Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Luận văn thạc sĩ luật kinh tế kiểm soát tập trung kinh tế theo pháp luật cạnh tranh ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (701.91 KB, 81 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN PHƯƠNG NHUNG

KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH TẾ THEO
PHÁP LUẬT CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

Hà Nội - 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN PHƯƠNG NHUNG

KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH TẾ THEO
PHÁP LUẬT CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN NHƯ PHÁT

Hà Nội - 2019


MỤC LỤC



MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TẬP TRUNG
KINH TẾ VÀ KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH TẾ .......................................... 6
1.1. Khái niệm tập trung kinh tế trong pháp luật cạnh tranh ................................ 6
1.2. Tác động của tập trung kinh tế và sự cần thiết phải kiểm soát tập trung
kinh tế .................................................................................................................. 12
1.3 Những nội dung cơ bản của pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế ......... 15
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
VỀ KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH TẾ ........................................................... 34
2.1. Khái quát các quy định của pháp luật về tập trung kinh tế tại Việt Nam........... 34
2.2. Các nội dung cơ bản về kiểm soát TTKT trong pháp luật cạnh
tranh Việt Nam .................................................................................................. 37
2.3 Thực trạng thực thi pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế tại Việt
Nam .................................................................................................................... 53
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT
HÀNH VI TẬP TRUNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM ............................................. 63
3.1. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về kiểm soát hành vi
tập trung kinh tế .................................................................................................. 63
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về kiểm
soát hành vi tập trung kinh tế ............................................................................. 69
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 74


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tập trung kinh tế (TTKT) là hoạt động tất yếu của các doanh nghiệp trong
nền kinh tế thị trường nhằm tìm kiếm một năng lực kinh doanh mới dưới áp lực

cạnh tranh ngày một gia tăng. Khi đó, tập trung kinh tế thường được các doanh
nghiệp lựa chọn là “kênh” đầu tư hiệu quả nhất trong việc tiết kiệm nguồn lực, thâm
nhập thị trường, giảm thiểu các rào cản gia nhập thị trường cũng như nhằm gia tăng
nguồn lực và sức mạnh thị trường của doanh nghiệp. Thông qua hiệu quả gia tăng
của họ, thị trường trở nên cạnh tranh hơn, người tiêu dùng được hưởng lợi từ hàng
hóa chất lượng cao hơn với giá công bằng hơn, góp phần phát triển nền kinh tế.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, tập trung kinh tế có thể dẫn đến hạn chế
cạnh tranh, làm giảm cạnh tranh trong một thị trường, thường là bằng cách tạo ra
hoặc tăng cường một vị trí thống lĩnh trên thị trường của một chủ thể nhất định.
Điều này có khả năng gây hại cho đối thủ cạnh tranh và/hoặc người tiêu dùng thông
qua việc định giá cao hơn, giảm sự lựa chọn hoặc làm giảm quá trình đổi mới sản
phẩm, dịch vụ. Biểu hiện điển hình nhất của tập trung kinh tế là làm thay đổi cấu
trúc thị trường theo hướng giảm số lượng của các đối thủ cạnh tranh trên thị trường
và vì thế, mức độ “hoàn hảo” trong cạnh tranh cũng bị giảm sút.[19] Vì vậy, các
hoạt động TTKT cần được điều chỉnh bởi khuôn khổ pháp lý về cạnh tranh và có sự
giám sát, kiểm soát của cơ quan quản lý nhà nước.
Luật Cạnh tranh 2004 là luật cạnh tranh đầu tiên của Việt Nam tạo lập hành
lang pháp lý khá đầy đủ cho hoạt động tập trung kinh tế của các doanh nghiệp cũng
như lần đầu tiên quy định về kiểm soát tập trung kinh tế và các hành vi tập trung
kinh tế bị cấm nhằm ngăn chặn các hành vi có khả năng gây hạn chế cạnh tranh trên
thị trường.
Trong hơn một thập kỷ qua, với việc hội nhập kinh tế sâu rộng, tăng cường
thu hút đầu tư nước ngoài, làn sóng đầu tư thông qua hoạt động mua bán và sáp
nhập doanh nghiệp đang ngày càng gia tăng ở Việt Nam, đòi hỏi các quy định về
kiểm soát TTKT vừa chặt chẽ, vừa linh hoạt để đảm bảo môi trường cạnh tranh
công bằng, lành mạnh cho các doanh nghiệp hoạt động trên thị trường. Tuy nhiên,
1


các quy định của pháp luật về tập trung kinh tế trong Luật Cạnh tranh 2004 đã bộc

lộ nhiều bất cập trong việc kiểm soát tập trung kinh tế. Trong bối cảnh đó, Luật
Cạnh tranh 2018 vừa được Quốc hội thông qua ngày 16 tháng 6 năm 2018 đã đưa ra
cách tiếp cận mới đối với việc kiểm soát tập trung kinh tế. Trong đó, Luật có quy
định cấm các hành vi tập trung kinh tế diễn ra trong hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam
nếu tập trung kinh tế đó có tác động hạn chế cạnh tranh đến thị trường Việt Nam.
Luật cũng cho phép cơ quan quản lý cạnh tranh đánh giá tác động hạn chế cạnh
tranh cũng như tác động tích cực của tập trung kinh tế để quyết định tập trung kinh
tế được thực hiện hay không được thực hiện.
Từ nhận thức trên, tác giả lựa chọn đề tài "Kiểm soát tập trung kinh tế theo
pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay" làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp thạc
sỹ Luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ở phạm vi nghiên cứu về hành vi tập trung kinh tế đã có một số luận văn, đề
tài, bài viết nghiên cứu tiêu biểu như: Chuyên đề Tập trung kinh tế thuộc Đề tài cơ
sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng nội dung chương trình môn học Luật cạnh
tranh năm 2005 của Vũ Thị Lan Anh (Trường đại học Luật Hà Nội); Luận văn thạc
sĩ Luật học "Một số vấn đề pháp lý về tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh Việt
Nam" năm 2006 của Trần Thị Bảo Ánh (Trường Đại học Luật Hà Nội); bài viết
"Các khía cạnh pháp lý về tập trung kinh tế và vai trò của cơ quan quản lý cạnh
tranh" năm 2007 của PGS.TS. Nguyễn Như Phát (Tạp chí Khoa học Pháp lý số 4);
Luật văn thạc sĩ Luật học “Kiểm soát tập trung kinh tế theo pháp luật Việt Nam”
năm 2017 của Nguyễn Lan Hương (Viện Đại học mở Hà Nội); Luận án tiến sĩ Luật
học “Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế ở Việt Nam” năm 2018 của Hà Ngọc
Anh (Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh).v.v...
Các công trình trên đã đề cập tới các vấn đề chung nhất của hành vi tập trung
kinh tế. Tuy nhiên, qua quá trình tìm tòi, nghiên cứu, tác giả thấy rằng việc làm
sáng tỏ vấn đề kiểm soát tập trung kinh tế với tư cách là một trong các hành vi hạn
chế cạnh tranh bằng pháp luật cạnh tranh một cách có hệ thống, là vấn đề rất cần
thiết. Tuy nhiên, hiện nay Luật Cạnh tranh 2018 mới được ban hành và sẽ có hiệu
2



lực vào ngày 1 tháng 7 năm 2019 đã thay đổi hoàn toàn cách tiếp cận về vấn đề
kiểm soát tập trung kinh tế. Theo đó, tập trung kinh tế không còn là một hành vi
thuộc nhóm hành vi hạn chế cạnh tranh mà được tách thành một chương độc lập
(Chương V của Luật Cạnh tranh 2018). Như vậy, theo quy định của Luật Cạnh
tranh 2018, tập trung kinh tế là một chế định riêng. Vấn đề này chưa có công trình
nào nghiên cứu. Do đó, tác giả sẽ tập trung nghiên cứu sự thay đổi của các quy định
về kiểm soát tập trung kinh tế của Luật Cạnh tranh 2004 và Luật Cạnh tranh 2018.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là đánh giá có hệ thống những vấn đề lý
luận và thực tiễn về kiểm soát tập trung kinh tế theo pháp luật Việt Nam. Qua đó rút ra
những kết luận về những kết quả tích cực cũng như phát hiện những hạn chế, bất cập
của pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế. Từ đó đề xuất những giải pháp nhằm hoàn
thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả kiểm soát tập trung kinh tế ở nước ta.
Nhằm thực hiện những mục đích trên, luận văn phải thực hiện những nhiệm
vụ sau:
- Nghiên cứu những nội dung lý luận cơ bản về tập trung kinh tế, kiểm soát
tập trung kinh tế;
- Phân tích những nội dung pháp luật về tập trung kinh tế;
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thi hành pháp luật về kiểm soát
tập trung kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
- Xây dựng giải pháp hoàn thiện pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế, qua đó
nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát tập trung kinh tế trong thực tiễn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận về tập trung kinh
tế và pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế tại Việt Nam, trong đó:
Đề tài tập trung làm rõ các vấn đề pháp lý cơ bản của kiểm soát tập trung
kinh tế theo pháp luật ở Việt Nam như: khái niệm, bản chất của tập trung kinh tế,

pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế...; những khó khăn, bất cập trong thực tiễn
thực thi, kinh nghiệm quốc tế về việc kiểm soát tập trung kinh tế, … để từ đó có
3


những đề xuất, khuyến nghị nhằm hoàn thiện về thể chế và các biện pháp thi hành
kiểm soát tập trung kinh tế hiệu quả nhất tại Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ, đề tài xin giới hạn phạm vi
nghiên cứu kiểm soát tập trung kinh tế trong Luật Cạnh tranh năm 2004 và Luật
Cạnh tranh năm 2018 của Việt Nam. Các văn bản hướng dẫn chi tiết và thực thi
Luật Cạnh tranh năm 2004 và Luật Cạnh tranh năm 2018; Các văn bản luật có liên
quan khác như pháp luật về doanh nghiệp, đầu tư, chứng khoán, ngân hàng,... được
dùng để bổ trợ, so sánh, làm rõ thêm các quy định về kiểm soát tập trung kinh tế
trong pháp luật cạnh tranh.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, các quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta. Các phương pháp nghiên cứu trong luận văn được
thực hiện trên nền tảng của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử.
Bên cạnh đó, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp tổng hợp, thống kê và phân tích
Luận văn sử dụng phương pháp tổng hợp, thống kê và phân tích nhằm hệ
thống hóa các công trình nghiên cứu, những vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn liên
quan đến các nội dung được Luận văn đề cập. Từ đó, Luận văn tiến hành phân tích,
làm rõ các khái niệm, nội dung và những vấn đề lý luận sử dụng trong việc kiểm
soát TTKT.
- Phương pháp so sánh
Phương pháp so sánh được sử dụng trong nghiên cứu kinh nghiệm nước
ngoài về xây dựng và thực thi pháp luật về kiểm soát TTKT, so sánh các quy định
của pháp luật cạnh tranh với pháp luật chuyên ngành và trong phần phân tích đánh

giá thực trạng nhằm kiểm chứng tính chính xác của thông tin được thu thập cũng
như nêu bật những điểm giống và khác nhau, những khó khăn và hạn chế của từng
vấn đề làm cơ sở cho việc đánh giá, tổng kết các kết quả nghiên cứu và đề xuất các
khuyến nghị của Luận văn.

4


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn hệ thống hóa một cách tương đối đầy đủ về các quy định của pháp
luật trong nước cũng như quốc tế về các nội dụng của pháp luật kiểm soát tập trung,
sự cần thiết và vai trò của kiểm soát tập trung kinh tế đối với nền kinh tế Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay và tương lai.
Luận văn góp phần bổ sung những phân tích về những điểm mới trong việc
thay đổi cơ chế kiểm soát giữa Luật Cạnh tranh 2004 và Luật Cạnh tranh 2018,
đồng thời so sánh với kinh nghiệm quốc tế để từ đó thấy rõ được những khó khăn,
bất cập và những khoảng trống cần hoàn thiện của pháp luật cạnh tranh Việt Nam
hiện nay về kiểm soát tập trung kinh tế.
Luận văn có giá trị tham khảo trong nghiên cứu, hoàn thiện chính sách pháp
luật về kiểm soát tập trung kinh tế của Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
có 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về tập trung kinh tế và kiểm soát tập
trung kinh tế
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng quy định về kiểm
soát tập trung kinh tế tại Việt Nam
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả thực thi pháp luật kiểm soát hành vi tập trung kinh tế ở Việt Nam.


5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TẬP TRUNG KINH TẾ
VÀ KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH TẾ
1.1. Khái niệm tập trung kinh tế trong pháp luật cạnh tranh
Quy định về khái niệm TTKT trong pháp luật cạnh tranh đóng vai trò quan
trọng trong việc thiết lập cơ chế rà soát TTKT hiệu quả và minh bạch. Việc đưa ra
một khái niệm về TTKT nhằm để xác định loại hình giao dịch nào “phù hợp” cần
được đánh giá dưới góc độ pháp luật cạnh tranh, ví dụ các giao dịch dẫn đến việc
kết hợp giữa các thực thể độc lập có tài sản, quyền và nghĩa vụ độc lập tạo nên một
thực thể mới có thể tác động đến cấu trúc thị trường, cạnh tranh trên thị trường hoặc
các mục tiêu của chính sách cạnh tranh. Việc xác định các hình thức tập trung kinh
tế thuộc đối tượng cần rà soát bởi pháp luật cạnh tranh được quy định khác nhau
trong các hệ thống pháp luật cạnh tranh các nước, phụ thuộc vào việc nộp hồ sơ
thông báo TTKT là cơ chế nghĩa vụ bắt buộc hoặc tự nguyện.
Định nghĩa TTKT cần dựa trên mục tiêu, chỉ tiêu cơ học, hoặc các tiêu chí mang
tính kinh tế phù hợp với định nghĩa về các giao dịch TTKT phát sinh về quan hệ sở
hữu, kiểm soát giữa các bên tham gia và có thể đem lại các quan ngại về cạnh tranh.
Việc đưa ra khái niệm TTKT và hình thức TTKT thường được tiếp cận theo
các cách thức sau:
Cách tiếp cận thứ nhất là dựa trên “mục tiêu” của “giao dịch sáp nhập”, dựa
trên khả năng kiểm soát hoặc mua lại cổ phần của một thực thể khác, ví dụ như một
bên mua lại 50% cổ phần của doanh nghiệp khác hoặc mua lại 25% cổ phiếu có quyền
kiểm soát doanh nghiệp khác, v.v. Tiêu chí mục tiêu tạo nên tính chắc chắn, có thể dự
đoán và minh bạch trong hệ thống pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế.
Cách tiếp cận thứ hai đó là sử dụng các tiêu chí mang tính kinh tế khi xem
xét đánh giá các giao dịch có thể gây ảnh hưởng tiêu cực tới cạnh tranh và tập trung
vào việc giao dịch TTKT đó có thể khiến doanh nghiệp mua lại có khả năng thực

hiện các quyết định mang tính ảnh hưởng lên doanh nghiệp bị mua lại. Hệ thống
pháp luật khác nhau sẽ định nghĩa khác nhau về định nghĩa “tác động mang tính
quyết định (decisive influence)”, “ảnh hưởng đáng kể (significant influence)”, “ảnh
6


hưởng thực tế (material influence)” hoặc “tác động cạnh tranh đáng kể
(competitively significant influence)”. Tuy nhiên, cách tiếp cận này tạo nên tính
không chắc chắn và thiếu minh bạch hơn cách tiếp cận thứ nhất khi yếu tố này được
xác định bởi cơ quan cạnh tranh. Do đó, các nước sử dụng cách tiếp cận này thường
phải ban hành các văn bản hướng dẫn về cách thức xác định nhằm minh bạch hóa
quá trình xem xét các vụ việc TTKT.
Cách tiếp cận thứ ba đó là sử dụng kết hợp hai tiêu chí nếu trên trong quy
định của pháp luật cạnh tranh về kiểm soát tập trung kinh tế. Một số quốc gia sử
dụng kết hợp tiêu chí mục tiêu và tiêu chí kinh tế, ví dụ, mua lại 25% cổ phần hoặc
50% cổ phần của doanh nghiệp khác và có thể “kiểm soát” doanh nghiệp đó; có thể
đưa ra quyết định mang tính hạn chế cạnh tranh đáng kể lên doanh nghiệp khác,
và/hoặc phần lớn tài sản của doanh nghiệp khác, đều được cân nhắc trong quá trình
rà soát các vụ việc tập trung kinh tế. Từng yếu tố trên được xem xét một cách độc
lập nhằm xác định rằng giao dịch đó có phải là hình thức TTKT hay còn gọi là
“mua bán, sáp nhập” thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh.
* Khái niệm tập trung kinh tế trong pháp luật của một số quốc gia
- Luật mẫu về cạnh tranh (Model law on competition của Tổ chức Thương
mại và Phát triển Liên Hiệp quốc (UNCTAD), tại mục c khoản I Chương II quy
định “Sáp nhập và mua lại” là trường hợp hai hay nhiều doanh nghiệp thực hiện
hoạt động hợp pháp theo đó các doanh nghiệp hợp nhất quyền sở hữu đối với tài sản
đã từng thuộc quyền kiểm soát riêng của mỗi một doanh nghiệp. Những trường hợp
như nói trên bao gồm cả việc mua lại cổ phần, liên doanh có tính tập trung và các
hình thức mua lại quyền kiểm soát khác như kiêm nhiệm chức vụ. [59, tr54].
- Điều 3 Quy chế 139/2004 của Ủy ban Châu Âu đưa ra định nghĩa về hoạt

động tập trung kinh tế thuộc phạm vi điều chỉnh của Quy chế, đó là những hoạt
động sáp nhập, hợp nhất và các hình thức khác mà qua đó một hoặc nhiều doanh
nghiệp làm thay đổi lâu dài cơ cấu quyền kiểm soát của toàn bộ hoặc một phần của
một hoặc nhiều doanh nghiệp khác”.[58]
- Các khoản từ 92 tới 113 của Luật Cạnh tranh Canada quy định rằng các
hình thức tập trung kinh tế gồm: Sáp nhập được hiểu là việc mua lại hoặc thành lập,
7


một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, bởi một hoặc nhiều người, cho dù bằng cách mua
hoặc cho thuê cổ phần hay tài sản, thông qua sự hợp nhất hoặc kết hợp hoặc bằng
cách khác, sự kiểm soát hoặc có lợi ích đáng kể đối với toàn bộ hoặc một phần của
hoạt động kinh doanh của đối thủ cạnh tranh, nhà cung cấp, khách hàng hoặc người
nào khác; Hợp nhất theo đề xuất giữa hai hay nhiều pháp nhân để thực hiện công
việc kinh doanh mà không thông qua một công ty nào nếu một hay nhiều trong số
những pháp nhân đó dự định đóng góp vào vụ hợp nhất tài sản cấu thành toàn bộ
hay một phần của hoạt động kinh doanh được thực hiện bởi những pháp nhân đó,
hoặc các công ty chịu sự kiểm soát của những pháp nhân đó; Mua lại theo đề xuất
phần vốn tham gia trong một vụ hợp nhất đang thực hiện một hoạt động kinh doanh
mà không thông qua một công ty.
- Theo quy định tại Điều L430-1 Bộ Luật thương mại Cộng hòa Pháp, TTKT
là việc: (i) Hai hoặc nhiều doanh nghiệp độc lập sáp nhập hoặc hợp nhất với nhau;
(ii) Một hoặc nhiều doanh nghiệp, hoặc những người đang nắm quyền kiểm soát
những doanh nghiệp đó, tiến hành nắm lấy quyền kiểm soát đối với một phần hoặc
toàn bộ một hoặc nhiều doanh nghiệp khác, một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, dưới
hình thức góp vốn, mua lại tài sản, ký kết hợp đồng hoặc dưới bất kỳ hình thức nào
khác. [53, tr4].
Ngoài các hình thức TTKT nêu trên, Điều L430-1 Bộ luật thương mại Cộng
hòa Pháp còn quy định thêm một hình thức khác tại Khoản 2: “Việc thành lập một
doanh nghiệp chung nhằm thực hiện một cách lâu dài tất cả các chức năng của một

chủ thể kinh tế độc lập là một hành vi TTKT theo quy định tại Điều này.”
- Mục 50 Luật Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng Úc quy định cấm các vụ
việc sáp nhập có tác động, hoặc có khả năng gây tác động làm giảm đáng kể cạnh
tranh trên thị trường trên lãnh thổ bang, thuộc địa hoặc lãnh thổ Úc. Theo quy định
tại Phụ lục 2, Mục 50 quy định áp dụng đối với các hình thức giao dịch sáp nhập và
mua lại. Theo đó, “sáp nhập” nghĩa là các cổ đông của hai doanh nghiệp trở thành
cổ đông của doanh nghiệp hình thành sau sáp nhập. “Mua lại” nghĩa là một doanh
nghiệp mua lại cổ phần, hoặc tài sản của một doanh nghiệp khác. [28, tr54].

8


- Chương IV Luật Chống độc quyền Nhật Bản không có điều khoản cụ thể
phân loại các hình thức TTKT mà đưa ra các điều khoản áp dụng đối với việc mua
lại cổ phiếu (Điều 10), sáp nhập (Điều 15), chia tách công ty (Điều 15.2), chuyển
nhượng cổ phần (Điều 15.3) và mua lại doanh nghiệp (Điều 16). Theo đó, Luật
Chống độc quyền sẽ cấm thực hiện hoạt động mua lại cổ phiếu, sáp nhập, chia tách
công ty, chuyển nhượng cổ phần và mua lại doanh nghiệp nếu doanh nghiệp có
những hành vi được liệt kê trong Luật. [54].
- Mục 54 (2) của Luật Cạnh tranh Singapore được thông qua năm 2004, có
hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2006 được xây dựng trên mô hình Luật Cạnh
tranh của Anh, tại mục 54 – 60 quy định hành vi TTKT là các hành vi: (i) Hai hoặc
nhiều doanh nghiệp, trước đây độc lập với nhau, tiến hành sáp nhập; (ii) Một hay
nhiều chủ thể hoặc doanh nghiệp khác được kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp toàn
bộ, hoặc một phần, của một hoặc nhiều doanh nghiệp khác; hoặc (iii) Một doanh
nghiệp mua lại các tài sản (bao gồm cả lợi thế thương mại), hoặc một phần đáng kể
các tài sản của một doanh nghiệp khác, kết quả là doanh nghiệp mua lại được đặt
trong vị thế thay thế hoặc thay thế một cách đáng kể hoạt động kinh doanh (hoặc
một phần liên quan đến hoạt động kinh doanh) của doanh nghiệp bị mua lại. [55].
Luật Cạnh tranh Singapore cũng quy định việc chuyển nhượng hoặc đóng

góp tài sản cũng được coi là tập trung kinh tế. Theo đó, việc tạo ra một liên doanh,
trên cơ sở lâu dài và với tất cả các chức năng của một thực thể kinh tế tự chủ, cũng
được coi là hoạt động sáp nhập và do đó nằm trong phạm vi điều chỉnh của Luật
Cạnh tranh. Như vậy, TTKT theo Luật Cạnh tranh Singapore bao gồm các hình thức
chủ yếu là mua bán, chuyển nhượng và liên doanh.
- Điều 22 Luật Chống độc quyền Trung Quốc quy định “hoạt động tập trung
kinh tế” thuộc phạm vi điều chỉnh của Điều 22 là: (i) Sự sáp nhập của các doanh
nghiệp; (ii) Việc mua lại tài sản hoặc cổ phần sở hữu của một doanh nghiệp để nắm
quyền kiểm soát một doanh nghiệp khác. (iii) Việc mua lại của doanh nghiệp để
nắm quyền kiểm soát hoặc có khả năng đưa ra các quyết định gây ảnh hưởng đối
với các doanh nghiệp khác bằng hợp đồng hoặc các hình thức khác [52].

9


- Điều 16 Luật Cạnh tranh năm 2004 và Khoản 1 Điều 29 Luật Cạnh tranh
2018 của Việt Nam không giải thích khái niệm TTKT mà chỉ liệt kê các hành vi
được coi là tập trung kinh tế, cụ thể TTKT bao gồm: (i) sáp nhập doanh nghiệp; (ii)
hợp nhất doanh nghiệp; (iii) mua lại doanh nghiệp; (iv) liên doanh giữa các doanh
nghiệp; và (v) các hành vi tập trung khác theo quy định của pháp luật.
Như vậy, cho dù được nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau và diễn tả bằng
những ngôn ngữ pháp lý khác nhau, song về cơ bản, bản chất của TTKT được hiểu
bằng những nội dung sau:
Thứ nhất, chủ thể của TTKT là các doanh nghiệp hoạt động trên thị trường.
Kinh tế học đã chỉ ra rằng, các doanh nghiệp tham gia TTKT có thể là các doanh
nghiệp hoạt động trong cùng hoặc không cùng thị trường liên quan. Từ bản chất
này, hoạt động TTKT được chia thành các dạng TTKT theo chiều dọc, chiều ngang
và hỗn hợp.
Thứ hai, hình thức TTKT rất đa dạng nhưng thường biểu hiện dưới các hình
thức phổ biến là sáp nhập, hợp nhất, mua lại và liên doanh giữa các doanh nghiệp

hoặc bằng một hình thức “kiểm soát” của một doanh nghiệp đối với một doanh
nghiệp khác. Chính vì lẽ đó, có nhiều khái niệm khác nhau để chỉ hiện tượng này
như “tập trung kinh tế” hay “sáp nhập và mua lại” (M&A) hay “sáp nhập” (merger).
Phân tích bản chất của các hiện tượng TTKT cho thấy TTKT không phải là
hành vi đơn phương của một doanh nghiệp mà diễn ra giữa các doanh nghiệp. Bằng
việc sáp nhập, hợp nhất, liên doanh, mua lại, các doanh nghiệp tham gia TTKT đã
chủ động tích tụ các nguồn lực kinh tế như vốn, lao động, kỹ thuật, năng lực quản
lý, tổ chức kinh doanh… mà chúng đang nắm giữ riêng lẻ để hình thành một khối
thống nhất hoặc phối hợp hình thành các nhóm doanh nghiệp, các tập đoàn kinh tế.
Dấu hiệu này giúp khoa học pháp lý phân biệt TTKT với việc tích tụ tư bản trong
kinh tế học. Theo từ điển tiếng Việt, tích tụ tư bản là tăng thêm tư bản dựa vào tích
lũy giá trị thặng dư, biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản. Có thể thấy rằng,
tích tụ tư bản là quá trình phát triển nội sinh của một doanh nghiệp theo thời gian
bằng kết quả kinh doanh. Theo đó, bằng việc sử dụng giá trị thặng dư trong kinh
doanh (lợi nhuận) để tái đầu tư tăng vốn, doanh nghiệp đã dần dần nâng cao được
10


năng lực kinh doanh. Tuy nhiên, quá trình doanh nghiệp có thể tích tụ tư bản để có
được vị trí đáng kể trên thị trường đòi hỏi thời gian khá dài. Trong khi đó, TTKT
cũng có dấu hiệu của sự tích tụ nhưng không từ kết quả kinh doanh mà từ hành vi
“thâu tóm” hoặc “kết hợp” của các doanh nghiệp (tích tụ ngoại sinh).
Thứ ba, TTKT đã hoặc có khả năng hình thành nên doanh nghiệp có năng
lực cạnh tranh tổng hợp hoặc liên kết thành nhóm doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế, từ
đó làm thay đổi cấu trúc thị trường và tương quan cạnh tranh hiện có trên thị trường
[20]. Các hình thức sáp nhập, hợp nhất sẽ làm cấu trúc thị trường thay đổi theo
hướng giảm đi số lượng doanh nghiệp đang hoạt động bằng cách dồn tất cả năng lực
vào một doanh nghiệp duy nhất (doanh nghiệp được sáp nhập hoặc doanh nghiệp
mới hình thành). Việc mua lại hoặc liên doanh sẽ hình thành nên các liên kết giữa
các doanh nghiệp độc lập theo mô hình sở hữu để tạo ra nhóm kinh doanh theo kiểu

tập đoàn. Vì vậy, cho dù TTKT được thực hiện theo mô hình tích tụ hay liên kết
năng lực kinh doanh thì cuối cùng đều dẫn đến kết quả là tương quan cạnh tranh
trên thị trường sau khi TTKT sẽ thay đổi so với trước đó. Bởi lúc này, thị trường đột
ngột xuất hiện doanh nghiệp, hoặc nhóm doanh nghiệp có tiềm lực kinh doanh lớn
hơn trước mà không phải trải qua quá trình tích tụ tư bản. Cần phải khẳng định
rằng, việc TTKT không làm cho thị phần của các doanh nghiệp còn lại trên thị
trường giảm đi, song lại làm thay đổi vị trí cạnh tranh của chúng khi so sánh với
doanh nghiệp được hình thành từ TTKT.
Một trong những nguyên nhân cơ bản khiến các doanh nghiệp thường có xu
hướng TTKT là mong muốn “tăng trưởng”. Bằng nhiều phương thức khác nhau như
phát triển hoạt động sản xuất, áp dụng công nghệ mới, cải tiến bộ máy quản lý, nâng
cao chất lượng sản phẩm… hay nói cách khác là thực hiện quá trình “tăng trưởng
nội sinh”, các doanh nghiệp có thể nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trên thị
trường. Thực hiện tăng trưởng nội sinh sẽ gây tốn kém về mặt thời gian và chi phí
cho các doanh nghiệp và có thể không đạt hiệu quả nếu các doanh nghiệp không có
chiến lược phát triển phù hợp. Thay vào đó, các doanh nghiệp có thể tiến hành tập
trung theo phương thức “tăng trưởng ngoại sinh” thể hiện qua các hành vi như sáp
nhập, hợp nhất, mua lại hoặc liên doanh.
11


Tuy nhiên, khi thực hiện quá trình này, các doanh nghiệp có khả năng tiến tới
thế độc quyền hoặc giữ vị trí thống lĩnh trên thị trường, từ đó dễ xảy ra hành vi lạm
dụng vị trí thống lĩnh hoặc vị trí độc quyền để gây hại đến các doanh nghiệp khác,
ảnh hưởng đến trật tự cạnh tranh và quyền lợi của người tiêu dùng. Lúc này, TTKT
được hiểu là các hành vi của các doanh nghiệp để thực hiện quá trình tăng trưởng
ngoại sinh gây hạn chế cạnh tranh và cần được pháp luật điều chỉnh.
1.2. Tác động của tập trung kinh tế và sự cần thiết phải kiểm soát tập
trung kinh tế
1.2.1 Mục tiêu của kiểm soát TTKT

Ở mỗi quốc gia, chính sách kiểm soát tập trung kinh tế là một bộ phận trong
tổng thể các chính sách của Chính phủ, bao gồm chính sách công, chính sách kinh
tế và chính sách cạnh tranh.
Là một bộ phận của chính sách cạnh tranh nói chung, chính sách kiểm soát
TTKT được cụ thể hóa là một trong ba lĩnh vực điều chỉnh của Luật Cạnh tranh,
bao gồm: thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền và
kiểm soát TTKT. Các quy định về kiểm soát TTKT có tác động tiền kiểm, nhằm
ngăn chặn các vụ việc TTKT có khả năng làm phương hại tới cạnh tranh.
Việc đưa các quy định về TTKT vào Luật Cạnh tranh là do:
- Thứ nhất, TTKT ngay lập tức loại bỏ áp lực cạnh tranh giữa các bên tham
gia vào vụ việc và làm giảm số lượng các đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Khi tác
động loại bỏ cạnh tranh của vụ việc TTKT đủ lớn, thị trường sẽ mất dần định hướng
hiệu quả kinh tế; đồng thời trong một số trường hợp, doanh nghiệp thành lập sau vụ
việc TTKT không cần thực hiện các hành vi có thể vi phạm các quy định mang tính
hậu kiểm của Luật Cạnh tranh mà vẫn có thể loại bỏ được các đối thủ cạnh tranh và
thu lợi từ thị trường.
- Thứ hai, không phải vi phạm nào cũng có thể bị phát hiện và xử lý. Do đó,
việc áp dụng các biện pháp tiền kiểm có thể giúp giảm bớt áp lực cho cơ quan thực
thi Luật. Ngoài ra, ngay cả khi có thể thực hiện các biện pháp khắc phục ở khâu hậu
kiểm đối với các vụ việc TTKT bị phát hiện có tác động xấu tới cạnh tranh, thì các
biện pháp này cũng rất tốn kém.
12


Như vậy, chính sách kiểm soát TTKT là nhằm mục đích ngăn ngừa việc thay
đổi cấu trúc thị trường có thể dẫn đến việc làm tổn hại tới động lực cạnh tranh trên thị
trường, từ đó làm suy giảm hiệu quả kinh tế và xâm hại tới lợi ích của người tiêu dùng.
1.2.2. Vai trò của việc kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế đối với nền
kinh tế
Trong một nền kinh tế, việc một doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí

thống lĩnh thị trường, sẽ dẫn đến hạn chế cạnh tranh và nếu tồn tại doanh nghiệp có
vị trí độc quyền thì chắc chắn sẽ dẫn đến thủ tiêu cạnh tranh. Vì thế, Nhà nước cần
có cơ chế để kiểm soát các quá trình dẫn đến việc hình thành doanh nghiệp, nhóm
doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường.
Với tính chất là một sinh hoạt kinh tế, tự do cạnh tranh tự nó có thể dẫn tới
nguy cơ cản trở hoặc tiêu huỷ cạnh tranh. Nhà nước có thể lựa chọn nhiều phương
cách để ứng xử với hiện tượng này:
- Tin vào sự tự điều chỉnh của thị trường, tin vào sự hợp lý của quá trình
TTKT hướng tới độc quyền mà chủ trương không can dự (chủ nghĩa tự do);
- Can thiệp để tạo điều kiện cho cạnh tranh diễn ra bằng cách ngăn chặn độc
quyền, chia nhỏ doanh nghiệp độc quyền, cấm thoả thuận để tạo vị thế thống lĩnh
thị trường (quan điểm can thiệp để duy trì cạnh tranh);
- Chấp nhận vị trí thống lĩnh thị trường hoặc độc quyền của một số doanh nghiệp
song giám sát, ngăn ngừa sự lạm dụng vị trí đó (quan điểm giám sát để điều tiết);
- Công hữu hoá doanh nghiệp có vị trí độc quyền, đặt chúng dưới sự quản lý
của các cơ quan công quản và định hướng hoạt động của chúng vì lợi ích chung
(quan điểm công hoá để điều tiết).
Trên thực tế, các quốc gia đều tìm cách phối hợp các phương cách kể trên.
Trong đó, giải pháp chính vẫn là phối hợp giữa biện pháp can thiệp để duy trì cạnh
tranh và khi độc quyền đã diễn ra, tìm cách giám sát để điều tiết, hạn chế việc lạm
dụng vị thế độc quyền.
Từ những năm 1970, ở Hoa Kỳ xuất hiện nhiều học thuyết về cạnh tranh mới
và cũ, trong đó có đề cập vai trò của Nhà nước trong kiểm soát TTKT. Trong các
học thuyết đó, trường phái Chicago về kiểm soát độc quyền đã gây được ảnh hưởng
13


mạnh mẽ. Theo trường phái này, cạnh tranh là cuộc chạy đua để xác định những
doanh nghiệp hoạt động hiệu quả nhất, Nhà nước có vai trò đảm bảo trật tự chung
và chỉ nên can thiệp vào cạnh tranh một cách hạn chế. Để đảm bảo lợi ích của người

tiêu dùng, các cơ quan kiểm soát độc quyền (trong đó có kiểm soát TTKT) nên xem
xét ảnh hưởng của hành vi độc quyền dưới hai tiêu chí cơ bản: (i) đối với sự phân
bổ có hiệu quả của mọi nguồn lực kinh tế; và (ii) đối với hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp – xét về chi phí giao dịch hoặc quy mô sản xuất.
Ngoài ra, còn có các trường phái khác, ví dụ như trường phái Harvard mở
rộng mục đích của cạnh tranh. Theo đó, cạnh tranh không chỉ phục vụ lợi ích của
người tiêu dùng mà còn có nhiều chức năng khác như phân phối, xác định nhu cầu,
khuyến khích phát triển công nghệ và phi tập trung hoá quyền lực kinh tế. Bởi vậy,
các trường phái này yêu cầu Nhà nước can thiệp mạnh mẽ và linh hoạt hơn, ví dụ
gia tăng giám sát thoả thuận hạn chế cạnh tranh, kiểm soát sáp nhập và thôn tính,
thực hiện chính sách chia nhỏ doanh nghiệp có vị trí độc quyền.
Xác định luận cứ cho việc kiểm soát TTKT một phần nhằm mục đích đặt ra
giới hạn điều tiết của Nhà nước đối với các hiện tượng TTKT. Trong các giai đoạn
của thị trường, TTKT luôn xuất hiện từ những cơ sở lý luận cơ bản sau:
Một là, do sức ép của cạnh tranh trong đời sống kinh doanh. Có hai mức độ
TTKT có thể xảy ra là: (1) các nhà kinh doanh tìm mọi cách với thời gian ngắn nhất
để có được vị trí cạnh tranh tối ưu trên thị trường; và (2) các doanh nghiệp đang yếu
thế cần tập hợp thành liên minh hoặc đơn vị lớn hơn nhằm tìm kiếm cơ hội tồn tại
trước đối thủ lớn đang chèn ép họ. Cả hai trường hợp nói trên đều dẫn đến kết quả
là các doanh nghiệp đang từ đối đầu trở thành những đơn vị liên kết và không còn
cạnh tranh với nhau nữa. Bởi vậy, TTKT bắt nguồn ở cạnh tranh nhưng kết quả của
nó lại là tiêu diệt cạnh tranh.
Hai là, do sức ép của các cuộc khủng hoảng kinh tế. Lịch sử đã chứng minh
rằng, mỗi khi thị trường xảy ra khủng hoảng thì một trong những giải pháp hiệu quả
mà các doanh nghiệp thường sử dụng là tập trung lại để nương tựa vào nhau nhằm
tìm kiếm cơ hội tồn tại.

14



Ba là, do nhu cầu phát triển năng lực kinh doanh của thị trường. Dưới góc độ
pháp lý, TTKT được các doanh nghiệp thực hiện dựa trên những nguyên tắc căn bản
mà pháp luật đã thừa nhận, đó là: quyền tự do kinh doanh mà Hiến pháp và các văn
bản pháp luật thừa nhận đã tạo ra chủ quyền cho doanh nghiệp trước Nhà nước và
pháp luật. Chủ quyền của doanh nghiệp được thể hiện cơ bản ở hai nội dung: (i)
Doanh nghiệp có quyền định đoạt các vấn đề phát sinh trong nội bộ như: quy mô
kinh doanh, ngành nghề, kế hoạch và phương hướng kinh doanh, lao động,…; (ii)
Doanh nghiệp có quyền tự do liên kết trong kinh doanh, theo đó quyền tự do khế
ước bao gồm sự tự chủ trong việc liên kết đầu tư để mua doanh nghiệp khác hoặc
liên minh góp vốn thành lập các chủ thể kinh doanh mới. Đồng thời, pháp luật về
doanh nghiệp của tất cả các quốc gia đều đã trao cho doanh nhân (trong đó có các
doanh nghiêp) quyền được thay đổi quy mô theo nhu cầu kinh doanh. Trên cơ sở
đó, các biện pháp tổ chức lại như sáp nhập, hợp nhất, chuyển đổi hình thức kinh
doanh,….được ghi nhận như là các biện pháp căn bản để doanh nhân chủ động thích
ứng các biến động thị trường, phù hợp với năng lực kinh doanh của mình.
Như vậy, trong khoa học pháp lý không có nhiều tranh luận về lý do hay cơ
sở để thiết lập cơ chế kiểm soát TTKT. Sự khác biệt trong pháp luật của các quốc
gia và sự khác biệt này tạo nên đặc thù của pháp luật cho từng quốc gia là phương
thức và cơ sở để Nhà nước và pháp luật kiểm soát các vụ việc, các hiện tượng
TTKT trên thị trường.
1.3 Những nội dung cơ bản của pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế
Mục tiêu của việc đánh giá các vụ việc TTKT theo quy định của pháp luật
cạnh tranh nhằm xác định và ngăn ngừa, hoặc đưa ra các biện pháp khắc phục đối
với những vụ việc có khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị
trường. Để xử lý hiệu quả các vụ việc TTKT có khả năng gây hạn chế cạnh tranh một
cách đáng kể, chính sách và quy định kiểm soát TTKT cần xây dựng được một khung
đánh giá toàn diện. Trên cơ sở đó, cơ quan cạnh tranh cũng cần đảm bảo tính toàn
diện khi đánh giá các yếu tố giúp đưa ra quyết định một vụ việc TTKT có khả năng
gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể hay không.


15


Xuất phát từ bản chất kinh tế của TTKT vừa có tác động tích cực vừa có tác
động hạn chế cạnh tranh, pháp luật cạnh tranh nhiều quốc gia xây dựng cơ chế kiểm
soát TTKT thông qua hai cơ chế đó là: (i) cấm các trường hợp TTKT có tác động
hạn chế cạnh tranh trên thị trường; và (ii) kiểm soát các trường hợp có khả năng gây
tác động hạn chế cạnh tranh trên thị trường.
1.3.1 Quy định về hình thức kiểm soát TTKT
Để nhận dạng bản chất của hành vi tập trung kinh tế, ngoài việc phân tích
khái niệm, các lý thuyết kinh tế và các luận thuyết của pháp luật cạnh tranh cũng
đòi hỏi phải nhận dạng những hình thức biểu hiện của chúng. Trong kinh tế học, tồn
tại nhiều tiêu chí để xem xét về hình thức của tập trung kinh tế.
Dựa vào mức độ liên kết từ hành vi TTKT người ta chia thành hai loại là
TTKT chặt chẽ (hoặc còn gọi là tổ hợp) và tập trung không chặt chẽ (gọi là liên
minh lý tài).[5, tr31].
Hình thức tập trung chặt chẽ hay còn gọi là hình thức tờ- rớt (trust) là việc
các doanh nghiệp tham gia TTKT chấm dứt tồn tại để hình thành nên một doanh
nghiệp thống nhất. Như vậy, việc thống nhất đã hoàn thành cả ở phương diện pháp
lý lẫn quản trị doanh nghiệp. Hình thức TTKT này thường được thực hiện bằng biện
pháp sáp nhập, hợp nhất các doanh nghiệp.
Hình thức tập trung không chặt chẽ là việc các doanh nghiệp tham gia vẫn là
những chủ thể độc lập dưới góc độ pháp luật, song chúng chịu sự chi phối bởi các
doanh nghiệp khác. Bằng các hành vi mua lại hoặc liên doanh, các doanh nghiệp đã
thiết lập được mối quan hệ với nhau để tạo thành một liên minh hoặc một nhóm doanh
nghiệp theo mô hình tập đoàn. Trong đó, bằng quyền của chủ sở hữu, các doanh nghiệp
có thể chi phối các doanh nghiệp khác mà nó có phần vốn góp hoặc cổ phần.
Dựa vào vị trí của các doanh nghiệp tham gia TTKT trong các cấp độ kinh
doanh của ngành kinh tế – kỹ thuật, TTKT bao gồm tập trung theo chiều ngang, tập
trung theo chiều dọc hoặc tập trung theo đường chéo (tập trung hỗn hợp), cụ thể:

(i) Tập trung kinh tế theo chiều ngang
Hình thức này bao gồm các vụ việc TTKT của các doanh nghiệp tham gia
cung ứng cùng một loại sản phẩm hoặc các sản phẩm có khả năng thay thế mật thiết
16


cho nhau. Khái niệm TTKT theo chiều ngang ngầm ý rằng các doanh nghiệp tồn tại
trên cùng một cấp trong chuỗi sản xuất, cung ứng sản phẩm. Trước khi thực hiện
tập trung kinh tế, các doanh nghiệp này thường là những đối thủ cạnh tranh trực tiếp
hoặc đối thủ tiềm năng của nhau.
Mục tiêu chính của hình thức này là thực hiện hiệu quả theo quy mô
(economies of scale), thực hiện mục tiêu chiến lược thị trường (khống chế thị
trường hoặc tạo rào cản thị trường)... TTKT theo chiều ngang có thể tạo ra những
tác động tích cực và tiêu cực. Theo lý thuyết cạnh tranh thì sự gia tăng tập trung
theo chiều ngang sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc phối hợp hành động giữa các
doanh nghiệp và từ đó dẫn đến hạn chế cạnh tranh về giá.
Về nguyên tắc, khi số lượng doanh nghiệp hoạt động trên thị trường càng lớn
(hoặc mức độ TTKT càng nhỏ) thì nguy cơ để xuất hiện một thế lực khống chế trên
thị trường càng nhỏ. Chính vì vậy, khi việc TTKT tạo ra doanh nghiệp có qui mô
vượt qua một mức giới hạn nào đó thì việc Nhà nước kiểm soát sự tập trung đó,
đánh giá tác động của nó là cực kỳ quan trọng để từ đó có thể quyết định cho phép
hay không cho phép các doanh nghiệp này tập trung với nhau.
Sáp nhập theo chiều ngang được coi là có khả năng gây quan ngại đến cạnh
tranh trên thị trường nhất do việc TTKT trực tiếp làm suy giảm số lượng đối thủ
cạnh tranh độc lập trên thị trường.
(ii) Tập trung kinh tế theo chiều dọc
Hình thức này bao gồm các vụ việc TTKT giữa các doanh nghiệp ở cấp độ
khác nhau trong cùng một chuỗi sản xuất, cung ứng sản phẩm. Nói cách khác, các
vụ việc này phát sinh khi các doanh nghiệp đang hoặc sẽ có mối quan hệ mua - bán
sản phẩm thực hiện tập trung kinh tế.

Không giống như các vụ việc TTKT theo chiều ngang, các vụ TTKT theo
chiều dọc không làm giảm số lượng đối thủ cạnh tranh trên thị trường liên quan, tuy
nhiên, cũng có thể gây ra những quan ngại đáng kể đối với cạnh tranh trên thị
trường. Quan ngại nghiêm trọng nhất liên quan tới cạnh tranh là khi vụ việc TTKT
gây ra tác động đóng cửa thị trường, ví dụ, trường hợp một doanh nghiệp sản xuất
tiến hành TTKT với các nhà cung cấp nguyên liệu đầu vào thiết yếu và từ chối cung
17


cấp nguyên liệu thiết yếu đó cho các đối thủ cạnh tranh khác. Mục tiêu của sự hợp
nhất này thường nhằm giảm chi phí giao dịch (transaction cost economies) hoặc
thực hiện những mục tiêu chiến lược thị trường (đảm bảo nguồn cung ứng hoặc
nguồn tiêu thụ, ngăn cản đối thủ cạnh tranh mở rộng thị trường hoặc dựng rào cản
gia nhập thị trường).
Hình thức TTKT theo chiều dọc có thể dẫn đến những tác động tiêu cực ảnh
hưởng đến cạnh tranh, cụ thể: (1) Khi một doanh nghiệp có vị thế rất mạnh ở một
khâu nào đó (theo nghĩa thị trường một sản phẩm) trong chu trình kinh doanh thì họ
có thể tận dụng quyền lực này để gây sức ép đối với khâu có liên quan trước và sau
đó (thị trường những người cung ứng hoặc những người tiêu thụ). Thông qua đó,
doanh nghiệp này có thể gây khó khăn cho những người cạnh tranh không cùng liên
kết với họ; (2) Về cơ bản, sự TTKT theo chiều dọc của các doanh nghiệp sẽ gây khó
khăn cho những người mới gia nhập thị trường bởi khả năng nâng cao năng lực
hoặc hỗ trợ tài chính và bí quyết kỹ thuật giữa các khu vực thị trường.
(iii) Tập trung kinh tế theo dạng hỗn hợp
Hình thức này bao gồm các vụ việc TTKT khi các bên tham gia hoạt động
sản xuất kinh doanh trong các lĩnh vực khác nhau. Điển hình là khi các công ty
không cùng sản xuất một loại sản phẩm, và cũng không có mối quan hệ mua – bán
hiện hữu hoặc tiềm năng. Các vụ sáp nhập theo dạng tổ hợp được coi là những hình
thức TTKT ít gây quan ngại nhất đến cạnh tranh trên thị trường và thường được
miễn trừ trong các quy định của Luật Cạnh tranh.

Lý thuyết về hình thái thị trường độc quyền và độc quyền nhóm (monopoly
và oligopoly) không nghiên cứu về ảnh hưởng của hình thức tập trung kiểu này,
song thực tiễn cho thấy, chúng cũng có thể gây ra những tác động tiêu cực đến môi
trường cạnh tranh. Cụ thể là: (1) các doanh nghiệp tham gia tập trung dạng hỗn hợp
(conglomerate) có lợi thế cạnh tranh trong việc tiết kiệm được chi phí khi có nhu
cầu tín dụng, bảo hiểm, quảng cáo và cả vận tải cũng như trên cơ sở tiềm lực hùng
mạnh về tài chính, doanh nghiệp hợp nhất này có thể gây những ảnh hưởng đến
chính trị, vận động hậu trường,… hoặc trong công tác đối ngoại, quan hệ công cộng
(public relation). (2) Thông qua những hoạt động kinh doanh, các giao dịch qua lại
18


các doanh nghiệp hợp nhất dạng conglomerate có thể có điều kiện để đưa ra những
hạch toán hỗn hợp, hạn chế rủi ro về chi phí và thị trường, có được những điều kiện
kinh doanh rất thuận tiện và vì thế sẽ gây bất lợi cho những đối thủ cạnh tranh nhỏ
hơn. Hiện tượng này sẽ làm vô hiệu hoá nguyên lý hiệu quả với tư cách là nguyên
tắc chọn lọc của nền kinh tế thị trường. (3) Về cơ bản, xã hội không bao giờ mong
muốn việc hình thành một thế lực quá hùng mạnh trên thị trường, đe doạ sự kiếm
soát thông qua cơ chế thị trường cũng như thông qua sự hợp tác giữa Nhà nước và
các hiệp hội. Sự tập trung dạng conglomerate này chính là mối đe doạ đó. [21].
Như vậy, TTKT tồn tại ở nhiều hình thức khác nhau song tựu chung lại
TTKT là cách thức để từ đó các doanh nghiệp tham gia TTKT có sự liên kết với
nhau về vốn, tài chính, công nghệ, quản lý dẫn đến sự hình thành một doanh nghiệp
sau TTKT có năng lực cạnh tranh lớn hơn.
1.3.2 Quy định cấm tập trung kinh tế
Pháp luật của các quốc gia đều thừa nhận TTKT là một quyền hợp pháp của
doanh nghiệp, tuy nhiên tiếp cận từ “mặt trái” của cạnh tranh, pháp luật đưa ra quy
định cấm tập trung kinh tế trong một số trường hợp nhất định nếu việc tập trung
kinh tế có tác động hoặc khả năng tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể
trên thị trường.

- Mục II. Chương VI Luật mẫu về cạnh tranh của UNCTAD quy định: “Các
vụ sáp nhập, mua lại, liên doanh hay các hình thức mua lại khác, kể cả việc kiêm
nhiệm chức vụ, có tính liên kết ngang, liên kết dọc hay liên kết tập đoàn sẽ bị cấm
khi: (i) Giao dịch định tiến hành làm tăng đáng kể khả năng thâu tóm quyền lực thị
trường (như việc trao khả năng cho một công ty hay nhóm các công ty cùng hành
động để duy trì mức giá có lợi trên mức cạnh tranh trong một thời gian nhất định)
và (ii) Thị phần trong nước của bất kỳ loại hàng hoá, dịch vụ nào sau sáp nhập sẽ
làm hình thành một doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hay làm giảm đáng kể cạnh
tranh trên thị trường vì chỉ có một nhóm doanh nghiệp thâu tóm.”[59, tr.11].
- Mục 7, Đạo Luật chống độc quyền Clayton (Clayton Antitrust Act) ban
hành năm 1914, 15 U.S.C §18, là đạo luật chống độc quyền liên bang cơ bản về
kiểm soát sáp nhập và mua lại tại Hoa Kỳ. Mục 7 của Luật nghiêm cấm bất kỳ giao
19


dịch mua lại cổ phần hoặc tài sản trong các giao dịch ảnh hưởng đến thị trường và
“có khả năng dẫn tới hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể, hoặc có xu hướng tạo ra
độc quyền trên thị trường”.
- Mục 50 Luật Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng Úc quy định cấm các
vụ việc sáp nhập có tác động, hoặc có khả năng gây tác động làm giảm đáng kể
cạnh tranh trên thị trường trên lãnh thổ bang, thuộc địa hoặc lãnh thổ Úc [28, tr.2].
Pháp luật của rất nhiều quốc gia khác như Pháp, Singapore, Trung Quốc…
đều quy định cấm các hành vi mua bán, sáp nhập dẫn tới hoặc có khả năng dẫn tới
tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường.
1.3.3 Quy định về thông báo tập trung kinh tế
Để đánh giá TTKT có thuộc trường hợp bị cấm hay không, một trong những
cơ chế kiểm soát tập trung kinh tế được đặt ra là cơ chế “tiền kiểm”. Kinh nghiệm
quốc tế cho thấy, cơ quan cạnh tranh không nên tiêu tốn nguồn lực vào một vụ việc
TTKT, trừ khi vụ việc đó có thể gây quan ngại đáng kể đối với thị trường. Có nghĩa
là, thay vì xem xét toàn bộ các vụ việc TTKT, cơ quan cạnh tranh cần đặt ra những

tiêu chí cụ thể để lựa chọn xem xét các vụ việc TTKT có khả năng gây ra lo ngại về
mặt cạnh tranh. Đồng thời, các tiêu chí này nên được hạn chế trong phạm vi các đối
tượng tham gia TTKT hoặc lĩnh vực kinh doanh là đối tượng của giao dịch TTKT
giữa các bên liên quan.
Để đưa ra quy định về thông báo TTKT, cơ quan cạnh tranh của các nước
thường đưa ra ngưỡng thông báo tập trung kinh tế làm điểm bắt đầu cho quy trình
kiểm soát TTKT. Ngưỡng thông báo là một tiêu chí được xây dựng dựa trên việc
cân bằng giữa mục tiêu kiểm soát các giao dịch tập trung kinh tế diễn ra trên thị
trường có thể gây tác hại đến cạnh tranh và chi phí hợp lý cho các bên có liên quan,
bao gồm cả chi phí thực hiện việc thông báo của doanh nghiệp và chi phí để cơ
quan cạnh tranh tiến hành rà soát các vụ việc có quan ngại đáng kể (chi phí về tài
chính, nhân lực, thời gian, v.v). Việc xây dựng cơ chế và hệ thống ngưỡng phù hợp
sẽ giúp cơ quan cạnh tranh có thể kiểm soát hiệu quả hơn các giao dịch TTKT có
tác động đến cạnh tranh trên thị trường và không gây ra gánh nặng thực hiện các
nghĩa vụ về pháp luật cho các doanh nghiệp tham gia.
20


Về cơ bản, có ba cách tiếp cận chính để xây dựng ngưỡng là:
Thứ nhất đó là đưa ra tiêu chí “định lượng” về giá trị hoặc quy mô một cách
rõ ràng như (i) quy mô của giao dịch mua bán, sáp nhập, (ii) quy mô tài sản của các
doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế, (iii) doanh thu nội địa hoặc doanh thu toàn
cầu của các bên tham gia TTKT.
Cách tiếp cận thứ hai đó là tiêu chí mang tính chất “kinh tế” gắn với các hình
thức giao dịch và việc giao dịch đó có khả năng gây tác động hoặc thay đổi đối với
cấu trúc thị trường thông qua việc sử dụng tiêu chí thị phần của các doanh nghiệp
tham gia trên thị trường liên quan.
Cách tiếp cận thứ ba đó là kết hợp cả hai tiêu chí trên khi cơ quan cạnh tranh
xác định ngưỡng cần thông báo hoặc ngưỡng an toàn, ngưỡng kiểm soát tập trung
kinh tế.

Theo kinh nghiệm của một số quốc gia đã tiến hành thay đổi ngưỡng thông báo
TTKT, ngưỡng TTKT sử dụng các tiêu chí khách quan như doanh thu hoặc giá trị tài
sản của các bên tham gia TTKT không mang lại nhiều hiệu quả trong việc dự báo tác
động cạnh tranh của giao dịch TTKT.[8]
Đa phần các quốc gia đều sử dụng ngưỡng thông báo TTKT dựa trên tiêu chí
doanh thu trên thị trường nội địa. Trong khi đó, một số khác lại sử dụng ngưỡng
thông báo kép, bao gồm cả hai chỉ tiêu là doanh thu trên thị trường nội địa và doanh
thu trên thị trường toàn cầu. Với những quốc gia sử dụng ngưỡng thông báo kép
này, tổng doanh thu toàn cầu của các bên tham gia TTKT thường được xác định ở
mức tương đối cao nhằm tránh việc phải nhận quá nhiều hồ sơ thông báo. Kết quả
là, các giao dịch chỉ mang tính chất quốc gia, dù có khả năng gây hạn chế cạnh
tranh trên bình diện nội địa, lại bị bỏ sót do không đáp ứng được tiêu chí về doanh
thu trên phạm vi toàn cầu. Trong những trường hợp như vậy, một hệ thống ngưỡng
thông báo TTKT sử dụng cả tiêu chí về doanh thu kết hợp và doanh thu của từng
doanh nghiệp tham gia vào giao dịch TTKT trên thị trường nội địa có thể giúp nắm
bắt tốt hơn các giao dịch có khả năng gây hạn chế cạnh tranh. Mặc dù cách tiếp cận
này sẽ không giúp đạt được mục đích hạn chế số lượng thông báo TTKT mà cơ

21


quan cạnh tranh phải tiếp nhận nhưng lại giúp làm tăng tỷ lệ các vụ việc có vấn đề
được thông báo lên cơ quan cạnh tranh.
Một số quốc gia đã cân nhắc tới việc áp dụng ngưỡng thông báo theo tiêu chí
thị phần nhằm phản ánh chính xác hơn khả năng gây hạn chế cạnh tranh của vụ việc
TTKT. Tuy nhiên, sau quá trình xem xét, các quốc gia này đã loại bỏ phương án
này do những khó khăn mà nó gây ra cho doanh nghiệp trong quá trình thực hiện
các thủ tục thông báo TTKT. Một số trong đó thậm chí còn chỉ ra rằng ngưỡng
thông báo sử dụng tiêu chí thị phần không phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế được
thừa nhận rộng rãi.

1.3.4 Quy định về đánh giá tác động của tập trung kinh tế
Mục tiêu của việc phân tích tác động cạnh tranh trong rà soát các vụ việc
TTKT theo chiều ngang là nhằm đánh giá khả năng gây hạn chế cạnh tranh một
cách đáng kể thông qua việc tạo lập hoặc củng cố khả năng hay động lực của doanh
nghiệp trong việc lạm dụng sức mạnh sau TTKT bằng các hành vi đơn phương hoặc
kết hợp với các đối thủ cạnh tranh hiện hữu trên thị trường.
Do đó, khi đánh giá tác động cạnh tranh, các cơ quan cạnh tranh thường cân
nhắc xem sau vụ việc TTKT có khả năng dẫn đến các hành vi lạm dụng đơn phương
hoặc kết hợp hay không. Hai cách đánh giá này được coi là hai khung đánh giá cạnh
tranh để xem xét một vụ việc TTKT.
Kinh nghiệm cho thấy, việc đánh giá tác động cạnh tranh, dù trong khuôn khổ
hành vi đơn phương hay kết hợp, cần được dựa trên các phân tích về mặt kinh tế và
điều kiện thực tế của từng vụ việc.
a) Tác động đơn phương
Khi phân tích tác động đơn phương của vụ việc TTKT, các cơ quan cạnh tranh
thường tập trung đánh giá liệu doanh nghiệp hình thành sau TTKT có khả năng gây
hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường liên quan thông qua việc tạo
lập, củng cố vị thế trên thị trường và gia tăng khả năng và động lực của doanh
nghiệp đó trong việc lạm dụng sức mạnh thị trường một cách độc lập.
Một số yếu tố cần cân nhắc khi đánh giá tác động đơn phương của vụ việc
TTKT:
22


×