Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

sáng kiến rèn kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh lớp 3 2019

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.02 KB, 25 trang )

TÓM TẮT NỘI DUNG SÁNG KIẾN
Sáng kiến dựa trên kết quả nghiên cứu và áp dụng, thử nghiệm của bản
thân về vấn đề Rèn kĩ năng viết đoạn văn ngắn cho học sinh dân tộc thiểu số lớp
3 tại trường Tiểu học thị trấn Bình Gia. Nội dung của sáng kiến dựa trên các giải
pháp đã có nhưng chưa thực sự đem lại hiệu quả nâng cao khả năng viết đoạn
văn ngắn cho học sinh như rèn kĩ năng quan sát, kĩ năng nói viết thành câu hoàn
chỉnh, mở rộng vốn từ cho học sinh hay bố cục của một đoạn văn. Trên cơ sở
nghiên cứu, bản thân đã tìm ra những cách làm mới để giúp học sinh có kĩ năng
quan sát tốt, mở rộng vốn từ, biết sắp xếp các câu theo lô gich để viết được một
đoạn văn đúng, đủ ý, hay và thể hiện được sự chân thực, tình cảm của học sinh
thông qua mỗi đoạn văn. Sau một thời gian áp dụng, kĩ năng viết đoạn văn ngắn
của học sinh trong lớp được nâng cao rõ rệt. Từ chỗ các em còn lúng túng, e
ngại khi viết đoạn văn thì bây giờ hầu hết các em đều viết được đoạn văn theo
yêu cầu. Thậm chí có học sinh còn có sự sáng tạo, biết thể hiện năng lực và cảm
xúc của mình khi viết đoạn văn.
I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn sáng kiến
Đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng giáo dục luôn là một
vấn đề nóng được Đảng và nhà nước quan tâm.Vì giáo dục là quốc sách hàng
đầu để xây dựng và phát triển đất nước. Việc nâng cao chất lượng dạy học trong
các nhà trường nói chung và trường Tiểu học nói riêng là vấn để trọng tâm của
hoạt động giáo dục trong nhà trường. Giáo dục Tiểu học là bậc học nền móng
của hệ thống giáo dục quốc dân. Ở bậc học này, học sinh được xây dựng và phát
triển về tình cảm, đạo đức, trí đức, thẩm mĩ và thể chất nhằm hình thành nhân
cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong đó, Tiếng Việt là môn học cực
kì quan trọng giúp học sinh hiểu biết về cách sử dụng Tiếng Việt trong giao tiếp
và tư duy; học sinh được rèn các kĩ năng nghe - nói, đọc - viết để phục vụ trong
đời sống và trong học tập. Tuy vậy, đối tượng giáo dục của mỗi vùng, miền lại
1



khác nhau nên các nhà giáo dục cũng phải đưa ra các phương pháp khác nhau để
giúp học sinh đạt được mục tiêu chung của giáo dục.
Trường Tiểu học thị trấn Bình Gia nằm trên địa bàn huyện Bình Gia. Nơi
đây, điều kiện kinh tế địa phương còn nghèo nàn, các hộ gia đình chủ yếu sinh
sống bằng nghề nông nên ít quan tâm đến việc học tập của các em. Học sinh đa
số là người dân tộc thiểu số, vốn sống ít, vốn ngôn ngữ còn nhiều hạn chế nên
gặp không ít khó khăn trong học tập.
Trong những năm trực tiếp giảng dạy, tôi nhận thấy dạng bài yêu cầu viết
đoạn văn, bài văn cực kì khó với tất cả các đối tượng học sinh vì nó đòi hỏi học
sinh phải tổng hợp toàn bộ các kiến thức đã học ở trong tuần từ các dạng bài
Tập đọc, Tập viết, Chính tả, Kể chuyện, Luyện từ và câu. Học sinh lớp 3 các em
cũng vừa mới bắt đầu làm quen với việc viết đoạn văn ở lớp 2 nên các em vẫn
còn lúng túng. Bên cạnh đó vốn hiểu biết và kiến thức của các em còn hạn chế.
Đặc biệt với đối tượng học sinh là người dân tộc thiểu số thì khi học phân môn
này càng gặp nhiều khó khăn. Các em rất hạn chế trong giao tiếp. Có những học
sinh, ở nhà, các em giao tiếp với gia đình, người thân chủ yếu là thông qua tiếng
mẹ đẻ, chỉ khi đến trường các em mới sử dụng tiếng phổ thông. Các em ít được
đi đây đó, tiếp xúc với thế giới xung quanh nên vốn từ của các em rất ít, nhiều từ
ngữ các em không hiểu nghĩa. Đặc biệt việc nói, viết thành câu và sử dụng dấu
câu của các em còn gặp rất nhiều khó khăn. Nên khi yêu cầu viết đoạn văn các
em rất lúng túng, không biết bắt đầu từ đâu và kết thúc ra sao. Với thực trạng
như trên, tôi quyết định nghiên cứu và tìm biện pháp để : “Rèn kĩ năng viết đoạn
văn ngắn cho học sinh lớp 3 trường Tiểu học thị trấn Bình Gia” với mong muốn
nâng cao chất lượng viết văn cho học sinh.
2. Mục tiêu của sáng kiến
Sáng kiến tìm ra được các phương pháp mới giúp học sinh rèn được kĩ
năng quan sát, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng nói viết thành câu hoàn chỉnh từ đó
giúp các em viết được đoạn văn theo yêu cầu.

2



Sáng kiến còn giúp học sinh phát huy được trí tưởng tượng, sự sáng tạo.
Từ đó khơi gợi trong các em tính yêu thiên nhiên, yêu con người, yêu cuộc sống,
hướng các em đến với vẻ đẹp của chân, thiện, mĩ.
3. Phạm vi của sáng kiến : Môn Tiếng Việt lớp 3
Đối tượng: Một số biện pháp rèn kĩ năng viết đoạn văn ngắn cho học sinh
lớp 3 trường Tiểu học thị trấn Bình Gia.
II. CƠ SỞ LÍ LUẬN, CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Cơ sở lí luận
Đất nước ta đang trên đà phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Trong đó sự phát triển của giáo dục được coi là quốc sách hàng đầu của cả
dân tộc. Giáo dục đào tạo đóng vai trò quan trọng là nhân tố chìa khóa, là động
lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Sự nghiệp giáo dục - đào tạo có vị trí quan
trọng trong chiến lược con người, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. “Nguồn tài nguyên và sự giàu có của một quốc gia không phải nằm trong
lòng đất mà chính là nằm trong bản thân con người, trí tuệ con người”. Muốn
tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa thắng lợi phải đẩy mạnh phát triển giáo
dục đào tạo vì giáo dục đào tạo có vai trò quan trọng trong lĩnh vực sản xuất vật
chất xã hội cũng như xây dựng nền văn hóa.
Môn Tiếng Việt là môn học đặc biệt quan trọng vì nó là môn cung cấp
kiến thức để học sinh ứng dụng giao tiếp hằng ngày. Nó giúp các em phát triển
toàn diện, hình thành ở các em những cơ sở của thế giới khoa học, góp phần rèn
luyện trí thông minh, hình thành những tình cảm và thói quen đạo đức tốt đẹp
của con người.
Dạy Tiếng Việt là dạy tiếng mẹ đẻ. Đây là môn học hình thành cho các em
4 kĩ năng cơ bản : nghe, nói, đọc, viết. Phân môn Tập làm văn trong môn Tiếng
Việt hội tụ cả 4 kĩ năng trên nên rất khó đối với học sinh đặc biệt là học sinh lớp
3. Bởi lẽ các em còn nhỏ,vốn kiến thức hạn hẹp, nhiều em lại là người dân tộc
thiểu số nên các em còn hạn chế về ngôn ngữ, giao tiếp. Điền này ảnh hưởng

trực tiếp đến việc học tập của các em nói chung cũng như kĩ năng viết đoạn văn
ngắn nói riêng.
3


2. Cơ sở thực tế
Các môn học ở Tiểu học đều hướng tới phát triển toàn diện con người.
Tuy nhiên học sinh Tiểu học còn nhỏ, các em rất ham chơi nên đòi hỏi người
giáo viên cần khéo léo, sáng tạo trong dạy học. Ứng dụng các phương pháp dạy
học sao cho phù hợp với nội dung bài, đối tượng học sinh và môi trường xung
quanh.
Phân môn Tập làm văn tận dụng các hiểu biết và kĩ năng về Tiếng Việt do
các phân môn khác rèn luyện hoặc cung cấp đồng thời góp phần hoàn thiện
chúng. Để làm được bài văn người nói và viết phải hoàn thiện cả bốn kĩ năng
nghe, nói, đọc, viết, phải vận dụng các kiến thức về Tiếng Việt. Trong quá trình
vận dụng này, các kĩ năng và kiến thức đó dần được hoàn thiện và nâng cao. Học
sinh lớp 3 vốn sống còn ít, vốn hiểu biết về Tiếng Việt còn rất sơ sài. Có nhiều
từ ngữ các em chưa hiểu được nghĩa, kĩ năng nói – viết câu đầy đủ cũng còn rất
hạn chế.
Phân môn Tập làm văn là một phân môn khó. Không những học sinh chưa
hứng thú với môn học này mà cũng rất nhiều giáo viên còn e ngại khi dạy một
tiết Tập làm văn vì chưa tìm ra được các giải pháp giúp học sinh hứng thú với
môn học này. Trong quá trình giảng dạy tại nhà trường, bản thân nhận thấy học
sinh còn rất hạn chế khi viết một đoạn văn. Các em còn mắc rất nhiều lỗi khi
viết đoạn văn như: Viết câu không đầy đủ chủ ngữ, vị ngữ; không biết sử dụng
dấu câu phù hợp; không biết lựa chọn các hình ảnh đẹp, tiêu biểu; một số bài
viết của học sinh còn lộn xộn về câu, ý, dùng từ chưa đúng vào văn cảnh, câu rời
rạc, thiếu sự liên kết; kĩ năng đọc hiểu của học sinh còn chậm. Mặt khác, học
sinh cũng không biết cách trình bày đoạn văn. Khi viết các em thường xuống
dòng khi viết xong một câu hoặc gạch đầu dòng ở mỗi câu. Một số giáo viên

chưa coi trọng việc rèn kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh. Cách dạy của giáo
viên còn đơn điệu, máy móc, giáo viên ngại khai thác các ý tưởng của học sinh
nên hầu hết lệ thuộc vào văn mẫu và hướng học sinh theo cách làm của mình.
Do đó không phát huy được tính tích cực, sáng tạo của học sinh, không khơi
được nguồn hứng thú trong các em.
4


Trước vấn đề này, tôi đã tìm hiểu, suy nghĩ kết hợp với sự tiếp thu ý kiến
của đồng nghiệp, tôi xin đưa ra nội dung nghiên cứu về một số giải pháp Rèn kĩ
năng viết đoạn văn ngắn cho học sinh lớp 3 trường Tiểu học thị trấn Bình Gia
mà tôi đã thực hiện và có hiệu quả.
III. NỘI DUNG SÁNG KIẾN
1. Nội dung và những kết quả nghiên cứu của sáng kiến
1.1 Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến
- Cơ sở vật chất: Nhà trường có đầy đủ phòng học, ánh sáng cho học sinh
học tập. Có các thiết bị dạy học như tranh ảnh, máy chiếu.
- Lãnh đạo nhà trường: Triển khai đầy đủ các văn bản của cấp trên. Quan
tâm và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho giáo viên và học sinh
- Giáo viên: Có trình độ chuyên môn vững vàng; có ý thức tự học, tự
nghiên cứu; tinh thần yêu nghề, yêu trẻ.
- Học sinh: Ngoan ngoãn, có ý thức tự học cao; có tinh thần tìm tòi, học
hỏi.
- Phụ huynh học sinh: Quan tâm đến việc học của con em; tạo mọi điều
kiện để học sinh học tập; thường xuyên liên lạc trao đổi với giáo viên để nắm
được tình hình học tập của con em mình từ đó tìm ra giải pháp phù hợp.
1.2 Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng
Trong quá trình nghiên cứu và thử nghiệm các giải pháp rèn kĩ năng viết
đoạn văn ngắn cho học sinh lớp 3, bản thân đã sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp trực quan, quan sát mẫu.

- Phương pháp phân tích tổng hợp.
- Phương pháp hỏi đáp.
- Phương pháp luyện tập thực hành.
- Phương pháp sử dụng trò chơi học tập.
1.3 Các giải pháp nhằm rèn kĩ năng viết đoạn văn ngắn cho học sinh
lớp 3 trường Tiểu học thị trấn Bình Gia.
5


1.3.1 Giải pháp 1: Rèn kĩ năng quan sát cho học sinh
Quan sát là phương thức học hỏi quan trọng của trẻ nhỏ. Tuy nhiên, học
sinh lớp 3 vốn kinh nghiệm và hiểu biết còn hạn chế, các em chưa biết cách
quan sát cụ thể. Các em chỉ quan sát thoáng qua, hời hợt, thậm chí có em còn
không để ý đến đối tượng cần quan sát. Do vậy khi viết đoạn văn các em chỉ viết
theo bản năng, nghĩ gì viết đó dẫn đến câu văn lủng củng, không sát thực với
yêu cầu đề bài.
- Để rèn luyện kĩ năng quan sát cho học sinh, giáo viên cần hướng dẫn trẻ
quan sát tỉ mỉ, cụ thể và nhiều lần để tìm ra nét riêng tiêu biểu các sự vật, hiện
tượng, nêu bật được các nét chính để tránh bài viết dàn trải, lan man và nhạt
nhẽo. Từ đó giúp học sinh hứng thú, say mê và bộc lộ được cảm xúc của mình
giúp cho đoạn văn sinh động, hấp dẫn.
Ví dụ: Bài 6C: Buổi đầu đi học của em – Hoạt động 5 trang 50
Viết đoạn văn nói về buổi đầu đi học của em theo gợi ý sau:
* Hôm đó em đến trường một mình hay có ai đưa đi ?
* Trên đường tới trường em thấy có những cảnh vật gì ?
* Buổi đầu đi học, điều gì làm em thấy lạ lùng, bỡ ngỡ ?
* Điều gì ở trường khiến em thích nhất?
Với đề bài này giáo viên giúp học sinh nhớ lại buổi đầu đi học của mình
bằng cách trả lời các câu hỏi theo gợi ý. Giáo viên chuẩn bị một số bức tranh về
con đường tới trường của một số học sinh. Sau đó giáo viên hướng dẫn học sinh

quan sát nhưng sự vật tiêu biểu như bầu trời, hình ảnh hai bên đường ( có thể là
nhà cửa, hàng cây, cánh đồng, ngọn núi…), âm thanh ( có thể là tiếng chim,
tiếng người bán hàng, tiếng nói cười của các bạn học sinh cùng tới trường). Tiếp
theo, giáo viên giới thiệu cho các em quan sát bức tranh về khung cảnh trường
học của ngày tựu trường đầu tiên. Hướng các em quan sát hoạt động, tâm trạng
của các bạn học sinh cũ, học sinh mới và thầy cô, khung cảnh xung quanh nhà
6


trường. Khuyến khích các em hồi tưởng, nêu lại tâm trạng của mình trong buổi
đầu tiên đi học và những điều em thích nhất ở trường.
Ví dụ : Ngày đầu tiên đi học em được mẹ đưa tới trường. Đó là một buổi
sáng mùa thu trời cao và trong xanh. Bên đường, tiếng chim hót véo von trên
cành cây. Dưới ruộng, mấy bác nông dân đang gặt lúa sớm. Đến trường, em
thấy rất đông vui. Các anh chị lớn đang ríu rít chuyện trò. Còn những học sinh
mới như chúng em thì rụt rè, bỡ ngỡ đứng sát bên bố mẹ. Chúng em được cô
giáo chủ nhiệm hát tặng bài hát “ Ngày đầu tiên đi học” nên bạn nào cũng thấy
vui và bớt đi vẻ mặt lo lắng lúc đầu. Em thấy ngày đầu tiên đi học là một ngày
thật vui.
- Trong các tiết học, giáo viên nên chuẩn bị vật thật để học sinh được quan
sát chân thực nhất. Đối với những yêu cầu đề bài yêu cầu tả cảnh vật mà không
gần gũi với các em ở miền núi thì giáo viên nên chuẩn bị tranh ảnh hoặc những
video để học sinh quan sát.
1.3.2. Giải pháp 2: Cung cấp vốn từ cho học sinh:
Cung cấp vốn từ cho học sinh là một bước quan trọng bởi muốn có một
đoạn văn tốt thì phải có vốn từ ngữ phong phú. Đối với học sinh lớp 3 thì đây là
vấn đề không hề đơn giản; bởi lẽ đối với học sinh người Kinh thì Tiếng Việt là
tiếng mẹ đẻ nên trước khi đến trường các em đã có vốn từ Tiếng Việt khá phong
phú. Còn với học sinh dân tộc thiểu số thì Tiếng Việt là ngôn ngữ thứ hai, vốn
Tiếng Việt của các em bị hạn chế nhiều đặc biệt với giai đoạn đầu đến trường

lớp 1, lớp 2, lớp 3. Vì vậy vai trò của người giáo viên là phải cung cấp vốn từ
cho các em mọi lúc, mọi nơi.
- Cung cấp vốn từ cho học sinh thông qua các bài tập đọc. Trong các bài
tập đọc, các em được biết thêm nhiều từ mới, với các từ khó các em còn được
giải nghĩa từ ngay trong bài học. Giáo viên nên tích cực giải nghĩa từ cho các
em, có sự so sánh, liên hệ, đối chiếu và sử dụng các tranh ảnh, phương tiện dạy
học để hỗ trợ trong quá trình giải nghĩa từ. Mỗi chủ đề trong tuần đều có bài
văn, bài thơ về chủ đề đó để mở rộng vốn từ cho các em. Vì vậy, khi học các bài
tập đọc, giáo viên nên lưu ý cung cấp các tiếng mới cho học sinh. Đặc biệt, mỗi
khi có từ mới, giáo viên nên yêu cầu các em đặt câu với các từ đó để các em
7


hiểu và nhớ lâu hơn. Ngoài những từ ngữ được giải nghĩa trong bài, giáo viên
nên chú ý những từ khó với học sinh lớp mình hiểu để giải thích cho các em, có
thể liên hệ với tiếng mẹ đẻ để các em hiểu nghĩa của từ.
Ví dụ: Bài 5A: Ai là người dũng cảm? Bài tập đọc “Người lính dũng
cảm”.
Trong bài, đã giải nghĩa một số từ như : Nứa tép, ô quả trám, thủ lĩnh,
hoa mười giờ, nghiêm giọng, quả quyết. Giáo viên cho học sinh quan sát một
đoạn nứa tép, bức tranh hàng rào được xiên theo hình ô quả trám, tranh về hoa
mười giờ để học sinh dễ hình dung. Với các từ nghiêm giọng, quả quyết, giáo
viên yêu cầu học sinh đặt câu như:
Thầy giáo nghiêm giọng hỏi vì sao bạn Nam không làm bài tập về nhà?
Cậu bé quả quyết rằng cậu đã gặp tôi ở đâu đó.
Ngoài ra, giáo viên nên giải thích thêm cho học sinh nghĩa của một số từ như:
phun ra, bí mật, khoát tay, hèn, sững lại…
- Cung cấp vốn từ thông qua các trò chơi. Đó có thể là trò chơi khởi động
hoặc trò chơi qua các bài tập mở rộng vốn từ. Giáo viên tổ chức cho các em chơi
trò chơi thi tìm từ về các chủ điểm đã học.

Ví dụ : Bài 8B Hãy học cảm thông - Hoạt động 3 trang 63( Mở rộng vốn
từ về cộng đồng): Thi Ai xếp từ nhanh. Giáo viên chuẩn bị 4 phiếu học tập. Trên
phiếu học tập chia thành 2 cột. Cột 1: Những người trong cộng đồng, cột 2:
Thái độ, hoạt động trong cộng đồng. Mỗi đội có 6 bông hoa. Trên các mỗi bông
hoa có ghi các từ: cộng đồng, cộng tác, đồng bào, đồng đội, đồng tâm, đồng
hương.
Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm, nhóm trưởng điều khiển, các bạn trong
nhóm thảo luận, xếp bông các bông hoa vào cột tương ứng. Đại diện các nhóm
trình bày kết quả, nhóm nào nhanh và đúng là nhóm thắng cuộc, được tuyên
dương, khen thưởng. Kết quả đúng là
Những người trong cộng đồng

Thái độ, hoạt động trong cộn đồng
8


Cộng đồng

Cộng tác

Đồng bào

Đồng tâm

Đồng đội
Đồng hương
Sau đó, giáo viên tổ chức cho học sinh thi đặt câu với các từ trên. Ví dụ:
Ngày mai, bố tôi đi gặp mặt những người bạn đồng hương.
Chúng ta cùng đồng tâm để giải quyết công việc này.
Ngoài ra, giáo viên khuyến khích học sinh tìm các câu ca dao, tục ngữ

nói về tinh thần đoàn kết, yêu thương của những người sống trong cộng đồng.
Ví dụ: Kề vai sát cánh, lá lành đùm lá rách, một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ…
- Bên cạnh đó, đa số học sinh trong lớp còn phát âm sai chính tả, không
phân biệt được thanh sắc và thanh ngã hoặc các phụ âm đầu như tr/ch, r/gi/d vì
vậy khi có các từ mới chứa các dấu thanh hay các phụ âm này giáo viên nên lấy
ví dụ cụ thể trong từng trường hợp để các em hiểu được rõ nghĩa của từ đến khi
viết văn các em không còn bị nhầm lẫn. Trong các bài tập đọc, giáo viên chú ý
phát âm chuẩn và hướng dẫn các em cách phát âm.
- Giáo viên cần phối kết hợp với nhà trường tổ chức tốt các tiết học ngoại
khóa ( Hội thi An toàn giao thông, Hội thi Mĩ thuật và kể chuyện theo sách, Hội
thi Giao lưu Tiếng Việt của chúng em, Giao lưu các câu lạc bộ…), động viên
khuyến khích các em nhiệt tình tham gia để mở rộng vốn từ, nâng cao kĩ năng sử
dụng Tiếng Việt và cách sử dụng Tiếng Việt vào cuộc sống cũng như trong học
tập.
- Ngoài ra, giáo viên xây dựng thư viện góc lớp, thường xuyên khích lệ
các em đọc sách, đọc truyện tại góc thư viện vừa rèn được kĩ năng đọc, vừa mở
rộng được vốn từ cho các em.
1.3.3. Giải pháp 3: Nói, viết thành câu hoàn chỉnh
9


Học sinh còn nhỏ, lại là người dân tộc thiểu số nên việc nói viết thành câu
của các em có nhiều hạn chế. Mà với lỗi này không phải ngày một, ngày hai là
khắc phục được mà đó phải là cả một quá trình lâu dài, thường xuyên và liên
tục. Ở nhà, bố mẹ các em cũng không mấy khi quan tâm đến vấn đề giao tiếp
của con em mình nên các em lại càng ít có cơ hội để phát triển ngôn ngữ. Hầu
hết các em thường nói thiếu chủ ngữ hay vị ngữ, thường hay nói “ trống không”
nên khi vào viết văn các em không viết đúng, đủ câu, đủ ý. Giáo viên cần rèn kĩ
năng nói viết thành câu thông qua các hoạt động sau:
- Nói được câu đầy đủ thì mới có thể viết được câu đầy đủ vì vậy thông

qua giao tiếp, hằng ngày giáo viên nên rèn luyện cho các em kĩ năng trả lời
thành câu đầy đủ. Ví dụ, giáo viên hỏi một câu thông thường : Bạn đi đâu vậy?
Hầu hết học sinh chỉ trả lời: đi học. Lúc này, giáo viên cần hướng dẫn các em trả
lời như vậy là cụt ngủn, chưa đầy đủ. Các em cần nói đầy đủ câu: Mình đi học.
Giáo viên cần luôn tạo tình huống giao tiếp để rèn kĩ năng trả lời cho các em,
qua các tiết sinh hoạt, các tiết học ngoại khóa hay đơn giản chỉ là cô trò trò
chuyện với nhau vào giờ ra chơi.
- Thông qua các câu hỏi trong bài tập đọc. Với các câu hỏi này, các em
vừa phải hiểu được nội dung câu hỏi, vừa phải trả lời câu hỏi một cách đầy đủ.
Ví dụ: Bài 24 A: Các bạn nhỏ thật tài giỏi
Qua bài tập đọc “Đối đáp với vua” học sinh cần trả lời các câu hỏi tìm
hiểu bài
* Cậu bé Cao Bá Quát gặp vua Minh Mạng ở đâu ?
Học sinh chỉ trả lời : Ở Hồ Tây
Giáo viên hướng dẫn các em: Các em trả lời đúng nhưng chưa đầy đủ.
Các em cần trả lời đầy đủ: Cậu bé Cao Bá Quát gặp vua Minh Mạng ở Hồ Tây.
* Khi đó vua đang làm gì ?
Học sinh trả lời: Khi đó, vua đang đi ngắm cảnh.
10


Có thể trong thời gian đầu để rèn được các em trả lời đầy đủ thì tương đối
khó nhưng tôi tin rằng với sự kiên trì của giáo viên thì sau một thời gian các em
sẽ biết trả lời câu hỏi một cách đầy đủ.
- Trong các tiết học về mẫu câu, giáo viên tạo điều kiện cho học sinh được
luyện nói nhiều về mẫu câu mình đang học. Đây là cơ hội tốt để các em rèn kĩ
năng nói thành câu hoàn chỉnh. Thường xuyên tạo cơ hội để học sinh đặt câu
theo mẫu đã học. Chú ý hướng dẫn các em sử dụng các phép tu từ so sánh, nhân
hóa để các em có thể áp dụng vào viết đoạn văn làm cho đoạn văn sinh động,
hấp dẫn.

Ví dụ:Mẫu câu Ai là gì?
Bài 2B: Ai là con ngoan - Hoạt động 5 trang 14
Đặt câu hỏi cho bộ phận in đậm
Hoạt động này, hai học sinh ngồi cạnh nhau sẽ thay nhau hỏi- đáp. Một
bạn hỏi, một bạn trả lời. Giúp học sinh vừa rèn về mẫu câu Ai?, là gì? Vừa rèn
kĩ năng nói.
Bạn A: Cây gì là hình ảnh thân thuộc của làng quê Việt Nam ?
Bạn B: Cây tre là hình ảnh thân thuộc của làng quê Việt Nam.
Đổi vai:
Bạn B: Ai là những chủ nhân tương lai của Tổ quốc ?
Bạn A : Thiếu nhi là những chủ nhân tương lai của Tổ quốc.
Đổi vai:
Bạn A: Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh là gì?
Bạn B: Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh là tổ chức tập hợp và rèn
luyện thiếu niên Việt Nam.
Sau đó giáo viên yêu cầu mỗi học sinh đặt một câu theo mẫu Ai là gì?
Một số học sinh nêu trước lớp. Ví dụ:
11


Bạn Vũ Hoàng Phong là học sinh giỏi của lớp ta.
Con trâu là người bạn thân thiết của người nông dân.
- Ở lớp 3, học sinh được làm quen với phép nhân hóa và phép so sánh.
Nếu các em biết vận dụng các phép tu từ này vào viết đoạn văn thì sẽ giúp đoạn
văn của các em thêm cụ thể, sinh động, gợi cảm; làm cho thế giới đồ vật, con
vật, cây cối gần gũi với con người hơn. Vì thế trong các tiết học về phép tu từ,
giáo viên tích cực cho học sinh đặt câu trong đó có sử dụng phép tu từ đã học.
Ví dụ: Bài 11A Đất quý, đất yêu – Hoạt động 3 trang 86. Nói về quê
hương em hoặc nơi em đang ở. Học sinh có thể viết như sau:
Quê hương em đẹp biết bao, nơi đây có những ngọn núi trập trùng,

những rừng cây phủ một màu xanh mướt. Quê em có những bác nông dân
quanh năm cần mẫn, chăm chỉ làm việc. Nhưng em thích nhất là những con suối
uốn lượn quanh co như một dải lụa mềm mại quanh năm cung cấp nguồn nước
cho ruộng đồng. Để quê hương giàu đẹp hơn, em sẽ cố gắng học thật giỏi, rèn
luyện tốt để lớn lên xây dựng quê hương.
- Thông qua thảo luận nhóm, với mô hình VNEN thì học sinh thường hoạt
động nhóm là chủ yếu. Qua thảo luận, các em được phát biểu ý kiến, nhận xét,
đánh giá bạn và được trình bày kết quả của nhóm mình. Thông thường, giáo
viên thường cho nhóm trưởng báo cáo kết quả thảo luận của nhóm mình. Vì vậy,
giáo viên nên luân phiên cho các em được làm nhóm trưởng để tất cả các em đều
được rèn kĩ năng nói, kĩ năng trình bày. Qua đó, còn rèn luyện được sự mạnh
dạn, tích cực cho học sinh.
1.3.4. Giải pháp 4: Bố cục của đoạn văn
Giáo viên cần giúp học sinh nắm được bố cục của một đoạn văn gồm:
* Câu mở đầu: Giới thiệu đối tượng cần viết.
* Phát triển đoạn văn: Kể về đối tượng ( dựa vào các gợi ý, mỗi gợi ý có
thể phát triển thành 2-3 câu tùy theo năng lực học sinh).
12


* Câu kết thúc: Câu nói về tình cảm, suy nghĩ, mong ước của em về đối
tượng nêu trong bài hoặc ý nghĩa, lợi ích của đối tượng đối với cuộc sống.
Ví dụ: Bài 28C: Vui chơi có những lợi ích gì? - Hoạt động 3: Viết một
đoạn văn ngắn kể về môn thể thao hoặc trò chơi mà em thích..
Câu mở đầu: Giới thiệu về môn thể thao mình thích : Có nhiều môn thể
thao tốt cho sức khỏe nhưng em thích nhất là môn bóng đá.
Các câu phát triển: Vào mỗi buổi chiều, sau khi tan học, em và mấy bạn
cùng xóm đều ra thửa ruộng gần nhà để chơi đá bóng. Em thường chơi ở vị trí
hậu vệ. Nhiệm vụ của em là giúp đỡ cho thủ môn bảo vệ khung thành, ngăn cản
tiền đạo đối phương tấn công và ghi bàn thắng..

Câu kết thúc: Sau mỗi buổi chiều tập luyện, em thấy mình như khỏe mạnh
hơn, dẻo dai hơn và có thêm sự nhanh nhẹn, bền bỉ. Em rất yêu thích môn thể
thao này..
Giáo viên cần giúp học sinh hiểu có nhiều cách diễn đạt để bài làm được
phong phú, tránh tình trạng dạy học sinh làm theo văn mẫu. Giáo viên nên cho
học sinh nêu ý tưởng của mình, sau đó hướng dẫn các em phát triển ý tưởng đó
để cho bài văn của các em thực sự gần gũi, chân thực qua đó mới phát huy được
tình cảm thật của các em giúp bài văn sinh động, hấp dẫn. Chúng ta không thể
phủ nhận tác dụng của văn mẫu, nhưng nếu lạm dụng văn mẫu quá mức sẽ kìm
hãm trí tưởng tượng của học sinh. Bởi có những bài văn mẫu viết về những nội
có vẻ như rất xa vời với các em. Các em nghe, đọc cảm thấy khó hiểu vì vậy
giáo viên nên lựa chọn những đoạn văn mang tính chân thực, gần gũi để giới
thiệu cho các em.
Ví dụ: Bài 22 C: Để thành người sáng tạo –Hoạt động 5 trang 38: Viết
một đoạn văn ngắn 5-7 câu nói về người lao động trí óc mà em biết.
Có bài đoạn mẫu viết về bố làm biên tập viên của Nhà xuất bản giáo dục,
có đoạn văn viết về kĩ sư công nghệ phần mềm. Những công việc này rất xa lạ
với đa số các học sinh trong lớp nên khi đọc các em cảm thấy rất khó hiểu.
13


Giáo viên nên định hướng các em viết về những người lao động trí óc gần gũi
với các em đó là các thầy cô giáo hoặc các y bác sĩ xung quanh mình.
Bản thân, với các bài tập làm văn, tôi thường chuẩn bị 1-2 đoạn văn mẫu
do mình viết có nội dung gần gũi, thân quen để giới thiệu cho các em, giúp các
em dễ hiểu, dễ viết.
1.3.5. Giải pháp 5: Các bước tiến hành viết đoạn văn trên các câu hỏi
gợi ý
Đối với các bài tập yêu cầu viết đoạn văn ở lớp 3 theo tài liệu hướng dẫn
học VNEN thì lô gô chủ yếu là hoạt động cá nhân. Mà đối với học sinh lớp 3 thì

việc đọc và hiểu được ngay yêu cầu của đề bài cũng là một bước khó. Nên giáo
viên cần chủ động trong việc điểu chỉnh lô gô cho phù hợp với các hoạt động.
Bước 1: Học sinh đọc đề bài và hệ thống câu hỏi gợi ý.
Bước 2: Giáo viên treo hệ thống câu hỏi gợi ý lên bảng và hướng dẫn học
sinh trả lời các câu hỏi này. Hướng dẫn học sinh trả lời miệng và gợi ý cho các
em câu trả lời bằng nhiều ý kiến khác nhau.
Bước 3: Nhận xét và sửa chữa những câu trả lời chưa đúng: Cung cấp và
gợi ý để các em có thể chọn những từ đồng nghĩa thay cho những từ cũ, có thể
hướng dẫn mẫu các câu văn có hình ảnh so sánh hoặc nhân hóa để đoạn văn sinh
động hơn ( khuyến khích những học sinh có năng khiếu).
Bước 4: Hướng dẫn học sinh sắp xếp các câu trả lời đó theo trình tự hợp lí
để hoàn chỉnh bài làm miệng. Giáo viên lưu ý với học sinh, hệ thống câu hỏi cho
trước chỉ là gợi ý, không nhất thiết chúng ta phải viết theo trình tự đó mà có thể
thay đổi, sáng tạo để đoạn văn không mang tính hình thức và chung chung giống
nhau. Với mỗi gợi ý cho trước, chúng ta có thể phát triển thành vài ý nhỏ tùy
theo năng lực của học sinh.
Bước 5: Một số học sinh làm miệng cả bài. Sau đó hướng dẫn học sinh
viết liền mạch các câu trả lời thành một đoạn văn.
14


Bước 6: Giới thiệu những đoạn văn hay của học sinh lớp trước nhằm kích
thích tinh thần học tập của học sinh.
Tiết học viết đoạn văn ngắn theo yêu cầu là tiết học khó, thường là tiết
học chiếm nhiều thời gian. Vì vậy đối với học sinh lớp tôi để hoàn thành trong
40 phút cũng gặp không ít khó khăn. Vì vậy tôi thường định hướng trước cho
các em trong các tiết học buổi hai của hôm trước và dặn dò các em về nhà
nghiên cứu để hôm sau đến lớp các em không bị bỡ ngỡ.
1.3.6. Giải pháp 6: Đánh giá, nhận xét của giáo viên
Nhận xét, đánh giá của giáo viên là bước quan trọng trong tất cả các tiết

học. Trước hết, lời nhận xét phải là lời động viên, khuyến khích học sinh dù đó
là những tiến bộ nhỏ nhất của các em. Nó giúp học sinh nhận ra điểm mạnh của
mình để phát huy và điểm yếu để khắc phục. Đối với bài tập làm văn thì lời
nhận xét của giáo viên lại càng quan trọng, bởi nó không chỉ là lời động viên,
khích lệ mà còn là lời hướng dẫn, nêu ra được các biện pháp để học sinh khắc
phục lỗi của mình. Vì vậy, không phải lời nào giáo viên cũng ghi hết vào vở học
sinh được mà giáo viên chỉ chọn lọc những ý chính, quan trọng để nhận xét vào
vở của các em. Còn nhận xét bằng lời sẽ là những nhận xét tỉ mỉ, đầy đủ để học
sinh lắng nghe và sửa chữa. Đối với những học sinh hay mắc lỗi, giáo viên giúp
các em phát hiện lỗi sai, tìm các khắc phục, lựa chọn các từ thay thế phù hợp.
Với những bài viết có ý hay, giáo viên giúp các em biết gọt giũa, trau chuốt
thêm để đoạn văn hay hơn. Khi sửa bài, giáo viên nên giới thiệu những bài hay
của năm học trước hoặc của học sinh trong lớp để các em tham khảo. Từ đó
nhận thấy sự khác nhau về cách diễn đạt trong cùng một đề tài để các em hiểu
rằng những bài làm thể hiện suy nghĩ độc lập của cá nhân luôn được khích lệ và
tôn trọng.
1.3.7. Giải pháp 7: Phân hóa đối tượng học sinh
Mỗi học sinh đều có trình độ nhận thức khác nhau vì thế người giáo viên
không nên so sánh học sinh này với học sinh kia. Mà với mỗi học sinh, giáo viên
15


cần có những biện pháp giáo dục phù hợp. Học sinh có năng khiếu, giáo viên
luôn tạo điều kiện để các em nêu ý tưởng của mình. Dựa trên ý tưởng có sẵn của
học sinh, giáo viên giúp các em phát triển ý, tìm những hình ảnh đẹp, những chi
tiết nổi bật để viết. Lưu ý khai thác về thái độ, tình cảm của học sinh với đối
tượng được nhắc đến để đoạn văn chân thật, lôi cuốn. Với mỗi một bài văn tả
cảnh nên đặt những câu hỏi gợi ý về cảm xúc: Em cảm thấy điều gì? Em cảm
thấy như thế nào? Em nghĩ gì về khung cảnh này? Em nhớ đến điều gì?... Với
những học sinh đạt chuẩn hoặc đạt chuẩn chưa bền vững, giáo viên lưu ý hướng

dẫn các em viết câu đúng và đủ ý, khai thác những gợi ý có sẵn của đề bài để
học sinh viết được đoạn văn đủ nội dung và trình bày đúng thể thức của đoạn
văn.
1.3.8. Giải pháp 8: Bồi dưỡng năng lực của bản thân
Ngoài việc truyền thụ kiến thức cho học sinh thì giáo viên cũng phải luôn
học tập, bồi dưỡng năng lực cho bản thân. Kiến thức thì luôn mới, muốn có vốn
từ truyền tải cho học sinh thì giáo viên cũng cần nghiên cứu, đọc sách báo, tra
cứu in-tơ-nét để bổ sung và làm mới vốn kiến thức của mình. Học tập và nghiên
cứu tốt các chuyên đề chuyên sâu. Lựa chọn nội dung này làm modul bồi dưỡng
chuyên sâu để vừa tìm hiểu, nghiên cứu và thử nghiệm để tìm ra những biện
pháp hay giúp học sinh viết được các đoạn văn tốt nhất.
2. Thảo luận, đánh giá kết quả thu được
2.1 Tính mới tính sáng tạo
Giải pháp 1: Rèn kĩ năng quan sát cho học sinh
* Phương pháp cũ: Giáo viên chưa quan tâm tới các sản phẩm cho học
sinh quan sát như tranh ảnh, vật thật. Hầu hết giáo viên chỉ cho học sinh quan sát
tranh sẵn có trong sách hướng dẫn. Giáo viên thường để học sinh tự quan sát dẫn
đến tình trạng học sinh không nhận biết được vấn đề chính của đối tượng cần
quan sát, thậm chí có em không quan sát.

16


* Phương pháp mới: Bản thân luôn nghiên cứu bài dạy trước khi lên lớp.
Chuẩn bị đồ dùng dạy học chu đáo, đặc biệt thường xuyên ứng dụng công nghệ
thông tin trong dạy học. Tải các tranh ảnh, các đoạn video liên quan đến bài học
để học sinh được quan sát một cách chân thực nhất. Khi quan sát luôn hướng
dẫn học sinh quan sát tỉ mỉ đối tượng. Tìm ra những điểm chính, điểm nổi bật
cần hướng tới để tránh bài làm của các em lan man, dàn trải.
Giải pháp 2: Cung cấp vốn từ cho học sinh:

* Phương pháp cũ: Giáo viên hạn chế cung cấp vốn từ cho học sinh. Chỉ
cung cấp những từ giải ngĩa sẵn trong sách. Chưa chú trọng việc đặt câu cho học
sinh.
* Phương pháp mới: Ngoài giải nghĩa các từ trong sách, giáo viên tìm
thêm những từ khó đối với học sinh của lớp mình để giải nghĩa thêm cho các
em. Với những từ học sinh khó hình dung, giáo viên nên chuẩn bị tranh ảnh,
máy chiếu để cho các em được quan sát thực tế. Thường xuyên yêu cầu học sinh
đặt câu với các từ mới để các em hiểu rõ nghĩa của từ đồng thời luyện kĩ năng
nói câu hoàn chỉnh cho các em.
Giải pháp 3: Nói, viết thành câu hoàn chỉnh
* Phương pháp cũ: Giáo viên chỉ quan tâm luyện nói thành câu hoàn
chỉnh cho học sinh trong các tiết học luyện nói về mẫu câu. Chưa chú trọng cho
học sinh đặt câu theo mẫu đã học.
* Phương pháp mới: Luyện nói câu hoàn chỉnh cho học sinh ở mọi lúc,
mọi nơi. Luyện trong quá trình giao tiếp hằng ngày, hướng dẫn các em trả lời
các câu hỏi trong bài tập đọc đúng và đủ ý, luyện nói nhiều trong các tiết học về
mẫu câu, đặt câu theo mẫu đã học, sử dụng tốt các phép tu từ khi viết câu văn.
Đặc biệt cho học sinh luân phiên nhau làm nhóm trưởng để luyện kĩ năng nói, kĩ
năng trình bày cho học sinh.
Giải pháp 4: Bố cục của đoạn văn
17


* Phương pháp cũ: Giáo viên thường cho học sinh đọc văn mẫu và viết lại
dựa theo văn mẫu.
* Phương pháp mới: Nêu cho học sinh, bố của đoạn văn luôn có 3 phần:
Giới thiệu, phát triển ý và kết thúc. Từ mỗi ý lớn có thể phát triển rộng ra thành
các ý nhỏ. Giáo viên thường yêu cầu học sinh nêu ý tưởng của mình sau đó giúp
các em phát triển ý trên ý tưởng đó. Chọn lọc các đoạn văn mẫu gần gũi với các
em hoặc giáo viên tự chuẩn bị đoạn văn mẫu cho học sinh tham khảo.

Giải pháp 5: Các bước tiến hành viết đoạn văn trên các câu hỏi gợi ý
* Phương pháp cũ: Giáo viên chưa quan tâm đến việc hướng dẫn các em
trả lời các câu hỏi gợi ý. Tìm từ thay thế các từ trùng lặp. Áp đặt các em viết
đoạn văn theo trình tự gợi ý.
* Phương pháp mới: Hướng dẫn các em trả lời tỉ mỉ các câu hỏi gợi ý.
Khuyến khích các em trả lời bằng nhiều ý tưởng khác nhau. Hướng dẫn học sinh
viết đoạn văn theo trình tự hợp lý, không nhất định phải theo trình tự các câu hỏi
gợi ý.
Giải pháp 6: Đánh giá, nhận xét của giáo viên
* Phương pháp cũ: Chưa quan tâm nhiều đến việc chữa bài, nhận xét bài
cho học sinh. Thường nêu ra lỗi của học sinh mà không nêu ra hướng khắc phục.
* Phương pháp mới : Luôn chú trọng việc nhận xét bài của học sinh. Nhận
xét một cách tỉ mỉ chân thực. Thường xuyên động viên, khuyến khích các em.
Mỗi khi nêu ra lỗi của học sinh, giáo viên thường nêu giải pháp đi kèm để học
sinh hiểu và sửa được lỗi.
Giải pháp 7: Phân hóa đối tượng học sinh
* Phương pháp cũ: Chưa chú trọng vào việc phân hóa đối tượng học sinh.
Với tất cả các học sinh, giáo viên đều đưa ra những yêu cầu như nhau và yêu cầu
học sinh viết được đoạn văn đầy đủ theo các câu hỏi gợi ý. Chưa chú trọng đến
khai thác những học sinh có năng khiếu.
18


* Phương pháp mới: Luôn có sự phân hóa đối tượng học sinh. Nhận xét
học sinh dựa trên sự tiến bộ của mỗi cá nhân. Luôn khuyến khích học sinh có
năng khiếu thể hiện thái độ, tình cảm của bản thân đối với sự việc được viết, sử
dụng các câu có hình ảnh so sánh, nhân hóa để làm cho bài văn sinh động, gần
gũi.
Giải pháp 8: Bồi dưỡng năng lực của bản thân
* Bản thân luôn có ý thức tự học, tự sáng tạo. Đặc biệt chú trọng đến công

tác bồi dưỡng thường xuyên.
2.2. Khả năng áp dụng, nhân rộng:
Với đề tài này có thể áp dụng đối với các em học sinh lớp 3 trường Tiểu
học thị trấn Bình Gia và học sinh các khối lớp 2,4,5 của nhà trường.
3.3. Hiệu quả
a. Đối với học sinh:
Với các phương pháp được áp dụng trong đề tài đã giúp các em nâng cao
được kĩ năng viết đoạn văn ngắn từ đó kích thích sự hứng thú của các em đối với
môn học. Giúp học sinh thêm yêu quê hương, yêu cuộc sống, phát triển khả
năng giao tiếp, bồi dưỡng và nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ.
Bảng so sánh số liệu
Kết quả khảo sát đầu năm:
Tổng số Hoàn
HS

Tỉ lệ

thành

Hoàn

Tỉ lệ

thành

Tỉ lệ

hoàn

tốt

Khảo

Chưa
thành

18

6

33,3

9

50

3

16,7

18

11

61,1

7

38,9

0


0

sát đầu
năm
Thời
điểm
19


hiện tại
Tăng/

Tăng 5

Giảm 2

Giảm 3

Giảm

Tổng số

Hoàn

học sinh

thành tốt

18


6

Tỉ lệ %

Hoàn

Tỉ lệ

Chưa hoàn

thành

%

thành

9

50

3

33,3

Tỉ lệ %

16,7

Kết quả đạt được tính đến thời điểm hiện tại:

Tổng số

Hoàn

học sinh

thành tốt

18

11

Tỉ lệ %

Hoàn

Tỉ lệ

Chưa hoàn

thành

%

thành

7

38,9


0

61,1

Tỉ lệ %

0

- Đối với giáo viên trong trường:
Với kết quả khả quan như trên, kinh nghiệm của tôi đã được đưa ra bàn
bạc trong tổ chuyên môn, trong nhà trường và được sự ủng hộ. Phụ trách
chuyên môn nhà trường đã chỉ đạo áp dụng kinh nghiệm vào dạy đồng bộ
trong khối lớp 3 cũng như các khối lớp khác.
- Đối với phụ huynh:
Qua quá trình học tập, phụ huynh nhận thấy sự tiến bộ của con em mình
về kĩ năng viết văn nên phụ huynh thêm trách nhiệm, nhiệt tình hơn đối với các
20


hoạt động dạy học, giáo dục của nhà trường, có sự phối hợp và hướng dẫn các
em khi học ở nhà.
- Đối với phong trào học tập của xã:
UBND, HĐND, hội khuyến học của xã đã nhận thấy sự thay đổi tích cực
của cô và trò, từ đó đã có sự quan tâm, động viên tốt hơn về mọi mặt để giáo
viên, học sinh có thể dạy và học tốt hơn, góp phần xây dựng và phát triển tốt
hơn Ngành giáo dục của xã nhà./.
IV. KẾT LUẬN
Khi áp dụng các biện pháp trên vào dạy ở từng tiết học hướng dẫn học
sinh viết đoạn văn ngắn, tôi nhận thấy các em không còn sợ dạng bài này. Bản
thân các em đã được đóng vai trò chủ đạo trong tiết học. Tôi thấy rằng, các biện

pháp trên không chỉ áp dụng được với khới lớp 3 mà các khối khác đều áp dụng
được. Nếu giáo viên biết vận dụng linh hoạt các phương pháp trên trong giờ học
thì chắc chắn chất lượng giáo dục, hiệu quả giáo dục của môn Tiếng Việt nói
chung cũng như các tiết tập làm văn nói riêng ngày càng tăng cao rõ rệt. Qua
giai đoạn thử nghiệm, tôi thấy học sinh có tiến bộ rất nhiều. Tuy nhiên, các giải
pháp đưa ra không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót do nó được đúc kết từ
kinh nghiệm giảng dạy của cá nhân. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của Hội
đồng chấm sáng kiến kinh nghiệm. Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN VỊ

CAM ĐOAN CỦA TÁC GIẢ

ÁP DỤNG SÁNG KIẾN

VỀ SÁNG KIÊN

(Ký tên, đóng dấu)

(Ký tên)

Hà Kim Oanh
Vũ Thị Ngọc

XÁC NHẬN CỦA LÃNH ĐẠO PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VỀ
SÁNG KIẾN
21


.................................................................................................................................
.................................................................................................................................

.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính gửi: HĐKH Phòng GD&ĐT huyện Bình Gia

Số
T
T

1

Họ và tên

Nơi
Ngày
công tác
tháng
(hoặc nơi
năm sinh thường
trú)

Chức
danh


Tỷ lệ (%)
đóng góp
Trình vào việc tạo
độ
ra sáng kiến
chuyê
(ghi rõ đối
n môn
với từng
đồng tác giả ,
nếu có)

Trường
PTDTBT Giáo
Cao
Vũ Thị Ngọc
15/7/1988
100%
Tiểu học viên
đẳng
Nà Tàn
1. Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: “Rèn kĩ năng viết đoạn văn

ngắn cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 2 Nà Tàn”.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Phân môn Tiếng Việt lớp 2.
22


3. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: Từ tháng 9 năm 2017 đến tháng
5 năm 2018.

4. Mô tả bản chất của sáng kiến:
* Hiện trạng trước khi áp dụng sáng kiến:
Qua trực tiếp giảng dạy, tôi nhận thấy học sinh lớp 2 vốn sống còn ít, vốn
hiểu biết về Tiếng Việt còn rất sơ sài. Các em học sinh là người dân tộc thiểu số
còn hạn chế trong giao tiếp. Ở nhà, các em giao tiếp với gia đình, người thân chủ
yếu là thông qua tiếng mẹ đẻ, chỉ khi đến trường các em mới sử dụng tiếng phổ
thông. Dân cư sống trong vùng kinh tế đặc biệt khó khăn nên trình độ dân trí còn
thấp, khả năng phát triển ngôn ngữ cho các em hạn chế. Các em ít được đi đây
đó, tiếp xúc với thế giới xung quanh, có em chưa được ra khỏi bản làng nên vốn
từ của các em rất ít, nhiều từ ngữ các em không hiểu nghĩa.
- Đặc biệt việc nói, viết thành câu của các em rất hạn chế. Đa phần ở nhà
các em giao tiếp rất tự nhiên, trả lời câu cụt ngủn, không có chủ ngữ, vị ngữ.
Các em còn sử dụng sai dấu câu, viết sai chính tả.
- Học sinh cũng không biết cách lựa chọn các chi tiết, hình ảnh đẹp, tiêu
biểu để viết. Các em thích hình ảnh nào thì viết về hình ảnh đó nên đoạn văn
các em viết khô khan, kém sinh động, hấp dẫn.
- Một số bài viết của học sinh còn lộn xộn về câu, ý, dùng từ chưa đúng
vào văn cảnh, câu rời rạc, thiếu sự liên kết.
- Kĩ năng đọc hiểu của học sinh còn chậm.
- Mặt khác, học sinh cũng không biết cách trình bày đoạn văn. Khi viết
các em thường xuống dòng khi viết xong một câu hoặc gạch đầu dòng ở mỗi
câu.
- Năm đầu tiên các em làm quen với mô hình trường Tiểu học mới VNEN
nên có nhiều bỡ ngỡ. Khả năng tự học, tự giải quyết vấn đề chưa cao.
*Mục đích của giải pháp:

23


Việc nghiên cứu sáng kiến “Rèn kĩ năng viết đoạn văn ngắn cho học sinh

lớp 2” là một nhiệm vụ quan trọng trong quá trình dạy học. Bởi lẽ đây là khoảng
thời gian đầu tiên học sinh vừa mới làm quen với dạng bài viết văn. Nếu ở thời
gian này, các em được trang bị vốn kiến thức tốt, có nền tảng vững khi viết đoạn
văn thì khi học lên các lớp trên với các dạng bài yêu cầu viết bài văn các em sẽ
không còn lung túng, không mắc lại các lỗi cơ bản khi viết đoạn văn. Bên cạnh
đó còn rèn luyện cho học sinh tình yêu thiên nhiên, yêu con người và cuộc sống.
Giúp các em phát triển toàn diện những phẩm chất đạo đức như tính kiên trì, cẩn
thận, tinh thần kỉ luật và óc thẩm mĩ.
* Các bước thực hiện của giải pháp cải tiến:
- Khảo sát kĩ năng viết đoạn văn ngắn của học sinh lớp 2 Nà Tàn.
- Tìm hiểu những biện pháp giúp học sinh thực hiện tốt kĩ năng viết đoạn
văn phù hợp với đối tượng học sinh.
- Tiến hành áp dụng.
- Phát hiện những ưu, khuyết điểm của giải pháp để tiếp tục tìm ra những
biện pháp mới phù hợp.
5. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
- Học sinh đều là dân tộc thiểu số; vốn ngôn ngữ còn hạn chế; vừa mới bắt
đầu làm quen với viết đoạn văn nên khi làm bài các em thường lúng túng, viết
câu không đúng ngữ pháp, chưa biết cách sử dụng dấu câu, liên kết giữa các câu
còn rời rạc, không viết đúng và đủ ý.
- Giáo viên có kiến thức chuyên môn vững vàng, luôn tự giác học tập để
năng cao trình độ chuyên môn, có trách nhiệm và tình thương yêu học sinh.
- Có đủ cơ sở vật chất phục vụ lớp học.
- Có sự quan tâm của Ban Giám hiệu, đồng nghiệp và phụ huynh học sinh.
6. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tác giả:
Qua việc thực hiện các biện pháp trên, bản thân nhận thấy các em có tiến
bộ rõ rệt khi viết đoạn văn ngắn. Nó không những giúp các em nâng cao được kĩ
24



năng viết đoạn văn mà từ đó còn kích thích sự hứng thú của các em đối với môn
học. Giúp học sinh thêm yêu quê hương, yêu cuộc sống, phát triển khả năng giao
tiếp, bồi dưỡng và nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ.
Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật
và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.

Thiện Hòa, ngày 20 tháng 04 năm 2018
Người viết đơn

Vũ Thị Ngọc

25


×