Tải bản đầy đủ (.pdf) (165 trang)

Luận án tiến sĩ chuyên ngành chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử vấn đề tự do và trách nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học, công nghệ và b

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 165 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ KIM HỒNG

VÊN §Ò Tù DO Vµ TR¸CH NHIÖM §¹O §øC
TRONG HO¹T §éNG KHOA HäC, C¤NG NGHÖ Vµ BµI HäC
§èI VíI VIÖT NAM HIÖN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2018


HC VIN CHNH TR QUC GIA H CH MINH

NGUYN TH KIM HNG

VấN Đề Tự DO Và TRáCH NHIệM ĐạO ĐứC
TRONG HOạT ĐộNG KHOA HọC, CÔNG NGHệ Và BàI HọC
ĐốI VớI VIệT NAM HIệN NAY

LUN N TIN S
CHUYấN NGNH: CH NGHA DUY VT BIN CHNG
V CH NGHA DUY VT LCH S
Mó s: 62 22 03 02

NGI HNG DN KHOA HC: 1. PGS.TS. NGUYN ANH TUN
2. TS. PHAN MNH TON


H NI - 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
Tác giả

Nguyễn Thị Kim Hồng


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. Những công trình nghiên cứu lý luận chung về tự do và trách nhiệm
đạo đức trong hoạt động khoa học, công nghệ
1.2. Những công trình nghiên cứu về nội dung của vấn đề tự do và trách nhiệm
đạo đức trong hoạt động khoa học, công nghệ
1.3. Những công trình nghiên cứu về bài học trong việc kết hợp hài hòa giữa
tự do và trách nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học, công nghệ ở
Việt Nam hiện nay

1.4. Giá trị của những công trình được tổng quan và những vấn đề luận án cần
tiếp tục nghiên cứu, làm sáng tỏ thêm

9
9
24

28
33

Chương 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỰ DO VÀ TRÁCH
NHIỆM ĐẠO ĐỨC TRONG HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ

35

2.1. Quan niệm về tự do và trách nhiệm đạo đức
2.2. Tự do, trách nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học, công nghệ
2.3. Mối quan hệ giữa đạo đức và khoa học, công nghệ

35
57
62

Chương 3: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TỰ DO VÀ TRÁCH NHIỆM
ĐẠO ĐỨC TRONG HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ

71

3.1. Tự do trong hoạt động khoa học, công nghệ
3.2. Trách nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học, công nghệ


71
92

Chương 4: TỰ DO VÀ TRÁCH NHIỆM ĐẠO ĐỨC TRONG HOẠT ĐỘNG
KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ: MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ BÀI HỌC ĐỐI
VỚI VIỆT NAM HIỆN NAY

4.1. Một số vấn đề về tự do và trách nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học,
công nghệ được đặt ra hiện nay
4.2. Bài học đối với các tổ chức, cá nhân tham gia nghiên cứu và ứng dụng
khoa học, công nghệ
4.3. Bài học đối với Nhà nước Việt Nam trong việc quản lý hoạt động nghiên
cứu khoa học và ứng dụng công nghệ hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

116
117
122
128

141
143
144
159



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

AIDS : Acquired Immuno Deficiency Syndrom (Hội chứng suy giảm miễn dịch
mắc phải)
CDC

: Centers for Disease Control and Prevention (Trung tâm phòng chống
dịch bệnh Hoa Kỳ)

GDP

: Gross Dimestic Product (Tổng sản phẩm quốc nội)

GLP

: Good Laboratory Practice (Hệ thống an toàn chất lượng phòng thí nghiệm)

GMP

: Good Manufacturing Practice (Tiêu chuẩn Thực hành sản xuất tốt)

NGOs : Non-Governmental Organizations (Các tổ chức phi chính phủ)
Nxb

: Nhà xuất bản


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, con người
đang phải quan tâm đến những vấn đề lớn như ô nhiễm, hủy hoại môi trường,
nghịch lý giữa các thành tựu công nghệ với thái độ ứng xử đạo đức của con
người, hay những tác động của toàn cầu hóa đến tiến Bộ Khoa học, công nghệ
và đến đời sống của con người… Tất cả đều đang đặt ra những nhiệm vụ
nghiên cứu lý luận và giải quyết thực tiễn. Nổi lên hàng đầu trong số đó là các
vấn đề đạo đức nói chung, và tự do, trách nhiệm của con người trong sự phát
triển khoa học, công nghệ nói riêng.
Bước sang thế kỷ XXI, khoa học và công nghệ hiện đại đã có những
phát triển vượt bậc, đạt được nhiều thành tựu to lớn. Song, bên cạnh đó là
những hiểm họa của việc ngày càng gia tăng những tác động xấu đến con
người và xã hội từ những mặt trái của chính sự phát triển đó. Điều này đã đặt
ra nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách cần giải quyết, trong đó phải trả
lời được cho câu hỏi: làm sao có thể kết hợp hài hòa giữa tự do sáng tạo và
trách nhiệm, đặc biệt là trách nhiệm đạo đức của các chủ thể trong các hoạt
động khoa học, công nghệ, vì một sự phát triển lành mạnh của khoa học, công
nghệ - nơi con người có thể bộc lộ hết các khả năng của mình, cũng như sự
phát triển chung của xã hội loài người?
Trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, và hội nhập
quốc tế, Việt Nam đã cố gắng tiếp thu và ứng dụng nhiều thành tựu khoa học,
công nghệ của thế giới, dành nhiều nguồn lực đầu tư phát triển nghiên cứu
khoa học và ứng dụng công nghệ. Những thành tựu tuy còn ít ỏi của khoa
học, công nghệ nước nhà đã tạo đà cho đất nước phát triển trên nhiều mặt từ
kinh tế đến chính trị, văn hóa,... Tuy nhiên, bên cạnh việc nhận thức được vai
trò to lớn của khoa học, công nghệ đối với sự phát triển đất nước, chúng ta


2
cần hiểu sâu sắc những vấn đề nảy sinh trong hoạt động khoa học, công nghệ,
như vấn đề: quyền tự do, môi trường tự do... trong sáng tạo và ứng dụng khoa

học vào sản xuất và đời sống; vấn đề xử lý trách nhiệm của các chủ thể hoạt
động trong lĩnh vực khoa học, công nghệ như thế nào? Phải có những biện
pháp cụ thể nào để có thể phát huy tối đa sức mạnh của khoa học, công nghệ
mà vẫn đảm bảo kết hợp hài hòa giữa tự do và trách nhiệm của các cá nhân, tổ
chức hoạt động trong lĩnh vực trên?
Với ý nghĩa đó, chúng tôi cho rằng, việc lựa chọn nghiên cứu đề tài
Vấn đề tự do và trách nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học, công nghệ và
bài học đối với Việt Nam hiện nay là một việc làm có ý nghĩa lý luận chung
không chỉ góp phần làm rõ hơn mối liên hệ biện chứng giữa tự do và trách
nhiệm trong hoạt động khoa học, công nghệ, mà còn có ý nghĩa thực tiễn đối
với sự phát triển của khoa học, công nghệ đất nước ta trong bối cảnh hiện nay.
Dưới đây là một số điểm cụ thể hóa tính cấp thiết nêu trên của đề tài:
Thứ nhất, tự do vừa là bản chất tự nhiên, vừa là khát vọng thường trực
của mỗi người. Ai cũng yêu tự do, ai cũng khát khao tự do. Tự do mạnh mẽ
và vĩ đại đến nỗi tìm kiếm nó trở thành bản năng sống còn của con người.
Càng thiếu tự do, con người càng khát khao tự do, giống như sự thèm muốn
bị thôi thúc bởi cơn khát khi không có nước. Chính vì thế, khó có ai yên phận
sống trong sự nô dịch của người khác và không một dân tộc nào cam chịu
sống trong sự thống trị của dân tộc khác. Các cuộc kháng chiến chính là đề
giải phóng con người ra khỏi sự nô dịch và kiềm tỏa. Tự do vừa cụ thể lại vừa
trừu tượng, vì thế, đúng như tên gọi, tự do không chịu khuôn mình vào bất kỳ
khuôn mẫu nào, ngay cả trong những nỗ lực của các nhà triết học, các nhà
khoa học ở mọi thời đại nhằm mô tả và lý giải nó. Có lẽ vì thế, cho nên đến
nay, tự do vẫn là cái gì đó vừa quen thuộc vừa xa lạ đối với con người. Nhận
thức của nhân loại về tự do tập trung nhiều ở những phát hiện của các nhà
triết học thời kỳ Khai sáng. Trong khi đó, với tư cách là một đối tượng quan


3
trọng của triết học, bên cạnh những nội dung nguyên thủy, khái niệm tự do

vẫn không ngừng vận động và ngày càng cuốn thêm vào mình nhiều nội dung
mới. Đặc biệt là việc xem xét tự do trong mối quan hệ biện chứng không thể
tách rời với trách nhiệm. Tự do và trách nhiệm là hai khái niệm đã được
nghiên cứu, tiếp cận riêng biệt từ các góc nhìn xã hội học, đạo đức học, luật
học… Song, vẫn rất cần một tiếp cận triết học để nghiên cứu mối liên hệ giữa
chúng một cách khái quát, có hệ thống. Để chúng đi vào cuộc sống không bao
giờ là những khái niệm đứng riêng biệt với nhau.
Thứ hai, về mặt lý luận, tự do và trách nhiệm là hai phương diện của một
vấn đề. Không thể có trách nhiệm mà không được lựa chọn giá trị và hoạt
động, cũng như không thể có tự do thuần túy không liên quan gì đến trách
nhiệm đối với người khác, đối với xã hội.
Về mặt thực tiễn, tự do và trách nhiệm hình thành, phát triển trong tiến
trình lịch sử của nhân loại, cũng như của các cộng đồng người và là mục tiêu,
động lực của sự phát triển xã hội và con người. Trong bối cảnh khoa học và
công nghệ phát triển mạnh mẽ như hiện nay, thì tự do và trách nhiệm của con
người càng được mở rộng và nâng cao hơn bao giờ hết, nhưng cũng đang
ngày càng phải chịu những thách thức nghiêm trọng. Tự do ở đây vẫn gắn với
trách nhiệm nhưng đây đó đã có hiện tượng tự do buông xuôi không chịu
trách nhiệm hoặc ít chịu trách nhiệm. Bởi vậy, nâng cao trách nhiệm của mỗi
người và của toàn nhân loại trong việc giải quyết những vấn đề toàn cầu do
hoạt động này gây ra là con đường tất yếu để phát triển tự do của con người
và loài người.
Thứ ba, cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại đang tác động sâu
sắc đến quá trình phát triển của các nước, nhất là các nước đang phát triển
như Việt Nam hiện nay. Nó trở thành nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát
triển của xã hội, đưa nhân loại tiến vào một nền văn minh mới. Tuy nhiên,
cùng với sự bùng nổ của cách mạng khoa học, công nghệ thì rất nhiều những


4

nghiên cứu lý thuyết và nhất là ứng dụng của chúng đã để lại những hậu quả
nghiêm trọng đối với sự phát triển của loài người. Tự do là điều kiện, là động
lực cho sự phát triển của khoa học, công nghệ hiện đại, nhưng trách nhiệm xã
hội đối với những hậu quả của cuộc cách mạng này như thế nào cũng là một
vấn đề nhức nhối được đặt ra và cần giải quyết.
Thứ tư, nền văn minh tiện nghi công nghệ dưới sự tác động của kinh tế
thị trường, bên cạnh những mặt tích cực mà nó đem lại, thì cũng không thể
phủ nhận những tác động tiêu cực của nó đối với môi trường và xã hội. Môi
trường sinh thái bị phá vỡ, con người trở nên dường như vô cảm, thờ ơ hơn
trước các vấn đề của bản thân mình, người ta đang có xu hướng đề cao thái
quá chủ nghĩa cá nhân, “cái tôi”, coi trọng đồng tiền hơn các giá trị đạo đức,
văn hóa… Chính điều đó đã làm cho một bộ phận giảm sút trách nhiệm của
mình với chính mình và với toàn xã hội. Những hoạt động vì lợi ích cá nhân
đang diễn ra ngày càng “lệch chuẩn” so với những giá trị đạo đức cơ bản.
Trong hoạt động khoa học, công nghệ, việc giải quyết tích cực mối quan hệ
giữa tự do và trách nhiệm (đặc biệt là trách nhiệm đạo đức) cũng là một trong
những vấn đề bức thiết hiện nay.
Thứ năm, bước vào thế kỷ XXI, Việt Nam đã cố gắng tiếp thu và
ứng dụng các thành tựu khoa học và cộng nghệ của thế giới. Những thành
tựu của khoa học và công nghệ đã tạo đà cho sự phát triển của nền kinh tế,
giúp chúng ta đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Hiến pháp năm 2013 nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
ghi rõ: “Phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, giữ vai
trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước”
[37]. Đại hội Đảng lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam cũng nhấn
mạnh: “Khoa học và công nghệ phải trở thành nền tảng và động lực cho
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.


5

Tuy nhiên, bên cạnh việc nhận thức được vai trò to lớn của khoa học và
công nghệ đối với sự phát triển của đất nước, chúng ta cần chỉ ra được những
vấn đề cần giải quyết và biện pháp cụ thể để phát huy sức mạnh của khoa học
và công nghệ, trong đó những vấn đề liên quan đến quyền tự do, môi trường
tự do… trong sáng tạo và ứng dụng các thành tựu khoa học trong các hoạt
động khoa học, công nghệ là những vấn đề cấp thiết được đặt ra trong giai
đoạn hiện nay. Đồng thời, cần tìm ra được những giải pháp để ngăn chặn và
giải quyết tốt nhất những hậu quả của những ứng dụng khoa học, công nghệ
gây ra đối với đất nước và đối với nhân loại. Đây không chỉ là một nhiệm vụ
nặng nề của Đảng, Nhà nước và dân tộc ta, mà còn là trách nhiệm và nghĩa vụ
của mỗi con người Việt Nam.
Có thể khẳng định rằng, vấn đề tự do và trách nhiệm, đặc biệt là trách
nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học, công nghệ, có ý nghĩa xã hội, khoa
học và chính trị to lớn, là một trong những vấn đề triết học cấp thiết nhất hiện
nay rất cần được suy ngẫm và tiếp tục nghiên cứu thấu đáo. Tự do và trách
nhiệm, trong khi ra nhập vào cấu trúc của tồn tại và ý thức của mỗi người,
trong khi là những nhu cầu xã hội cao nhất của cá nhân, đang đòi hỏi sự luận
chứng lý thuyết trong thời kỳ phát triển mới của xã hội nhằm mục đích hiện
thực hóa chúng vào thực tiễn.
Xuất phát từ những lý do cơ bản đó, tôi lựa chọn đề tài “Vấn đề tự do và
trách nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học, công nghệ và bài học đối
với Việt Nam hiện nay” làm luận án tiến sĩ triết học, chuyên ngành chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án
Luận án phân tích những nội dung cơ bản của vấn đề tự do và trách
nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học, công nghệ trên thế giới nói chung


6

và ở Việt Nam hiện nay nói riêng; luận giải để rút ra những bài học đối với
Việt Nam hiện nay trong việc kết hợp hài hòa giữa tự do và trách nhiệm đạo
đức trong hoạt động khoa học, công nghệ.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Một là, tổng quan các công trình nghiên cứu về tự do và trách nhiệm đạo
đức trong hoạt động khoa học, công nghệ.
Hai là, làm rõ những vấn đề lý luận chung về tự do và trách nhiệm đạo
đức trong hoạt động khoa học, công nghệ.
Ba là, phân tích những nội dung cơ bản về tự do và trách nhiệm đạo đức
trong hoạt động khoa học, công nghệ.
Bốn là, khái quát những vấn đề đặt ra và rút ra những bài học đối với
Việt Nam hiện nay trong việc kết hợp hài hòa giữa tự do và trách nhiệm đạo
đức trong hoạt động khoa học, công nghệ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án
Vấn đề tự do và trách nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học,
công nghệ
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án
- Phạm vi về nội dung: Luận án nghiên cứu những nội dung cơ bản của
vấn đề tự do và trách nhiệm đạo đức trong hoạt động nghiên cứu khoa học và
hoạt động ứng dụng công nghệ. Từ việc phân tích những nội dung cơ bản đó,
luận án rút ra một số bài học đối với Việt Nam hiện nay trong việc kết hợp hài
hòa giữa tự do và trách nhiệm đạo đức trong lĩnh vực hoạt động này.
- Phạm vi không gian và thời gian nghiên cứu: Tự do và trách nhiệm đạo
đức trong hoạt động khoa học, công nghệ ở Việt Nam từ năm 2007 đến nay năm đánh dấu Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương
mại thế giới (WTO).


7
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án

4.1. Cơ sở lý luận của luận án
Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử, nhất là phần
lý luận về quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Đề tài cũng dựa trên
những quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò của
khoa học, công nghệ trong tiến trình phát triển của đất nước.
Ngoài ra, luận án cũng được thực hiện trên cơ sở tiếp thu kết quả của
những công trình khoa học trong và ngoài nước thời gian qua có liên quan đến
đề tài.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận biện
chứng duy vật, sử dụng các phương pháp như trừu tượng hóa khoa học, thống
nhất lịch sử - lôgic, thống nhất phân tích - tổng hợp. Luận án còn sử dụng các
phương pháp đối chiếu, so sánh, thống kê...
5. Đóng góp mới của luận án
- Luận án phân tích một cách có hệ thống các quan niệm về tự do và
trách nhiệm đạo đức cũng như mối quan hệ giữa chúng trong lịch sử tư tưởng
triết học phương Tây.
- Luận án phân tích sự biểu hiện của tự do và trách nhiệm đạo đức trong
hoạt động khoa học, công nghệ trên thế giới nói chung, ở Việt Nam nói riêng.
Từ đó, luận án khái quát những vấn đề đặt ra và rút ra một số bài học đối với
Việt Nam hiện nay trong việc kết hợp hài hòa giữa tự do và trách nhiệm đạo
đức trong hoạt động khoa học, công nghệ.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa khoa học của luận án
Những vấn đề mà luận án đề cập và giải quyết sẽ góp phần làm sáng tỏ lý
luận về vấn đề tự do và trách nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học, công
nghệ và bài học đối với Việt Nam hiện nay.


8

6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án
Luận án có thể làm tư liệu tham khảo cho sinh viên, học viên cao học và
những người quan tâm nghiên cứu về đạo đức học, cũng như cho những
người quan tâm đến các vấn đề về lý luận và thực tiễn phát triển khoa học,
công nghệ trên thế giới và Việt Nam.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận án gồm 4 chương, 12 tiết.


9
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

Đã có những công trình nghiên cứu đề cập đến từng nội dung nhất định
trong hệ vấn đề tự do và trách nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học, công
nghệ và bài học đối với Việt Nam hiện nay. Vì vậy, khi tổng quan những vấn
đề này, chúng tôi đã có điều kiện tiếp xúc với nguồn tài liệu khá phong phú.
Để giải quyết những nhiệm vụ do luận án đặt ra, tác giả đã tổng quan tình
hình nghiên cứu theo nội dung chính các chương của luận án. Tác giả luận án
sắp xếp những tài liệu đó thành những nhóm chính như sau:
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỰ DO VÀ
TRÁCH NHIỆM ĐẠO ĐỨC TRONG HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ

1.1.1. Những nghiên cứu lý luận chung về tự do và trách nhiệm
đạo đức
Lịch sử tư tưởng nhân loại đã ghi nhận rất nhiều quan niệm khác nhau về
tự do và trách nhiệm. Trong quá trình phát triển của xã hội loài người, tự do
và trách nhiệm, được nhìn nhận dưới nhiều giác độ khác nhau như triết học,

đạo đức học, chính trị học, văn hóa học… Tuy nhiên, đa số các công trình
nghiên cứu về tự do, về trách nhiệm, cũng như tư tưởng nhìn nhận tự do và
trách nhiệm trong mối liên hệ biện chứng, chỉ mới được bắt đầu từ những năm
90 của thế kỷ XX. Những công trình này bao gồm những cuốn sách, các bài
báo trên tạp chí, các đề tài nghiên cứu... Chúng ta có thể kể đến những công
trình như:
E. Fromm - một nhà triết học Mỹ trong tác phẩm "Trốn thoát tự do"
(Begstvo ot svobody) [53], được dịch giả Bùi Thanh Châu dịch sang Tiếng
Việt, đã phân tích sâu sắc mối quan hệ giữa tự do và trách nhiệm ở các thời
đại lịch sử khác nhau, nhất là trong thời kỳ chuyển biến từ xã hội phong kiến


10
sang xã hội tư bản. Theo tác giả, sở dĩ người ta phải chạy trốn tự do, không
dám đón nhận tự do bởi càng tự do bao nhiêu, thì trách nhiệm của con người
với chính bản thân mình cũng như với xã hội cũng từ đó mà tăng theo [53,
tr.124-132]. Mà dám chịu trách nhiệm là năng lực rất khiếm khuyết ở con
người đại chúng, phần lớn nhân loại không có năng lực này, họ đã quen sống
dựa dẫm, ỷ lại, đã có người khác chỉ bảo phải làm gì, nghĩ hộ mình rồi, phải
trái, đúng sai đã có người khác, họ không phải chịu trách nhiệm gì nữa. Trong
tác phẩm này, E. Fromm không đưa ra quan niệm của mình về tự do, hay
không đi sâu theo hướng phân tích thế nào là tự do nhưng đã phần nào đó đề
cập đến một trong những khía cạnh của quan niệm về trách nhiệm đó là vấn
đề “chịu trách nhiệm”. “Chạy trốn tự do” là tài liệu quý giúp tác giả luận án
có cái nhìn sâu sắc hơn về mối quan hệ giữa tự do và trách nhiệm, khi nghiên
cứu mối quan hệ giữ chúng cần đặt trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể của một
thời đại, một mối quan hệ… thì mới có thể nghiên cứu được.
K. Jaspers trong tác phẩm "Mục đích và sứ mệnh của lịch sử" [88], khi
bàn về tự do tác giả đã cho rằng: “Tự do là tài sản quý giá nhất; nó không bao
giờ tự đến và không được giữ lại một cách tự động. Con người chỉ có thể giữ

gìn tự do ở nơi mà nó được ý thức và con người cảm nhận thấy phải có trách
nhiệm về nó” [88, tr.166] và khi đó, vấn đề trách nhiệm đối với tự do được
coi là một trong những vấn đề “thầm kín” nhất. Trong tác phẩm, tác giả đã
một lần nữa khẳng định giữa tự do và trách nhiệm có mối liên hệ mật thiết với
nhau, muốn có được và giữ được tự do thì phải có trách nhiệm, nhưng chưa
chỉ rõ cụ thể mối liên hệ ấy như thế nào. Đây là vấn đề mà luận án sẽ hướng
đến làm rõ hơn.
E.V. Zolotukhiana - Abolina bàn về phạm trù tự do và trách nhiệm trên
quan điểm là cần phân biệt rõ ràng các khía cạnh của tự do và trách nhiệm
như: bản chất tự do; vấn đề lựa chọn tự do; con người có trách nhiệm trước ai
và cho cái gì?; vấn đề tự trị của đạo đức - phán xử thế nào về hành vi thực


11
hiện tự do?... là những vấn đề mà tác giả đặt ra và giải quyết trong tác phẩm
“Đạo đức học hiện đại: cội nguồn và những vấn đề” [54], được Trung tâm
xuất bản “Mart” phát hành bằng tiếng Nga. Tác phẩm đã được nhóm các dịch
giả chuyển ngữ sang tiếng Việt để làm tài liệu tham khảo. Đây là tài liệu quý
giá giúp tác giả luận án có cái nhìn toàn diện hơn về khái niệm tự do và khái
niệm trách nhiệm. Đặc biệt, tác phẩm bàn về khái niệm trách nhiệm dưới
quan điểm đạo đức học khá sâu sắc và cụ thể. Khái niệm trách nhiệm được
E.V. Zolotukhiana - Abolina bàn đến ở tầng cao nhất của nó là trách nhiệm
đạo đức. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa tự do và trách nhiệm chưa được tác giả
phân tích rõ. Tự do và trách nhiệm được tác giả nhìn nhận dưới quan điểm
triết học hiện sinh là chủ yếu nên không tránh khỏi một số những hạn chế nhất
định. Luận án sẽ kế thừa và phân tích cụ thể mối quan hệ này.
John Stuart Mill, trong tác phẩm "Bàn về tự do" [87], đã đề cập đến khái
niệm tự do như là ranh giới giữa kiểm soát xã hội và độc lập cá nhân. Ông
xuất phát từ nhận định của Wilhelm Von Humboldt cho rằng: mục tiêu của
nhân loại là sự phát triển cao nhất và hài hòa nhất mọi năng lực của con

người, và cần có hai điều kiện - tự do và sự đa dạng của các tình huống - để
mục tiêu ấy có thể đạt được. Ông đưa ra các nguyên lý về tự do nhằm đạt được
sự hài hòa trong quan hệ giữa con người cá nhân và cộng đồng xã hội, hướng
tới mục tiêu phát triển. Và, tự do là điều mà tất thảy mọi người đều khao khát,
và phải đấu tranh hết sức để giành lấy nó. Như vậy, John Stuart Mill một lần
nữa đề cao vai trò của tự do đối với mỗi người, tự do như là điều kiện đầu tiên
cho sự phát triển nhưng tự do không tự dưng mà có. Là tác phẩm chuyên biệt
bàn về tự do nhưng tác giả không bàn về mối quan hệ giữa tự do và trách
nhiệm, mà John Stuart Mill luận bàn vấn đề theo hướng đặt tự do cá nhân trong
mối quan hệ với toàn bộ cộng đồng xã hội, chịu sự kiểm soát của xã hội. Như
vậy, tác giả gián tiếp khẳng định mối liên hệ giữa tự do và trách nhiệm là
không thể tách rời khi cá nhân tham gia vào các hoạt động xã hội.


12
Trên cơ sở phân tích phạm trù nghĩa vụ đạo đức, tác giả Vũ Trọng Dung
trong "Giáo trình đạo đức học Mác - Lênin" [43] đã bước đầu đề cập đến
phạm trù trách nhiệm. Dựa trên quan niệm của đạo đức học Mác - Lênin, tác
giả cho rằng nghĩa vụ đạo đức là “ý thức trách nhiệm của con người, là ý thức
cần phải làm và mong muốn làm, hành động tự giác vì lợi ích của người khác
và vì lợi ích của xã hội” [43, tr.197]. Xét ở phương diện đạo đức, đây cũng
được xem là một trong những khái niệm gần với khái niệm trách nhiệm mà
luận án quan tâm nghiên cứu.
Nguyễn Trần Bạt qua cuốn sách "Cội nguồn cảm hứng" [19], đã cho
chúng ta một cái nhìn khá mới mẻ, hiện đại mà sâu sắc về khái niệm tự do và
vai trò của nó đối với sự phát triển của xã hội. Tác giả cho rằng, cần phải định
nghĩa gần gũi hơn về tự do. Vì nếu định nghĩa tự do trong mối quan hệ với tất
yếu thì “nhiều khi con người không nhận ra cái tất yếu để hành động, do đó,
phần đông con người vẫn không hiểu về tự do và giá trị cao quý của tự do”
[19, tr.13]. Kết lại, tác giả định nghĩa tự do như sau: “Tự do là quá trình dịch

chuyển song song của ý nghĩ và hành vi” [19, tr.15]. Chỉ có sự dịch chuyển
song song đó thì con người mới chủ động trong hành động của mình. Tác giả
cuốn sách có tư tưởng gần với với tư tưởng của John Stuart Mill trong tác
phẩm “Bàn về tự do” khi cho rằng tự do là điều kiện đầu tiên, là tiền đề cho
sự phát triển. Tác giả cũng đã đưa ra quan niệm của riêng mình về tự do sau
khi khảo cứu các quan niệm về tự do trong lịch sử. Đây là tác phẩm quan
trọng, luận án có thể tham khảo khi tìm hiểu về lịch sử của khái niệm tự do.
Từ việc khảo cứu các quan niệm về tự do theo dòng lịch sử triết học
phương Tây (từ triết học cổ đại đến triết học Mác - Lênin) thông qua một số
tác giả tiêu biểu, tác giả Vương Thị Bích Thủy trong công trình "Tất yếu và tự
do - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" [143] đã nêu cách hiểu của mình về
phạm trù tự do trong mối quan hệ với cái tất yếu. Tác giả đã xem xét quan
niệm về tự do dưới hai khía cạnh, thứ nhất với tư cách là một phạm trù triết


13
học và thứ hai với tư cách là một phạm trù chính trị - xã hội. Thông qua đó,
tác giả khẳng định, tự do xuất phát từ tính tất yếu, nảy sinh dưới sự quy định
của tất yếu. Cuốn sách tuy không bàn về mối quan hệ giữa tự do và trách
nhiệm, nhưng thông qua cách triển khai nghiên cứu của tác giả về mối quan
hệ giữa tự do và tất yếu sẽ là một tham khảo quý giá cho tác giả luận án triển
khai nghiên cứu mối quan hệ giữa tự do và trách nhiệm (đặc biệt là tự do
trong mối quan hệ với trách nhiệm đạo đức). Khái niệm tự do cũng được tác
giả Vương Bích Thủy khảo cứu theo dòng lịch sử triết học khá toàn diện. Đó
chính là cơ sở lý luận giúp tác giả luận án dễ dàng hơn khi tiếp cận và đưa ra
quan điểm của mình về tự do.
Tác giả Đinh Ngọc Thạch trong bài viết “Về “tự do” với tư cách phạm
trù triết học xã hội” [131], cũng chỉ ra rằng “tự do là giá trị thiêng liêng và là
đặc tính bản chất của con người, là cơ sở bản thể luận của đời sống. Phạm trù
“Tự do” dùng để chỉ nhu cầu và khả năng của con người trong những hoạt

động phù hợp với những lợi ích và mục tiêu của mình, không cần sự can thiệp
hay cản trở từ bên ngoài” [131]. Hơn thế nữa, tự do còn là “một phạm trù xã
hội, tự do chỉ được bàn đến trong xã hội, trong hệ thống các quan hệ giữa
người với người”. Do đó, tác giả đã nhìn nhận “tự do” là một phạm trù lịch sử
và nó là sản phẩm được nhận thức và lý giải theo tiến trình phát triển của lịch
sử nhân loại. Tác giả khảo cứu các quan niệm của các nhà triết học từ cổ đại
đến hiện đại và phần nào đó lý giải nó dựa vào đặc điểm thời đại khi quan niệm
ấy ra đời. Tác giả dựa trên quan niệm của triết học Mác - Lênin về tự do và
khẳng định tự do chân chính của con người bị chi phối bởi cả hai yếu tố quyền
lợi và nghĩa vụ. Theo đó, không có tự do tuyệt đối mà tự do của con người luôn
bị giới hạn bởi các yếu tố của đời sống xã hội. Có thể khẳng định, bài viết là
một tư liệu quý giá giúp tác giả luận án có cái nhìn khái quát về quan niệm tự
do trong lịch sử triết học. Đặc biệt, cần chú ý quan điểm khẳng định tự do của
con người là không tuyệt đối mà bài viết đã khảo cứu và nhấn mạnh.


14
Tác giả Vũ Thị Thu Lan trong bài tạp chí “Vấn đề giá trị đạo đức trong
đạo đức học Cantơ” [97], cho rằng, nếu triết học lý luận của Cantơ hướng tới
việc xác định năng lực nhận thức của con người và trả lời cho câu hỏi: “Tôi
có thể biết được cái gì”, thì triết học thực tiễn của ông nghiên cứu các nguyên
lý hoạt động thực tiễn của con người trong xã hội và giải đáp tiếp các câu hỏi:
“Tôi cần phải làm gì”, “Tôi có thể hy vọng gì”. Với cách tiếp cận đó, Cantơ
đã dành nhiều tâm huyết để xây dựng một học thuyết tập trung luận chứng
cho tính hợp pháp và các giá trị của đạo đức.
Hướng tới việc giải quyết những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống và hoạt
động thực tiễn của con người, khi xây dựng đạo đức học của mình, Cantơ đã
đưa ra một quan niệm độc đáo về giá trị đạo đức để trên cơ sở đó, đánh giá
hành vi ứng xử của con người. Khác với các nhà triết học trước ông và đương
thời với ông, Cantơ không gắn giá trị đạo đức với hạnh phúc, tức là với sự

thoả mãn các nhu cầu hưởng thụ cá nhân. Với ông, hành vi đạo đức là hành vi
thực hiện “bổn phận vì bổn phận”. Coi thực hiện bổn phận đạo đức là sự tuân
thủ “mệnh lệnh tuyệt đối”. Khi phân tích giá trị đạo đức theo quan niệm của
Cantơ, tác giả đã chỉ ra việc giải quyết những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống
và thực tiễn của con người, chính điều đó đã đưa tới những giá trị đạo đức, và
phải dựa trên đó để đánh giá hành vi, ứng xử của con người. Câu hỏi “tôi cần
phải làm gì để hành vi của tôi được đánh giá là hành vi đạo đức?” đã đề cập
đến khía cạnh trách nhiệm của con người đối với cuộc sống xung quanh mình,
với xã hội.
Trong bài viết “Tự do và trách nhiệm trong đạo đức học hiện sinh” của
Đỗ Minh Hợp [72] cho rằng đạo đức “càng trở nên đặc biệt cấp bách trong
bối cảnh hiện nay, khi loài người đang đối mặt với vô số nguy cơ đe doạ bản
thân sự tồn tại của họ, khi những người có lương tâm đang cùng nhau đi tìm
một thứ đạo đức thực sự nhân văn, có khả năng đảm bảo sự phát triển thực sự
có tính người của mỗi người và của toàn thể cộng đồng nhân loại” [72]. Do


15
vậy, trên cơ sở làm rõ tự do và trách nhiệm với tư cách là những phạm trù đạo
đức cơ bản trong triết học hiện sinh qua việc làm rõ quan niệm của các đại
diện tiêu biểu như E. Husserl, M. Heidegger, K. Jaspers, J.P. Sartre và A.
Camus, tác giả bài viết đã đưa ra những ý kiến đánh giá xác đáng về đóng góp
của các nhà triết học hiện sinh trong lĩnh vực đạo đức học.
Một trong những nhận định khá quan trọng của tác giả là: “nhân loại tự
do đang đứng trước trách nhiệm về tương lai của mình, tức là về các thế hệ
tương lai” [72] và “tự do và trách nhiệm (đối với tự do) là hai hiện sinh thể
quan trọng nhất. Trách nhiệm không phải là sự sao chép lại tự do, mà là luận
điểm cơ bản thứ hai của triết học hiện sinh” [72]. Xét về mặt triết học, tác giả
cho rằng trách nhiệm đối với tự do là cái quy định trách nhiệm đối với cả quá
khứ, lẫn hiện tại và tương lai.

Bài viết trên của tác giả Đỗ Minh Hợp là một trong số không nhiều các
nghiên cứu về mối quan hệ giữa tự do và trách nhiệm trong lịch sử triết học đạo đức học, giúp tác giả luận án có cái nhìn sâu sắc hơn về vấn đề này. Tuy
nhiên, đúng như tiêu đề của bài viết, tác giả chỉ mới nghiên cứu “tự do và
trách nhiệm trong đạo đức học hiện sinh”, mối quan hệ giữa tự do và trách
nhiệm ở các giai đoạn khác của lịch sử đạo đức học cần được bổ sung nghiên
cứu. Đây là vấn đề mà luận án sẽ tiếp tục làm rõ.
Tác giả Nguyễn Văn Thức, trong bài tạp chí “Vai trò của nhà nước và
vấn đề trách nhiệm xã hội” [141], đã phân tích những nội dung cơ bản của
khái niệm trách nhiệm xã hội cũng như vai trò của nhà nước đối với việc tổ
chức và thực thi trách nhiệm xã hội. Tác giả cho rằng:
Trách nhiệm được hiểu là điều phải làm, phải gánh vác, hoặc phải nhận
lấy về mình. Trách nhiệm thuộc phạm trù đạo đức học và luật học, phản ánh
thái độ xã hội đặc biệt và thái độ đạo đức - pháp luật của cá nhân đối với xã
hội (đối với nhân loại nói chung); thái độ này biểu thị sự hoàn thành nghĩa vụ
đạo đức của mình và các tiêu chuẩn pháp luật [141].


16
Tác giả bài viết khẳng định: Trong các học thuyết về đạo đức và pháp
quyền, người ta thường xem xét trách nhiệm trong mối liên hệ với tự do.
Nhưng, ngoài chủ nghĩa Mác, vấn đề đó thường được giải quyết một cách
trừu tượng và lệ thuộc vào việc trả lời câu hỏi: nói chung, liệu có thể coi con
người là tự do trong những hành động của mình hay không. Trong chủ nghĩa
Mác, vấn đề trách nhiệm mang tính lịch sử - cụ thể và được giải quyết trên cơ
sở phân tích mức độ tự do hiện thực của con người trong những điều kiện lịch
sử nhất định.
Bài viết cũng phần nào đưa ra giải pháp để con người trong xã hội có
được tự do đó là: xây dựng một xã hội không có bóc lột, không có những giai
cấp thù địch, việc áp dụng nguyên lý tự giác một cách có kế hoạch vào đời
sống xã hội, việc làm cho quần chúng nhân dân quen với việc tự quản lý xã

hội và sáng tạo lịch sử sẽ tăng cường mạnh mẽ mức độ tự do của cá nhân và
đồng thời, tăng cường trách nhiệm xã hội và đạo đức của mỗi người. Tác giả
bài viết cho rằng: trách nhiệm của cá nhân không chỉ bao hàm những hành vi
đã làm, mà cả sự nhận thức của cá nhân về lợi ích của xã hội nói chung, nghĩa
là xét đến cùng, nhận thức được các quy luật phát triển của lịch sử.
Tuy không phải là bài viết về vấn đề tự do và trách nhiệm theo quan
điểm triết học hay đạo đức học, nhưng thông quan việc tìm hiểu khái niệm
trách nhiệm xã hội, nội dung của bài viết trên phần nào là cơ sở lý luận để
luận án khẳng định mối quan hệ không tách rời giữa tự do và trách nhiệm của
con người trong xã hội. Bài viết cũng phần nào gợi mở giải pháp để phát triển
hài hòa giữa tự do và trách nhiệm, đặc biệt là trách nhiệm đạo đức của cá
nhân trong hoạt động khoa học, công nghệ - vấn đề mà luận án quan tâm.
Tác giả Nguyễn Văn Phúc trong bài viết “Tự do và trách nhiệm trong
hoạt động của con người” [114] đã bước đầu khẳng định quan hệ giữa tự do
và trách nhiệm như hai phương diện của một vấn đề: tự do là hành động thực
hiện trách nhiệm một cách tự giác, tự nguyện; còn trách nhiệm là hành động


17
đáp ứng và đảm bảo cho tự do của con người. Theo đó, chỉ khi có tự do con
người mới thực sự có trách nhiệm, vì trách nhiệm của con người trước bản
thân mình, trước những hành động được lựa chọn một cách tự do. Ngược lại,
vì hành động của con người bị quy định bởi hoàn cảnh, bởi những yếu tố bên
ngoài, nên tự do của con người cũng chỉ có giới hạn; đồng thời con người
cũng ít trách nhiệm đi, vì con người không phải chịu trách nhiệm về những
hành động mà họ không được lựa chọn một cách tự do.
Xem xét các quan điểm về tự do và trách nhiệm trong lịch sử triết học,
tác giả bài viết đã điểm lại các quan điểm cơ bản của các nhà triết học về vấn
đề này. Bài viết mở ra một vấn đề: trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, sự tự
do và trách nhiệm của con người ngày càng được mở rộng và nâng cao, và nó

cũng đang chịu những thách thức nghiêm trọng từ quá trình này. Do đó, trách
nhiệm của con người đối với nhân loại, xã hội trong việc giải quyết những
vấn đề toàn cầu là con đường tất yếu để phát triển tự do của con người.
Bài viết trên của tác giả Nguyễn Văn Phúc tuy không nghiên cứu sâu về
các quan điểm tự do, trách nhiệm, hay mối quan hệ giữa tự do và trách nhiệm
nhưng vẫn là tài liệu quý giá có cách tiếp cận về hệ vấn đề này theo phương
pháp lịch sử - logic khi khảo cứu các quan niệm về tự do trong lịch sử triết
học - một cách tiếp cận khá mới trong nghiên cứu vấn đề này. Mối quan hệ
giữa tự do và trách nhiệm tuy chưa được bàn đủ sâu nhưng đó là những gợi
mở giúp luận án nghiên cứu tiếp vấn đề này. Phần kết của nội dung bài viết
trên đã thôi thúc tác giả luận án đi sâu nghiên cứu mối quan hệ giữa tự do và
trách nhiệm trong một lĩnh vực hoạt động của con người là hoạt động khoa
học, công nghệ.
Tác giả Trần Đức Cường trong bài viết “Công bằng xã hội, trách nhiệm
xã hội và đoàn kết xã hội trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam” [39] cho rằng:
Trách nhiệm, đó là năng lực của con người ý thức được những hậu quả
do hành động của mình đưa lại. Cụ thể hơn, đó là năng lực xác định được lợi


18
ích hoặc tác hại đối với người khác, đối với xã hội của hành động. Trong
trường hợp như vậy, chủ thể của hành động hoạt động có trách nhiệm làm cho
hành động hoặc hoạt động của mình có ích đối với xã hội. Trách nhiệm cũng
thể hiện trong trường hợp những hoạt động không phù hợp với lợi ích xã hội,
chẳng hạn, với trật tự xã hội, với pháp chế hoặc đạo đức xã hội. Trong trường
hợp này, chủ thể phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại đối với lợi ích xã
hội do hoạt động của mình gây ra. Như thế, trách nhiệm bao hàm cả quyền
của xã hội đòi hỏi hoặc trừng phạt các thành viên của mình tuỳ theo hành vi
của họ. Trách nhiệm không chỉ bao hàm đòi hỏi của xã hội đối với cá nhân,
mà còn bao hàm đòi hỏi của cá nhân, tức là quyền của cá nhân, đối với xã hội.

Cụ thể hơn, nếu cá nhân có nghĩa vụ, có trách nhiệm đối với xã hội thì xã hội
cũng có nghĩa vụ, có trách nhiệm đối với cá nhân [39].
Do đó, trong việc hoạch định các chính sách phát triển kinh tế - xã hội,
mọi quốc gia bằng cách này hay cách khác, cũng đều phải xem xét và tính đến
các vấn đề về công bằng xã hội, trách nhiệm xã hội và đoàn kết xã hội.
Theo Nguyễn Thị Lan Hương trong bài tạp chí “Trách nhiệm môi
trường - Một phương diện của trách nhiệm xã hội” [77], trách nhiệm môi
trường của con người ngày càng quan trọng không kém so với trách nhiệm
của con người đối với con người. Con người phải hành động khôn ngoan để
không làm tổn hại đến môi trường vì lợi ích của chính con người và các sinh
thể khác. Trong bài viết này, tác giả nêu cách hiểu cơ bản nhất về thuật ngữ
“trách nhiệm” nói chung và phân biệt nó với thuật ngữ “trách nhiệm xã hội”.
Bài viết đã phần nào nói đến khái niệm trách nhiệm trước khi phân tích
trách nhiệm môi trường. Tác giả cho rằng, thông thường, nói đến trách nhiệm
là nói đến mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng. Thực thi trách nhiệm là
cách thức để con người điều chỉnh hành vi của mình sao cho lợi ích của cá
nhân phù hợp với lợi ích của cộng đồng, hoặc ít nhất cũng không làm phương
hại đến lợi ích của các cá nhân khác hay toàn cộng đồng. Bên cạnh đó, nói


19
đến trách nhiệm là nói đến mối quan hệ cụ thể, xác định. Nó trả lời cho câu
hỏi: chủ thể chịu trách nhiệm là ai và chịu trách nhiệm trước ai, trước cái gì
(đối tượng mà nó tác động)?
Có thể kể thêm một công trình nữa nghiên cứu về tự do là tập tiểu luận
"Suy tưởng" của Nguyễn Trần Bạt [18], trong đó tác giả đề cập và luận giải về
tự do, tuy nhiên tác giả chủ yếu đi sâu vào phân tích vai trò của tự do với con
người, xã hội, tự do sinh ra con người, mang lại sự thức tỉnh cho các dân tộc.
Ngoài ra Suy tưởng còn đề cập đến tự do như một quyền của con người nhưng
không đi sâu phân tích chúng, mà chủ yếu luận giải vấn đề bảo vệ quyền con

người ở Việt Nam thông qua các suy luận biện chứng.
Luận án tiến sĩ triết học của tác giả Nguyễn Công Chiến với tiêu đề
"Mối quan hệ biện chứng giữa tất yếu và tự do trong hoạt động nhận thức
và hoạt động thực tiễn" [31] đã đi sâu vào khai thác mối quan hệ biện chứng
giữa tự do và tất yếu trong lĩnh vực nhận thức và hoạt động thực tiễn, nhưng
chưa phân tích làm rõ phạm trù tự do với tư cách là một quyền dân sự của
con người.
1.1.2. Những nghiên cứu lý luận về hoạt động khoa học, công nghệ
Tác giả Phan Xuân Dũng trong bài viết “Đẩy mạnh hoạt động khoa học
và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”
[44] cho rằng, khoa học và công nghệ đóng vai trò rất quan trọng trong phát
triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng và an ninh, tạo ra nhiều sản phẩm
hàng hóa chất lượng cao, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người
dân. Tuy nhiên, theo tác giả khái niệm và nội hàm của khoa học và công
nghệ hiểu chưa được đầy đủ nên có không ít nhiệm vụ khoa học và công
nghệ được phê duyệt không phải là hoạt động khoa học, công nghệ; còn sự
nhầm lẫn giữa khái niệm công nghiệp với công nghệ nên đã sử dụng ngân
sách nhà nước dành cho khoa học và công nghệ vào phát triển công nghiệp;
nội dung chi nhiệm vụ thường xuyên, nhiệm vụ giải pháp cũng đưa vào nội


20
dung chi cho các hoạt động khoa học, công nghệ. So với yêu cầu phát triển,
khoa học và công nghệ nước ta còn chưa thật sự trở thành động lực thúc đẩy
đất nước phát triển, chưa gắn kết chặt chẽ với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội.
Khi phân tích yếu tố tiến bộ công nghệ ảnh hưởng như thế nào đến việc
hình thành giá trị và chuẩn mực đạo đức mới, tác giả Nguyễn Văn Phúc nhấn
mạnh quan điểm của mình về công nghệ trong bài viết “Về tính quy luật của
sự hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới” như sau: Công nghệ

“không chỉ là các phương tiện vật chất, thiết bị kỹ thuật và gắn liền với chúng
là phương thức, quy trình vận hành, mà còn bao hàm những yêu cầu tương
ứng về tổ chức, thiết chế quản lý, điều phối, tiếp thị và sau cùng là con người
với kỹ năng, năng lực vận hành công nghệ” [112]. Từ đó, những thành tố của
công nghệ, đòi hỏi và tạo điều kiện cho sự phát triển lý trí của con người.
Quan điểm này sẽ bổ sung cho luận án một cách nhìn toàn diện hơn về khái
niệm công nghệ.
Tác giả Nguyễn Thái Sơn trong bài "Quan hệ giữa cách mạng khoa học
- công nghệ hiện đại đối với con người hiện nay" [128], đã cho rằng, khoa học
là hệ thống tri thức về tự nhiên, xã hội, tư duy, tích lũy trong quá trình lịch sử.
Khoa học là cuộc tổng kết sự phát triển lâu dài của tri thức. Mục đích của
khoa học là phát hiện ra những quy luật khách quan của các đối tượng và giải
thích chúng. Khoa học là bộ phận quan trọng nhất của văn hóa tinh thần, là
hiện tượng mang tính lịch sử, xã hội xuất hiện trong đời sống con người, là
một hình thái ý thức xã hội quan trọng. Còn công nghệ là tổng thể nói chung
các phương pháp gia công, chế tạo, làm thay đổi trạng thái, tính chất, hình
dáng nguyên vật liệu hay bán thành phẩm sử dụng trong quá trình sản xuất để
tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh.
Tác giả của luận án Tiến sĩ Triết học nêu trên đã lập luận, giữa khoa học
và công nghệ có nhiều đặc điểm khác nhau, song chúng cũng có quan hệ rất


×