Tải bản đầy đủ (.doc) (231 trang)

Văn hóa ứng xử trong nghề chế biến nông sản của cư dân làng mậu hòa (xã minh khai, huyện hoài đức, thành phố hà nội)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.59 MB, 231 trang )

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ THANH HÒA

VĂN HÓA ỨNG XỬ TRONG NGHỀ CHẾ BIẾN
NÔNG SẢN CỦA CƯ DÂN LÀNG MẬU HÒA
(XÃ MINH KHAI, HUYỆN HOÀI ĐỨC,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC

HÀ NỘI, 2020


BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ THANH HÒA

VĂN HÓA ỨNG XỬ TRONG NGHỀ CHẾ BIẾN
NÔNG SẢN CỦA CƯ DÂN LÀNG MẬU HÒA
(XÃ MINH KHAI, HUYỆN HOÀI ĐỨC,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI)


Chuyên ngành : Văn hóa học
Mã số
: 9229040

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Bùi Xuân Đính

HÀ NỘI, 2020


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số
liệu nêu trong luận án là trung thực. Việc tham khảo các tài liệu được trích
dẫn theo nguồn đúng quy định. Những kết luận khoa học của luận án chưa
từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Hà Nội, ngày
tháng năm
2020
Tác giả luận án

Nguyễn Thị Thanh Hòa


1

MỤC LỤC
Trang

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
MỞ ĐẦU
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ
LÝ LUẬN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.2. Cơ sở lý luận
Tiểu kết
Chương 2: LÀNG MẬU HÒA VÀ NGHỀ CHẾ BIẾN NÔNG SẢN
2.1. Môi trường tự nhiên và sự lựa chọn phương thức mưu sinh
2.2. Môi trường xã hội
2.3. Nghề chế biến nông sản ở Mậu Hòa
Tiểu kết
Chương 3: BIỂU HIỆN VĂN HÓA ỨNG XỬ TRONG NGHỀ CHẾ
BIẾN NÔNG SẢN Ở LÀNG MẬU HÒA
3.1. Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên của người làm nghề
chế biến nông sản
3.2. Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội của người làm nghề chế
biến nông sản
3.3. Văn hóa ứng xử với bản thân của người làm nghề chế biến
nông sản
Tiểu kết
Chương 4: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TỪ NGHIÊN CỨU VĂN
HÓA ỨNG XỬ CỦA NGƯỜI LÀM NGHỀ CHẾ BIẾN
NÔNG SẢN Ở MẬU HÒA
4.1. Những bàn luận về văn hóa ứng xử của người làm nghề chế
biến nông sản ở Mậu Hòa
4.2. Những vấn đề đặt ra từ nghiên cứu văn hóa ứng xử của
người làm nghề chế biến nông sản ở Mậu Hòa
Tiểu kết

KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

1
2
3
10
10
23
34
35
35
41
53
66
68
68
73
98
108
110

110
126
144
146


2


DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Trang
1. Sơ đồ 1: Khung phân tích và các vấn đề nghiên cứu của

33

luận án
2. Sơ đồ 2.1: Tổ chức sản xuất, kinh doanh miến dong

58

3. Sơ đồ 2.2: Tổ chức sản xuất, kinh doanh hàng bún, phở khô

61


3

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn hóa ứng xử là một thành tố của văn hóa, được biểu hiện thông qua
các hành vi, cử chỉ, thái độ, ngôn ngữ… đã được nghiên cứu ở nhiều góc độ Văn
hóa học, Tâm lý học, Xã hội học, Nhân học… từ đó đúc kết thành lý luận về ứng
xử (khái niệm, bản chất, phân loại) đến những biểu hiện cụ thể của văn hóa ứng
xử trong các môi trường khác nhau. Văn hóa ứng xử có ý nghĩa định hướng, điều
tiết hành vi của mỗi cá nhân để duy trì, phát triển, làm cho cuộc sống của cá
nhân gắn kết cộng đồng với tính nhân văn, nhân ái cao. Văn hóa ứng xử góp
phần khơi dậy, nhân rộng những lời nói hay, những việc làm tốt, những phong
cách đẹp, làm cho cái đúng, cái tốt, cái đẹp được lan tỏa, phát huy tác dụng trong

các khía cạnh của cuộc sống. Luận án mong muốn bước đầu đóng góp cơ sở lý
luận về văn hóa ứng xử và cung cấp dữ liệu khoa học cho các nhà nghiên cứu
quan tâm đến văn hóa ứng xử của cộng đồng, định hình các giá trị văn hóa ứng
xử cho cư dân làm nghề ở Mậu Hòa trên nền tảng di sản văn hóa truyền thống
trong giai đoạn hiện nay.
Ở Việt Nam, từ xa xưa, con người gắn bó với cộng đồng làng, theo các
mối quan hệ nhà (gia đình), dòng họ, xóm giềng, phe giáp, lớp tuổi, phường
hội…, dựa trên cơ sở kinh tế là nông nghiệp kết hợp với các nghề thủ công và
buôn bán nhỏ. Văn hóa ứng xử của người Việt là những ứng xử nhằm giải quyết
các mối quan hệ trong cộng đồng làng để duy trì cuộc sống dựa trên cơ sở kinh tế
nông nghiệp là chủ đạo, mà những đặc trưng cơ bản, nổi bật đã được các nhà
nghiên cứu chỉ ra là: trọng tình cảm, gắn kết chặt chẽ trong cộng đồng làng xóm,
có thủy có chung, hòa thuận...
Từ khi nền kinh tế đất nước phát triển theo cơ chế thị trường, những thách
thức để mưu sinh trong điều kiện cạnh tranh quyết liệt giúp con người năng động
hơn, có nhiều mối quan hệ hơn, nhưng cũng chính vì thế đặt ra cho mỗi người
nhiều tình huống trong quan hệ ứng xử hơn, nhất là với những người làm các


4

nghề thủ công, làm kinh doanh - dịch vụ, thuận cũng có và “nghịch” cũng nhiều.
Thực tế hiện nay cho thấy, vì lợi nhuận, một bộ phận người sản xuất sẵn sàng
làm hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng, hàng độc hại; cạnh tranh thiếu
lành mạnh, vi phạm pháp luật, chiếm dụng vốn của nhau, thậm chí lừa đảo
nhau...; làm giảm lòng tin giữa con người với nhau trong xã hội, giảm tính cố kết
cộng đồng vốn là một giá trị mang tính truyền thống trong văn hóa ứng xử của
người Việt. Thực trạng này biểu hiện khác nhau ở từng ngành nghề, từng địa
phương, cần được nghiên cứu trên diện rộng, tại nhiều điểm khác nhau để có sơ
sở khoa học rút ra các giải pháp khắc phục những hạn chế tạo sự hài hòa giữa

phát triển kinh tế với giữ gìn giá trị văn hóa tốt đẹp trong cộng đồng làng nghề.
Tuy nhiên, cho đến nay, các nghiên cứu về văn hóa ứng xử của người Việt
thường chỉ tập trung vào những vấn đề lý luận chung, thực trạng và xu hướng
biến đổi của nó hiện nay; không có nhiều nghiên cứu về văn hóa ứng xử tại các
loại hình làng nghề khác nhau, ở các địa phương khác nhau.
Mong muốn góp phần vào việc tìm hiểu văn hóa ứng xử của cư dân các
làng nghề, chúng tôi chọn một làng cụ thể làm điểm thử nghiệm nghiên cứu. Đó
là làng Mậu Hòa, một ngôi làng cổ, có nghề chế biến nông sản (miến dong, bún,
phở khô) - sản phẩm được sử dụng thường xuyên và ảnh hưởng trực tiếp đến sức
khỏe người tiêu dùng. Từ khi kinh tế thị trường được mở ra, nghề phát triển
mạnh, người Mậu Hòa một mặt vẫn duy trì các mối quan hệ làm nghề vốn có ở
trong làng, mặt khác, đã mở rộng phạm vi tiêu thụ ra nhiều nước ở châu Á, châu
Âu, hình thành các mối quan hệ mới. Vậy, trong bối cảnh làm nghề trên đây, văn
hóa ứng xử của người Mậu Hòa được thể hiện như thế nào? Các yếu tố của văn
hóa ứng xử truyền thống được biểu hiện, diễn tiến ra sao để thích ứng với điều
kiện mới, có tác động như thế nào với việc làm nghề? Cũng vậy, các mối quan hệ
mới hình thành trong điều kiện làm nghề hiện nay tác động như thế nào đến việc
làm nghề…, là những vấn đề cần được quan tâm. Nghiên cứu văn hóa ứng xử
trong nghề chế biến nông sản của cư dân làng Mậu Hòa trong điều kiện nền


5

kinh tế thị trường không chỉ cho thấy đặc điểm văn hóa của cộng đồng cư dân,
mà còn tạo cơ sở khoa học cho việc xây dựng các chuẩn mực, quy tắc ứng xử
phù hợp trước bối cảnh xã hội diễn biến phức tạp.
Với những lý do trên, nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài Văn hóa ứng xử
trong nghề chế biến nông sản của cư dân làng Mậu Hòa (xã Minh Khai, huyện
Hoài Đức, thành phố Hà Nội) làm luận án Tiến sĩ chuyên ngành Văn hóa học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu
- Nhận diện văn hóa ứng xử của người làng nghề chế biến nông sản ở làng
Mậu Hòa qua ba chiều kích: văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên, văn hóa
ứng xử với môi trường xã hội, văn hóa ứng xử với bản thân.
- Tạo cơ sở khoa học để các cấp chính quyền địa phương xây dựng những
quy tắc, chuẩn mực đạo đức góp phần định hướng hành vi của các cá nhân, đưa
ra những chính sách phát triển phù hợp nhằm xây dựng cộng đồng làng nghề hài
hòa giữa phát triển kinh tế và bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống.
2.2. Câu hỏi nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu trên, luận án đưa ra ba câu hỏi nghiên cứu:
- Những yếu tố nào tác động đến sự hình thành văn hóa ứng xử của người
làm nghề chế biến nông sản ở làng Mậu Hòa?
- Văn hóa ứng xử của người làm nghề chế biến nông sản ở làng Mậu Hòa
được biểu hiện như thế nào?
- Những vấn đề gì cần đặt ra từ nghiên cứu văn hóa ứng xử của người làm
nghề ở Mậu Hòa hiện nay?
2.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Vận dụng các lý thuyết để lý giải các hiện tượng trong văn hóa ứng xử của
người làm nghề chế biến nông sản. Cụ thể, luận án tập trung một số nhiệm vụ:

+ Hệ thống hóa cơ sở lý luận của luận án
+ Cơ sở hình thành văn hóa ứng xử của người làm nghề ở Mậu Hòa;
+ Những biểu hiện trong văn hóa ứng xử của người làm nghề ở làng Mậu Hòa;


6

+ Những vấn đề đặt ra đối với văn hóa ứng xử của người làm nghề chế
biến nông sản ở Mậu Hòa hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng của luận án là ba chiều kích của văn hóa ứng xử với người làm
chế biến nông sản ở Mậu Hòa, gồm ứng xử với môi trường tự nhiên, ứng xử với
môi trường xã hội (cộng đồng) và ứng xử với chính mình (bản thân, gia đình,
dòng họ).
Khách thể nghiên cứu là người làm nghề, các chủ hộ kinh doanh cá thể,
giám đốc, Tổng giám đốc một số công ty sản xuất và kinh doanh miến dong,
bún, phở khô và đại lý cung cấp nguyên liệu, đại lý tiêu thụ của các cơ sở sản
xuất, kinh doanh ở Mậu Hòa.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian nghiên cứu của luận án là làng Mậu Hòa, xã Minh
Khai, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội.
Phạm vi thời gian, luận án tập trung nghiên cứu văn hóa ứng xử từ truyền
thống đến hiện đại. Với nghề chế biến nông sản, luận án tập trung nghiên cứu từ
năm 2000 khi nghề miến, bún phở khô phát triển mạnh; các lĩnh vực khác (thiết chế
dòng họ, xóm ngõ, giáp, phường, đặc điểm đất đai, sông ngòi, một số nghề thủ
công…), luận án tìm hiểu từ trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đây là những
yếu tố ảnh hưởng đến văn hóa ứng xử của làng Mậu Hòa giai đoạn hiện nay.

4. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cách tiếp cận
Tiếp cận Văn hóa học: luận án coi văn hóa ứng xử trong nghề chế biến
nông sản là thành tố của văn hóa. Trong hoạt động nghề, con người có những thế
ứng xử khác nhau nhằm đạt hiệu quả, lợi nhuận cao trong sản xuất, kinh doanh.
Cách thức ứng xử trong các mối quan hệ với tự nhiên, xã hội và chính mình của
người làm nghề là thành tố của văn hóa tinh thần và văn hóa xã hội.


7


Tiếp cận hệ thống: luận án đặt sự hình thành, tồn tại và biến đổi văn hóa
ứng xử của người làm nghề ở Mậu Hòa trong mối liên hệ tổng thể với các yếu tố
địa lý tự nhiên, cơ sở kinh tế, thiết chế văn hóa - xã hội của làng, điều kiện kinh
tế - xã hội của đất nước.
4.2. Các phương pháp nghiên cứu
Từ góc độ phương pháp ngành, luận án sử dụng phương pháp đặc trưng
của Văn hóa học là phương pháp liên ngành. Nghiên cứu sinh sử dụng kết quả
nghiên cứu chuyên ngành về một bộ phận hay một thành tố văn hóa để có cái
nhìn toàn diện và phân tích được các vấn đề văn hóa ứng xử của người làm nghề
ở làng Mậu Hòa.
Ở cấp độ phương pháp tiến hành cụ thể, luận án sử dụng phương pháp phân
tích, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh để làm rõ các nội dung, các vấn
đề đặt ra. Luận án sử dụng phương pháp tổng hợp, thu thập các nguồn tài liệu (tài
liệu thứ cấp, tài liệu điều tra thực địa), các công trình nghiên cứu đã được xuất bản
dưới nhiều thể loại khác nhau, giúp nghiên cứu sinh có một cái nhìn tổng thể về văn
hóa ứng xử, các dạng thức của nó và vận dụng khi thực hiện luận án.
Để thu thập được nguồn tư liệu trên thực địa, luận án sử dụng phương pháp
điền dã dân tộc học với các thao tác: quan sát tham dự và phỏng vấn sâu. Nghiên
cứu sinh đã tham dự và quan sát một số hoạt động của cơ sở sản xuất trong những
giáp tết, thời điểm việc sản xuất, kinh doanh diễn ra tấp nập nhất để thấy được hành
vi ứng xử, việc sử dụng dòng quà tặng dành cho thợ, khách hàng, đối tác của các
chủ cơ sở. Ngoài ra, tác giả luận án thường xuyên xuất hiện tại các cơ sở sản xuất
vào thời điểm sau tết, giữa hè vì đây là thời điểm hàng miến dong và bún phở khô
tiêu thụ chậm nhất. Ở thời gian này người làm nghề dành cho nghiên cứu sinh nhiều
thời gian để trò chuyện, giãi bày tâm sự, giúp tác giả luận án thu thập các tư liệu
quan trọng. Với thao tác phỏng vấn sâu, về cơ bản có thể hình dung, các cơ sở chế
biến nông sản nằm tập trung ở bốn thôn Minh Hòa 1,2,3,4 và ba thôn Minh Hiệp
1,2,3 thuộc xã Minh Khai. Đứng đầu là các chủ cơ sở sản xuất, giám đốc



8

công ty, dưới là đội ngũ thợ chính, thợ phụ, bên cạnh đó là những cơ sở chuyên
cung cấp nguyên liệu và các đại lý tiêu thụ. Vì vậy, để hiểu sâu về văn hóa ứng
xử của các chủ cơ sở với từng đối tác trong làm nghề, nghiên cứu sinh đã phỏng
vấn các đối tượng cụ thể sau: Tổng Giám đốc, Chủ tịch Hội đồng quản trị của
Công ty và các chủ hộ kinh doanh cá thể; thợ làm việc tại các cơ sở sản xuất; chủ
đại lý tiêu thụ; chủ đại lý cung cấp nguyên liệu; các cụ cao niên; chính quyền địa
phương; chủ tịch các tổ chức phi quan phương (đồng niên, đồng ngũ, hội doanh
nghiệp, hội bún, phở khô, hội miến dong,...); tổ chức quan phương (hội phụ nữ,
hội nông dân, hội cựu chiến binh, đoàn thanh niên...); điều tra vòng những người
thợ, chủ cơ sở sản xuất đã bỏ nghề. Đối với những tư liệu thu được từ phỏng vấn
sâu và quan sát tham dự, nghiên cứu sinh đã chuyển thể thành Nhật kí thực địa,
đó là những tư liệu định tính có giá trị được dùng để trích dẫn trong luận án.
Để không ảnh hưởng đến người cung cấp thông tin và đảm bảo đạo đức
nghiên cứu, tên của các công ty, cơ sở sản xuất và những người nghiên cứu sinh
phỏng vấn đã được thay đổi trong luận án.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Đây là luận án đầu tiên nghiên cứu có hệ thống về văn hóa ứng xử trong
nghề chế biến nông sản ở một làng ngoại thành Hà Nội; luận án đưa ra cái nhìn tổng
thể về cơ sở hình thành, những biểu hiện của văn hóa ứng xử giữa con người với
môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, với chính mình và chiến lược lựa chọn
phương thức ứng xử trong việc tạo lập, duy trì và phát triển các mối quan hệ với đối
tác của các chủ cơ sở sản xuất và kinh doanh ở địa bàn được nghiên cứu.

Kết quả nghiên cứu của luận án là cơ sở khoa học cho cấp chính quyền xã
Minh Khai nói riêng, các nhà quản lý văn hóa nói chung tham khảo trong việc
xây dựng các chuẩn mực, quy tắc ứng xử giữa con người với tự nhiên và con
người với xã hội, với chính mình trong giai đoạn hiện nay.
Luận án góp vào nghiên cứu về văn hóa ứng xử qua các hành vi cụ thể,

dưới góc nhìn tạo lập vốn xã hội và mạng lưới xã hội…


9

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận của luận án
Luận án góp phần nhận diện thực trạng văn hóa ứng xử, các nhân tố tác
động đến việc hình thành văn hóa ứng xử, vai trò và tác động của văn hóa ứng
xử trong hoạt động làm nghề chế biến nông sản trong bối cảnh nền kinh tế thị
trường, từ khía cạnh tâm lý, kinh tế đến mạng lưới quan hệ xã hội.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án
Luận án góp thêm luận cứ về tầm quan trọng của văn hóa ứng xử cho sự
phát triển của cá nhân và cộng đồng trong hoạt động làm nghề trong bối cảnh
nền kinh tế thị trường.
Kết quả của luận án góp phần gợi mở cho các nhà quản lý văn hóa đưa ra
giải pháp nhằm giáo dục lối sống cho thế hệ trẻ, xây dựng môi trường xã hội văn
minh, nhân văn, nhân ái giữa con người với con người.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội dung luận án
được kết cấu thành 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận
Chương 2: Làng Mậu Hòa và nghề chế biến nông sản
Chương 3: Biểu hiện văn hóa ứng xử trong nghề chế biến nông sản ở làng
Mậu Hòa
Chương 4: Những vấn đề đặt ra từ nghiên cứu văn hóa ứng xử của người
làm nghề chế biến nông sản ở Mậu Hòa.


10


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Các công trình viết về văn hóa ứng xử
1.1.1.1. Một số nghiên cứu của các học giả nước ngoài
Từ đầu thế kỷ XX, một số học giả trên thế giới đã xây dựng quan điểm về
hành vi ứng xử dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Năm 1921, J. Watson đề xuất
học thuyết hành vi ứng xử với quan niệm, hành vi của con người đều có mục
đích, phản ánh nội dung bên trong của tâm lý biểu hiện qua việc ứng xử với các
mối quan hệ đan chéo. Những năm 1960, A. Maslow đưa ra mô hình tháp nhu
cầu của con người. Theo đó, nhu cầu của con người được xếp thứ bậc từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp; để đáp ứng nhu cầu, chủ thể đưa ra hành vi, gồm
những hành vi không quan sát được (hành vi kín) và hành vi quan sát được
(hành vi mở), tồn tại song hành [111, tr. 38].
Sau này, Lake, Dale G trong Mesuring human behavior: Tools for the
assessment of social functioning [138] và tập thể các nhà nghiên cứu gồm Curtis
W. Cook, P. L. Hunsaker, R. E. Coffey với Management and organizational
behavior (1997) [137], cùng bàn về cách thức điều tra hành vi ứng xử, cách quản
lý mối quan hệ trong giao tiếp. Lake, Dale chỉ ra những biểu hiện cảm xúc của
con người trong xã hội, gồm sự hứng thú, lòng vị tha, niềm tin, quan niệm đạo
đức, quan hệ xã hội, các khía cạnh tâm lý, tình cảm gia đình, tính ích kỷ trong
mỗi cá nhân. Nhóm tác giả thứ hai tập trung phân tích cách thức xây dựng mối
quan hệ giữa các nhóm xã hội; đồng thời chỉ ra những khó khăn trong vấn đề
quản lí, giải quyết xung đột giữa các cá nhân trong công việc. Ấn phẩm của Ed.
K. G. Duffy xuất bản định kì 2001, 2002 với nhan đề Personal growth and
behavior [144] gồm các bài viết đề cập đến sự phát triển nhân cách, phong cách
ứng xử, tình cảm, lối sống, nhận thức bản thân, các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình
thành ứng xử như động cơ, môi trường, tâm lí.



11

Phân tích hành vi ứng xử trong hoạt động kinh doanh, William W. Finlay,
A. Q. Sartain, Willis M. Tate (1954) [157] nhấn mạnh đến các mối quan hệ con
người trong sản xuất công nghiệp, như quan hệ cá nhân và tổ chức, quan hệ giữa
người lao động với nhau, quan hệ của người quản lý với người làm thuê, được
trình bày cụ thể trong Human behavior in industry. Theo John C. Mowen trong
Consumer Behavior (1990) [142], ứng xử với khách hàng được nghiên cứu từ
những năm 1960, trong đó quá trình hình thành cách ứng xử, môi trường là
những yếu tố tác động đến niềm tin và thị hiếu của khách hàng. Với Michael R.
Solomon Consumer behavior: Buying, having, and being (2004) [148], biểu lộ
hành vi ứng xử của khách hàng phụ thuộc vào cá tính, vị trí làm việc, môi trường
văn hóa và niềm tin tôn giáo ở mỗi cá nhân.
1.1.1.2. Một số nghiên cứu của các tác giả Việt Nam
Ở Việt Nam, cụm từ “văn hóa ứng xử” từ lâu được sử dụng chủ yếu trong
ngôn ngữ hàng ngày, gần đây được đề cập đến trong nhiều công trình nghiên
cứu. Trần Ngọc Thêm phân tích hai thành tố trong văn hóa ứng xử của con
người là ứng xử với môi trường tự nhiên và ứng xử với môi trường xã hội, trong
mỗi chiều kích ấy, con người bộc lộ hai cách xử thế là tận dụng và ứng phó.
Nguyễn Viết Chức đưa ra quan niệm về văn hóa ứng xử bao gồm các cách
thức quan hệ, thái độ và hành động của con người đối với môi trường thiên
nhiên, đối với xã hội và đối với người khác [15, tr. 54]. Công trình Văn hóa Việt
Nam những hướng tiếp cận liên ngành của Trần Quốc Vượng đã đưa ra sáu
hướng tiếp cận văn hóa gồm địa - văn hóa, những vấn đề lý luận về văn hóa Việt
Nam (diễn trình văn hóa, văn hóa dân gian, nghệ thuật, ứng xử, danh nhân), văn
hóa ánh sáng, văn hóa ứng xử cổ truyền Bắc Bộ, văn hóa tố tụng hình sự, văn
hóa trong môi trường trò chơi trực tuyến [132].
Trần Thúy Anh trong tác phẩm Thế ứng xử xã hội cổ truyền của người
Việt châu thổ Bắc Bộ qua ca dao, tục ngữ đã chỉ ra những biểu hiện ứng xử của

người Việt với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội qua hệ thống ca dao,


12

tục ngữ. Từ đó, tác giả đưa ra mô hình truyền thống và mô hình mới về ứng xử
với tự nhiên và xã hội của người Việt [2]. Tác giả Lê Văn Quán trong Văn hóa
ứng xử truyền thống của người Việt khẳng định bốn truyền thống ứng xử; ba yếu
tố tạo nên thế ứng xử của người Việt; từ đó đưa ra các bình diện và phương châm
ứng xử của người Việt trong truyền thống [91].
Nguyễn Thanh Tuấn cho rằng, văn hóa ứng xử được biểu hiện qua hai
hình thức trực tiếp và gián tiếp. Ở hình thức trực tiếp, văn hóa ứng xử được bộc
lộ trong môi trường sống (môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, môi trường
tâm linh, môi trường nhóm xã hội, môi trường bản thể…), thể hiện qua các mối
quan hệ chồng chéo của con người. Hình thức gián tiếp được phản ánh trong các
công trình khoa học trên các lĩnh vực Triết học, Tâm lý học, Văn học, Xã hội
học, Văn hóa dân gian, Văn hóa nghệ thuật… Hình thức gián tiếp cung cấp
những luận điểm, kết luận, bài học kinh nghiệm, những tinh hoa và sự kế thừa có
chọn lọc tinh hoa ấy trong ứng xử của nhiều thế hệ, tạo thành truyền thống ứng
xử của người Việt [119, tr. 30].
1.1.2. Các công trình viết về văn hóa ứng xử của người Việt
1.1.2.1. Các công trình viết về văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
Đến nay đã có một số tác phẩm viết về ứng xử của con người với môi
trường tự nhiên. Trần Ngọc Thêm cho rằng, con người Việt Nam từ lâu đã biết
tận dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có để cấy trồng, chăn nuôi mang lại
nguồn lương thực, thực phẩm phục vụ sinh hoạt hàng ngày. Để ứng phó với thời
tiết khắc nghiệt, con người sớm biết lựa chọn trang phục, chất liệu may mặc để
tránh nóng, chống rét. Con người đã biết cách ứng phó với khoảng cách qua việc
sáng tạo ra các phương tiện phù hợp khi vận chuyển trên đường bộ, đường thủy.
Cách ứng phó của con người với từng địa hình sông nước, đồng bằng, miền núi

là việc thiết kế nhiều loại hình nhà ở như nhà sàn, nhà đất, nhà nửa sàn nửa đất
với lối kiến trúc linh hoạt vừa tiện lợi trong sinh hoạt vừa chống thú dữ hay đối
phó với các hiện tượng tự nhiên [109].


13

Nhóm tác giả Chu Khắc Thuật, Nguyễn Văn Thủ (chủ biên) đưa ra nhận định
về biểu hiện và đặc điểm của lối sống truyền thống của người Việt Nam trong mối
quan hệ với tự nhiên là sự hòa đồng với thiên nhiên, nương theo thiên nhiên để ngăn
ngừa, hạn chế sự phá hoại có ý thức của một số người với tự nhiên, nhiều địa
phương đã ghi rõ hình thức xử phạt trong hương ước đối với người vi phạm [117].

Có cùng cách tiếp cận của Trần Ngọc Thêm, tác giả Nguyễn Viết Chức
trong công trình Văn hóa ứng xử của người Hà Nội với môi trường thiên nhiên
đã khẳng định, thái độ sống hòa hợp, nương nhờ và thuận theo thiên nhiên là đặc
trưng cơ bản trong lối ứng xử của những cư dân nông nghiệp trồng lúa nước ở
các nước phương Đông, trong đó có Việt Nam [15, tr. 76]. Tác giả kết luận, môi
trường thiên nhiên là cái gốc quy định lối sống và văn hóa ứng xử của con người
không chỉ đối với tự nhiên mà cả đối với xã hội [15, tr. 54].
Dựa vào nguồn ca dao, tục ngữ, Trần Thúy Anh chỉ ra thế ứng xử truyền
thống của người Việt ở Bắc Bộ với tự nhiên là vừa khai thác nguồn lợi vừa ứng
phó với tác hại của môi trường tự nhiên, nhằm đảm bảo cho nhu cầu sống và làm
việc của con người [2].
Trong công trình Con người, môi trường và văn hóa, Nguyễn Xuân Kính
đã chỉ ra cách ứng xử trân trọng, “thiêng hóa” của người Việt đối với nước; con
người nhận thức rõ vai trò, tác động tích cực và tiêu cực của nước trong cuộc
sống cũng như trong lao động sản xuất từ đó đưa ra những quy tắc bảo vệ nguồn
nước sinh hoạt [63].
1.1.2.2. Ứng xử với môi trường xã hội

Ứng xử trong gia đình, dòng họ
Viết về ứng xử trong quan hệ huyết thống ở cấp độ gia đình, các tác giả
Nguyễn Văn Lê [64], Lê Thị Thanh Hương [58], Vũ Thị Phương [88] cùng quan
niệm rằng, lối ứng xử giữa vợ - chồng, cha mẹ - con cái, ông bà với con cháu của
người Việt chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo. Người chồng, người cha,
người ông đóng vai trò trụ cột về kinh tế nên họ có quyền quyết định các công


14

việc quan trọng trong gia đình, luôn được xã hội đánh giá cao về vai trò và nắm
các vị trí then chốt trong các cơ quan. Tác giả Lê Thị Thanh Hương trong công
trình Ứng xử của người dân vùng đồng bằng Sông Hồng trong gia đình cho rằng,
người phụ nữ biết ứng xử là người biết chấp nhận, chịu thiệt thòi trong gia đình.
Tuy nhiên, vợ chồng người Việt vốn sống vì cái nghĩa, vì gia đình, dòng họ của
nhau. Trên thực tế, người phụ nữ Việt Nam có một vị trí cao hơn người phụ nữ
Trung Hoa, được chồng yêu mến, trân trọng, được con cái yêu quý, kính nể,
chiếm một chỗ đứng nhất định trong gia đình [58, tr. 83]. Tác giả cũng chỉ ra
rằng, trong gia đình bố mẹ không chỉ tạo dựng cho con cái cơ sở vật chất sau
này, mà còn phải sống tốt để làm gương cho con, đạo đức là “cái gốc tạo phúc
ấm cho con cháu”. Con cái phải có hiếu với bố mẹ, không chỉ là chăm sóc,
phụng dưỡng bố mẹ, mà còn phải làm rạng danh cho bố mẹ, dòng họ.
Về ứng xử dòng họ, nhà Dân tộc học Trần Từ nhấn mạnh, dòng họ của
người Việt là một hình thức mở rộng của gia đình, có chức năng tạo ra niềm
cộng cảm dựa trên huyết thống, là chỗ dựa tinh thần cho các gia đình nhỏ khi các
gia đình đương đầu với nhiều mâu thuẫn ở làng xã [123]. Mai Văn Hai và Phan
Đại Doãn cũng cho rằng, trong quá trình mưu sinh, việc liên kết dòng họ đóng
vai trò quan trọng như giúp đỡ nhau để sử dụng đất đai canh tác, sở hữu tư liệu
sản xuất và thực hiện những công đoạn sản xuất. Sự liên kết, hợp tác biểu hiện
nổi bật là quan hệ cha con, anh em ruột - những người có quan hệ huyết thống

gần gũi nhất, trên hai phương diện là kinh tế và thờ cúng [40]. Phan Thị Mai
Hương dẫn chứng cụ thể về văn hóa ứng xử trong dòng họ, khi gia đình nào đó
có việc buồn hay gặp khó khăn, được họ hàng đến thăm hỏi, động viên, chia sẻ
và giúp đỡ về vật chất và sức lao động [57, tr. 176]. Về vai trò của dòng họ, Đỗ
Long cho rằng: “Tình cảm dòng họ, huyết thống, một mặt đã tạo nên sự cố kết
trong họ, tinh thần tương thân tương ái giữa các thành viên của nó. Mỗi cá nhân
hay gia đình khi gặp khó khăn, hoạn nạn hoặc lúc có công việc lớn thì cả dòng
họ đều hợp sức lại để giúp đỡ” [68, tr. 57]. Đây chính là hình thức giao tiếp đặc


15

biệt, là biểu hiện rõ nhất về văn hóa ứng xử giữa những người ruột thịt, họ hàng
nhằm củng cố và thắt chặt hơn mối quan hệ huyết thống.
Ứng xử trong làng xã
Mối quan hệ và lối ứng xử với người không có quan hệ huyết thống trong
làng được coi là điểm nổi bật trong văn hóa của người Việt, từ lâu được nhiều
nhà nghiên cứu quan tâm. Luận điểm chung của các công trình nghiên cứu là,
mọi hành vi ứng xử của con người đều chịu sự ràng buộc của lệ làng. Hương ước
là văn bản chứa đựng những quy ước có tính bắt buộc mỗi người phải tuân theo.
Các quy ước này thể hiện trong tất cả các mặt của cuộc sống từ sản xuất, sinh
hoạt hội hè đến các quan hệ ứng xử liên nhân cách trong cộng đồng… Trong số
các chuẩn mực của hoạt động sống, chuẩn mực đạo đức được đưa lên hàng đầu.
Những kiến giải sâu sắc về ứng xử của người nông dân trong cộng đồng làng
phải kể đến các tác phẩm Những bi u hiện chủ yếu của tâm l làng x và những biến
đổi của nó hiện nay của Trần Văn Hiệp [46], Tác động của tâm lý làng xã trong việc
xây dựng đời sống kinh tế - xã hội ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ nước ta hiện nay
của Lê Hữu Xanh [133], u hướng biến đổi tâm l cộng đồng làng ở Việt Nam trong
giai đo n đổi mới của Lê Văn Định [23], Một số vấn đề tâm lý của người công nhân
trong các lo i hình doanh nghiệp của Phan Thị Mai Hương [57]. Các tác giả phân

tích từ nguồn gốc, cơ sở hình thành, những đặc điểm của tâm lý cộng đồng làng và
những biến đổi của nó trong giai đoạn hiện nay; từ đó, cùng chung nhận định, ứng
xử có văn hóa phản ánh trình độ dân trí của một người, một tổ chức xã hội nhất
định. Trong làng xã Bắc Bộ truyền thống, yếu tố tình cảm trong ứng xử được thể
hiện ở việc giải quyết các mối quan hệ láng giềng “Bán anh em xa mua láng giềng
gần”, hàng xóm “Tối lửa tắt đèn có nhau”, “Một bồ cái lý không bằng một tý cái
tình”… Đó là văn hóa ứng xử có từ ngàn xưa của người làng quê châu thổ Bắc Bộ
vẫn được duy trì hiện nay. Song, trong bối cảnh nền kinh tế thị trường cạnh tranh
quyết liệt, bên cạnh ứng xử với nhau bằng tình cảm thuần túy, người nông dân đã có
những “tính toán” nhất định trong


16

các mối quan hệ xã hội với các quan niệm về tính “sòng phẳng”, rạch ròi, “chọn
b n mà chơi”. Các chuẩn mực đạo đức nhiều khi không còn giữ vị trí hàng đầu
trong việc điều chỉnh và hướng dẫn hành vi của người nông dân như trước. Chẳng
hạn, khi nhận xét, đánh giá con người, người nông dân đã coi trọng và đề cao các
tiêu chuẩn như biết làm giàu, năng động trong sản xuất, kinh doanh… Sự giúp đỡ

lẫn nhau không chỉ thể hiện trong sinh hoạt thường ngày, mà còn biết liên doanh,
liên kết trong lao động, sản xuất. Phan Thị Mai Hương cũng chỉ rõ, tính chất,
mức độ giao tiếp, cách thức ứng xử của cá nhân trong các nhóm xã hội biểu hiện
tính chất mối quan hệ, mức độ gắn kết giữa các thành viên của nhóm đó. Các
hình thức giao tiếp làng xã vẫn được gìn giữ như sang chơi nhà hàng xóm, trợ
giúp khi gia đình khác gặp khó khăn, trợ giúp hàng ngày (mượn các đồ dùng sinh
hoạt)… Chính vì sự hiểu biết lẫn nhau trong làng xã nên hành vi của mỗi người
được đặt trong sự kiểm soát của dân làng. Nói cách khác, dư luận làng xã vẫn có
vai trò to lớn trong việc điều chỉnh hành vi của mỗi người, tạo nên sự gắn kết,
ràng buộc nhất định giữa những người cùng làng.

Các công trình nêu trên đã đi sâu phân tích vai trò của dòng họ trong sinh
hoạt và sản xuất đối với các tiểu gia đình và văn hóa ứng xử được biểu hiện bên
ngoài của cộng đồng cư dân trong làng xã. Tuy nhiên, chưa có tác phẩm nào đi
sâu phân tích vai trò của dòng họ và làng xã đã giúp đỡ người làm nghề trong
việc huy động vốn, tổ chức sản xuất, tìm nguồn thợ, tìm kiếm thị trường tiêu
thụ… Đây là những gợi ý để chúng tôi trình bày trong luận án.
1.1.2.3. Văn hóa ứng xử trong ho t động làm nghề
Hoạt động mưu sinh thể hiện trong các ngành sản xuất: nông nghiệp, ngư
nghiệp, thủ công nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp - dịch vụ…. Đến nay, đã
có một số công trình bàn về văn hóa ứng xử trong hoạt động sản xuất và kinh
doanh tại các doanh nghiệp nói chung cũng như ở làng nghề chế biến nông sản
nói riêng. Một số nghiên cứu tập trung bàn về mối quan hệ của chủ doanh nghiệp
như giữa chủ với thợ và ngược lại, giữa các chủ cơ sở sản xuất, chủ doanh
nghiệp với khách hàng và giữa những người thợ.


17

Ứng xử giữa chủ với thợ
Công trình Giao tiếp và ứng xử với tư cách là thành tố văn hóa trong ho t
động doanh nghiệp thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đ i hóa đất nước của Nguyễn
Văn Bính khẳng định, văn hóa ứng xử giữa thợ với chủ được thể hiện ở sự trung
thành, công nhân chính là người chăm lo về chất lượng sản phẩm, giữ uy tín với
khách hàng trước sau như một. Họ không tiết lộ ra ngoài những gì thuộc về nội
bộ doanh nghiệp, giữ kín những bí quyết của doanh nghiệp. Ứng xử của người
thợ còn thể hiện ở chữ “ân”, bởi doanh nghiệp là cuộc sống của bản thân họ và
của cả gia đình họ. Một doanh nghiệp muốn phát triển, người lao động phải có
tinh thần trách nhiệm cao, gắn bó với doanh nghiệp, chấp hành điều lệ, nội quy
của doanh nghiệp một cách tự giác, tạo cho mình một tinh thần làm việc hăng
say, tìm ra sáng kiến, làm việc có năng suất chất lượng cao, mang lại nhiều lợi

ích cho doanh nghiệp, cũng là cho mình [9].
Lê Thị Tuyết trong luận án tiến sĩ Sự biến đổi của lối sống làng xã vùng
châu thổ Bắc Bộ (Qua nghiên cứu trường hợp làng Cự Đà, x Cự Khê, huyện
Thanh Oai, Hà Nội) lại cho thấy quan hệ chủ - thợ là tính chất “nước đôi”, vừa
“duy lý” vừa “duy tình” khá rõ nét. Ở các cơ sở làm miến, hầu hết thợ chính là
người có tay nghề, được trả mức lương cao, bất kể người đó ở đâu, thuộc dòng
họ nào; còn thợ phụ, phần lớn là con cháu trong họ hàng, song không được đào
tạo bài bản, chỉ thành nghề sau khi được hướng dẫn theo kiểu truyền tay [122].
Văn hóa ứng xử giữa chủ với thợ cũng được Nguyễn Đình Phúc chỉ ra trong
luận án Làng nghề cơ khí, mộc dân dụng Đ i Tự (xã Kim Chung, huyện Hoài Đức,
thành phố Hà Nội). Đó là, chủ cơ sở sản xuất tạo đủ công ăn việc làm, tạo các điều
kiện thuận lợi để thợ làm việc, trả lương thợ theo năng lực làm việc; dịp Tết Nguyên
đán chủ tặng quà bằng tiền mặt, hoặc rượu bia, bánh kẹo; công nhân được nghỉ chế
độ vẫn hưởng lương; một số doanh nghiệp có tổ chức liên hoan cho thợ; đầu năm,
một số công ty đưa ra tiêu chí khen thưởng để công nhân ganh đua nhau làm việc…
Nhìn chung quan hệ chủ - thợ luôn thể hiện sự thân


18

thiện, hòa đồng, cộng sinh để tồn tại. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, uy tín của chủ
cơ sở sản xuất, nhất là các chủ doanh nghiệp được tạo dựng bởi cả năng lực làm
việc và đạo đức, lối sống; muốn có được điều đó, chủ phải luôn quan tâm đến
đời sống người thợ, gần gũi thợ, nhằm giảm thiểu mâu thuẫn giữa hai bên [85].
Nói về ứng xử của người thợ trong nghề làm miến ở làng Cự Đà, Lê Thị
Tuyết khẳng định, những người thợ ở tuổi trung niên luôn ý thức được việc tạo
dựng quan hệ tốt với chủ cơ sở sản xuất, sống đúng mực để được người trong làng
yêu quý. Họ được chủ cơ sở sắp xếp những việc đơn giản như phơi bột dong, bó
miến, đóng gói thành phẩm ngay tại làng…, bởi họ không còn cơ hội tìm việc làm


ở các doanh nghiệp, xí nghiệp do tuổi tác hoặc do trình độ chuyên môn. Nguyễn
Đình Phúc cũng cho biết, ở làng cơ khí và mộc dân dụng Đại Tự, công nhân có
thể là người làng hoặc làng lân cận hay ở tỉnh xa, song luôn đoàn kết, giúp đỡ
nhau. Với những công nhân ở xa phải ở trọ, nếu xưởng nhỏ thì công nhân tự lo
chỗ ở, với công ty (chủ cơ sở) có điều kiện, cho công nhân nghỉ lại nhà chủ mà
không phải trả tiền, thợ và chủ cùng sinh hoạt như người một nhà [85, tr. 140].
Ứng xử giữa các chủ doanh nghiệp
Kinh tế thị trường tạo ra sự cạnh tranh quyết liệt giữa các chủ cơ sở sản
xuất, nên họ phải có chiến lược ứng xử với các đồng nghiệp, nhưng lại là đối thủ
cạnh tranh để tồn tại và vượt lên đối thủ. Điều này đã được các nghiên cứu chỉ
ra. Các ông chủ luôn tìm cách nắm bắt được yếu tố cơ bản, điểm mạnh, điểm yếu
của các đối thủ để doanh nghiệp lựa chọn được đối sách đúng trong quá trình
làm ăn. Nguyễn Đình Phúc [85, tr. 140] và Bùi Thị Dung [20] có cùng quan điểm
khi cho rằng, các chủ doanh nghiệp luôn thỏa thuận “ngầm” với nhau, không
“can thiệp” vào quá trình sản xuất, nơi tiêu thụ sản phẩm của người khác. Chẳng
hạn, thời gian đầu khi chưa có hội doanh nghiệp làng nghề, các công ty, xưởng
sản xuất ở làng cùng phối hợp với nhau trong sản xuất, đồng thuận kiến nghị lên
các cấp chính quyền trong việc sớm giải quyết mặt bằng sản xuất, quy hoạch khu
làng nghề, hỗ trợ tổ chức đào tạo, bồi duỡng đội ngũ chủ doanh


19

nghiệp, cán bộ quản lý để doanh nghiệp sớm đi vào sản xuất thuận lợi. Nhiều
chủ doanh nghiệp đã cùng nhau bàn bạc về phương hướng và cách thức làm ăn,
cùng xây dựng thương hiệu sản phẩm, trao đổi với nhau về tổ chức nhân sự,
quản lý, điều hành doanh nghiệp hướng đến tính chuyên nghiệp, hiệu quả…
Ứng xử của người làm nghề với khách hàng
Với khách hàng, chủ cơ sở sản xuất luôn nắm vững nguyên tắc “vàng”
trong kinh doanh đó là, tôn trọng khách, nắm được nhu cầu tiêu dùng, nắm được

thói quen tâm lý của khách, bởi nhu cầu của khách hàng quyết định quy mô và
cơ cấu nhu cầu thị trường của cơ sở sản xuất. Đây cũng là yếu tố quan trọng
hàng đầu khi tiến hành hoạt động sản xuất. Sự tín nhiệm của khách hàng đối với
sản phẩm được xem như một tài sản có giá trị nhất của cơ sở sản xuất. Khi xây
dựng được lòng tin với khách hàng, việc kinh doanh sẽ diễn ra suôn sẻ, ổn định,
giảm được các chi phí trong giao dịch. Tuy nhiên, việc xây dựng lòng tin trong
kinh doanh phải xuất phát từ lối ứng xử văn hóa, thể hiện ở việc nỗ lực hướng tới
Chân, Thiện, Mỹ trong giao dịch và sản xuất kinh doanh; cụ thể là cố gắng đem
cái tốt nhất của mình để phục vụ khách hàng; lấy điều mình mong muốn mà cư
xử với khách hàng để đạt được mục tiêu trong kinh doanh. Bùi Tiến Quý trong
Giao tiếp - ứng xử trong ho t động kinh doanh [97] cũng phân tích những biểu
hiện của văn hóa ứng xử trong kinh doanh qua việc các công ty luôn giữ liên lạc
thường xuyên với khách hàng, cho dù khách hàng chỉ mua sản phẩm của công ty
một lần. Sự quan tâm ấy thể hiện qua việc gửi bưu thiếp thăm hỏi vào các ngày
lễ, gửi định kỳ cho khách các catalog về các sản phẩm mới với lời hướng dẫn
ngắn gọn, súc tích, khách hàng thường xuyên còn nhận được lời chúc, quà vào
dịp sinh nhật. Tất cả những việc trên thực chất để khách hàng cảm thấy cơ sở sản
xuất như người bạn thân thiện, không chỉ kiếm lợi từ người mua mà còn là nơi
cung cấp những sản phẩm có độ tin cậy cao [97, tr. 37]. Trong phần viết về nghề
làm miến ở làng Cự Đà, Bùi Xuân Đính đã chỉ rõ mấu chốt của văn hóa ứng xử
giữa người làm nghề với khác hàng đó chính


20

là lòng tin. Cộng tác với nhau nhiều năm, nhiều trường hợp người bán và người
mua không biết mặt nhau, chỉ liên lạc với nhau thông qua việc gửi hàng (bằng
các phương tiện giao thông) và qua điện thoại, nhưng chất lượng hàng luôn được
đảm bảo, chưa bao giờ xảy ra sự cố mất hàng hoặc khách hàng “chạy làng”.
Thông thường, hàng chuyển đến tận nơi thì khách mới trả tiền. Nhiều chuyến

hàng gửi cho khách có giá trị vài chục triệu đồng nhưng người Cự Đà vẫn yên
tâm. Tác giả cũng khẳng định về quan hệ chủ hộ sản xuất với các đại lý khá bền
chặt, việc mua bán được duy trì lâu bền, hai bên đi lại với nhau như người nhà.
Khi một trong hai bên bị ốm đau, hoạn nạn, hoặc có việc vui mừng, đều được
bên kia đến hỏi thăm hoặc chia vui. Dịp Tết, các chủ lò miến đều có gói quà
mang đến những người “đi miến”, các đại lý lâu năm đã tiêu thụ sản phẩm cho
mình. Ngược lại, các đại lý và người đi miến cũng không quên mang gói quà đến
cảm ơn chủ lò đã tạo công ăn việc làm [27, tr. 245].
Ứng xử giữa những người thợ
Điểm nổi bật trong văn hóa ứng xử giữa những người thợ trong cơ sở sản
xuất, doanh nghiệp được các tác giả chỉ ra là sự đoàn kết, giúp đỡ, bảo vệ nhau
trong công việc, để làm việc với năng suất cao, bảo đảm định mức lao động để
có thu nhập cho mình. Giao tiếp, ứng xử giữa các thành viên trong cơ sở sản xuất
thường diễn ra trong các nhóm, tạo nên “dư luận tập thể”. Dư luận tập thể có sức
mạnh to lớn trong việc điều chỉnh hành vi chung của các thành viên, lên án các
hành vi sai trái, gây hại cho tập thể, là công cụ tác động đến tâm lý trong nhiều
tình huống. Truyền thống “tình làng nghĩa xóm”, “lá lành đùm lá rách” từ xưa
vẫn được duy trì trong cơ sở sản xuất.
Ứng xử với thợ là người trong làng và khác làng
Đề cập đến ứng xử trong mối quan hệ giữa người làng với nhau, giữa
người trong làng và người nơi khác ở làng nghề chế biến nông sản trong luận văn
của mình, Nguyễn Thị Hải khái quát, nếu như mối quan hệ trong sản xuất giữa
các gia đình trong dòng họ dựa trên sợi dây liên hệ huyết thống “lọt sàng


21

xuống nia” thì quan hệ làm ăn giữa người trong làng là tình cảm bà con hàng
xóm “tối lửa tắt đèn có nhau” [42, tr. 56]. Với người trong làng, chủ và thợ nắm
rõ được tiềm lực kinh tế, tính cách của nhau. Sự rõ ràng, minh bạch, sòng phẳng

trong kinh tế và phẩm chất thật thà, chất phác của con người là yếu tố tạo nên độ
tin tưởng, gắn kết giữa con người với nhau trong việc phát triển kinh tế. Khi xảy
ra mâu thuẫn hay không hài lòng với chủ, người thợ trong làng không cố bám trụ
mà tự nghỉ việc; còn thợ là người nơi khác vẫn làm việc, trừ khi mâu thuẫn
không thể điều hòa.
1.1.2.4. Chiến lược trong ứng xử của người làm nghề
Chiến lược trong ứng xử là các biện pháp, cách thức ứng phó, xử lý các
mối quan hệ, các tình huống trước mắt và lâu dài để đạt mục tiêu cụ thể, làm cho
việc sản xuất, kinh doanh từng bước đạt hiệu quả cao. Chiến lược tạo dựng, duy
trì, phát triển các mối quan hệ, thiết lập mạng lưới quan hệ xã hội rộng lớn để
thuận lợi trong quá trình làm ăn cũng là những nội dung được bàn bạc trong
nghiên cứu của Lê Thị Tuyết. Tác giả cho biết, người làng Cự Đà sau khi nhận
được tiền đền bù đất nông nghiệp, bắt đầu quan tâm đến thiết lập mối quan hệ
(qua việc tham gia nhóm Phật tử tại chùa) để đẩy mạnh công việc làm ăn. Tuy
nhiên việc này chỉ xuất hiện ở một số người có óc nhanh nhạy, có năng lực, đủ
điều kiện để tham gia vào thị trường cạnh tranh, còn hầu hết người nông dân lâm
vào tình trạng lao đao sau khi mất đất, số tiền đền bù đất đai đã không giữ được.
Bàn luận về tính chiến lược trong việc tạo dựng mối quan hệ để thu lợi
trong kinh doanh, buôn bán của người Ninh Hiệp, trong công trình Quan hệ xã
hội trong bối cảnh phi nông nghiệp hóa: nghiên cứu trường hợp làng Ninh Hiệp,
Gia Lâm, Hà Nội, Nguyễn Giáo đưa ra nhiều dẫn chứng cho thấy, các chủ cơ sở
buôn bán luôn tìm mọi cách để gia nhập vào hội, nhóm, câu lạc bộ (thể thao,
khiêu vũ) của những người giàu có, tiềm lực kinh tế mạnh. Bởi họ hiểu rằng, đã
trở thành “bạn chơi”, cùng trong nhóm đó, họ sẽ được giúp đỡ bằng nhiều hình
thức khi việc kinh doanh gặp bất trắc.


22

Những công trình kể trên đã trực tiếp bàn về văn hóa ứng xử của người sản

xuất, kinh doanh, nhất là những người làm miến - một bộ phận nghề chế biến nông
sản. Những tư liệu này giúp nghiên cứu sinh bước đầu hình dung được bức tranh
văn hóa ứng xử thể hiện qua các mối quan hệ trong quá trình làm nghề. Tuy nhiên,
các công trình trên chỉ dừng lại ở việc đưa ra các luận điểm và những mô tả ban đầu
về cách thức ứng xử của các chủ cơ sở sản xuất, chưa lý giải bản chất của vấn đề,
như tại sao người làm nghề lại lựa chọn cách ứng xử như vậy, tính chiến lược cụ thể
trong việc tạo dựng, duy trì, phát triển các mối quan hệ trong quá trình làm kinh tế,
những yếu tố ảnh hưởng đến cách ứng xử của người làm nghề… Trong khuôn khổ
luận án, tác giả vận dụng những kết quả của các nghiên cứu đi trước, đối sánh để
làm rõ bức tranh văn hóa ứng xử của người làm nghề chế biến nông sản ở làng Mậu
Hòa trong giai đoạn hiện nay như là một bài học về sự thành công của các cơ sở sản
xuất trước bối cảnh nền kinh tế thị trường.

1.1.3. Các công trình viết về làng Mậu Hòa
Đến nay, đã có một số nghiên cứu về làng Mậu Hòa, chủ yếu dưới góc độ
Sử học, Dân tộc học, Văn học. Trên T p chí Dân tộc học số 2, năm 1992, Bùi
Xuân Đính đã đưa ra số liệu thống kê, những nhận xét sơ bộ tình hình ruộng đất
công (đất công châu thổ, đất bãi bồi), tình hình sở hữu ruộng đất tư, các mức độ
sở hữu của cư dân làng Mậu Hòa trước Cách mạng Tháng Tám 1945 [25]. Cũng
năm này, tác giả còn có bài về đền Mậu Hòa (di tích và di vật, tại Hội nghị
Những phát hiện mới về Khảo cổ học).
Hoàng Hồng Cẩm có bài viết đăng trong Thông báo Hán Nôm năm 1998
về thơ văn của Tiến sĩ Nguyễn Ích Tốn (1455-1512), người làng Mậu Hòa, là
thành viên Hội Tao đàn.
Viết về nghề chế biến nông sản ở Minh Khai, cuốn Làng nghề Hà Tây,
của Sở Công nghiệp Hà Tây năm 2001 cho biết, tổng số hộ, số lao động, tổng giá
trị sản xuất, thu nhập bình quân hàng năm của người làm nghề chế biến nông sản
ở xã Minh Khai [100, tr. 40].



×