Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

tieu su nha toan hoc py - ta -go

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.44 KB, 7 trang )

Pythagoras
(gõ Pytago vào mục tìm kiếm)
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(đổi hướng từ Pytago)
Bước tới: menu, tìm kiếm
Triết học Phương Tây
Triết học tiền Socrates
Pythagoras
Tên: Πυθαγόρας - Pythagoras
Sinh: khoảng 582 TCN
Mất: khoảng 507 TCN
Trường phái: Học thuyết Pythagoras
Quan tâm chính: Triết lý toán học
Tư tưởng đáng lưu ý: -
Ảnh hưởng bởi: Thales
Ảnh hưởng tới: Platon
Pythagoras (tiếng Hy Lạp: Πυθαγόρας; tiếng Pháp: Pythagore, tiếng Anh: Pythagoras;
sinh khoảng năm 580 đến 572 TCN - mất khoảng năm 500 đến 490 TCN) là một nhà triết
học người Hy Lạp và là người sáng lập ra phong trào tín ngưỡng có tên học thuyết
Pythagoras. Ông thường được biết đến như một nhà khoa học và toán học vĩ đại. Trong
tiếng Việt, tên của ông thường được phiên âm từ tiếng Pháp thành Pytago.
Pythagoras đã chứng minh được rằng tổng 3 góc của một tam giác bằng 180° và nổi tiếng
nhất nhờ định lý toán học mang tên ông. Ông cũng được biết đến là "cha đẻ của số". Ông
đã có nhiều đóng góp quan trọng cho triết học và tín ngưỡng vào cuối thế kỷ 6 TCN. Về
cuộc đời và sự nghiệp của ông, có quá nhiều các huyền thoại khiến việc tìm lại sự thật lịch
sử không dễ. Pythagoras và các học trò của ông tin rằng mọi sự vật đều liên hệ đến toán
học, và mọi sự việc đều có thể tiên đoán trước qua các chu kỳ.
Mục lục
[giấu]
• 1 Tiểu sử
• 2 Các môn đồ của Pythagoras


• 3 Các tác phẩm
• 4 Ảnh hưởng tới Platon
• 5 Các câu trích dẫn nói về Pythagoras
• 6 Xem thêm
• 7 Tham khảo
• 8 Liên kết ngoài
[sửa] Tiểu sử
Tượng Pythagoras
Pythagoras, người ở giữa với cuốn sách, trong bức Trường Athena của Rafael
Pythagoras sinh tại đảo Samos (Bờ biển phía Tây Hy Lạp), ngoài khơi Tiểu Á. Ông là con
của Pythais (mẹ ông, người gốc Samos) và Mnesarchus (cha ông, một thương gia từ Tyre).
Khi đang tuổi thanh niên, ông rời thành phố quê hương tới Crotone phía nam Ý, để trốn
tránh chính phủ chuyên chế Polycrates. Theo Iamblichus, Thales, rất ấn tượng trước khả
năng của ông, đã khuyên Pythagoras tới Memphis ở Ai Cập học tập với các người tế lễ nổi
tiếng tài giỏi tại đó. Có lẽ ông đã học một số nguyên lý hình học, sau này là cảm hứng để
ông phát minh ra định lý sau này mang tên ông tại đó.
Ngay sau khi di cư từ Samos tới Crotone, Pythagoras đã lập ra một tổ chức tôn giáo kín rất
giống với (và có lẽ bị ảnh hưởng bởi) sự thờ cúng Orpheus trước đó.
Pythagoras đã tiến hành một cuộc cải cách đời sống văn hoá ở Crotone, thúc giục các công
dân ở đây noi theo đạo đức và hình thành nên một giới tinh hoa (elite) xung quanh ông.
Trung tâm văn hoá này có các quy định rất chặt chẽ. Ông mở riêng các lớp cho nam và nữ
sinh. Những người tham gia tổ chức của Pythagoras tự gọi mình là Mathematikoi. Họ sống
trong trường, không được có sở hữu cá nhân và bị yêu cầu phải ăn chay. Các sinh viên
khác sống tại các vùng gần đó cũng được cho phép tham gia vào lớp học của Pythagoras.
Được gọi là Akousmatics, các sinh viên đó được ăn thịt và có đồ sở hữu riêng.
Theo Iamblichus, các môn đồ Pythagoras sống một cuộc sống theo quy định sẵn với các
môn học tôn giáo, các bữa ăn tập thể, tập thể dục, đọc và học triết học. Âm nhạc được coi
là nhân tố tổ chức chủ chốt của cuộc sống này: các môn đồ cùng nhau hát các bài ca tụng
Apollo; họ dùng đàn lyre để chữa bệnh cho tâm hồn và thể xác, ngâm thơ trước và sau khi
ngủ dậy để tăng cường trí nhớ.

Lịch sử của Định lý Pythagoras mang tên ông rất phức tạp. Việc Pythagoras đích thân
chứng minh định lý này hay không vẫn còn chưa chắc chắn, vì trong thế giới cổ đại khám
phá của học trò cũng thường được gán với cái tên của thầy. Văn bản đầu tiên đề cập tới
định lý này có kèm tên ông xuất hiện năm thế kỷ sau khi Pythagoras qua đời, trong các văn
bản của Cicero và Plutarch. Mọi người tin rằng nhà toán học Ấn Độ Baudhayana đã tìm ra
Định lý Pythagoras vào khoảng năm 800 TCN, 300 năm trước Pythagoras.
Ngày nay, Pythagoras được kính trọng với tư cách là người đề xướng ra Ahlu l-Tawhīd,
hay đức tin Druze, cùng với Platon.
[sửa] Các môn đồ của Pythagoras
Bài chính: Học thuyết Pythagoras
Trong tiếng Anh, môn đồ của Pythagoras thường được gọi là "Pythagorean". Đa số họ
được nhớ đến với tư cách là các nhà triết học toán và họ đã để lại ảnh hưởng trên sự hình
thành các tiên đề hình học, sau hai trăm năm phát triển đã được Euclid viết ra trong cuốn
Elements. Các môn đồ Pythagoras đã tuân thủ một quy định về sự im lặng được gọi là
echemythia, hành động vi phạm vào quy định này sẽ dẫn tới án tử hình. Trong cuốn tiểu sử
Pythagoras (được viết bảy thế kỷ sau thời ông) Porphyry đã bình luận rằng sự im lặng này
"không phải hình thức thông thường." Các môn đồ Pythagoras được chia vào nhóm trong
được gọi là mathematikoi (nhà toán học), nhóm ngoài là akousmatikoi (người nghe).
Porphyry đã viết "các mathematikoi học chi tiết và tỉ mỉ hơn về sự hiểu biết, akousmatikoi
là những người chỉ được nghe giảng về các tiêu đề rút gọn trong các tác phẩm (của
Pythagoras), và không được giảng giải rõ thêm". Theo Iamblichus, akousmatikoi là các
môn đồ thông thường được nghe các bài giảng do Pythagoras đọc từ sau một bức màn. Họ
không được phép nhìn thấy Pythagoras và không được dạy những bí mật bên trong của sự
thờ phụng. Thay vào đó, họ được truyền dạy các quy luật đối xử và đạo đức dưới hình thức
khó hiểu, những câu nói ngắn gọn ẩn dấu ý nghĩa bên trong. Akousmatikoi coi
mathematikoi là các môn đồ Pythagoras thật sự, nhưng mathematikoi lại không coi
akousmatikoi như vậy. Sau khi lính của Cylon, một môn đồ bất mãn, giết Pythagoras và
một số mathematikoi, hai nhóm này hoàn toàn chia rẽ với nhau, với vợ Pythagoras là
Theano cùng hai cô con gái lãnh đạo nhóm mathematikoi.
Theano, con gái của Brontinus, là một nhà toán học. Bà được cho là người đã viết các tác

phẩm về toán học, vật lý, y học và tâm lý học trẻ em, dù không tác phẩm nào còn tồn tại
đến ngày nay. Tác phẩm quan trọng nhất của bà được cho là về các nguyên lý của sự trung
dung. Ở thời phụ nữ thường bị coi là vật sở hữu và chỉ đóng vai trò người nội trợ,
Pythagoras đã cho phép phụ nữ có những hoạt động ngang quyền với nam giới trong tổ
chức của ông.
Tổ chức của Pythagoras gắn liền với những điều ngăn cấm kỳ lạ và mê tín, như không
được bước qua một thanh giằng, không ăn các loại đậu (vì bên trong đậu "có chứa" phôi
thai người). Các quy định đó có lẽ tương tự với những điều mê tín thời sơ khai, giống như
"đi dưới một cái thang sẽ bị đen đủi," những điều mê tín không mang lại lợi ích nhưng
cũng không nên bỏ qua. Tính ngữ mang tính lăng nhục mystikos logos (bài nói thần bí) đã
từng hay được dùng để miêu tả các công việc của Pythagoras với mục đích lăng mạ ông.
Hàm ý ở đây, akousmata có nghĩa là "các quy định," vì thế những điều cấm kỵ mê tin ban
đầu được áp dụng cho những akousmatikoi, và nhiều quy định có lẽ đã được tạo ra thêm
sau khi Pythagoras đã chết và cũng không liên quan gì đến các mathematikoi (được cho là
những người duy nhất gìn giữ truyền thống của Pythagoras). Mathematikoi chú trọng nhiều
hơn tới sự hiểu tường tận vấn đề hơn akousmatikoi, thậm chí tới mức không cần thiết như
ở một số quy định và các nghi lễ tâm linh. Đối với mathematikoi, trở thành môn đồ của
Pythagoras là vấn đề về bản chất thiên phú và sự thấu hiểu bên trong.
Các loại đậu, màu đen và trắng, là phương tiện sử dụng trong các cuộc biểu quyết. Câu
châm ngôn "abstain from beans" (tránh xa đậu) trong tiếng Anh có lẽ đơn giản chỉ sự hô
hào không tham gia bỏ phiếu. Nếu điều này đúng, có lẽ nó là một ví dụ tuyệt vời để biết
các ý tưởng đã có thể bị bóp méo như thế nào khi truyền từ người này qua người khác và
không đặt trong đúng hoàn cảnh. Cũng có một cách khác để tránh akousmata - bằng cách
nói bóng gió. Chúng ta có một số ví dụ như vậy, Aristotle đã giải thích cho họ: "đừng bước
qua cái cân", nghĩa là không thèm muốn; "đừng cời lửa bằng thanh gươm", nghĩa là không
nên bực tức với những lời lẽ châm chích của một kẻ đang nóng giận; "đừng ăn tim", nghĩa
là không nên bực mình với nỗi đau khổ, vân vân. Chúng ta có bằng chứng về sự ngụ ý kiểu
này đối với các môn đồ Pythagoras ít nhất ở thời kỳ đầu thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên.
Nó cho thấy rằng những câu nói kỳ lạ rất khó hiểu đối với người mới gia nhập.
Các môn đồ Pythagoras cũng nổi tiếng vì lý thuyết luân hồi của tâm hồn, và chính họ cũng

cho rằng các con số tạo nên trạng thái thực của mọi vật. Họ tiến hành các nghi lễ nhằm tự
làm trong sạch và tuân theo nhiều quy định sống ngày càng khắt khe mà họ cho rằng sẽ
khiến tâm hồn họ tiến lên mức cao hơn gần với thượng đế. Đa số những quy định thần bí
liên quan tới tâm hồn đó dường như liên quan chặt chẽ tới truyền thống Orpheus. Những
tín đồ Orpheus ủng hộ việc thực hiện các lễ nghi gột rửa tội lỗi và lễ nghi để đi xuống địa
ngục. Pythagoras có liên hệ chặt chẽ với Pherecydes xứ Syros, nhà bình luận thời cổ được
cho là người Hy Lạp đầu tiên truyền dạy thuyết luân hồi tâm hồn. Các nhà bình luận thời
cổ đồng ý rằng Pherecydes là vị thầy có ảnh hưởng lớn nhất tới Pythagoras. Pherecydes đã
trình bày tư tưởng của mình về tâm hồn thông qua các thuật ngữ về một pentemychos
("năm góc" hay "năm hốc ẩn giấu") - nguồn gốc có lẽ thích hợp nhất giải thích việc các
môn đồ Pythagoras sử dụng ngôi sao năm cánh làm biểu tượng để nhận ra nhau giữa họ và
biểu tượng của sức mạnh bên trong (ugieia).
Cũng chính các môn đồ Pythagoras đã khám phá ra rằng mối quan hệ giữa các nốt nhạc có
thể được thể hiện bằng các tỷ lệ số của một tổng thể nhỏ số (xem Pythagorean tuning). Các
môn đồ Pythagoras trình bày tỉ mỉ một lý thuyết về các con số, ý nghĩa thực sự của nó hiện
vẫn gây tranh cãi giữa các học giả.
[sửa] Các tác phẩm
Không văn bản nào của Pythagoras còn tồn tại tới ngày nay, dù các tác phẩm giả mạo tên
ông - hiện vẫn còn vài cuốn - đã thực sự được lưu hành vào thời xưa. Những nhà phê bình
thời cổ như Aristotles và Aristoxenus đã tỏ ý nghi ngờ các tác phẩm đó. Những môn đồ
Pythagoras thường trích dẫn các học thuyết của thầy với câu dẫn autos ephe (chính thầy
nói) - nhấn mạnh đa số bài dạy của ông đều ở dạng truyền khẩu. Pythagoras xuất hiện với
tư cách một nhân vật trong tác phẩm Metamorphoses của Ovid, trong đó Ovid đã để
Pythagoras được trình bày các quan điểm của ông.
[sửa] Ảnh hưởng tới Platon

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×