tiếp tục góp phần tạo nhiều việc làm, gia tăng thu nhập
cho người lao động ở nhiều ngành nghề và lĩnh vực khác nhau. Việc đào tạo tại chỗ và
đào tạo bên ngoài của khu vực FDI được đặc biệt chú trọng, nhằm nâng cao trình độ

của công nhân, kỹ thuật viên, cán bộ.
Thứ bảy, bảy vùng kinh tế của Việt Nam đều nhận được vốn đầu tư FDI xong về
mật độ phân bố giữ các vùng không đồng đều. FDI đã góp phần làm thay đổi cơ bản cơ
cấu kinh tế của từng tỉnh, thành phố, đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế và phát triển
kinh tế - xã hội của các địa phương.
Ngoài ra, ấn phẩm chỉ chỉ ra một số thực trạng về việc phân bố FDI ở các ngành
kinh tế trong giai đoạn 2011-2016. Theo đó, FDI đầu tư vào ngành công nghiệp khai
khoáng có xu hướng thu hẹp do định hướng của Nhà nước không khuyến khích thu hút
FDI đầu tư vào những ngành khai thác tài nguyên khoáng sản. Ngành nông, lâm nghiệp
và thủy sản vẫn chưa thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài trong giai đoạn 20112016. Mặc dù Việt Nam là đất nước có lợi thế lớn để phát triển nông nghiệp nhưng vẫn
chưa có sức hút đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
2.2.3 Báo cáo: “ Đầu tư trực tiếp nước ngoài: Một số vẫn đề về thực trạng và giải
pháp” Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, Trung tâm thông tin – Tư liệu,
2017.
Trong phần đầu của báo cáo đã đề cập đến thực trạng của vốn đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam giai đoạn 1988-2015.
Thứ nhất: Vốn FDI đầu tư vào Việt Nam ở mức thấp. Các dự án phần lớn có quy
mô không lớn và chỉ có công nghệ đạt mức trung bình.
Thứ hai: Các doanh nghiệp FDI kinh doanh có hiệu quả chưa cao. Các doanh
nghiệp FDI tận dụng tối đa các yếu tố lao động giá rẻ, tài nguyên, tiêu chuẩn bảo vệ
môi trường thấp và những ưu đãi của Việt Nam để gia tăng hiệu quả sản xuất.
Page
9


Thứ ba: Chưa thu hút được các công ty đa quốc gia như một số nước khác trong
ASEAN. Nhiều tập đoàn đa quốc gia đã chọn Thái Lan, Malaysia... để đầu tư vì môi
trường đầu tư cạnh tranh nhất ASEAN và có ngành công nghiệp hỗ trợ phát triển, tạo
điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp FDI.
Thứ tư: Vấn đề về xử lý ô nhiễm môi trường chưa được các doanh nghiệp FDI

quan tâm và đánh giá đầy đủ.
Tiếp theo, báo cáo có chỉ rõ tác động của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ nhất: FDI là nhân tố quan trọng đóng góp rất lớn đến tăng trưởng và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế.
Thứ hai: FDI làm tăng quy mô đầu tư toàn xã hội.
Thứ ba: Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa.
Công nghiệp vẫn thu hút phần lớn nguồn vốn FDI đầu tư vào Việt Nam. Song, nông
nghiệp Việt Nam mặc dù có nhiều lợi thế phát triển nhưng chỉ thu hút được 1,3% tổng
số nguồn vốn FDI trong giai đoạn 1988-2015.
Thứ tư: Giải quyết việc làm. Tính trong cả giai đoạn từ 1988-2014 thì khu vực
FDI tạo ra hơn 2,3 triệu việc làm trực tiếp và hàng triệu việc làm gián tiếp, trong đó có
hàng vạn kỹ sư, nhà quản lý trình độ cao, đội ngũ công nhân lành nghề, với thu nhập
ngày càng tăng, du nhập phương thức lao động, kinh doanh và quản lý tiên tiến.
Thứ năm: Thúc đẩy xuất khẩu và cải thiện cán cân thương mại. Khu vực FDI
đóng góp quan trong vào thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam qua khía cạnh tăng trưởng
xuất khẩu cao, đa dạng hóa sản phẩm và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu
Thứ sáu: Đóng góp thu ngân sách Nhà nước. Nộp ngân sách nhà nước của các
doanh nghiệp FDI tăng dần theo thời gian.
Để giải thích cho chất lượng của nguồn vốn FDI còn thấp, báo cáo đã đưa ra một số
nguyên nhân cơ bản bao gồm: Môi trường đầu tư chưa thông thoáng minh bạch, chưa hấp
dẫn được các công ty đa quốc gia; Năng lực các doanh nghiệp trong nước còn yếu không
đáp ứng được chất lượng để tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu; Ngành công
Page
10


nghiệp hỗ trợ chưa phát triển; Chính sách ưu đãi đầu tư chưa hiệu quả; Quy định về
môi trường lỏng lẻo
Cuối cùng, bài báo cáo dã đưa ra một số giải pháp để cải thiện môi trường đầu
tư và thu hút đầu tư nước ngoài có chất lượng như: Tiếp tục cải thiện môi trường đầu

tư; Tập trung thu hút đầu tư các công ty đa quốc gia; Đầu tư theo kế hoạch, nâng cao
chất lượng quy hoạch; Sửa đổi nhằm cải thiện chất lượng chính sách ưu đãi đầu tư; Thu
hút đầu tư vào công nghiệp hỗ trợ; Khuyến khích thu hút dự án công nghệ cao; Hoàn
thiện quy định kiểm soát môi trường
Bài báo cáo phân tích khá đầy đủ về thực trạng, tác động của FDI đến phát triển
kinh tế sau đó đưa ra các nguyên nhân giải thích các tác động tiêu cực đến nền kinh tế
rồi đề ra các giải pháp để thu hút FDI vào Việt Nam và cải thiện các tác động và ảnh
hưởng tiêu cực.
2.2.5 : “Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới tăng trưởng kinh tế ở
Việt Nam” – Nguyễn Thị Tuệ Anh và cộng sự, 2006
Trong bài nghiên cứu này, nhóm nghiên cứu không đề cập tất cả tác động của
FDI tới nền kinh tế, mà sẽ tập trung vào phân tích tác động của FDI tới tăng trưởng
kinh tế thông qua hai kênh quan trọng nhất là vốn đầu tư và các tác động tràn.
Đầu tiên, nhóm nghiên cứu đã phân tích tác động của FDI tới tăng trưởng qua
kênh đầu tư thông qua nghiên cứu đinh lượng với mô hình như sau :
=

(

,

,(

) ,

,

)

Biến phụ thuộc biểu thị cho tăng trưởng kinh tế, do bằng tốc độ GDP thực tế

trên đầu người và là hàm số của một loạt biến độc lập. Tác động của các biến độc lập
tới tăng trưởng kinh tế được thể hiện qua các hệ số ước lượng.

trực tiếp nước ngoài,

là biểu hiện đầu tư

là biến biểu thị cho tài sản vốn con người nhằm đánh giá tác

động của vốn con người tới tăng trưởng. Biến
rất có ý nghĩa trong mô hình
này nhằm kiểm định mối tương tác giữa FDI và vốn con người cũng như vai trò của
vốn con người đối với mức dộ đóng góp của FDI tới tăng trưởng. Biến

xem xét ảnh hưởng của Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, bắt đầu
Page
11


bằng việc gia nhập ASEAN vào tháng 7/1995 tới tăng trưởng. Và biến
là tập hợp
của các biến độc lập khác có ảnh hưởng tới tăng trưởng, ví dụ như chi tiêu chính phủ,
vốn đầu tư trong nước với tư cách là một đại lượng xác định tăng trưởng và kết quả của
hoạt động xuất nhập khẩu phản ánh độ mở của nền kinh tế v.v.
Nhóm nghiên cứu đã thu thập sô liệu theo chuỗi thời gian từ 1988-2003 lấy từ
nhiều nguồn khác nhau như là Tổng Cục thống kê và Cục Đầu tư Nước Ngoài- Bộ Kế
hoạch và Đầu tư cung cấp, Bộ Lao Động- Thương Binh và Xã hội,... Tuy nhiên, dưới góc
độ lý thuyết, vốn con người là đại lượng phản ánh trình độ của lực lượng lao đông, được
hình thành qua nhiều kênh khác nhau. Vì vậy mô hình sẽ kiểm định giả thuyết này bằng
cách sử dụng ba biến vốn con người khác nhau để có thể so sánh được những


tác động có thể xảy ra. Ba biến đó là:
. Biến thứ nhất được đo bằng tỷ lệ
lao động đang làm việc trong nền kinh tế đã tốt nghiệp cấp tiểu học, biến thứ hai là tỷ
lệ của lao động đã tốt nghiệp phổ thông cơ sở, biến thứ 3 là tỷ lệ dân số biết chữ.
Sau khi chạy mô hình theo phương pháp bình phương nhỏ nhất hai bước 2SLS,
nhóm nghiên cứu đã đưa ra một số kết luận dưới đây:
Thứ nhất, vốn con người và FDI đều không có tác động rõ rệt tới tăng trưởng
kinh tế, mặc dù cả hai hệ số mang dấu dương. Hội nhập kinh tế của Việt Nam, đánh dấu
bằng việc gia nhập ASEAN từ quí III năm 1995, vừa có tác động tiêu cực, vừa tích cực
tới tổng thể nền kinh tế. Tác động tích cực thể hiện qua sự tăng về số tuyệt đối của
hệ số của biến
và ý nghĩa thống kê của hệ số ước lượng, tức là FDI có tác động
tích cực tới tăngtrưởng kinh tế. Kết quả này khẳng định lại những đánh giá định tính
trước đây cho rằng hội nhập mang lại cơ hội thuận lợi, nhưng cũng có khó khăn, thách
thức cho nền kinh tế.
Thứ hai, vốn con người là một đại lượng xác định đóng góp của FDI vào tăng
trưởng kinh tế. Sự đổi dấu của hệ số ước lượng cho hai biến

cho biết trình độ
của lực lượng lao động Việt Nam đang là một yếu tố làm hạn chế đóng góp của FDI tới
tăng trưởng. Kết quả này trùng hợp với đánh giá của Borensztein (1995) khi cho rằng lợi
ích mà FDI mang lại cho nước nhận đầu tư, trước hết là đóng góp của FDI vào tăng
trưởng, còn phụ thuộc vào khả năng hấp thụ của một nước (đo bằng sự tương tác

giữa FDI và

) và để tiếp thu được lợi ích đó (ví dụ công nghệ tiên tiến) thì vốn
Page
12



con người cần đạt được một ngưỡng tối thiểu nhất định. Nói cách khác, trình độ lao
động quá thấp sẽ giới hạn tác động của FDI tới tăng trưởng.
Tóm lại, kết quả nghiên cứu về tác động của FDI tới tăng trưởng kinh tế thông
qua kênh đầu tư cho phép khẳng định đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đóng góp tích cực
vào tăng trưởng ở Việt Nam và mức độ đóng góp tăng lên khi Việt Nam chính thức hội
nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Một kết luận rút ra từ phân tích định lượng là
vốn con người– được đo bằng trình độ học vấn của lực lượng lao động trong Nghiên
cứu này- không chỉ là đại lượng xác định tăng trưởng ở Việt Nam, mà còn làm tăng
đóng góp của FDI tới tăng trưởng. Bằng cách thử nghiệm ba chỉ tiêu khác nhau biểu thị
cho vốn con người, nghiên cứu cho rằng vốn con người hay trình độ thấp của lao động
đang hạn chế đóng góp hơn nữa của FDI vào tăng trưởng. Kết luận này cũng trùng với
kết quả của một số nghiên cứu gần đây cho nhiều nước đang phát triển.
Tiếp đến, nhóm nghiên cứu phân tích tác động tràn của đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Việt Nam thông tác động tràn của FDI tới năng suất lao động của doanh
nghiệp trong nước.
Trong bài nghiên cứu, nhóm nghiên cứu đã lựa chọn sử dụng mô hình phân tích
tác động tràn ở quy mô doanh nghiệp, mô hình phân tích lượng được nhóm nghiên cứu
xây dựng và có dạng như sau :
)
Trong mô hình này, biến phụ thuộc là đại lượng đo năng suất lao động của
doanh nghiệp i. Biến độc lập thể hiện chất lượng của lao động trong doanh nghiệp, biến
độc lập biểu thị cho quy mô doanh nghiệp trong ngành, biến độc lập đo cường độ sử
dụng vốn trên 1 lao động của doanh nghiệp, được tính bằng vốn cố định bình quân trên
1 lao động. Biến độc lập thể hiện sự có mặt và quy mô của doanh nghiệp FDI trong
cùng phân ngành 4 số j đó. Trong mô hình này tỷ trọng lao động được tính theo trọng
số. Trọng số ở đây là thời gian trung bình (theo năm) của các doanh nghiệp FDI trong
ngành 4 số j nhằm xem xét cả tác động của tuổi thọ doanh nghiệp FDI có thể có. Điều
này dựa vào giả định cho rằng với các chỉ tiêu khác như nhau, trong hai doanh nghiệp

FDI khác nhau doanh nghiệp nào có thời gian hoạt động trong ngành j lâu hơn sẽ có thể
tạo ra tác động tràn lớn hơn. Tác động này được đưa vào mô hình bằng cách tính trọng
số, tức là thời gian mà doanh
Page
13


nghiệp tồn tại trong ngành. Đây là điểm khác biệt của nghiên cứu này với các nghiên
cứu trước đó về tác động tràn sử dụng tỷ lệ lao động làm biến thể hiện sự có mặt của
doanh nghiệp FDI trong cùng ngành. Biến là biến giả, nhận giá trị là 1 nếu doanh
nghiệp có quan hệ với ất kỳ một đối tác nước ngoài nào và 0 nếu ngược lại.
Kết quả kiểm định ước lượng cho thấy sự xuất hiện của doanh nghiệp FDI làm
thay đổi NSLĐ của các doanh nghiệp trong nước theo hướng tích cực hay cho thấy dấu
hiệu của việc xuất hiện tác động tràn tích cực. Ở góc độ ngành, biến có dấu dương ở tất
cả các nhóm ngành, ở cả hai nhóm doanh nghiệp nhưng chỉ có ý nghĩa ở nhóm ngành
chế biến thực phẩm. Xét trên giác độ loại hình doanh nghiệp, sự xuất hiện của doanh
nghiệp FDI dường như không có ảnh hưởng gì tới NSLĐ của DNNN cùng ngành nói
chung và trong từng nhóm khảo sát nói riêng, trong khi đó lại có tác động làm tăng
NSLĐ của các DNTN nói chung và DNTN ở ngành dệt - may và chế biến thực phẩm
nói riêng.
Như vậy, phát hiện của phân tích này ngược với nhiều ý kiến cho rằng DNNN
có điều kiện tiếp cận với các doanh nghiệp FDI cao hơn do có lợi thế hơn về vốn, trình
độ công nghệ và lao động có tay nghề so với DNTN và vì thế có thể nhận được tác
động tràn nhiều hơn. Xét chung cho khu vực DNNN, nhóm nghiên cứu đã đã đưa ra
một số nguyên nhân làm cho tác động tràn không xảy ra:
Thứ nhất, cơ chế đầu tư đổi mới trang thiết bị khác nhau: DNTN linh hoạt hơn
rất nhiều với DNNN trong việc sử dụng vốn và đổi mới trang thiết bị do không bị ràng
buộc về các quy định sử dụng vốn của nhà nước.
Thứ hai, cơ chế quản lý lao động khác nhau và chi phí cho lao động: Trong khi
DNNN khó điều chỉnh số lượng và chất lượng lao động theo yêu cầu sản xuất, thì

DNTN lại linh họat hơn trong tuyển dụng, sử dụng, điều chuyển họăc sa thải lao động.
Thứ ba, chính sách bảo hộ sản xuất trong nước: nhiều DNNN họat động trong
các nhóm ngành được bảo hộ cao, thiếu động lực đổi mới năng lực sản xuất để nâng
cao tính cạnh tranh của sản phẩm.
Từ các phân tích trên, nhóm nghiên cứu đã rút ra kết luận, tác động tràn trong giai
đoạn vừa qua dường như mới xuất hiện thông qua hai kênh: kênh liên kết sản xuất (gồm
tác động xuôi chiều và ngược chiều) và kênh cạnh tranh. Nghiên cứu cho rằng, các DNTN
đã tìm cách tận dụng được lợi ích từ cả hai kênh trên. Tuy nhiên dường như các doanh
nghiệp nhà nước đã không làm được đó. Kết quả nghiên cứu về khả năng hấp thụ tác động
tràn tích cực cũng cho thấy khả năng này có quan hệ tới tính qui mô hơn là hình thức pháp
lý của doanh nghiệp trong nước. Đáng lưu ý là tác động tràn tích cực được ghi nhận ở các
doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ xét cả tiêu thức vốn và
Page
14


lao động. Hoạt động của DN FDI tạo ra tác động tràn tích cực mạnh hơn đối với các
doanh nghiệp trong nước, nhất là DNTN, ở các vùng kém phát triển hơn và có ít đầu tư
nước ngoài hơn. Kết quả này phần nào khẳng định lại kết luận cho rằng tác động tràn
dường như chỉ xuất hiện qua kênh liên kết sản xuất và kênh cạnh tranh.
Dựa theo các phân tích nêu trên, nhóm nghiên cứu đã đề xuất một số kiến nghị
dưới đây :
Thứ nhất là, tiếp tục đổi mới tư duy và đổi mới cách tiếp cận trong xây dựng
chính sách đầu tư nước ngoài cho giai đoạn tới.
Thứ hai là, tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, tăng sự hấp dẫn cho các nhà đầu tư
nước ngoài để có thể cạnh tranh được với các nước trong khu vực về thu hút FDI.

Thứ ba là, tạo cơ hội cho xuất hiện tác động tràn và tăng khả năng hấp thụ các
tác động tràn tích cực của FDI cho các doanh nghiệp trong nước.
Thứ tư là, thực hiện các biện pháp hữu hiệu nhằm thu hút các công ty đa quốc

gia lớn có tiềm năng về công nghệ và tận dụng tối đa thế mạnh về R&D của các công
ty nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam.

2.3 Khoảng trống cho các vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu
2.3.1 Những kết quả đã đạt được
Qua việc hệ thống hóa các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước như trên, có
thể nhận thấy các nghiên cứu về FDI rất phong phú, mỗi đề tài đã luận giải các vấn đề
về FDI và hiệu quả của FDI mang lại cho nước tiếp nhận đầu tư ở những khía cạnh
khác nhau, nhưng thống nhất một số các vấn đề sau:
Các nghiên cứu đã luận giải khá rõ về sự cần thiết khách quan của việc thu hút,
sử dụng FDI cho phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt đối với các nước đang phát triển
như Việt Nam; đã khái quát những hình thức chủ yếu và một số đặc điểm quan trọng
của FDI nói chung và đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam nói riêng.
 Đứng từ góc độ nước tiếp nhận đầu tư, các công trình nghiên cứu đều khẳng
định rằng, FDI là một bộ phận kinh tế quan trọng của địa phương, góp phần làm đa


Page
15


dạng hóa các hình thức tổ chức sản xuất, gia tăng giá trị sản xuất công nghiệp, thúc đẩy
hoạt động xuất khẩu, tạo sự liên kết giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp
nước ngoài, giải quyết việc làm cho người lao động... Song cũng chỉ ra những tác động
tiêu cực của FDI đến môi trường, đến đời sống của người dân, đến chuyển giai công
nghệ...
 Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, để nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội FDI cần
có cơ chế chính sách phù hợp nhằm tạo lập môi trường, thông thoáng, hấp dẫn, đảm
bảo kết hợp lợi ích giữa nhà đầu tư nước ngoài và lợi ích của quốc gia, địa phương tiếp
nhận FDI, đồng thời định hướng việc thu hút, sử dụng FDI, kiểm soát, giảm thiểu tác

động tiêu cực.
2.3.2 Một số vấn đề đặt ra cần giải quyết
Nhìn từ vấn đề hiệu quả kinh tế của FDI theo góc độ nước tiếp nhận đầu tư, một
số công trình đã bước đầu chú ý đến các chỉ tiêu phản ánh tác động hai mặt của FDI tới
phát triển kinh tế, bao gồm những tác động tích cực và tác động tiêu cực. Tuy nhiên các
chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế của FDI của các công trình đưa ra đang có những sự
khác nhau mà chưa sự thống nhất. Thực tiễn cho thấy, thành tựu trong thu hút FDI có
thể không đồng nhất với hiệu quả kinh tế của FDI. Bên cạnh các yếu tố gây ra ảnh
hưởng tiêu cực của FDI đến phát triển kinh tế, còn có rất nhiều nguyên nhân gây khó
khăn cho việc phát huy vai trò tích cực của FDI đối với phát triển kinh tế. Vấn đề này
cho đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau và chưa thực sự được làm rõ, đòi hỏi phải
có nghiên cứu đầy đủ mang tính hệ thống trên cơ sở phân tích các ưu nhược điểm của
các chỉ tiêu, phân tích điều kiện thực tế của quốc gia để lựa chọn và xây dựng nên hệ
thống chỉ tiêu đánh giá phù hợp. Đây là khoảng trống về lý luận của đề tài nghiên cứu.
Từ “khoảng trống” của các công trình nghiên cứu liên quan, nhóm em đã lựa chọn đề
tài này để đánh giá hiệu quả kinh tế của đầu tư trực tiếp nước ngoài phù hợp với điều
kiện thực tế của Việt Nam từ đó đề xuất một số giải pháp và kiến nghị để nguồn vốn
FDI vào Việt Nam được sử dụng hiệu quả hơn góp phần thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam
tăng trưởng hơn.

Chương 3. MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Mục tiêu nghiên cứu

Page
16


Bài nghiên cứu được thực hiện nhằm nhận biết và đánh giá các yếu tố ảnh
hưởng của FDI đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam và trên cơ sở đó đề xuất phương
hướng và giải pháp các giải pháp thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI ở Việt Nam hiệu

quả hơn.

3.2 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là ảnh hưởng của FDI đến tăng trưởng kinh tế
Việt Nam

3.3 Phạm vi nghiên cứu
3.3.1 Phạm vi không gian
Đề tài tập trung nghiên cứu trong không gian nước Việt Nam
3.3.2 Phạm vi thời gian
Đề tài nghiên cứu trong khoảng thời gian từ năm 1988-2018

Chương 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1 Phương pháp thu thập thông tin:
Sử dụng phương pháp đọc tài liệu, khai thác các văn bản quy phạm pháp
luật,báo cáo về đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, các đề tài khoa học và các
bài báo khoa học đăng ở các tạp chí chuyên ngành có liên quan.
 Nguồn số liệu nghiên cứu lấy từ Tổng cục thống kê


4.2 Phương pháp xử lí thông tin:
 Sử dụng phương pháp định tính: Kết hợp hài hòa các phương pháp phân tích,
tổng hợp, so sánh để xử lý dữ liệu đã thu thập, đặc biệt là trong diễn giải và phân tích
chi tiết thực trạng.

Chương 5. CƠ SỞ LÝ LUÂN VỀ FDI VÀ TÁC ĐỘNG CỦA FDI TỚI
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
5.1 Tổng quan về FDI.
Page
17



5.1.1 Khái niệm
Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF): “Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là hoạt
động đầu tư được thực hiện nhằm thiết lập các mối quan hệ kinh tế lâu dài với một
doanh nghiệp hoạt động trên lãnh thổ của một nền kinh tế khác nền kinh tế nước chủ
đầu tư, mục đích của chủ đầu tư là giành quyền quản lý thực sự doanh nghiệp”.
5.1.2 Đặc điểm của FDI
 Mục đích đầu tư hàng đầu của FDI là tìm kiếm lợi nhuận thu về cho nhà đầu tư.
 Các nhà đầu tư phải đóng góp đủ số vốn tối thiểu trong vốn pháp định hoặc vốn
điều lệ tùy theo quy định của từng nước để có thể kiểm soát hoặc tham gia kiểm soát
doanh nghiệp nhận đầu tư.
 Các nước được nhận đầu tư phải có hành lang pháp lý để thu hút đầu tư từ đó
tạo điều kiện để thúc đẩy kinh tế, xã hội, tránh trường hợp FDI chỉ phục vụ cho mục
đích của nhà đầu tư.
 Tỷ lệ đóng góp của các bên trong vốn điều lệ hoặc vốn pháp định sẽ quy định
quyền và nghĩa vụ của mỗi bên, đồng thời lợi nhuận và rủi ro cũng được phân chia dựa
vào tỷ lệ này
 Thu nhập mà chủ đầu tư thu được phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp mà họ bỏ vốn đầu tư, nó mang tính chất thu nhập kinh doanh chứ không phải
lợi tức.
 Chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu
trách nhiệm về lỗ lãi. Nhà đầu tư nước ngoài được quyền tự lựa chọn lĩnh vực đầu tư,
hình thức đầu tư, thị trường đầu tư, quy mô đầu tư cũng như công nghệ cho mình, do
đó sẽ tự đưa ra những quyết định có lợi nhất cho họ.
 FDI thường kèm theo chuyển giao công nghệ cho các nước tiếp nhận đầu tư.
Thông qua hoạt động FDI, nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công nghệ, kĩ thuật tiên
tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý.

5.2 Ảnh hưởng của FDI đối với tăng trưởng kinh tế.

5.2.1 Lý thuyết tăng trưởng ngoại sinh
Lý thuyết tăng trưởng ngoại sinh, thường được gọi là mô hình tăng trưởng tân
cổ điển hoặc mô hình tăng trưởng Solow-Swan đi tiên phong bởi Solow (1956). Lý
thuyết này cho rằng kinh tế tăng trưởng được tạo ra thông qua các yếu tố ngoại sinh
của các chức năng sản xuất như tích lũy vốn và lao động. Barro và Sala-I-Martin
(2004) chứng minh rằng, có mối quan hệ tích cực giữa tăng trưởng kinh tế và tích lũy
vốn theo thời gian. Lý thuyết tăng trưởng ngoại sinh cho rằng, FDI làm gia tăng vốn ở
nước sở tại và sau đó thúc đẩy kinh tế tăng trưởng hướng tới trạng thái ổn định mới
Page
18


bằng cách tích tụ vốn. Theo lý thuyết tăng trưởng ngoại sinh thì FDI tác động đến tăng
trưởng kinh tế thông qua tác động đến đầu tư trong nước (Herzer et al., 2008).
5.2.2 Lý thuyết tăng trưởng nội sinh
Vào giữa những năm 1980, lý thuyết tăng trưởng ngoại sinh đã trở thành lý
thuyết không phù hợp trong việc giải thích các yếu tố quyết định tăng trưởng dài hạn
(Barro và Sala-I-Martin, 1995). Vì vậy, lý thuyết tăng trưởng nội sinh, tiên phong bởi
Romer (1986), trong đó tập trung vào hai yếu tố: tăng trưởng kinh tế có nguồn gốc từ
nguồn nhân lực và sau đó từ thay đổi công nghệ.
Lý thuyết tăng trưởng nội sinh xác định tăng trưởng kinh tế bằng việc giới thiệu
quy trình sản xuất công nghệ mới ở nước sở tại và FDI được giả định là hiệu quả hơn
đầu tư trong nước (Herzer et al., 2008). Do đó, FDI tăng cường tăng trưởng kinh tế
thông qua sự lan tỏa công nghệ, dịch chuyển lao động, đào tạo kỹ năng quản lý và sắp
xếp tổ chức (Romer, 1990; Barro và Sala-I-Martin, 1995; De Jager, 2004). Kết quả là,
đầu tư nước ngoài có thể làm tăng năng suất nền kinh tế chủ nhà và sau đó FDI có thể
được coi như là chất xúc tác của đầu tư trong nước và tiến bộ công nghệ.
Tóm lại, về mặt lý thuyết, FDI có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bằng nhiều
cách khác nhau (Herzer et al., 2008). Một số nhà nghiên cứu cho rằng, những tác động
của FDI tới tăng trưởng kinh tế dự kiến sẽ có hai phần (De Mello, 1999; Kim và Seo,

2003). Thứ nhất, FDI có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế thông qua tích lũy vốn
bằng cách giới thiệu hàng hóa mới và công nghệ nước ngoài. Quan điểm này xuất phát
từ lý thuyết tăng trưởng ngoại sinh. Thứ hai, FDI có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
thông qua công tác nghiên cứu phát triển ở nước sở tại về chuyển giao kiến thức. Quan
điểm này xuất phát từ lập luận của lý thuyết tăng trưởng nội sinh. Vì vậy, FDI về mặt
lý thuyết có thể đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế thông qua việc tăng
tích lũy vốn, lan truyền công nghệ và sự tiến bộ (Herzer et al., 2008). Kết luận này cho
thấy, FDI có thể góp phần phát triển kinh tế và hứa hẹn lợi ích tiềm năng để phát triển
ở nước tiếp nhận đầu tư.

Page
19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu trong nước
1. Bộ kế hoạch và đầu tư, 2014. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giai đoạn
2006-2011. Hà Nội: NXB Thống kê.
2. Tổng cục thống kê, 2018. Tổng điều tra kinh tế năm 2017 – Kết quả hoạt động của
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giai đoạn 2011-2016. Hà Nội: NXB Thống kê.
3. Nguyễn Thị Tuệ Anh và cộng sự, 2006. Tác động từ đầu tư trực tiếp nước ngoài đến
tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. [e-book]
< />_KTvietnamese_233.pdf > [ Truy cập ngày 22/09/2019].
Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, 2018. Đầu tư trực tiếp nước ngoài: Một
số vấn đề về thực trạng và giải pháp. [online]
4.

< />20Thao.pdf> [ Truy cập ngày 22/09/2019].
5. Trần Đình Lý và Lê Hoàng Anh, 2017. Ảnh hưởng từ đầu tư trực tiếp tại nước ngoài
đến tăng trưởng kinh tế: Nghiên cứu tại các quốc gia ASEAN+3, Tạp chí Công thương.

[e-journal]

< [ Truy cập ngày 22/09/2019].

Tài liệu nước ngoài
5. Vito Amendolagine, Andrea F. Presbitero, Roberta Rabellotti, Marco Sanfilippo,
and Adnan Seric, 2017. FDI, Global Value Chains, and Local Sourcing in Developing
Countries. IMF Working Paper. [e-journal]


<file:///C:/Users/LAPTOP%20PTC/Downloads/wp17284%20(1).pdf> [Truy cập ngày
22/09/2019].
6. Kwang W. Jun, Duc Minh Pham, Victoria Kwakwa, Kyle Peters,Jr.,Thang-Long
Ton, 1997. “Foreign capital flows in Vietnam: Trend, Impact, and Policy implications”,
Background Paper for the World Bank’s - Economic Report “Vietnam: Deepening
Reform for Growth”. [e-journal]
< />0foreign1capital1flows01PUBLIC1.pdf> [ Truy cập ngày 22/09/2019].



×