Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Luận văn sư phạm Dạy học truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 theo phương pháp đọc - hiểu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (723.73 KB, 111 trang )

Trường đại học sư phạm hà nội 2
Khoa: Ngữ văn
---------***---------

Nguyễn thị ngọc diệp

Dạy học truyện ngắn
Nguyễn Minh châu sau 1975
theo phương pháp đọc - hiểu

Khóa luận tốt nghiệp đại học
Chuyên ngành: Phương pháp dạy học Ngữ văn

Người hướng dẫn khoa học
Thạc sĩ. Bùi Minh Đức

Hà NộI 5/2007


Nguyễn Thị Ngọc Diệp

Khoá luận tốt nghiệp Đại học

LờI CảM ƠN
Trong quá trình triển khai thực hiện đề tài Dạy học truyện ngắn
Nguyễn Minh Châu sau 1975 theo phương pháp đọc hiểu, tác giả khoá luận
đã thường xuyên nhận được sự giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi và chỉ bảo tận
tình của các thầy, cô giáo trong khoa Ngữ văn, đặc biệt là các thầy, cô trong tổ
Phương pháp dạy học Ngữ văn và Thạc sĩ Bùi Minh Đức người hướng dẫn
trực tiếp.
Tác giả khóa luận xin được bày tỏ sự biết ơn và gửi lời cảm ơn trân


trọng nhất tới các thầy cô.
Do năng lực nghiên cứu có hạn, khoá luận chắc chắn không tránh khỏi
những thiếu sót. Rất mong sự chỉ bảo, góp ý của các thầy cô giáo và các bạn
đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 16 tháng 5 năm 2007
Tác giả khoá luận

Nguyễn Thị Ngọc Diệp

2


Nguyễn Thị Ngọc Diệp

Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan khoá luận tốt nghiệp Đại học với đề tài: Dạy
học truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 theo phương pháp đọc
hiểu là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi.
Tôi xin chịu mọi trách nhiệm về công trình nghiên cứu của mình.

Hà Nội ngày 16 tháng 5 năm 2007
Tác giả khoá luận

Nguyễn Thị Ngọc Diệp


3


Nguyễn Thị Ngọc Diệp

Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Mục lục

Trang
Phần 1. Mở đầu ........................................................................................ 8
1. Lý do chọn đề tài................................................................................... 8
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu .................................................................... 9
3. Mục đích nghiên cứu ............................................................................ 11
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................ 11
5. Giới hạn nghiên cứu ............................................................................. 11
6. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................... 12
7. Đóng góp của khoá luận ....................................................................... 12
8. Cấu trúc khóa luận ................................................................................ 12
Phần 2. Nội dung .................................................................................... 13
Chương 1: Đọc hiểu và đọc hiểu tác phẩm văn chương....................... 13
1.1.

Đọc hiểu là gì? ................................................................................ 13

1.1.1. Về quan niệm đọc hiểu ............................................................ 13
1.1.2. Đọc hiểu tác phẩm văn chương ................................................... 15
1.2.

Đọc hiểu tác phẩm văn chương và giảng văn ................................. 17


1.3.

Nguyên tắc chung của việc đọc hiểu tác phẩm văn chương ........... 19

1.1.1. Dựa vào ngữ cảnh hẹp, bám sát văn bản, coi văn bản là yếu tố quan
trọng nhất (không phải là duy nhất) để tìm hiểu tác phẩm ............ 20
1.1.2. Ngoài ngữ cảnh hẹp, còn phải dựa vào ngữ cảnh rộng để tìm hiểu ý
nghĩa sâu xa của văn bản................................................................ 20
1.1.3. Tiếp cận tác phẩm văn chương theo hướng tổng phân hợp kết
hợp so sánh đồng đại với lịch đại .................................................. 21
1.1.4. Gắn việc đọc hiểu văn bản văn học với cuộc sống của bản thân 24
1.1.5. Những điều cần tránh trong việc đọc hiểu văn bản ..................... 25

4


Nguyễn Thị Ngọc Diệp

1.4.

Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Các bước đọc hiểu một văn bản văn học ........................................ 25

Chương 2: Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 và dạy
học truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 ở nhà trường phổ thông
theo phương pháp đọc hiểu ....................................................................... 28
2.1. Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 ......................... 28
2.1.1. Tư tưởng nghệ thuật và quan niệm nghệ thuật về con người của

Nguyễn Minh Châu ......................................................................................... 29
2.1.1.1. Tư tưởng nghệ thuật .................................................................. 29
2.1.1.2. Quan niệm nghệ thuật ................................................................ 32
2.1.2 Nhân vật trong sáng tác Nguyễn Minh Châu ................................... 37
2.1.2.1. Các loại nhân vật ........................................................................ 37
2.1.2.2. Thủ pháp xây dựng nhân vật ...................................................... 45
2.1.3. Tình huống ...................................................................................... 49
2.1.3.1. Dạng tình huống tự nhận thức .................................................... 50
2.1.3.2. Dạng tình huống tương phản ...................................................... 52
2.3.3.3. Dạng tình huống thắt nút ............................................................ 54
2.1.4. Giọng điệu ....................................................................................... 56
2.1.4.1. Giọng điệu trữ tình ấm áp........................................................... 56
2.1.4.2. Giọng điệu thâm trầm, triết lý .................................................... 57
2.1.4.3. Sự đan xen giữa nhiều giọng điệu .............................................. 58
2.2. Dạy học truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 ở nhà trường phổ
thông theo phương pháp đọc hiểu ................................................................ 60
2.2.1. Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu ở nhà trường phổ thông ............. 60
2.2.2. Định hướng dạy học truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 ở
nhà trường phổ thông theo phương pháp đọc hiểu ...................................... 61
2.2.2.1. Tạo ấn tượng ban đầu cho người đọc thông qua việc đọc theo
giọng điệu của nhà văn .................................................................................... 61

5


Nguyễn Thị Ngọc Diệp

Khoá luận tốt nghiệp Đại học

2.2.2.2. Xác định tình huống trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau

1975 ................................................................................................................ 64
2.2.2.3. Tìm hiểu nhân vật trong sáng tác Nguyễn Minh Châu sau 1975
......................................................................................................................... 66
2.2.2.4. Tìm hiểu tư tưởng nghệ thuật và quan niệm nghệ thuật về con
người của Nguyễn Minh Châu ........................................................................ 69
2.2.3. Các bước đọc hiểu truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 ở
nhà trường phổ thông....................................................................................... 72
Chương 3: Thiết kế thể nghiệm bài học tác phẩm văn chương................. 89
3.1. Mục đích thiết kế................................................................................... 89
3.2. Định hướng ............................................................................................ 89
3.3. Nội dung thiết kế ................................................................................... 89
Thiết kế 1: Bến quê .......................................................................... 90
Thiết kế 2: Chiếc thuyền ngoài xa..................................................100
Phần 3: Kết luận ................................................................................. 108
tài liệu tham khảo .......................................................................... 110

6


Nguyễn Thị Ngọc Diệp

Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Một số thuật ngữ, cụm từ được viết tắt

Gv

Giáo viên

Hs


Học sinh

Sgk

Sách giáo khoa

Sgv

Sách giáo viên

Thcs

Trung học cơ sở

Thpt

Trung học phổ thông

Gd & đt

Giáo dục và Đào tạo

Khtn

Khoa học tự nhiên

Khxh & nv

Khoa học Xã hội và Nhân văn


TS

Tiến sĩ

GS. TS

Giáo sư. Tiến sĩ

7


Nguyễn Thị Ngọc Diệp

Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Phần 1

Mở đầu

1. Lý do chọn đề tài:
1.1. Theo Chương trình Trung học cơ sở (ban hành kèm theo Quyết
định số 3/ QĐ - BGD & ĐT ngày 24/1/2002 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo), việc đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn được thực hiện theo
quan điểm tích hợp trong đó trọng tâm của yêu cầu dạy học phần Văn là đọc
hiểu văn bản (văn bản nghệ thuật, các văn bản nhật dụng). Lý thuyết về đọc
hiểu, đặc biệt phương pháp đọc hiểu là vấn đề giảng dạy khoa học mới mẻ
đối với môn học Ngữ văn trong nhà trường phổ thông. Nó giúp học sinh thực
hiện một chuỗi thao tác chiếm lĩnh giá trị tác phẩm, hướng tới hiệu quả thực
hành, vận dụng và kết nối kiến thức với các phần Tiếng Việt, Làm văn.

Về vấn đề lý luận này, nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra những quan
điểm riêng của mình. Tuy nhiên, những quan điểm đó hiện nay vẫn chưa được
thống nhất cần được tiếp tục nghiên cứu. Việc triển khai đề tài này vừa góp
phần đáp ứng hoàn thiện, bổ sung về mặt lý luận vừa đáp ứng nhu cầu đổi mới
phương pháp dạy học văn ở trường phổ thông.
1.2. Sau bốn năm triển khai giảng dạy thí điểm, năm học 2006 2007
là năm học đầu tiên SGK Ngữ văn THPT phân ban thí điểm được đưa vào
giảng dạy và học đại trà. Thực tiễn dạy học này ở trường THPT đòi hỏi những
nghiên cứu mới để góp phần vào việc triển khai nâng cao chất lượng dạy học
SGK Ngữ văn.
Bến quê và Chiếc thuyền ngoài xa là hai truyện ngắn của Nguyễn
Minh Châu được viết sau 1975 và lần đầu tiên được đưa vào chương trình Ngữ
văn phổ thông. Nâng cao chất lượng dạy và học tác phẩm Nguyễn Minh Châu
không chỉ cung cấp cho học sinh cách thức chiếm lĩnh tác phẩm theo thể loại

8


Nguyễn Thị Ngọc Diệp

Khoá luận tốt nghiệp Đại học

truyện ngắn mà còn giúp các em khám phá con đường đi vào thế giới nghệ
thuật của nhà văn.
Với đề tài này, tác giả khóa luận muốn góp phần nghiên cứu về phương
pháp đọc hiểu tác phẩm truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975.
1.3. Là một sinh viên năm thứ tư, trong tương lai gần tác giả khóa luận
sẽ trở thành giáo viên Ngữ văn. Năm học đầu tiên bước vào sự nghiệp dạy học
là năm thứ hai SGK Ngữ văn được đưa vào giảng dạy đại trà ở bậc THPT.
Chính vì thế, việc nghiên cứu đề tài này sẽ trang bị cho người nghiên cứu một

quan điểm, một cái nhìn hệ thống khi giảng dạy SGK Ngữ văn theo phương
pháp đọc hiểu. Nó có ý nghĩa quan trọng, là bước chuẩn bị để người nghiên
cứu có được sự tự tin, vững vàng khi dạy học SGK Ngữ văn.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu:
Những công trình nghiên cứu về tác phẩm Nguyễn Minh Châu sau 1975:
Nguyễn Minh Châu là một tác giả quen thuộc của nền văn học hiện đại
Việt Nam. Ông là một cây bút văn xuôi tiêu biểu trong thời kỳ kháng chiến
chống Mỹ. Qua tác phẩm Nguyễn Minh Châu, thế giới biết đến một Việt Nam
vừa dũng cảm, đau thương trong chiến đấu vừa sáng lên vẻ đẹp của lòng nhân
hậu, yêu thương. Nhưng có lẽ, Nguyễn Minh Châu thực sự để lại dấu ấn riêng
của mình ở mảng truyện ngắn viết sau 1975. Với những tác phẩm ở thể loại
quen thuộc này ông đã được xếp vào vị trí một trong những người đi tiên
phong góp phần quan trọng vào công cuộc đổi mới nền văn học nước nhà.
Những công trình nghiên cứu tác phẩm Nguyễn Minh Châu sau 1975 rất
phong phú, ta có thể kể đến một số công trình như sau:
- Nguyễn Minh Châu - con người và tác phẩm, Nhiều tác giả, NXB Hội
nhà văn, Hà Nội, 1991.
- Nguyễn Minh Châu - tác gia và tác phẩm, Nhiều tác giả, NXB Giáo
dục, Hà Nội, 2006.

9


Nguyễn Thị Ngọc Diệp

Khoá luận tốt nghiệp Đại học

- Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu, Tôn Phương Lan, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002.
- Vẻ đẹp văn học cách mạng, Nhiều tác giả, NXB Giáo dục, Hà Nội,

2006.
- Thi pháp hiện đại, Đỗ Đức Hiểu, NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 2000.
2.2. Những công trình nghiên cứu về đọc hiểu:
Cho đến nay, ở Việt Nam vấn đề đọc hiểu đang đứng trước nhu cầu
cần được xây dựng thành một hệ thống lý thuyết căn bản. ở bậc THCS, điều
này mới chỉ được định hướng một cách khái quát trong chương trình và chủ
yếu thể hiện bằng hệ thống câu hỏi đọc hiểu trong SGK Ngữ văn. Đến bậc
THPT các nhà biên soạn SGK đã cung cấp tri thức về phương pháp đọc hiểu
và cụ thể hơn là các bước đọc hiểu một văn bản văn học (SGK thí điểm Ngữ
văn 11, Ban KHXH & NV, tập 2). Bên cạnh đó có một số công trình nghiên
cứu về phương pháp đọc hiểu trong các sách báo, tạp chí.
Chúng ta có thể liệt kê một số công trình tiêu biểu như sau:
- Ngữ văn 10 (nâng cao), tập 1.
- Ngữ văn 10 (nâng cao), tập 2.
- Ngữ văn 11 thí điểm, Ban KHXH & NV, tập 1, Bộ 2.
- Ngữ văn 11 thí điểm, Ban KHXH & NV, tập 2, Bộ 2.
- Tài liệu bồi dưỡng giáo viên SGK Ngữ văn 12 thí điểm.
- Đọc và tiếp nhận văn chương, Nguyễn Thanh Hùng, NXB Giáo dục,
Hà Nội, 2002.
- Tìm hiểu chương trình và SGK THPT, Đỗ Ngọc Thống, NXB Giáo
dục, Hà Nội, 2006.
Nhưng vấn đề đọc hiểu trên đây mới chỉ là lý thuyết. Các tài liệu trên
đã chưa đưa ra được những mẫu cụ thể, chưa vận dụng lý thuyết đọc hiểu
vào một bài học cụ thể để định hướng giáo viên hiểu sâu sắc vấn đề.

10


Nguyễn Thị Ngọc Diệp


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Tác giả khoá luận đã trình bày cụ thể các nguyên tắc, các bước đọc
hiểu một văn bản văn học, đồng thời kết hợp với những hiểu biết về thi pháp
văn xuôi Nguyễn Minh Châu sau 1975, đưa ra định hướng đọc hiểu truyện
ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 vấn đề mà trước đây chưa ai đề cập tới.
Với thiết kế thể nghiệm hai bài học tác phẩm văn chương (hai truyện ngắn của
Nguyễn Minh Châu: Bến quê và Chiếc thuyền ngoài xa), người nghiên
cứu đã chuyển hoá những vấn đề lý thuyết trở thành những hoạt động, việc
làm tổ chức HS đọc hiểu tác phẩm.
Như vậy, với đề tài này, một mặt tác giả khoá luận kế thừa những quan
điểm của các nhà nghiên cứu đi trước, mặt khác có sự vận dụng sáng tạo
những quan điểm ấy để khóa luận thực sự trở thành một công cụ đắc lực, một
tài liệu tham khảo khi dạy học SGK Ngữ văn, đặc biệt là đối với truyện ngắn
Nguyễn Minh Châu sau 1975.
3. Mục đích nghiên cứu:
Khoá luận tiến tới xác lập các hoạt động, các bước dạy học truyện ngắn
Nguyễn Minh Châu sau 1975 theo phương pháp đọc hiểu.
Từ đó với đề tài này, người nghiên cứu hy vọng sẽ góp phần nâng cao
chất lượng dạy học tác phẩm văn chương nói chung và tác phẩm Nguyễn
Minh Châu sau 1975 nói riêng ở nhà trường phổ thông.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Người nghiên cứu phải tiến hành những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu lý thuyết đọc hiểu văn bản văn chương.
- Nghiên cứu đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 và
vận dụng phương pháp đọc hiểu trong dạy học truyện ngắn Nguyễn Minh
Châu sau 1975.
- Thể nghiệm bài học tác phẩm Nguyễn Minh Châu ở nhà trường phổ
thông.
5. Giới hạn nghiên cứu:


11


Nguyễn Thị Ngọc Diệp

Khoá luận tốt nghiệp Đại học

- Về nội dung: chỉ nghiên cứu đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Minh
Châu sau 1975.
- Thể nghiệm dạy hai truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu trong SGK
Ngữ văn THCS và THPT.
6. Phương pháp nghiên cứu:
Người thực hiện đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
- Phương pháp tổng hợp.
- Phương pháp phân tích.
- Phương pháp so sánh.
6.2. Phương pháp thực nghiệm.
7. Đóng góp của khoá luận:
Thực hiện đề tài này, người nghiên cứu mong muốn khoá luận sẽ góp
phần bổ sung, hoàn thiện, cụ thể hoá việc dạy học tác phẩm văn chương theo
phương pháp đọc hiểu cũng như góp phần vào việc nâng cao chất lượng các
giờ dạy học truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975.
8. Cấu trúc của khoá luận:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Khoá luận gồm 3 chương:
- Chương 1: Đọc hiểu và đọc hiểu tác phẩm văn chương.
- Chương 2: Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 và dạy
học truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 ở nhà trường phổ thông theo
phương pháp đọc hiểu.

- Chương 3: Thiết kế thể nghiệm bài học tác phẩm văn chương.

12


Nguyễn Thị Ngọc Diệp

Khoá luận tốt nghiệp Đại học

PHầN 2

NộI DUNG
Chương 1
Đọc - hiểu và đọc - hiểu tác phẩm văn chương
1.1. Đọc hiểu là gì?
1.1.1. Về quan niệm đọc hiểu:
Theo Đại bách khoa toàn thư Trung Quốc, quyển Giáo dục: Đọc
là một quá trình hoạt động tâm lý nhằm tiếp nhận ý nghĩa từ kí hiệu ngôn ngữ
được in hay viết. Xét từ mặt triết học, đọc có những nội dung sau: Một, đọc
là quá trình tiếp nhận ý nghĩa từ văn bản, tất nhiên phải hiểu ngôn ngữ của văn
bản (ngôn ngữ dân tộc, ngôn ngữ nghệ thuật, ngôn ngữ thể loại của văn bản);
phải dựa vào tính tích cực của chủ thể (hứng thú, nhu cầu, năng lực) và tác
động qua lại giữa chủ thể và văn bản. Hai, đọc là quá trình giao tiếp và đối
thoại với người tạo ra văn bản (tác giả, xã hội, văn hóa). Ba, đọc là quá trình
tiêu dùng văn hoá văn bản (hưởng thụ, giải trí, học tập). Bốn, đọc là quá trình
tạo ra các năng lực người (năng lực hiểu mình, hiểu văn hoá và hiểu thế giới).
Như thế đọc là một hoạt động văn hoá có tầm nhân loại và có ý nghĩa giáo dục
sâu sắc. Trước văn bản, người đọc vận dụng những kiến thức đã có cùng
những gợi ý (trực tiếp và gián tiếp, hàm ngôn và hiển ngôn) trong bài học để
hiểu nghĩa. Đọc đòi hỏi chiều sâu mọi nội dung tư tưởng, tình cảm, cái đẹp

của văn bản và có thể sử dụng văn bản vào đời sống cá nhân và xã hội. Biết
đọc là biết giao tiếp với đời sống văn hoá - xã hội rộng lớn, vượt ta ngoài tầm
hiểu biết trực tiếp của mỗi người và biết hưởng thụ các giá trị văn hoá kết tinh
trong văn bản.

13


Nguyễn Thị Ngọc Diệp

Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng: những người đọc đạt hiệu quả cao luôn
có chiến lược đọc riêng. Điều này cũng có nghĩa: phải xác định mục đích rõ
ràng trước khi đọc, duy trì và kiểm soát mục đích đó trong suốt quá trình đọc
cho phù hợp với mỗi mục đích và nhiệm vụ của bài đọc. Đọc gắn liền với
hiểu. Hiểu vừa là nguyên nhân vừa là mục đích của việc đọc.
Hiểu là một khái niệm có nội hàm rất rộng. Theo M. Bakhtin, trong
sách Con người trong thế giới ngôn từ, hiểu trong đọc hiểu bao gồm
nhiều hành động gắn với nhau: 1. Cảm thụ (tiếp nhận) kí hiệu vật chất (màu
sắc, con chữ); 2. Nhận ra kí hiệu quen hay lạ, hiểu ý nghĩa của nó được lặp
lại trong ngôn ngữ. 3. Hiểu ý nghĩa của nó trong ngữ cảnh. 4. Đối thoại với ý
nghĩa đó (tán thành, phản đối), trong nhận thức bao gồm cả sự đánh giá về
chiều sâu và chiều rộng. Bản chất tâm lý của sự hiểu là biến cái của nguời
khác thành cái vừa của mình vừa của người khác. Hiểu bao giờ cũng là tự
hiểu, nghĩa là biến cái được hiểu thành kiến thức, quan điểm, niềm tin của
mình. Theo M. Bakhtin, hiểu khác nhận thức và giải thích ở chỗ hiểu không
một chiều mà mang tính đối thoại. Tôi nhận ra một điều khi tôi giải thích cho
anh điều đó, mời anh tham gia vào cuộc đối thoại về điều đó với tôi. Hiểu
trong khoa học nhân văn không chỉ có thể chính xác, mà còn phải có chiều

sâu, vì ở đây không phải hiểu đồ vật, mà là hiểu con người, hiểu sự sống, do
đó ở đây hiểu có chiều sâu khác nhau. Nhà thơ Nga Manđenshtam có nói:
Pasternac là người hiểu, tôi là người rất hiểu, còn Gớt thì cái gì cũng hiểu.
Hiểu là sáng tạo. Nó là sự bừng sáng trong khoảnh khắc (giác ngộ, bừng ngộ)
sau khi đã nghiền ngẫm, là sự phát hiện cái ý nghĩa không sẵn có giữa các
dòng văn và diễn đạt bằng lời của người đọc. Như thế đọc luôn gắn liền với
nhiều mức độ hiểu, do vậy hiểu không bao giờ giản đơn chỉ là hiểu nghĩa.
Có rất nhiều ý kiến xung quanh khái niệm đọc hiểu. Theo GS. TS. Nguyễn
Thanh Hùng: Đọc hiểu là một hoạt động của con người. Nó không phải chỉ
là hình thức nhận biết nội dung ý tưởng từ văn bản mà còn là hoạt động tâm lý

14


Nguyễn Thị Ngọc Diệp

Khoá luận tốt nghiệp Đại học

giàu cảm xúc có tính trực giác và khái quát trong nếm trải của con người
Đọc hiểu mang tính chất đối diện một mình, tự lực với văn bản. Nó có cái hay
là tập trung và tích đọng, lắng kết thầm lặng năng lực cá nhân. Đây là hoạt
động thu nạp và toả sáng âm thầm với sức mạnh nội hoá kinh nghiệm đời
sống, kinh nghiệm lịch sử, kinh nghiệm nghệ thuật và kinh nghiệm văn hoá
trong cấu trúc tinh thần cá thể [13; Tr.26]. Còn theo PGS. TS. Nguyễn Thái
Hòa: Đọc hiểu là hành vi ngôn ngữ, sử dụng một loạt thủ pháp và thao tác
bằng cơ quan thị giác, thính giác để tiếp nhận, phân tích, giải mã và ghi nhớ
nội dung thông tin, cấu trúc văn bản [9; Tr.4].
Đọc hiểu, theo chúng tôi quan niệm, là đọc để nắm vững và vận dụng
được, để biết kĩ và làm tốt. Đọc hiểu chỉ chung phương thức và mục đích của
việc lĩnh hội tri thức thông tin hay là một kênh lĩnh thông tin, nắm thông tin

bằng đọc. Bao gồm:
- Đọc hiểu văn bản báo chí.
- Đọc hiểu văn bản lịch sử.
- Đọc hiểu văn bản tác phẩm văn chương.
Trong các kĩ năng đọc hiểu văn bản nói chung, đọc hiểu văn bản
văn học có một vị trí đặc biệt, bởi văn bản văn học là sản phẩm sáng tạo độc
đáo của con người, có sức sống lâu bền hơn các văn bản khác và không thể
thay thế trong đời sống tinh thần của con người, có tác động toàn diện đến
nhân cách. Vì vậy chương trình và SGK Ngữ văn dành cho nó một vị trí trung
tâm.
Đọc hiểu tác phẩm văn chương được hiểu là đọc thẩm mĩ, không chỉ
bằng nhận thức lý trí mà còn bằng con đường cảm xúc, tình cảm.
Với chương trình và SGK Ngữ văn, dạy văn thực chất là dạy phương
pháp đọc hiểu tác phẩm văn chương.
1.1.2. Đọc hiểu tác phẩm văn chương:

15


Nguyễn Thị Ngọc Diệp

Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Cũng như quan niệm về đọc hiểu nói chung, có rất nhiều ý kiến xung
quanh quan niệm đọc hiểu tác phẩm văn chương. GS. TS. Nguyễn Thanh
Hùng cho rằng: Đọc hiểu văn chương là đọc cái chủ quan của người viết
bằng cách đồng hóa tâm hồn, tình cảm, suy nghĩ của mình vào trang sách.
Đọc hiểu không phải chỉ là tái tạo âm thanh từ chữ viết mà còn là quá trình
nhuần thấm tín hiệu nghệ thuật chứa mã văn hoá đồng thời với việc huy động
vốn sống, vốn kinh nghiệm cá nhân người đọc để lựa chọn giá trị tư tưởng

thẩm mĩ và ý nghĩa vốn có của tác phẩm văn chương. Đọc hiểu là đón đầu
những gì đang đọc qua từng từ, từng câu, từng đoạn rồi lại quay về với những
gì đã đọc để kiểm chứng và đi tìm sự hợp sức của tác giả để tác phẩm được tái
tạo trong tính cụ thể và giàu tưởng tượng [13; Tr.5]. Còn theo nhà giáo Đỗ
Kim Hồi: Phương thức đọc văn nhằm mục đích hiểu biết chính xác và cặn kẽ
tác phẩm văn chương (văn hoá, xã hội) mới mẻ, lớn lao và hữu ích được gọi là
đọc hiểu.
Chúng tôi quan niệm đọc hiểu tác phẩm văn chương ở nhà trường phổ
thông thực chất là một hệ phương pháp. Đó là một hệ thống các hoạt động đặc
thù mà giáo viên tổ chức học sinh tiếp cận và đi sâu khám phá, chiếm lĩnh tác
phẩm bằng con đường cảm xúc hóa kết hợp với trí tuệ. Đó là một quá trình
bao gồm việc tiếp xúc với văn bản, thông hiểu cả nghĩa đen, nghĩa bóng,
nghĩa hàm ẩn cũng như thấy được vai trò, tác dụng của hình thức, biện pháp
nghệ thuật ngôn từ, các thông điệp tư tưởng, tình cảm, thái độ của người viết
và các giá trị tự thân của hình tượng nghệ thuật [16; Tr.91].
Đọc hiểu là hoạt động duy nhất để học sinh tiếp xúc trực tiếp với các
giá trị văn học. Đọc hiểu bắt đầu từ đọc chữ, đọc câu, hiểu nghĩa của từ và
sắc thái biểu cảm, hiểu nghĩa của hình thức câu, hiểu mạch văn, bố cục và
nắm được ý chính cũng như chủ đề của tác phẩm. Lý giải là hiểu về đặc sắc
nghệ thuật và ý nghĩa xã hội nhân văn của tác phẩm trong ngữ cảnh của nó.
Trong quá trình học đọc, học sinh sẽ biết cách đọc để tích luỹ kiến thức, đọc
16


Nguyễn Thị Ngọc Diệp

Khoá luận tốt nghiệp Đại học

để lý giải, đọc để đánh giá và đọc sáng tạo, phát hiện. Học sinh sẽ học cách
trích câu hay trích chi tiết, trích ý, học cách thuyết minh, thuật lại nội dung

văn bản đã học. Hệ thống văn bản được lựa chọn nhằm thực hiện việc đào tạo
năng lực đọc hiểu, qua đó vừa cung cấp tri thức văn học (lịch sử văn học, lý
luận văn học), văn hoá dân tộc, vừa giáo dục tư tưởng, tình cảm, vừa rèn luyện
kĩ năng đọc mà học sinh có thể mang theo suốt đời sau khi tốt nghiệp THPT
để có thể đọc hiểu nhiều loại văn bản thông dụng trong đời sống.
1.2. Đọc hiểu tác phẩm văn chương và giảng văn:
Phương pháp dạy học sinh đọc hiểu tác phẩm văn chương khác với
công việc giảng văn lâu nay giáo viên thường làm. Có thể nêu lên một vài
điểm khác biệt:
Giảng văn

Đọc hiểu tác phẩm văn chương

- Dạy học nghiêng về công việc của - Chú trọng vai trò của HS trong giờ học.
thầy, thầy là người giảng dạy, truyền Cả GV và HS đều đóng vai trò chủ thể
đạt kiến thức, ít chú ý đến vai trò của trước tác phẩm, thầy là người tổ chức,
HS trong quá trình khám phá tác điều khiển quá trình chiếm lĩnh tác phẩm
phẩm.

của HS. Còn HS là chủ thể đọc, chủ
động khám phá, lĩnh hội tri thức dưới sự
hướng dẫn của GV.

- Trong giảng văn, GV là người phát - Phương pháp đọc hiểu biến HS trở
hiện ra cái hay, cái đẹp của tác phẩm thành người tự khám phá, phát hiện ra
và sau đó truyền đạt lại cho HS. HS là cái hay, cái đẹp của tác phẩm dựa trên
người nghe giảng, ghi chép, lĩnh hội vốn hiểu biết của bản thân qua việc tìm
lời giảng của thầy cô một cách thụ hiểu những câu hỏi hướng dẫn trong
động.


phần đọc hiểu văn bản. GV không chủ
động áp đặt cách hiểu, cách cảm của
mình về tác phẩm vào tư duy của HS mà

17


Nguyễn Thị Ngọc Diệp

Khoá luận tốt nghiệp Đại học

chỉ điều chỉnh khi HS chưa hiểu đúng
hay bổ sung khi HS hiểu chưa đủ nội
dung tác phẩm.
Với phương pháp dạy học này, HS
phát huy tối đa sự tích cực, sáng tạo
trong học văn đồng thời rèn luyện thói tự
độc lập tư duy, suy nghĩ trước một tác
phẩm.
- Phương pháp giảng văn nghiêng về - Phương pháp đọc hiểu: Khám phá nội
khai thác nội dung, tư tưởng của văn dung tác phẩm qua việc tìm hiểu hình
bản tác phẩm và không chú ý vào thức nghệ thuật tác phẩm. ở đây không
hình thức nghệ thuật. Nên tác phẩm chỉ đơn thuần là đọc hiểu, mà là đọc
mang giá trị xã hội học mà mất đi giá hiểu thẩm mĩ, phát hiện cái hay, cái đẹp
trị thẩm mĩ, tính nghệ thuật của văn trong hình thức thể hiện nội dung. Nên
chương. GV ít chú ý đến ngôn từ, câu tránh được lối tiếp cận văn bản một cách
chữ và các biện pháp nghệ thuật khi dung tục xã hội hoá. Đọc hiểu văn bản
khám phá nội dung tác phẩm.

luôn bám sát vào câu chữ, các biện pháp

nghệ thuật để chỉ ra nội dung tư tưởng
của văn bản.

- Chính vì thế, HS không nhất thiết - HS là người tự khám phá tác phẩm nên
phải đọc văn bản mà vẫn hiểu nội buộc HS phải tự đọc văn bản tác phẩm,
dung tác phẩm qua lời giảng của thầy thậm chí phải đọc hết cả các mục trong
cô.

bài học mới hiểu được nội dung văn bản
tác phẩm. Như vậy, sẽ phát huy được
tính tích cực, tự giác tự học của HS.

- HS chỉ biết phân tích, lĩnh hội tác - ở đây là đọc hiểu tác phẩm theo thể
phẩm đã học và không có khả năng tự loại nên HS được trang bị phương pháp
hiểu các tác phẩm tương tự.

18


Nguyễn Thị Ngọc Diệp

Khoá luận tốt nghiệp Đại học

đọc hiểu các tác phẩm cùng loại để tự
lĩnh hội khám phá. Vì thế HS có thể tự
mình đọc hiểu các tác phẩm không
được học trong chương trình dựa trên
đặc trưng thể loại và phương pháp tiếp
cận ở trường phổ thông.
- Phương pháp chủ đạo là diễn giảng, - SGK chú ý đến việc xây dựng việc làm,

bình giá của GV về tác phẩm.

thao tác hướng dẫn HS từng bước chiếm
lĩnh tác phẩm văn học theo đặc thù của
sự tiếp nhận văn chương.
- Đọc hiểu chú trọng vai trò của khâu
đọc với các hình thức khác nhau: Đọc để
cảm nhận chung, đọc để tri giác ngôn
ngữ văn bản, đọc để bình giá Hiểu là
kết quả cần đạt của đọc hiểu. Hiểu bao
gồm cả nhận thức của lý trí, cả nhận
thức của sự rung động, qua đời sống nội
tâm.
- Đọc hiểu rất chú trọng các bước thâm
nhập tác phẩm là tái hiện, phân tích,
bình giá, liên tưởng

1.3. Nguyên tắc chung của việc đọc hiểu tác phẩm văn chương:
Trong cuộc sống, con người đọc văn có khi chỉ để giải trí, thường là để
thưởng thức văn chương. Vì vậy người ta có thể đọc một cách tự do, không
theo một qui định nào. Nhưng đọc hiểu văn bản văn học trong nhà trường có
khác. Nó là một hoạt động tư duy - cảm xúc, một hành động học tập sáng tạo.
Đọc hiểu văn bản là một hoạt động để tiếp cận và chiếm lĩnh tác phẩm văn

19


Nguyễn Thị Ngọc Diệp

Khoá luận tốt nghiệp Đại học


chương. Nó có những nguyên tắc chung mà người đọc học sinh phải nắm
được để dựa vào đó mà tiến hành đọc hiểu bất cứ văn bản văn học nào trong
chương trình.
1.3.1. Dựa vào ngữ cảnh hẹp, bám sát văn bản, coi văn bản là yếu tố
quan trọng nhất (không phải là duy nhất) để tìm hiểu tác phẩm.
Nguyên tắc này dựa trên cơ sở khoa học ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất
của văn học (Gorki). Ngôn ngữ tạo nên văn bản, cho nên phải dựa vào văn
bản để tìm hiểu tác phẩm, phải bám sát văn bản thì mới tiếp cận đúng ý đồ tư
tưởng - nghệ thuật của tác giả. Do đó phải đọc thật kĩ văn bản, chú ý đến từng
hình thức ngôn ngữ, từng đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất của văn bản để khám phá,
phát hiện tác phẩm.
Điều này tưởng như đơn giản, tất yếu ai cũng biết, nhưng trong thực tế,
không phải không có người chỉ dựa vào những yếu tố ngoài văn bản để hiểu
văn bản của tác phẩm, dẫn đến những cách hiểu khiên cưỡng, áp đặt. Ví như
bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, có người chỉ căn cứ vào tấm bưu
ảnh Hoàng Cúc gửi cho nhà thơ để hiểu đây chỉ là một bài thơ về mối tình
dang dở không thành của hai con người riêng lẻ, như vậy thì ý nghĩa bài thơ
đã bị thu hẹp lại và liệu bài thơ còn có giá trị gì nữa.
Bám sát văn bản ở đây cần được hiểu theo tinh thần lao động nghệ
thuật và nghiên cứu khoa học một cách nghiêm túc trước một tác phẩm cụ thể.
Không chỉ đọc kĩ văn bản, bám sát từng câu, chữ, thậm chí đến cả từng dấu
câu và cả những khoảng trống trên văn bản (như những dấu lặng trong bản
nhạc), mà còn phải chú ý khám phá, phát hiện những dấu hiệu ngôn ngữ đặc
biệt, những cách nói độc đáo, những chi tiết quan trọng hàm chứa ý nghĩa
trong văn bản. Tất cả những điều này sẽ giúp chúng ta phương hướng cảm
nhận văn bản để hiểu đúng nội dung tư tưởng tác phẩm.
1.3.2. Ngoài ngữ cảnh hẹp, còn phải dựa vào ngữ cảnh rộng để tìm
hiểu ý nghĩa sâu xa của văn bản.


20


Nguyễn Thị Ngọc Diệp

Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Nghĩa của văn bản nằm trong mối liên hệ với tác giả (chủ thể thẩm mĩ),
với môi trường văn học mà nhà văn chịu ảnh hưởng, với bối cảnh xã hội tác
động trực tiếp hay gián tiếp đến sự ra đời của tác phẩm. Đọc hiểu các bài thơ
Lai Tân, Mộ, Tảo giải của Hồ Chí Minh mà không chú ý đến con
người nhà thơ (một bậc đại trí, đại nhân, đại dũng - Viên ưng), không hiểu
rõ hoàn cảnh tù đày gian truân, khắc nghiệt của người tù thi sĩ khi viết ra ba
tác phẩm này (trong nhà tù Tưởng Giới Thạch và trên đường giải tù) thì không
thể nào cảm nhận hết được vẻ đẹp tinh thần cao quý của nhà thơ cách mạng
lão thành và chiều sâu tư tưởng của thi phẩm. Phần Tiểu dẫn và Chú thích
trong SGK thường giúp chúng ta những thông tin cần thiết để nắm được ngữ
cảnh rộng của văn bản. Vì vậy, đọc kĩ hai phần này là một việc làm bắt buộc
trước khi đi vào tìm hiểu tác phẩm.
1.3.3. Tiếp cận tác phẩm theo hướng tổng - phân hợp kết hợp so
sánh đồng đại và lịch đại.
1.3.3.1. Thực chất của việc đọc hiểu văn bản văn học là tìm hiểu, phân
tích, đánh giá tác phẩm văn chương (hoặc đoạn trích tác phẩm). Tiếp cận tác
phẩm văn chương thường từ những cảm nhận chung ban đầu đến việc đi sâu
tìm hiểu những vấn đề, những chi tiết cụ thể để cuối cùng có thể tổng hợp lại
thành những giá trị của tác phẩm.
ở bước thứ nhất, có người gọi là tổng hợp sơ thủy. ở bước này cần
đọc kĩ tác phẩm, lấy trực giác mà cảm thụ tác phẩm. Cảm thụ bằng cả tình
cảm và lý trí trong tính chỉnh thể, toàn vẹn của nó để nhận ra diện mạo, âm
hưởng tinh thần chung với những nét đặc sắc về nghệ thuật. Bước tổng hợp sơ

thuỷ này trông cậy rất nhiều vào trực giác. Arnauđôp đã đánh giá rất cao vai
trò của trực giác: Trực giác cần thiết trong bất kì một thứ nghệ thuật nào,
trong bất kì một cảm thụ sáng tạo nào trước hiện thực, nếu cảm thụ này đang
hướng sự chú ý vào một điều gì mới mẻ, đặc biệt và chưa từng thấy trong các
sự vật xung quanh hay trong tâm hồn chúng ta [1; Tr.91].
21


Nguyễn Thị Ngọc Diệp

Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Nắm bắt chính xác tổng thể tác phẩm là một bước làm quan trọng, là
một thử thách lớn đối với người phân tích. Làm thế nào để có được cảm nhận
chung, ấn tượng chung về tác phẩm một cách đúng đắn và sâu sắc? ở đây,
không nên quá chú ý vào những chi tiết cụ thể mà sao nhãng cái nhìn bao quát
có tính chất toàn diện và hệ thống. Điều này có liên quan tới bản chất của tác
phẩm văn học. Mỗi tác phẩm văn học là một chỉnh thể nghệ thuật tạo ra một
xã hội riêng, một thế giới riêng có tính hệ thống, theo quy luật riêng của nó.
Phân tích trực tiếp tác phẩm, ở bước đầu tiên là phải nắm bắt được chính xác
cái tinh thần chung của tác phẩm. Quy luật tự nhiên của tiếp nhận tác phẩm
văn học bao giờ cũng phải cảm thụ tác phẩm trên tổng thể, trong tính chỉnh
thể của nó. Nó không cho phép người phân tích, đối chiếu những chi tiết vụn
vặt của tác phẩm với hiện thực đời sống. Không cảm nhận tác phẩm trên tổng
thể, trên chỉnh thể của nó rất dễ rơi vào tình trạng suy diễn tuỳ tiện.
Trong bước tổng hợp ban đầu cũng cần phải chú ý tới đặc điểm thể loại
của tác giả. Thơ thì chú ý đến sự bộc lộ tình cảm, cảm xúc của nhà thơ qua
ngôn ngữ, hình tượng, nhịp điệu và nhạc điệu Truyện thì chú ý đến cốt
truyện, kết cấu tình huống truyện, nhân vật và nghệ thuật tự sự Kịch thì chú
ý tới xung đột kịch, đến đối thoại và hành động của nhân vật.

ở bước thứ hai là phân tích chi tiết tác phẩm. Đây là bước phân tích
từng yếu tố, từng phương diện của tác phẩm dưới ánh sáng tinh thần chung đã
được cảm nhận ở bước thứ nhất (tổng hợp ban đầu). Tìm hiểu những chi tiết,
phân tích những yếu tố, những mặt riêng biệt của tác phẩm nhằm phát hiện và
khám phá tương quan giữa chúng để từ những hiểu biết riêng lẻ, cụ thể đạt tới
sự nhận thức chung sâu sắc hơn. ở đây, vừa phải xem xét hàng loạt các mối
liên hệ ngang dọc để tìm ra ý nghĩa của mỗi từ, mỗi chữ, khai thác chức năng
biểu hiện của các chi tiết trong văn bản; vừa phải chỉ ra được mối quan hệ cơ
bản nhất, chi tiết nghệ thuật quan trọng nhất.

22


Nguyễn Thị Ngọc Diệp

Khoá luận tốt nghiệp Đại học

ở bước này, cần phải lựa chọn những chi tiết đắt có giá trị để phân
tích. Những chi tiết đó bao giờ cũng có khả năng thuyết minh, biểu hiện một
cách cụ thể, sinh động cái toàn thể. Nội dung khái quát của tác phẩm được gửi
gắm, được thể hiện qua những chi tiết đó. Thiếu phân tích chi tiết, không biết
lựa chọn những chi tiết điển hình để tập trung phân tích bài phân tích văn học
sẽ chung chung, lan man, dàn trải.
Phân tích tác phẩm văn học không đơn giản chỉ là việc chia tách tác
phẩm ra từng phương diện, từng khía cạnh, từng yếu tố để xem xét mà chủ yếu
là phải chỉ ra được ý nghĩa, chức năng thể hiện nội dung, tư tưởng tác phẩm
của từng yếu tố, từng phương diện đó. Cần phải chỉ ra được các giá trị nội
dung, nghệ thuật qua các chi tiết cụ thể. Việc khảo sát các kí hiệu, các phương
diện, các yếu tố nghệ thuật không phải vì bản thân các kí hiệu mà sâu xa hơn
là để tìm lời thông báo, khám phá nội dung và tư tưởng của tác phẩm. Nói

cách khác, giải mã, khám phá nghệ thuật là để tìm ra tính nội dung của hình
thức nghệ thuật ấy.
Khi phân tích các phương diện, các yếu tố, chi tiết nghệ thuật cần phải
tôn trọng tính chỉnh thể của tác phẩm. Những chi tiết nghệ thuật dẫu là quan
trọng, là những sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm cũng chỉ có ý nghĩa
khi nằm trong một chỉnh thể, trong một hệ thống nhất định. ở đây người phân
tích tác phẩm cần phải có quan điểm hệ thống. Thiếu cái nhìn hệ thống thì dễ
rơi vào tình trạng suy diễn võ đoán, thiếu căn cứ xác đáng, gán ghép cho
những yếu tố, chi tiết nghệ thuật ý nghĩa mà thực ra nó không hề có.
Bước thứ ba là bước tổng hợp trên cơ sở đã phân tích các chi tiết của
tác phẩm. Đây không phải là tổng hợp bằng trực cảm như bước thứ nhất mà là
tổng hợp trên cơ sở của sự phân tích kĩ lưỡng, có căn cứ nhằm trả lại cho tác
phẩm tính chỉnh thể sinh động của nó. Một sự tổng hợp cao độ có tính khái
quát để đưa ra những tổng kết, nhận định, đánh giá sẽ nâng cao giá trị của sự

23


Nguyễn Thị Ngọc Diệp

Khoá luận tốt nghiệp Đại học

phân tích, hoàn thành mục đích của sự phân tích: nhận định, đánh giá đúng
đắn và sâu sắc về tác phẩm hay một hiện tượng văn học.
Như vậy, tiến trình phân tích tác phẩm văn chương thường phải đi qua
ba bước: Tổng hợp Phân tích Tổng hợp. Tuy nhiên không nên quan niệm
ba bước ấy hoàn toàn độc lập hay đối lập với nhau. Cần phải vận dụng ba bước
nói trên một cách linh hoạt, sáng tạo, uyển chuyển trong mối liên hệ chặt chẽ
và bổ sung cho nhau.
Tổng phân hợp là phương pháp tư duy khoa học, vừa chặt chẽ vừa

rõ ràng, trong đó đặc biệt chú ý thao tác phân tích và thao tác tổng hợp cuối
cùng, lấy việc khái quát tổng hợp này mà kiểm tra lại những cảm nhận chung
ban đầu xem đã đúng, đã khớp với nhau chưa. Hệ thống câu hỏi trong phần
đọc hiểu văn bản của SGK có thể giúp chúng ta thực hiện điều này. Ví dụ
như ở bài Vội vàng của Xuân Diệu [18; Tr.44] hệ thống câu hỏi đã được sắp
xếp theo quy trình tổng phân hợp: câu 1 hỏi về cảm nhận chung; các câu
2,3,4 đi sâu phân tích ba đoạn cụ thể; câu 5 khái quát tổng hợp lại để đánh giá
bài thơ trên cả hai mặt nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật.
1.3.3.2. Thao tác so sánh bao gồm cả so sánh đồng đại (cùng thời) và so
sánh lịch đại (khác thời) rất cần thiết để việc đọc hiểu được sâu sắc và vấn
đề nêu trên được nổi bật. Bài Đây mùa thu tới của Xuân Diệu sẽ được cảm
nhận với cái nét riêng đầy đủ và sâu sắc hơn nếu ta so sánh với Tiếng thu
của Lưu Trọng Lư (cùng thời), với mùa thu của Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến
trước đây và cả mùa thu sau này của Nguyễn Đình Thi (khác thời). Trong
SGK, câu hỏi đầu tiên về bài thơ này là một câu hỏi so sánh như vậy.
1.3.4. Gắn việc đọc hiểu văn bản văn học với cuộc sống của bản
thân.
Đọc văn mà chỉ để thưởng thức văn chương thì coi như mới chỉ đi được
một nửa đoạn đường. Nửa đoạn đường còn lại mới là cái đích mà ta phải
hướng tới: đó là tìm xem đọc tác phẩm ấy ta được cái gì, tác phẩm đem đến

24


Nguyễn Thị Ngọc Diệp

Khoá luận tốt nghiệp Đại học

cho ta điều gì bổ ích cho cuộc sống bản thân, khơi dậy trong ta những tình
cảm, cảm xúc, ý nghĩ, hành động gì để ta có thể sống tốt đẹp và có ích hơn.

Văn học là nhân học, Gorki đã nói như vậy, cho nên cái đích cuối cùng của
việc đọc văn là phải gắn với cuộc sống của bản thân mình (và xung quanh
mình) mà thể nghiệm ý nghĩa của văn bản (nhập thân vào cảnh, vào người,
vào các tình huống của văn bản tác phẩm, vận dụng trí tưởng tượng, liên tưởng
để cảm nhận); mặt khác, lại tiếp nhận những cảnh, những người đó thành tài
sản tinh thần riêng của mình, lấy văn bản tác phẩm mà soi sáng bản thân, tự
vận động vươn lên theo lý tưởng của tác phẩm. Đây chính là quá trình đồng
hóa tác phẩm văn chương trong lòng người đọc.
1.3.5. Những điều cần tránh trong việc đọc hiểu văn bản:
Có thể thấy hai loại lỗi phổ biến sau đây: lỗi về đọc (hiểu theo nghĩa
thông thường) và đọc hiểu (hiểu theo nghĩa đọc để tiếp cận văn bản).
- Đọc: đọc vội vàng, qua loa văn bản, cắt xén, không đọc hết văn bản
dẫn đến chỗ không nắm được toàn thể, khái quát sai lệch nội dung tư tưởng
văn bản. Không đọc Tiểu dẫn, Chú thích, hoặc không đọc hết Tiểu dẫn và Chú
thích nên chưa đủ điều kiện để hiểu đúng và nhất là hiểu sâu văn bản.
- Đọc hiểu: xu hướng chung thường thấy là trả lời một cách máy móc
các câu hỏi trong phần đọc hiểu của SGK mà ít có sự suy nghĩ, cảm nhận
sâu sắc để trả lời một cách sáng tạo bằng những kiến giải, phát hiện riêng của
mình về văn bản tác phẩm. Ngược lại, là suy diễn tuỳ tiện chủ quan, gán ghép
suy nghĩ của mình cho văn bản từ một chi tiết nhỏ, có khi rất phụ, mà không
chú ý đến mạch lạc, liên kết toàn thể của tác phẩm, dẫn đến những cách hiểu
không đúng.
Nguyên nhân của các lỗi trên là do chúng ta chưa có ý thức đúng dắn
về việc học văn (học văn còn hời hợt, chuẩn bị bài chiếu lệ, đối phó), chưa có
thói quen học văn theo lối nghiên cứu và nhất là chưa có thói quen tự học môn

25



×