Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Luận văn sư phạm Dạy học bài phong cách ngôn ngữ khoa học trong SGK Ngữ văn 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (464.55 KB, 64 trang )

Cao Thị Thu Thuỷ - K32A Văn
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong cuộc sống hàng ngày, con người luôn có nhu cầu giao tiếp với
nhau. Về bản chất, đó là sự tiếp xúc giữa cá thể này với cá thể khác hay giữa
các cá thể trong một cộng đồng xã hội. Một trong những động lực thúc đẩy
con người giao tiếp với nhau là xuất phát từ mong muốn có được sự hiểu biết
về đời sống, về những gì đang tồn tại xung quanh mình. Để có được sự hiểu
biết ấy, con người cần phải thu thập những thông tin, mở mang tri thức và có
những sự hiểu biết, khám phá, tìm tòi từ kinh nghiệm vốn có, từ tri thức tích
lũy được. Đồng thời, cùng với những tri thức đã có, con người với khả năng
nhất định của mình khái quát các vấn đề đang tồn tại trong xã hội thành
những vấn đề chung nhất, chính xác nhất để truyền lại cho các thế hệ sau. Nói
một cách khác, con người trao đổi với nhau là để thể hiện, trình bày những
kinh nghiệm, tri thức khoa học đã tích lũy được trong quá trình tác động vào
thế giới khách quan, qua đó góp phần làm cho cuộc sống thực sự có ý nghĩa.
Xuất phát từ nhu cầu chính đáng ấy, các ngành khoa học ra đời. Hơn nữa,
khoa học là một lĩnh vực ra đời trong cuộc sống, đáp ứng những vấn đề quan
trọng và cung cấp tri thức cho con người. Vì thế, khoa học được coi là lĩnh
vực lớn, quan trọng đối với con người. Khi đời sống xã hội càng hiện đại,
khoa học càng phát triển thì nhu cầu nghiên cứu khoa học cũng có những đòi
hỏi cao hơn. Mặt khác, từ những hiểu biết, những tri thức khoa học đã có, để
có thể truyền đạt cho các thế hệ sau, con người phải sử dụng ngôn ngữ để ghi
lại những tri thức đó. Để sử dụng đúng, sử dụng chuẩn mực ngôn ngữ khoa
học, con người phải có những hiểu biết về cách thức dùng chúng trong hoạt
động.
Tuy nhiên, ta thấy ngôn ngữ khoa học là thứ ngôn ngữ được học sinh
sử dụng nhiều trong hoạt động học tập. Nhờ có phong cách ngôn ngữ này học

1


Khoá luận tốt nghiệp


Cao Thị Thu Thuỷ - K32A Văn
sinh có thể phân biệt được ngôn ngữ khoa học với các phong cách ngôn ngữ
khác và sử dụng ngôn ngữ đúng lúc, đúng chỗ. Vì thế việc dạy học Phong
cách ngôn ngữ khoa học trong hoạt động học tập cho đến nay là một vấn đề
cần lưu ý. Tuy nhiên học sinh khi sử dụng ngôn ngữ khoa học trong hoạt động
học tập thường mắc phải một số hạn chế. Hạn chế đó thể hiện ở việc học sinh
quen sử dụng những từ ngữ dân dã, ít sắc thái khoa học và không có nhiều
khả năng sử dụng những từ ngữ khoa học. Chẳng hạn ta vẫn thường gặp học
sinh sử dụng những cụm từ :“Cái ấy” “Sự vật ấy”, “Những cái ấy”... để
diễn đạt hay lý giải những câu hỏi có tính khoa học và các môn học. Đây là
những cụm từ không rõ ràng, có thể gây hiểu lầm và dường như mang ý nghĩa
mơ hồ. Điều này dẫn đến một yêu cầu là phải làm thế nào để học sinh có thể
sử dụng đúng ngôn ngữ khoa học khi học tập. Hơn nữa, mục đích của việc
dạy học tiếng Việt ở trung học phổ thông không chỉ đơn thuần là cung cấp
kiến thức về từ ngữ, về câu, về cách dựng đoạn, tạo lập văn bản... mà qua đó
còn giúp học sinh nói, viết đúng phong cách, phù hợp với lĩnh vực giao tiếp.
Không chỉ có vậy qua việc học những tri thức về tiếng Việt các em có khả
năng tạo lập những văn bản có tính sáng tạo. Vì thế việc tổ chức dạy học các
phong cách chức năng ngôn ngữ nói chung và Phong cách khoa học nói riêng
là quan trọng và cần thiết.
Trước đây, khi dạy học tiếng Việt ở trung học phổ thông các phong
cách chức năng ngôn ngữ nói chung và Phong cách ngôn ngữ khoa học nói
riêng bố trí theo một chương trình riêng. Nội dung của các phong cách chức
năng ngôn ngữ chỉ được thực hiện trong một chùm bài ở SGK lớp 11 với một
số tiết không nhiều, thậm chí chỉ đủ để giáo viên truyền đạt đến học sinh khối
lượng kiến thức giản đơn, khái quát nhất về các phong cách ngôn ngữ, Phong
cách ngôn ngữ khoa học nằm trong chùm bài phong cách ngôn ngữ trên cũng

được triển khai ở lớp 11 trong một tiết duy nhất. Hiện nay cùng với việc biên

2

Khoá luận tốt nghiệp


Cao Thị Thu Thuỷ - K32A Văn
soạn SGK, các nhà giáo dục nhận thấy rằng: để cho học sinh rèn luyện bốn kĩ
năng nghe, đọc, nói, viết thì cần quan tâm hơn đến việc dạy học các phong
cách chức năng ngôn ngữ nói chung và Phong cách ngôn ngữ khoa học nói
riêng. Có điều này vì phong cách chức năng ngôn ngữ chính là cơ sở để các
em sử dụng ngôn ngữ một cách chuẩn mực nhằm đạt hiệu quả nhất định. Xuất
phát từ những điều cần thiết này, chương trình Ngữ văn đã triển khai dạy các
phong cách chức năng ngôn ngữ từ lớp 10 đến lớp 12 và mỗi phong cách chức
năng ngôn ngữ được dạy trong hai tiết.
Tuy vậy, thực tế dạy học tiếng Việt ở trung học phổ thông hiện nay,
việc dạy học phong cách chức năng ngôn ngữ nói chung, Phong cách ngôn
ngữ khoa học nói riêng ít được coi trọng. Hơn nữa, bản thân các kiến thức của
Phong cách ngôn ngữ khoa học vừa khó, vừa khô khan lại trừu tượng khó
hiểu nên hầu như những tiết học về nội dung này thường không có được hiệu
quả cao.
Từ những lí do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài “Dạy học bài “Phong
cách ngôn ngữ khoa học” trong SGK Ngữ văn 12”.
2. Lịch sử vấn đề
Gắn liền với nội dung đề tài, phần lịch sử vấn đề được triển khai ở hai
phương diện: Thứ nhất là tìm hiểu quá trình nghiên cứu về phong cách chức
năng ngôn ngữ và Phong cách ngôn ngữ khoa học; Thứ hai là tìm hiểu quá
trình nghiên cứu việc dạy học bài “ Phong cách ngôn ngữ khoa học”. Cụ thể
nội dung các phương diện ấy như sau:

Nghiên cứu về các phong cách chức năng ngôn ngữ là vấn đề được
quan tâm ở Việt Nam nói riêng, ở thế giới nói chung.
Có thể nói, trong những năm gần đây việc nghiên cứu về các phong
cách năng ngôn ngữ có nhiều thành tựu mới. Đặc biệt hiện nay khi Phong
cách học đã trở thành nội dung bắt buộc đối với tất cả các sinh viên năm cuối

3

Khoá luận tốt nghiệp


Cao Thị Thu Thuỷ - K32A Văn
ở các học viện, các khoa chuyên ngành ngôn ngữ ở các trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn, các trường Đại học Sư phạm thì phong cách chức
năng ngôn ngữ lại càng quan trọng và cần thiết. Trong thực tế nghiên cứu đã
có nhiều nhà Ngôn ngữ học và các nhà nghiên cứu các ngành khoa học xã hội
và nhân văn quan tâm đến vấn đề này.
Ngay từ thế kỷ XX, trên thế giới đã xuất hiện khá nhiều công trình
nghiên cứu về các phong cách chức năng ngôn ngữ. Trong đó, tiêu biểu là
một số công trình nghiên cứu của các nhà phong cách học nổi tiếng như:
R.Giacốp xơn. “Bàn về ngôn ngữ học và thi học”. N.Y.1960; “Những vấn đề
của phong cách học ngôn ngữ học”, 1997…
Ở Việt Nam, trong những thập kỷ gần đây việc nghiên cứu các vấn đề
thuộc phạm vi chức năng ngôn ngữ cũng được nhiều nhà phong cách học
quan tâm. Dưới đây, chúng tôi xin điểm qua một số công trình nghiên cứu
tiêu biểu có bàn về phong cách chức năng ngôn ngữ.
Trong cuốn “Phong cách học tiếng Việt”, các tác giả Đinh Trọng Lạc,
Nguyễn Thái Hoà bàn về các vấn đề lí thuyết của Phong cách học như về đối
tượng nghiên cứu của Phong cách học, các phong cách chức năng ngôn ngữ
và việc phân chia chúng. Đồng thời, ông cũng đưa ra khái niệm phong cách

chức năng là : “Phong cách chức năng là khuôn mẫu trong hoạt động lời nói,
hình thành từ những thói quen sử dụng ngôn ngữ có tính chất truyền thống,
tính chuẩn mực trong việc xây dựng các lớp văn bản (phát ngôn) tiêu biểu”
[6,19]. Quan niệm này thể hiện những đặc trưng cơ bản của ngôn ngữ tương
xứng với mọi lĩnh vực, mục đích giao tiếp cụ thể.
Không đồng quan điểm với tác giả Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hoà,
tác giả Cù Đình Tú lại cho rằng : “Phong cách chức năng là dạng tồn tại của
ngôn ngữ dân tộc biểu thị quy luật lựa chọn sử dụng các phương tiện biểu
hiện tuỳ thuộc vào tổng hợp các nhân tố ngoài ngôn ngữ như hoàn cảnh giao

4

Khoá luận tốt nghiệp


Cao Thị Thu Thuỷ - K32A Văn
tiếp, đối tượng tham dự giao tiếp...” [12,45] . Về bản chất quan điểm này lại
chú trọng tới quy định về sử dụng ngôn ngữ theo từng phong cách chức năng.
Bên cạnh hai công trình tiêu biểu kể trên, nhiều công trình khác cũng
đề cập đến vấn đề này. Ở đó, các nhà nghiên cứu đã đưa ra những hướng phân
chia phong cách chức năng ngôn ngữ khác nhau. Chẳng hạn, tác giả Đinh
Trọng Lạc lại chia tiếng Việt ra thành hai phong cách lớn là Phong cách khẩu
ngữ và Phong cách văn học. Phong cách văn học lại bao gồm: Phong cách thư
từ; Phong cách ngôn ngữ hành chính; Phong cách ngôn ngữ chính luận;
Phong cách ngôn ngữ khoa học; Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật [5,285 –
298]. Trong cách phân loại này, chúng tôi thấy rõ xu hướng muốn đồng nhất
phong cách chức năng với dạng lời nói. Trong khi đó các tác giả: Võ Bình, Lê
Anh Hiền, Cù Đình Tú, Nguyễn Thái Hoà lại dựa vào chức năng xã hội của
tiếng Việt để chia thành hai loại phong cách chức năng cơ bản: Chức năng
giao tiếp và chức năng thông báo. Xuất phát từ thực tế nghiên cứu về phong

cách chức năng ngôn ngữ, chương trình tiếng Việt phổ thông trước đây và
chương trình Ngữ văn hiện nay đã xác định có sáu kiểu phong cách chức năng
ngôn ngữ: Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt; Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật;
Phong cách ngôn ngữ chính luận; Phong cách ngôn ngữ báo – công vụ; Phong
cách ngôn ngữ hành chính; Phong cách ngôn ngữ khoa học.
Tuy có nhiều hướng phân loại khác nhau nhưng có một sự đồng nhất về
quan điểm khi xem xét Phong cách ngôn ngữ khoa học. Đó là Phong cách
ngôn ngữ khoa học thuộc ngôn ngữ phi nghệ thuật.
Từ thực tế nghiên cứu về phong cách chức năng ngôn ngữ nói chung và
Phong cách ngôn ngữ khoa học nói riêng có thể dễ dàng nhận thấy rằng
những bài nghiên cứu về phong cách chức năng nói chung là rất phong phú.
Nhưng việc nghiên cứu, tìm hiểu cách thức tổ chức dạy học một bài phong
cách chức năng ngôn ngữ, cụ thể như Phong cách ngôn ngữ khoa học thì có lẽ

5

Khoá luận tốt nghiệp


Cao Thị Thu Thuỷ - K32A Văn
ít được chú trọng đến. Vì thế đề tài “Dạy học bài “Phong cách ngôn ngữ
khoa học” trong SGK Ngữ văn 12” là một đề tài có tính ứng dụng cao trong
quá trình dạy học Ngữ văn ở THPT.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này nhằm tìm ra một phương hướng cho việc tổ chức
dạy học Phong cách ngôn ngữ khoa học đạt hiệu quả cao, góp phần nâng cao
chất lượng giảng dạy các bài phong cách chức năng ngôn ngữ trong chương
trình Ngữ văn THPT.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu, việc thực hiện đề tài này phải hướng
tới những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, trình bày hệ thống kiến thức cơ bản về Phong cách ngôn ngữ
khoa học. Đánh giá thực tế dạy học nội dung này ở trường phổ thông.
Thứ hai, nêu ra các định hướng dạy học bài “Phong cách ngôn ngữ
khoa học” đạt hiệu quả.
Thứ ba, trên cơ sở nắm vững kiến thức đó vận dụng vào tổ chức dạy
học bài “Phong cách ngôn ngữ khoa học” trong chương trình SGK Ngữ văn
12.
4. Đối tượng phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Xuất phát từ nội dung của đề tài, chúng tôi tập trung nghiên cứu bản
chất, đặc trưng cơ bản, các thể loại và dạng tồn tại của Phong cách ngôn ngữ
khoa học nhằm đưa ra cơ sở lí luận phục vụ cho việc tổ chức dạy học bài
“Phong cách ngôn ngữ khoa học” ở trường THPT.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Từ những thành tựu về phong cách chức năng ngôn ngữ và Phong cách
ngôn ngữ khoa học, chúng tôi đánh giá thực trạng dạy học và đưa ra một cách

6

Khoá luận tốt nghiệp


Cao Thị Thu Thuỷ - K32A Văn
triển khai dạy học bài “Phong cách ngôn ngữ khoa học” trong chương trình
SGK Ngữ văn 12 THPT.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được nhiệm vụ mà đề tài đặt ra, chúng tôi lựa chọn sử
dụng những phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:

- Phương pháp phân tích ngôn ngữ
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
- Phương pháp thực nghiệm
- Phương pháp điều tra khảo sát
- Phương pháp thuyết minh
6. Đóng góp của khoá luận
Về mặt lí luận: Khoá luận tập trung trình bày một cách hệ thống cơ sở
lí luận về Phong cách ngôn ngữ khoa học ở các phương diện khái niệm, đặc
trưng, vai trò và cách thức thực hiện Phong cách ngôn ngữ khoa học trong văn
bản.
Về mặt thực tiễn, khoá luận giúp cho học sinh có đủ kiến thức và tự tin
khi sử dụng Phong cách ngôn ngữ khoa học cũng như vận dụng kết hợp
phong cách ngôn ngữ này với phong cách ngôn ngữ khác trong quá trình tạo
lập văn bản.
7. Bố cục của khoá luận
Khoá luận được triển khai theo bố cục sau:
Phần mở đầu
Phần nội dung
Chương 1: Các phong cách chức năng ngôn ngữ và Phong cách ngôn
ngữ khoa học.
Chương 2: Dạy học bài Phong cách ngôn ngữ khoa học ở trường phổ thông.
Chương 3: Thực nghiệm
Phần kết luận

7

Khoá luận tốt nghiệp


Cao Thị Thu Thuỷ - K32A Văn

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CÁC PHONG CÁCH CHỨC NĂNG NGÔN NGỮ VÀ

PHONG CÁCH NGÔN NGỮ KHOA HỌC
1.1. Các phong cách chức năng ngôn ngữ
1.1.1. Khái niệm phong cách chức năng ngôn ngữ
Phong cách chức năng ngôn ngữ là một trong những nội dung quan
trọng trong quá trình nghiên cứu trong Phong cách học. Vì thế, khi nghiên
cứu Phong cách học, các nhà ngôn ngữ học luôn nghiên cứu và đưa ra các
quan niệm về phong cách chức năng ngôn ngữ. Bởi lẽ phong cách chức năng
ngôn ngữ là cơ sở là vấn đề cơ bản quy định cách sử dụng ngôn ngữ phù hợp
đạt chuẩn mực, tạo ra lời nói hay, đẹp trong giao tiếp.
Thực tế nghiên cứu về phong cách chức năng ngôn ngữ cho thấy đây là
một khái niệm vừa phong phú vừa phức tạp. Sự phức tạp của vấn đề này được
thể hiện ở việc ngay cùng một thời điểm nghiên cứu song mỗi nhà nghiên cứu
nhìn nhận nó theo những cách khác nhau.
Tuy nhiên để nghiên cứu cách tổ chức dạy học “Phong cách ngôn ngữ
khoa học” trong chương trình Ngữ văn 12 THPT, chúng tôi lựa chọn khái
niệm của tác giả Cù Đình Tú. Ông cho rằng: “Phong cách chức năng là một
dạng tồn tại của ngôn ngữ dân tộc biểu thị quy luật lựa chọn sử dụng các
phương tiện biểu hiện tuỳ thuộc vào tổng hợp các nhân tố ngoài ngôn ngữ
như: hoàn cảnh giao tiếp, đề tài và mục đích giao tiếp; đối tượng tham gia
giao tiếp” [13,14]
Việc lựa chọn khái niệm này là bởi nó không những chỉ rõ được đặc
điểm nội dung phong cách chức năng ngôn ngữ, xác định rõ các nhân tố cấu
thành của phong chức chức năng ngôn ngữ và mối quan hệ giữa chúng mà
còn thể hiện rõ mục đích và sử dụng ngôn ngữ theo những lĩnh vực giao tiếp
khác nhau.

8


Khoá luận tốt nghiệp


Cao Thị Thu Thuỷ - K32A Văn
1.1.2. Phân loại phong cách chức năng ngôn ngữ
Các nhà ngôn ngữ học hiện đại khi nghiên cứu các phong cách chức
năng ngôn ngữ cho đến nay đã được đưa ra rất nhiều hướng phân loại phong
cách chức năng ngôn ngữ. Tiêu biểu phải kể đến các hướng phân chia sau:
Cùng một tác giả Đinh Trọng Lạc nhưng ở thời kỳ khác nhau lại có
hướng phân loại phong cách chức năng ngôn ngữ khác nhau. Cụ thể, trong
cuốn “Giáo trình Việt Ngữ. (Tập III) Tu từ học” [5,285 – 298]. Theo tác giả:
Phong cách chức năng tiếng Việt được chia thành hai bậc: Bậc một chia ra hai
phong cách lớn, Phong cách khẩu ngữ và Phong cách văn học; Còn bậc hai
chia thành năm phong cách nhỏ. Phong cách văn học được chia ra: Phong
cách ngôn ngữ thư từ; Phong cách ngôn ngữ khoa học; Phong cách ngôn ngữ
hành chính; Phong cách ngôn ngữ chính luận; Phong cách ngôn ngữ nghệ
thuật. Như vậy, chúng ta thấy tác giả như muốn đồng nhất phong cách chức
năng với dạng lời nói.
Cũng tác giả Đinh Trọng Lạc nhưng trong cuốn “Phong cách học”
[7,66] lại đưa ra một hướng phân chia mới với năm phong cách ngôn ngữ. Ở
quan điểm này, Phong cách hội thoại và Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật
không được coi là phong cách chức năng ngôn ngữ mà chỉ là kiểu chức năng
ngôn ngữ. Vì vậy, phong cách chức năng tiếng Việt có năm phong cách:
Phong cách ngôn ngữ hội thoại; Phong cách ngôn ngữ hành chính; Phong
cách ngôn ngữ khoa học; Phong cách ngôn ngữ báo – công vụ; Phong cách
ngôn ngữ chính luận. Trên thực tế việc phân loại này chưa thể hiện đầy đủ các
lĩnh vực có sử dụng ngôn ngữ trong thực tế giao tiếp.
Không đồng nhất quan điểm với Đinh Trọng Lạc, tác giả Cù Đình Tú
trong cuốn “Tu từ học tiếng Việt hiện đại” lại chia ngôn ngữ toàn dân thành:

Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật thực hiện chức năng biểu hiện và Phong
cách ngôn ngữ trình bày thực hiện chức năng trình bày. Phong cách ngôn ngữ

9

Khoá luận tốt nghiệp


Cao Thị Thu Thuỷ - K32A Văn
trình bày lại được chia thành Phong cách ngôn ngữ khẩu ngữ tự do và Phong
cách ngôn ngữ gọt rũa (Phong cách ngôn ngữ gọt rũa bao gồm: Phong cách
ngôn ngữ hành chính và Phong cách ngôn ngữ khoa học). Trong hướng phân
chia này tác giả khi thì dựa vào chức năng khi thì dựa vào phạm vi giao tiếp
để phân loại. Và như vậy dẫn tới việc khó xác định giá trị lĩnh vực của từng
phong cách ngôn ngữ.
Nhìn chung có nhiều quan điểm phân chia khác nhau nhưng hầu như
kiểu phân chia nào cũng đều chỉ rõ được các chức năng và phạm vi sử dụng
ngôn ngữ. Khảo sát chúng tôi thấy hiện nay SGK THPT có sự phối hợp các
quan niệm trên và từ đó phân chia phong cách chức năng thành 6 kiểu: Phong
cách ngôn ngữ sinh hoạt; Phong cách ngôn ngữ khoa học; Phong cách ngôn
ngữ hành chính – công vụ; Phong cách ngôn ngữ báo; Phong cách ngôn ngữ
chính luận và Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật là phù hợp và nó thể hiện rõ
tính khoa học.
Do phạm vi của đề tài nên khóa luận này chúng tôi tập trung trình bày
một phong cách chức năng ngôn ngữ: Phong cách ngôn ngữ khoa học.
1.2. Phong cách ngôn ngữ khoa học
1.2.1. Khái niệm phong cách ngôn ngữ khoa học
Phong cách ngôn ngữ khoa học là một trong những cách sử dụng ngôn
ngữ gắn liền với lĩnh vực khoa học. Cũng vì thế ngôn ngữ khoa học được sử
dụng rộng rãi và phổ biến trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Để xem

xét ngôn ngữ khoa học chúng ta xét ngữ liệu dưới đây:
“Mặt trăng: vệ tinh tự nhiên của trái đất, phản chiếu ánh sáng của mặt
trời và chiếu sáng trái đất vào ban đêm, có hình dạng nhìn thấy, thay đổi dần
từng ngày từ khuyết đến tròn và ngược lại” (Từ điển văn học).
Ngữ liệu trên dùng để định nghĩa, để xác định bản chất của một sự vật,
hiện tượng trong thực tế khách quan đó là “mặt trăng”. Ở ngữ liệu này ta

10

Khoá luận tốt nghiệp


Cao Thị Thu Thuỷ - K32A Văn
không thể tìm thấy yêu tố ngôn ngữ thể hiện thái độ, cảm xúc của người
viết… Ngữ liệu là một câu dài gồm nhiều vế câu liên tiếp như một định nghĩa
chuẩn xác. Đặc biệt, ngữ liệu sử dụng những từ ngữ, thuật ngữ thuộc lĩnh vực
Thiên văn học và Vật lý như: mặt trăng, vệ tinh tự nhiên, trái đất, ánh sáng,
mặt trời, ban đêm. Cách sử dụng như vậy là cách sử dụng ngôn ngữ trong
khoa học và nó tạo thành ngôn ngữ khoa học.
Như vậy, có thể hiểu: “Phong cách ngôn ngữ khoa học là khuôn mẫu
thích hợp để xây dựng lớp văn bản trong đó thể hiện vai của người tham gia
giao tiếp trong lĩnh vực khoa học. Nói cụ thể hơn đó là vai của nhà khoa học,
người nghiên cứu, giáo viên, kĩ sư, sinh viên…. Tất cả những ai tham gia vào
công việc nghiên cứu, học tập, giảng dạy phổ biến khoa học”
1.2.2. Các dạng thức cơ bản của ngôn ngữ khoa học
Ngôn ngữ được sử dụng trong Phong cách ngôn ngữ khoa học tồn tại ở
cả hai dạng nói và viết.
Ở dạng viết có: Các công trình nghiên cứu khoa học, các tạp chí tập
san, thông báo, báo cáo khoa học, các hình thức tóm tắt giới thiệu, lược thuật
và tổng thuật khoa học, các sách giáo khoa, giáo trình, tài liệu tham khảo, các

bài thi, luận văn, đồ án tốt nghiệp…
Ở dạng nói có: Lời giảng bài, lời thuyết trình, lời phát biểu trong các
buổi thảo luận khoa học, hội nghị khoa học, lời hỏi đáp và các vấn đề khoa
học.
Tuy nhiên tất cả văn bản đều có thể được đọc lên hoặc được in ra. Một
thông báo khoa học có thể được chuẩn bị trước ra giấy rồi sau đó thông
thường là đọc lên theo văn bản viết. Do đó ngôn ngữ khoa học còn có dạng
nói: Đọc báo cáo, đọc bài giảng…

11

Khoá luận tốt nghiệp


Cao Thị Thu Thuỷ - K32A Văn
1.2.3. Các đặc trưng cơ bản của phog cách ngôn ngữ khoa học.
Phong cách ngôn ngữ khoa học hình thành, phát triển nhằm đáp ứng
nhu cầu biểu đạt các tri thức khoa học nhằm phục vụ nhu cầu tìm tòi hiểu biết
của con người. Và khi sử dụng ngôn ngữ để ghi lại những tri thức khoa học ấy
phong cách này có những quy định riêng về cách sử dụng ngôn ngữ và chính
những quy định ấy dần tạo nên những đặc trưng cơ bản cho phong cách ngôn
ngữ này. Có thể khái quát Phong cách ngôn ngữ khoa học bao gồm chức năng
sau:
1.2.3.1. Tính khái quát trừu tượng
Đây là đặc trưng cơ bản của Phong cách ngôn ngữ khoa học. Nó có đặc
trưng này bởi khoa học là một lĩnh vực được con người thực hiện trong một
thời gian nhất định và trong quãng thời gian ấy con người phải phân tích
nghiên cứu đối tượng, sự vật trong thế giới khách quan để đưa ra một nhận
định, một chân lí khoa học cụ thể. Quá trình ấy gắn liền với quá trình tư duy
của con người. Và với quá trình tư duy ấy, con người ghi lại kết quả khoa học

với đầy đủ bản chất của các tri thức khoa học, cũng vì thế ngôn ngữ trong
phong cách này bao giờ cũng có tính khái quát trừu tượng.
VD:: “Hai mặt phẳng phân biệt cùng song song với mặt phẳng thứ ba
thì song song với nhau”.
(SGK Hình học 11).
Ngữ liệu trên là một hệ quả trong toán học. Hệ quả này là một câu ghép
có hai vế với nhau nhờ quan hệ từ “thì” và nó dùng các từ ngữ thuật ngữ khoa
học như: Mặt phẳng, song song. Hơn nữa, hệ quả toán học đó không bao quát
các hoạt động cụ thể con người đã thực hiện mà nêu thẳng kết quả đã tìm ra
được. Vì thế ngôn ngữ trong hệ quả này có tính khái quát.

12

Khoá luận tốt nghiệp


Cao Thị Thu Thuỷ - K32A Văn
Mục đích của khoa học là phát hiện ra các quy luật tồn tại trong các sự
vật hiện tượng nên càng không thể dừng lại ở những cái gì riêng lẻ, bộ phận,
cá biệt.
VD: “Hai đường thẳng song song là hai đường cùng nằm trong một
mặt phẳng và không có điểm chung”.
(SGK Hình học 11).
Ngữ liệu là một định lí toán học. Trong ngữ liệu có dùng những từ ngữ,
thuật ngữ khoa học như: Đường thẳng ,song song, mặt phẳng, điểm chung. Từ
ngữ sử dụng trong ngữ liệu không mang tính đa nghĩa mà là đơn nghĩa. Nội
dung của ngữ liệu không dừng lại ở việc miêu tả cái riêng lẻ bộ phận, cá biệt
mà đây là sự phát hiện ra một định lý toán học mang tính phổ quát sâu rộng.
Tính khái quát được thể hiện thông qua việc sử dụng các từ ngữ có ý
nghĩa khái quát qua các từ ngữ có tính định dạng như: “sự”,“cuộc”,“tính”…

VD1: “Sự hình thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh”.
(SGK Lịch sử 12).
VD2: “Cuộc vận động dân chủ 1936 - 1939 là một phong trào quần chúng
rộng lớn,,có tổ chức, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Đông Dương”.
(SGK Lịch sử 12).
Tính khái quát trừu tượng còn được thể hiện qua những từ ngữ chỉ vật
chất trừu tượng có ý nghĩa khái quát, ngắn gọn chính xác như: sự sáng tạo, sự
phát triển, yếu tố…
Ngôn ngữ khoa hoc dùng nhiều danh từ trừu tượng như: thời gian, hiện
tượng, nhiệt độ, quá trình…
Trên đây là những nét cơ bản của tính khái quát trừu tượng. Nó là một
đặc trưng quan trọng để hình thành nên Phong cách ngôn ngữ khoa học.

13

Khoá luận tốt nghiệp


Cao Thị Thu Thuỷ - K32A Văn

1.2.3.2. Tính lôgíc nghiêm ngặt
Bên cạnh tính khái quát trừu tượng ,ngôn ngữ khoa học còn mang tính
lôgíc nghiêm ngặt. Sở dĩ có điều đó là vì nghiên cứu khoa học là một quá
trình của tư duy. Trong khi đó, ngôn ngữ khoa học là ngôn ngữ dùng để ghi
lại các kết quả khoa học. Vì thế ngôn ngữ trong khoa học phải thể hiện rõ quá
trình nghiên cứu khám phá khoa học tức phải thể hiện rõ con đường tư duy.
Do vậy, ngôn ngữ trong phong cách này còn phải đạt tính lôgíc nghiêm ngặt.
VD: “Đối với sự phát triển của xã hội Tây Âu, thành thị đóng một vai
trò quan trọng. Nó đã phá vỡ nền kinh tế tự nhiên, tạo điều kiện cho kinh tế
hàng hoá giản đơn phát triển. Thành thị đã góp phần xóa bỏ chế độ tản

quyền, xây dựng chế độ phong kiến tập quyền, thống nhất quốc gia dân tộc.
Đặc biệt nó mang không khí tự do và phát triển tri thức cho mọi người. Các
trường Đại học đầu tiên như Oxphớt, Xooc bon đã ra đời trong các thành thị
trung đại Châu Âu”.
(SGK Lịch sử 10)
Ngữ liệu trên có năm câu, thể hiện một lập luận chặt chẽ theo kết cấu
diễn dịch. Câu thứ nhất trình bày luận điểm, bốn câu sau nêu ba luận cứ, mỗi
luận cứ là một vai trò của thành thị đối với sự phát triển của xã hội Tây Âu.
Nhờ thế luận điểm có tính thuyết phục cao.
Tính lôgíc nghiêm ngặt là cơ sở giúp người tiếp nhận có thể gợi mở trí
tuệ và thuyết phục bằng lí tính, lời trình bày, các suy luận phải biểu hiện năng
lực tổng hợp của trí tuệ, phải tuân theo quy tắc chặt chẽ từ tư duy lôgíc hình
thức đến tư duy lôgíc biện chứng. Tính lôgíc đó là tính chất nhất quán trong
sự có mặt của các mối liên hệ về nghĩa giữa các đơn vị ngôn ngữ. Tính nhất
quán này chỉ có thể ở những văn bản trong đó các kết luận được rút ra một
cách hợp lí từ nội dung, nghĩa là các kết luận không gây ra mâu thuẫn và

14

Khoá luận tốt nghiệp


Cao Thị Thu Thuỷ - K32A Văn
những đoạn văn riêng lẻ tạo nên văn bản thì phản ánh đúng thẳng sự vận động
của tư duy từ cái riêng đến cái chung hoặc từ cái chung đến cái riêng.
Tư duy khoa học yêu cầu tính chứng minh và tính có lí do cụ thể nên
lôgíc trong khoa học là lôgíc được chứng minh. Tư duy khoa học không chấp
nhận một sự mâu thuẫn hay phi lôgíc nào.
Như vậy tính lôgíc nghiêm ngặt là một đặc trưng quan trọng để hình
thành nên Phong cách ngôn ngữ khoa học.

1.2.3.3. Tính chính xác khách quan
Tính chính xác của Phong cách ngôn ngữ khoa học biểu hiện cụ thể ở
tính một nghĩa trong cách hiểu, nó đòi hỏi không tạo ra sự khác biệt giữa cái
được biểu đạt và cái biểu đạt. Bởi vì quá trình lời nói bên trong (quá trình
nhận thức khoa học) và quá trình lời nói bên ngoài (quá trình thể hiện các kết
quả tư duy) vốn không đồng nhất về cấu tạo lời nói, về sự thể hiện ngôn ngữ.
Mà kết tinh cuối cùng của tư duy (của những luận điểm khoa học) lại thực
hiện chính là lời nói bên ngoài chứ không phải lời nói bên trong. Đồng thời,
tính chính xác còn được thể hiện rõ qua cách dùng từ đơn nghĩa, cách kết cấu
rõ ràng, bố cục văn bản mạch lạc.
Như chúng ta đã biết, ngôn ngữ văn học có tính chính xác nhưng đa
nghĩa còn ngôn ngữ khoa học có tính chính xác nhưng đơn nghĩa. Chẳng
hạn:
“Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”.
(Ca dao)
Ở đây “thuyền” và “bến” là hình ẩn dụ chỉ người con gái và người con
trai trong tình yêu đôi lứa. Người con gái trong câu ca dao hiện lên là một cô
gái có một tâm hồn tha thiết yêu thương, một trái tim yêu chân thành thuỷ

15

Khoá luận tốt nghiệp


Cao Thị Thu Thuỷ - K32A Văn
chung và son sắc. Ở cô gái toát lên một vẻ đẹp giản dị, thanh tao mà đáng quý
biết bao.
“Thuyền” và “bến” trong ngôn ngữ văn học là vậy nhưng trong ngôn
ngữ khoa học lại khác. Cụ thể trong ngôn ngữ khoa học “thuyền” chỉ một sự

vật, phương tiện giúp con người đi lại trên đường thuỷ; “bến” là nơi neo đậu
tập kết các phương tiện đi lại. Nói một cách khác “thuyền” và “bến” trong
ngôn ngữ khoa học chỉ là những định danh, nó có vai trò xác định đặc điểm,
bản chất của sự vật, hiện tượng trong đời sống xã hội.
Tính khách quan của ngôn ngữ khoa học được thể hiện ở việc khi nêu
các bản chất của các sự vật, hiện tượng trong thực tế khách quan thì người
viết hạn chế việc thể hiện tình cảm, cảm xúc hoặc những nhận định của bản
thân về đối tượng được nêu mà người viết trình bày trực tiếp cụ thể đối tượng
ấy.
So sánh với ngôn ngữ văn học ta thấy: Ngôn ngữ văn học có tính chủ
quan thể hiện tư tưởng, thái độ, tình cảm cảm xúc của người viết nhưng ngôn
ngữ khoa học hạn chế điều đó.
Chẳng hạn, viết về Bác Tố Hữu có những vần thơ rất hay chứa đựng
nhiều tình cảm:
“Bác ơi tim bác mênh mông thế
Ôm cả non sông vạn kiếp người”.
(Bác ơi)
Hai câu thơ là lời ngợi ca và là sự khẳng định ca ngợi trái tim dạt dào
tình thương bao trùm cả non sông và “mọi kiếp người” của Bác. Tố Hữu
khẳng định lòng yêu thương của Bác vừa lớn lao, vừa lan toả đến mọi kiếp
người.
Thế nhưng, cũng viết về Bác SGK Ngữ văn 12 lại viết: “Chủ tịch Hồ
Chí Minh là nhà yêu nước và nhà cách mạng vĩ đại của dân tộc, đồng thời là

16

Khoá luận tốt nghiệp


Cao Thị Thu Thuỷ - K32A Văn

một nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào Quốc tế cộng sản”. Ở đây, người
viết không biểu hiện tình cảm, cảm xúc đối với Bác mà đó chỉ là một nhận
định trình bày trực tiếp cụ thể về con người Bác.
Trên đây là những đặc điểm cơ bản của tính chính xác khách quan. Nó
góp phần hình thành nên Phong cách ngôn ngữ khoa học.
Kết luận chương 1: Phong cách chức năng ngôn ngữ là một trong
những nội dung quan trọng trong quá trình nghiên cứu Phong cách học. Nó
không những chỉ rõ được đặc điểm nội dung phong cách chức năng ngôn ngữ
mà còn xác định rõ xác nhân tố cấu thành của phong cách chức năng ngôn
ngữ và mối quan hệ giữa chúng. Hơn nữa, nghiên cứu về phong cách chức
năng ngôn ngữ các nhà nghiên cứu học đã đưa ra rất nhiều hướng phân loại
khác nhau để thấy được chức năng ngôn ngữ và phạm vi sử dụng ngôn ngữ.
Phong cách ngôn ngữ khoa học là một trong những phong cách chức năng
ngôn ngữ tiêu biêu biểu với ba đặc trưng là tính khái quát trừu tượng, tính lô
gíc nghiêm ngặt và tính chính xác khách quan. Ba đặc trưng cùng tồn tại hỗ
trợ đã tạo nên nét riêng cho ngôn ngữ khoa học.

17

Khoá luận tốt nghiệp


Cao Thị Thu Thuỷ - K32A Văn
CHƯƠNG 2: DẠY HäC BÀI PHONG CÁCH NGÔN NGỮ KHOA HỌC

Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
2.1. Sự đổi mới nội dung chương trình tiếng Việt
Để đánh giá thực trạng dạy học bài này ở trưởng phổ thông chúng tôi
tập trung đánh giá sự đổi mới trong SGK và phần tiếng Việt.
Chương trình THPT trước đây, phần tiếng Việt được triển khai ở lớp 10

và lớp 11. Cách triển khai nội dung kiến thức tiếng Việt là SGK trình bày nội
dung kiến thức cơ bản về Phong cách ngôn ngữ khoa học, giáo viên căn cứ
vào đó để tổ chức dạy học cho học sinh. Vì thế, học sinh ỷ lại dựa dẫm vào
SGK.
Còn trong chương trình hiện nay tiếng Việt triển khai đến lớp 12.
Phong cách ngôn ngữ khoa học cũng được dạy ở lớp 12 trong hai tiết chứ
không dạy một tiết như ở chương trình cũ, tức là lượng thời gian được phân
bố nhiều hơn. Khi dạy kiến thức này SGK đã giải thích một số ngữ liệu giúp
học sinh nhận thấy đặc điểm của các kiểu văn bản thuộc Phong cách ngôn
ngữ khoa học, từ đó nêu ra những đặc trưng cơ bản cho phong cách ngôn ngữ
này. Do vậy học sinh phải làm việc tích cực ,chủ động.
Dạy học bài phong cách ngôn ngữ khoa học, học sinh có thể lồng ghép
tích hợp với những tri thức trong các văn bản nghiên cứu về văn chương như:
Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc; Đọc thêm
Đô - xtôi – ep – xki. Hay với những tri thức về nghiên cứu một ý kiến văn học
trong làm văn. Hoặc nghiên cứu luật thơ trong tiếng Việt.
Hiện nay, phần tiếng Việt chú trọng việc thực hành. Ngay cả những bài
về kiến thức và kĩ năng cũng được hình thành qua hoạt động thực hành (từ
tìm hiểu, phân tích ngữ liệu thực tế). Thêm nữa, cuối mỗi bài có phần luyện
tập giúp học sinh thực hành để củng cố kiến thức, kĩ năng.

18

Khoá luận tốt nghiệp


Cao Thị Thu Thuỷ - K32A Văn
Cùng với nguyên tắc coi trọng thực hành, việc dạy học tiếng Việt ở lớp
12 cũng như ở cả cấp THPT còn coi trọng cả nguyên tắc phát huy tính tích
cực của học sinh. Điều đó thể hiện ở việc thực hành, học sinh tự hình thành

kiến thức, kĩ năng, rồi củng cố nâng cao kiến thức kĩ năng. SGK được biên
soạn theo nguyên tắc như vậy và GV khi thiết kế giáo án, khi tiến hành hoạt
động dạy học trên lớp cũng cần theo nguyên tắc đó. Giáo viên không thuyết
trình, không cung cấp hay truyền thụ đơn phương kiến thức cho học sinh. Căn
cứ vào SGK và SGV, GV gợi dẫn để học sinh tìm hiểu, phân tích và hình
thành kiến thức, kĩ năng.
Cách triển khai trên đây cho thấy sự đổi mới của chương trình, trang bị
đầy đủ hơn những tri thức cơ bản của phong cách ngôn ngữ này. Đồng thời từ
đó giúp học sinh có một nền tảng nhất định để các em có thể chủ động tự tin,
tạo lập những văn bản khoa học. Hơn nữa, cách triển khai ấy trang bị cho các
em những tri thức tiếng Việt để các em có thể học tập theo hướng tích hợp khi
học làm văn và học một số văn bản.
Như vậy, sự đổi mới chương trình dạy học môn Ngữ văn nói chung và
việc dạy học bài “Phong cách ngôn ngữ khoa học” nói riêng là một sự đổi
mới tiến bộ, hiệu quả và thuận lợi, phù hợp cho cả người dạy và người học.
2.2.Thực trạng dạy bài Phong cách ngôn ngữ khoa học.
Mặc dù đã có sự đổi mới nhưng việc dạy học bài “Phong cách ngôn
ngữ khoa học” ở trường phổ thông vẫn tồn tại một số thực trạng sau:
Tồn tại thứ nhất khi dạy học bài này là sự hạn chế về thời gian. “Phong
cách ngôn ngữ khoa học” là một bài khó dạy bởi lẽ đây là một bài có tính
chất khô khan, trừu tượng và mức độ chuẩn xác của kiến thức cao. Vì thế học
sinh khó có thể hiểu hết bài học trong một khoảng thời gian ngắn. Từ đó dẫn
đến hiệu quả dạy học không cao. Với lượng thời gian hai tiết, giáo viên và
học sinh phải tìm hiểu văn bản khoa học, ngôn ngữ khoa học, các đặc trưng

19

Khoá luận tốt nghiệp



Cao Thị Thu Thuỷ - K32A Văn
và phần luyện tập. Đây là một khối lượng kiến thức khá lớn khó truyền tải
một cách kĩ càng trong hai tiết học. Điều đó dẫn tới tình trạng dạy sơ lược,
vắn tắt.
Tồn tại thứ hai, đó là giáo viên phổ thông khi tiến hành tìm hiểu soạn
giảng bài “Phong cách ngôn ngữ khoa học” để dạy cho học sinh vẫn máy
móc, áp đặt theo SGK, SGV. Tức là vẫn dùng nhiều phương pháp thụ động,
phụ thuộc vào SGK, ít có sự mở rộng nên việc dạy học chưa đạt được hiệu
quả. Vì thế việc dạy học bài này chưa có nhiều sự tìm tòi và sáng tạo, học
sinh khi tiếp nhận tri thức sẽ có những hạn chế nhất định.
Tồn tại thứ ba, vấn đề hệ thống ngữ liệu của bài học. Hệ thống ngữ liệu
trong bài có ít, chưa thực sự phong phú. Do đó, khi lí giải các đặc trưng cơ
bản của Phong cách ngôn ngữ khoa học chưa được thoả đáng, cụ thể: việc lí
giải tính khái quát trừu tượng, tính lí trí lôgíc và tính khách quan phi cá thể ở
bài học chưa rõ ràng có phần mơ hồ khó hiểu. Ở tính khái quát trừu tượng, bài
học chỉ đưa ra một số thuật ngữ khoa học làm ngữ liệu chứng minh cho đặc
trưng ấy, với số lượng ngữ liệu ít ỏi này khiến cho giáo viên gặp phải hạn chế
trong quá trình giảng dạy và học sinh khó nắm kĩ tri thức khoa học.
Tồn tại thứ tư là việc tổ chức luyện tập thực hành cho học sinh. Luyện
tập thực hành cho học sinh còn hạn chế do lượng thời gian của bài học dành
cho nó quá ít. Tiết một học về văn bản khoa học và ngôn ngữ khoa học, giáo
viên cùng học sinh lần lượt phân tích ba ngữ liệu trong SGK. Việc làm này
tốn khá nhiều thời gian. Hơn nữa, sau khi phân tích ngữ liệu giáo viên phải
mất một lượng thời gian nhất định để chỉ ra những kiến thức lý thuyết cơ bản.
Từ đó GV và HS trao đổi, thảo luận, tìm hiểu về ngôn ngữ khoa học với hai
dạng nói và viết được thể hiện như thế nào. Hai công việc này chiếm khoảng
thời gian gần như cả tiết học. Thời gian không nhiều còn lại mới dành cho
phần luyện tập thực hành. Đến tiết hai cũng vậy để lí giải hết ba đặc trưng cơ

20


Khoá luận tốt nghiệp


Cao Thị Thu Thuỷ - K32A Văn
bản của Phong cách ngôn ngữ khoa học phải mất một lượng thời gian nhiều,
thời gian còn lại mới dành cho phần luyện tập. Như vậy, lượng thời gian ở cả
hai tiết học dành cho phần thực hành hạn chế. Khi luyện tập thực hành, GV
chỉ dựa vào một số gợi ý khái quát trong các tài liệu tham khảo để hướng dẫn
học sinh làm bài tập mà chưa chú ý người học có lĩnh hội được tri thức thấu
đáo hay chưa. Đặc biệt tổ chức luyện tập là phần rất quan trọng sau mỗi tiết
học, nó củng cố kiến thức, rèn luyện kĩ năng và vận dụng lý thuyết để học
sinh giải bài tập đạt kết quả tốt. Qua phân tích trên, ta thấy luyện tập thực
hành nằm trong lượng thời gian ngắn, hiệu quả đạt được ở phía người học
chưa cao và gây nên những hạn chế nhất định trong việc vận dụng lý thuyết
vào giải bài tập của học sinh.
Trên đây là những thực trạng phổ biến khi dạy bài “Phong cách ngôn
ngữ khoa học” trong trường phổ thông. Để điều chỉnh chúng theo hướng tích
cực thì cần phải có những phương hướng thực sự xác đáng.
2.3. Thực trạng của học sinh
“Phong cách ngôn ngữ khoa học” là một bài khó, vì tính chất khô khan
và mức độ chuẩn xác của kiến thức cao. Điều này dẫn đến một số hạn chế của
học sinh khi học bài này.
Học sinh là người tiếp nhận trực tiếp những tri thức trong bài học,
nhưng trong quá trình học, học sinh còn học theo hình thức chống đối, chưa
có hứng thú học tập. Hơn nữa, học sinh học dường như còn trong tình trạng
bắt buộc với tinh thần không thoải mái và đôi lúc thiếu thiện chí.
Việc vận dụng ngôn ngữ khoa học của học sinh cũng còn nhiều hạn
chế. Điều này thể hiện qua cách học sinh trả lời các câu hỏi (chưa phù hợp
với ngôn ngữ khoa học). Đồng thời, hạn chế cả trong cách các em học sinh

giải bài tập ở các môn toán, hoá, sinh, vật lí... Học sinh trong quá trình giải
bài tập nhiều khi còn chưa khoa học, chưa đảm bảo được đặc trưng cơ bản

21

Khoá luận tốt nghiệp


Cao Thị Thu Thuỷ - K32A Văn
của Phong cách ngôn ngữ khoa học, trình bày các bước giải bài tập chưa rõ
ràng, mạch lạc.
2.4. Phong cách ngôn ngữ khoa học trong SGK Ngữ văn 12
Phong cách ngôn ngữ khoa học được dạy trong hai tiết:
Tiết một, SGK trình bày các nội dung cụ thể: Văn bản khoa học và
ngôn ngữ khoa học. Với việc triển khai nội dung này bước đầu cho HS nắm
được các thể loại cơ bản của Phong cách ngôn ngữ khoa học để từ đó các em
có thể nệân diện được chúng trong thực tế sử dụng. Hơn nữa thông qua những
thể loại văn bản cụ thể mà giúp cho HS nắm được cách thức sử dụng ngôn
ngữ trong từng kiểu văn bản của phong cách ngôn ngữ này. Từ những văn bản
cụ thể, phần tiếp theo của tiết học chính là sự khái quát về các thể loại và cách
sử dụng ngôn ngữ của phong cách chức năng đó. Việc nhận xét các thể loại
văn bản được trình bày ở các phương diện thể loại, dạng tồn tại, các chức
năng ngôn ngữ. Về thể loại, văn bản khoa học có ba thể loại, đó là các văn
bản khoa học chuyên sâu: chuyên khảo, luận án, luận văn, tiểu luận, báo cáo
khoa học...Loại văn bản này thường mang tính chuyên ngành khoa học cao và
sâu, dùng để giao tiếp giữa những người làm công việc nghiên cứu trong các
ngành khoa học; Các văn bản khoa học giáo khoa: giáo trình, sách tham khảo,
thiết kế bài dạy... về các môn khoa học Tự nhiên, Khoa học Công nghệ, khoa
học Xã hội và Nhân văn, ngoài yêu cầu về khoa học các văn bản này còn có
yêu cầu về sư phạm tức là phải trình bày nội dung từ dễ đến khó, từ thấp đến

cao phù hợp với trình độ học theo từng cấp từng lớp, có định lượng kiến thức
từng tiết, từng bài, có phần trình bày kiến thức và có phần thực hành; các văn
bản khoa học phổ cập (khoa học đại chúng) bao gồm các bài báo và sách phổ
biến khoa học kĩ thuật... nhằm phổ biến rộng rãi kiến thức khoa học cho đông
đảo bạn đọc, không phân biệt trình độ chuyên môn, các văn bản này dễ hiểu,
hấp dẫn, có thể dùng cách miêu tả, dùng cách ví von so sánh sao cho ai cũng
có thể hiểu được để đưa khoa học vào cuộc sống. Về dạng tồn tại của văn bản

22

Khoá luận tốt nghiệp


Cao Thị Thu Thuỷ - K32A Văn
khoa học, văn bản khoa học tồn tại ở hai dạng: Dạng viết, ngoài việc sử dụng
từ ngữ, ngôn ngữ khoa học còn dùng các kí hiệu, công thức các ngành khoa
học hay sơ đồ , bảng biểu để tổng kết, so sánh, mô hình hoá nội dung khoa
học; Dạng nói, ngôn ngữ khoa học yêu cầu ở mức độ cao về phát âm chuẩn,
về diễn đạt mạch lạc, chặt chẽ, người nói thường dựa trên cơ sở đề cương viết
trước. Về chức năng ngôn ngữ, văn bản khoa học có những chức năng cơ
bản:tính khái quát trừu tượng, tính lí trí lôgíc, tính khách quan phi cá thể. Sau
các nội dung trên là phần ghi nhớ, phần ghi nhớ được khái quát ở nội dung cơ
bản: ngôn ngữ khoa học là gì, các chức năng cơ bản, các dạng tồn tại của
ngôn ngữ khoa học.
Sang đến tiết hai, SGK triển khai trình bày các đặc trưng cơ bản của
phong cách ngôn ngữ khoa học: tính khái quát trừu tượng, tính lí thí lôgíc và
tính khách quan phi cá thể. Tính khái quát, trừu tượng thể hiện ở: Nội dung
khoa học và ở các phương tiện ngôn ngữ, trước hết là thuật ngữ khoa học; Kết
cấu văn bản (qua các phần chương, mục, đoạn). Tính lí trí, lôgíc thể hiện ở:
Nội dung và phương tiện ngôn ngữ (dùng từ ngữ, thuật ngữ khoa học); Câu

văn, cấu tạo đoạn văn và văn bản. Tính khách quan, phi cá thể thể hiện ở từ
ngữ và câu văn, chúng có màu sắc trung hoà, ít biểu lộ sắc thái cảm xúc. Sau
các đặc trưng SGK đã đưa ra ghi nhớ và cho HS luyện tập. Từ việc triển khai
bài “Phong cách ngôn ngữ khoa học” ở tiết hai , SGK chưa trình bày khái
niệm phong cách chức năng ngôn ngữ này. Đồng thời khi triển khai các đặc
trưng SGK hầu như không có các ví dụ cụ thể và đó là khó khăn cho GV
trong việc lí giải các đặc trưng ấy.
Trên đây là toàn bộ nội dung bài “Phong cách ngôn ngữ khoa học” với
hai tiết học cụ thể, rõ ràng.
2.5. Quy trình dạy học bài “Phong cách ngôn ngữ khoa học”
Sự đổi mới chương trình dạy học, thực trạng dạy và thực trạng học bài
“Phong cách ngôn ngữ khoa học” ở trường phổ thông là những vấn đề quan

23

Khoá luận tốt nghiệp


Cao Thị Thu Thuỷ - K32A Văn
trọng, đáng được quan tâm. Do vậy xuất phát từ thực tế này, chúng tôi đưa ra
quy trình dạy học bài “Phong cách ngôn ngữ khoa học”.Quy trình ấy cụ thể
như sau:
Ở tiết một, chúng tôi tập trung làm rõ hai nội dung: Văn bản khoa học
và ngôn ngữ khoa học. Với phần một: Văn bản khoa học, chúng tôi sử dụng
phương pháp phân tích ngôn ngữ, thông báo giải thích, và thông qua hệ thống
câu hỏi dẫn dắt hình thành những hiểu biết ban đầu về các thể loại văn bản
khoa học, về cách sử dụng ngôn ngữ trong các văn bản. GV giúp HS phân
tích ngữ liệu (ba ngữ liệu) để làm rõ đặc điểm các thể loại văn bản, đồng thời
qua đây giúp HS nhận diện được thế nào là văn bản khoa học chuyên luận, thế
nào là văn bản khoa học giáo khoa, thế nào là văn bản khoa học phổ cập. Tiếp

đó GV sử dung phương pháp thông báo giải thích để hệ thống những nhận xét
cơ bản về ngôn ngữ và các kiểu văn bản của Phong cách ngôn ngữ khoa học.
Phần hai của tiết học là phần ngôn ngữ khoa học. Phần này GV sử dụng
phương pháp dẫn dắt thuyết trình giúp HS nắm được khái niệm ngôn ngữ
khoa học. Sau đó GV sử dụng phưong pháp đàm thoại để HS nắm được dạng
tồn tại nói và viết của ngôn ngữ khoa học đươc thể hiện cụ thể ra sao. Từ
những vấn đề này, GV đưa ra nhận xét một cách khái quát nhất về ngôn ngữ
khoa học giúp HS nắm kĩ tri thức hơn. Sau khi giúp HS nắm văn bản khoa
học và ngôn ngữ khoa học, GV cho HS đọc nhập tâm phần ghi nhớ để khái
quát được những nét chính của tiết học. Cuối cùng GV tổ chức luyện tập thực
hành cho HS. Ở bài tập một, GV dẫn dắt gợi mở những câu hỏi theo yêu cầu
của đề bài để HS theo đó thảo luận nhóm và đưa ra câu trả lời, GV nhận xét
rồi chốt lại ý chính. Ở bài tập hai GV hướng dẫn và gợi ý để HS về nhà làm
bài tập đạt hiệu quả.
Đến tiết hai, chúng tôi tập trung làm rõ khái niệm Phong cách ngôn ngữ
khoa học và các đặc trưng cơ bản của ngôn ngữ khoa học. Đây là một trong
những nhiệm vụ càn thiết, không thể thiếu trong dạy học bài “Phong cách

24

Khoá luận tốt nghiệp


Cao Thị Thu Thuỷ - K32A Văn
ngôn ngữ khoa học”. Ở phần một GV giúp HS nhận diện khái niệm Phong
cách ngôn ngữ khoa học, để tạo thành tính hệ thống với các khái niệm mà HS
được học ở lớp 10 và lớp 11 chúng tôi đưa ra khái niệm: “Phong cách ngôn
ngữ khoa học là phong cách ngôn ngữ được sử dụng trong các văn bản thuộc
lĩnh vực khoa học”. Sở dĩ định nghĩa Phong cách ngôn ngữ khoa học theo
cách này vì là HS không được học các khái niệm phong cách chức năng ngôn

ngữ, chuẩn mực ngôn ngữ và chuẩn mực phong cách. Vì thế định nghĩa
Phong cách ngôn ngữ khoa học như trên giúp HS dễ hiểu nhất. Sang phần hai
của tiết học: Các đặc trưng, GV cùng HS lần lượt đi tìm hiểu từng đặc trưng
của Phong cách ngôn ngữ khoa học. Với tính khái quát, trừu tưọng GV sẽ kết
hợp các phương pháp phát vấn đàm thoại, phân tích ngôn ngữ, thông báo giải
thích để làm rõ đặc trưng, đồng thời GV nêu những ví dụ cụ thể chứng minh
cho đặc trưng này giúp HS nắm và hiểu bài hơn. Với tính lí trí ,lôgíc và tính
khách quan ,phi cá thể GV cũng lần lựợt sử dụng các phưong pháp trên để
làm rõ đặc điểm của chúng, qua đó giúp HS nắm kĩ tri thức của bài học. Khi
kết thúc hai phần của tiết hai, GV cho HS đọc ghi nhớ để khái quát kiến thức
trong tiết học. Phần việc còn lại GV cho HS luyện tập thực hành. Ở bài tập
ba, GV đưa câu hỏi yêu cầu HS thảo luận và trả lời theo nhóm, sau đó GV
nhận xét và chốt lại ý chính. Ở bài tập bốn, GV gợi ý để HS về nhà hoàn thiện
bài tập.
Như vậy, trên đây là quy trình dạy học bài “Phong cách ngôn ngữ khoa
học”. Quy trình này có tính chặt chẽ, lôgíc và mang lại hiệu quả dạy học cao.
Kết luận chương 2: Thực trạng dạy học “Phong cách ngôn ngữ khoa
học” ở trường THPT là vấn đề đã và đang được quan tâm hiện nay. Ở đó có
sự đổi mới nội dung chương trình tiếng Việt nói chung và sự đổi mới nội
dung dạy học bài Phong cách ngôn ngữ khoa học nói riêng – sự đổi mới tiến
bộ và có hiệu quả. Việc dạy bài “ Phong cách ngôn ngữ khoa” học tồn tại
một số những thực trạng cơ bản dễ nhận thấy, song song với hoạt động dạy

25

Khoá luận tốt nghiệp


×