Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

Tìm hiểu phân tích và định giá cổ phiếu các công ty chứng khoán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (510.64 KB, 86 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phân tích và định giá cổ phiếu đóng một vai trò hết sức quan trọng nói
riêng và thị trường tài chính Việt Nam nói chung. Phân tích và định giá cổ
phiếu có ý nghĩa to lớn đối với phần lớn các chủ thể tham gia và thị trường
tài chính Việt Nam. Đó chính là các doanh nghiệp, nhà đầu tư và các ngân
hàng. Doanh nghiệp sử dụng phân tích và định giá cổ phiếu để đưa ra các
quyết định về huy động và sử dụng vốn; nhà đầu tư sử dụng phân tích và định
giá cổ phiếu cho mục đích đầu tư; còn các ngân hàng sử dụng phân tích và
định giá cổ phiếu trong các quyết định cho vay. Phân tích và định giá cổ
phiếu đóng vai trò quan trọng là thế, nhưng hiện nay , phân tích và định giá
cổ phiếu vẫn chưa được sử dụng rộng rãi do gặp nhiều khó khăn, trở ngại
trong quá trình phân tích và định giá. Đó là những khó khăn trong việc lựa
chọn mô hình định giá, trong ước lượng tham số cho việc định giá hay các
khó khăn khác phát sinh từ Chính phủ, các cơ quan quản lý nhà nước, các
công ty chứng khoán và các nhà đầu tư.
Trong các doanh nghiệp cần được định giá thì định giá các doanh
nghiệp tăng trưởng có một tầm quan trọng hơn cả. Bản thân ban lãnh đạo của
các doanh nghiệp này thường xuyên phải định giá lại cổ phiếu của doanh
nghiệp để đưa ra những quyết định huy động vốn, sử dụng vốn hiệu quả
nhằm duy trì tốc độ tăng trưởng đề ra, các ngân hàng cũng thường dễ dàng
cho vay hơn với các doanh nghiệp tăng trưởng và nhà đầu tư cũng ưa thích
đầu tư vào các doanh nghiệp tăng trưởng, vì vậy công tác phân tích và định
giá cổ phiếu của doanh nghiệp tăng trưởng diễn ra thường xuyên hơn.

7


2010

Vì vậy, em đã chọn đề tài " " làm đề tài nghiên cứu cho khóa luận của


mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của khoá luận là nhằm tổng hợp các mô hình
định giá cổ phiếu tăng trưởng, để từ đó lựa chọn mô hình phù hợp nhất với
từng loại hình công ty tăng trưởng. Đồng thời nêu lên những khó khăn trong
phân tích và định giá cổ phiếu tăng trưởng để từ đó đưa ra những giải pháp,
kiến nghị giúp cho việc phân tích, định giá chính xác và thuận lợi hơn; giúp
cho các doanh nghiệp, nhà đầu tư cũng như các ngân hàng có những quyết
định đúng đắn nhất cho mục đích sử dụng vốn và huy động vốn, đầu tư hay
cho vay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng của khoán luận là các cổ phiếu niêm yết .
Phạm vi nghiên cứu của khoá luận xin phép tập trung vào giai đoạn từ
năm 2006 đến năm 2009 để từ đó định giá cổ phiếu tăng trưởng vào thời
điểm tháng 4/2010; và khóa luận cũng xin phép được tập trung vào cổ phiếu
của doanh nghiệp tăng trưởng nhanh - một trong sáu loại doanh nghiệp tăng
trưởng: doanh nghiệp tăng trưởng chậm, doanh nghiệp vững mạnh, doanh
nghiệp tăng trưởng nhanh, doanh nghiệp phát triển theo chu kỳ, doanh nghiệp
đang trên đường đi xuống và doanh nghiệp có tài sản ngầm.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khoá luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu như mô tả, phân tích,
thống kê, tổng hợp và đưa ra các ví dụ thực tế, từ đó làm sáng tỏ nội dung cần
nghiên cứu.

8


2010

5. Bố cục của đề tài

Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của khóa luận được bố cục
trên ba chương:
Chương I: Khái quát chung về phân tích và định giá cổ phiếu tăng trưởng
Chương II: Phân tích và định giá cổ phiếu tăng trưởng niêm yết
Chương III: Kiến nghị một số giải pháp để nâng cao khả năng phân tích và
định giá cổ phiếu tăng trưởng


CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÂN TÍCH VÀ ĐỊNH
GIÁ CỔ PHIẾU TĂNG TRƯỞNG
I. KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY TĂNG TRƯỞNG
1.

Phân loại các công ty trên thị trường chứng khoán theo tốc độ tăng

trưởng
Trong hoạt động phân tích và định giá cổ phiếu, có rất nhiều cách phân
loại khác nhau, mỗi nhà phân tích và định giá cổ phiếu lại có một cách phân
loại cho riêng mình. Đối với các nhà phân tích và định giá cổ phiếu tăng
trưởng thì việc phân loại doanh nghiệp chủ yếu dựa vào tốc độ tăng trưởng
của các doanh nghiệp. Theo cách thức phân loại này, ta có thể phân loại các
doanh nghiệp thành các nhóm sau:
1.1. Những doanh nghiệp tăng trưởng chậm
Thông thường thì người ta nghĩ rằng những công ty lớn, nổi tiếng và
chiếm nhiều thị phần sẽ tăng trưởng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng của tổng
sản phẩm quốc dân. Nhưng thực tế thì không phải như vậy. Những công ty
này ban đầu tăng trưởng rất nhanh nhưng sau một thời gian chúng sẽ tăng
trưởng chậm lại và trở nên trì trệ hơn bởi một trong hai lý do: hoặc là chúng
đã phát triển đến mức giới hạn, hoặc là chúng không còn năng động để nắm
lấy các cơ hội. Bộ máy của các công ty này thường quá cồng kềnh và vận

hành không hiệu quả, ban quản lý thiếu sự năng động, kém thích nghi với sự
thay đổi của môi trường kinh doanh. Những công ty này thường hoạt động
trong những ngành không tăng trưởng hoặc tăng trưởng chậm. Hoặc là hoạt
động trong ngành có tốc độ tăng trưởng khá nhưng lại đang xuất hiện nhiều
công ty cạnh tranh xuất hiện trên thị trường với

10


2010

những thế mạnh riêng và sự năng động đang dần chiếm lĩnh thị phần của các
công ty đi trước.
1.2. Những doanh nghiệp vững mạnh
Đây là những doanh nghiệp có quy mô lớn, có thương hiệu nổi tiếng
và đang đạt được tốc độ tăng trưởng khá nhờ ban quản trị năng động, hoạt
động kinh doanh hiệu quả. Mặc dù những doanh nghiệp này không phải là
những công ty có tốc độ tăng trưởng cao nhưng họ tăng trưởng nhanh hơn
những doanh nghiệp tăng trưởng chậm.
Thông thường trong danh mục đầu tư của các nhà đầu tư lớn thường có
cổ phiếu của các doanh nghiệp này nhờ tính thanh khoản cao và nó là công
cụ bảo vệ tốt nhất trong những thời điểm khủng hoảng ngắn hạn hoặc khó
khăn. Phần lớn những doanh nghiệp này hoạt động trong lĩnh vực hàng tiêu
dùng hoặc những sản phẩm thiết yếu. Nhu cầu về những sản phẩm này không
suy giảm hoặc là giảm rất ít trong thời kỳ nền kinh tế gặp khó khăn. Tuy
nhiên khi nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao thì những lĩnh vực này cũng
chỉ tăng trưởng với tốc độ ở mức trung bình.
1.3. Những doanh nghiệp tăng trưởng nhanh
Đây thường là những doanh nghiệp mới, quy mô nhỏ và rất năng động,
thường đạt được tốc độ tăng trưởng cao, tùy tình hình kinh tế mà dao động

trong khoảng từ 25 đến 50% một năm; trong điều kiện kinh tế suy thoái thì tỷ
lệ nỳ từ 15 đến 30%. Nếu nhà đầu tư có sự lựa chọn sáng suốt thì đây là
những doanh nghiệp có tiềm năng tăng giá cổ phiếu rất lớn.
Một doanh nghiệp tăng trưởng nhanh mặc dù phần lớn là hoạt động
trong những lĩnh vực có tốc độ tăng trưởng cao, nhưng cũng có nhiều doanh
nghiệp không nằm trong một lĩnh vực có tốc độ tăng trưởng cao mà vẫn đạt
được tốc độ tăng trưởng nhanh. Có thể các doanh nghiệp này chỉ

11


2010

cần một phân khúc thị trường nhỏ trong các ngành công nghiệp chậm phát
triển là cũng có thể đạt được tốc độ tăng trưởng cao. Họ là những doanh
nghiệp rất năng động và hiệu quả, có lợi thế cạnh tranh cao nên lôi kéo thành
công khách hàng của các doanh nghiệp khác.
Tuy nhiên cũng tồn tại một số rủi ro đối với các doanh nghiệp phát
triển quá nóng này, nhất là khi những doanh nghiệp non trẻ, đầu tư quá mức
trong khi không đủ tiềm lực tài chính. Hơn nữa các nhà đầu tư chuyên nghiệp
thường không thích những công ty phát triển nhanh nhưng không còn đủ sức
để duy trì tốc độ tăng trưởng cao và có nguy cơ tăng trưởng chậm. Khi điều
này xảy ra thì giá cổ phiếu của doanh nghiệp đó sẽ giảm rất nhanh.

1.4. Những doanh nghiệp phát triển theo chu kỳ
Doanh nghiệp phát triển theo chu kỳ là những doanh nghiệp mà việc
tăng hay giảm trong doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp tuân theo
những quy luật ổn định, các nhà đầu tư chuyên nghiệp có thể dự báo được
điều này. Trong một ngành tăng trưởng thì hoạt động kinh doanh sẽ liên tục
mở rộng, nhưng trong một ngành công nghiệp tuần hoàn thì nó sẽ mở rộng

rồi thu hẹp, sau đó lại mở rộng.
Những doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực như sản xuất ô tô,
xây dựng, sản xuất thép, hoá chất… là những doanh nghiệp phát triển có tính
chu kỳ. Khi nền kinh tế thoát khỏi khó khăn, các công ty này thường hoạt
động rất tốt, giá cổ phiếu của chúng có xu hướng tăng nhanh hơn giá cổ phiếu
của các công ty tăng trưởng vững mạnh. Nhưng nếu nhà đầu tư lựa chọn sai
thời điểm trong chu kỳ tuần hoàn để mua cổ phiếu thì họ sẽ gặp phải nguy cơ
giảm giá cổ phiếu rất lớn.

12


2010

Cổ phiếu phát triển theo chu kỳ rất dễ tạo ra sự nhầm lẫn cho nhà đầu
tư. Nếu nhà đầu tư không thận trọng sẽ tưởng đây là loại cổ phiếu an toàn và
dễ dàng đầu tư vào đó. Bởi vì hầu hết những doanh nghiệp này đều rất lớn
mạnh và danh tiếng, vì vậy nhà đầu tư thường xếp chúng vào nhóm những
công ty vững mạnh.
1.5. Những doanh nghiệp đang trên đường đi xuống
Những doanh nghiệp thuộc danh mục này có chung nhiều đặc điểm
như hoạt động không hiệu quả, quản lý kém, trì trệ, có thể có nhiều bê bối…
Đây không phải là những doanh nghiệp tăng trưởng chậm mà chúng là những
doanh nghiệp không hề tăng trưởng. Những doanh nghiệp này khó mà phục
hồi sau những khó khăn như những doanh nghiệp phát triển theo chu kỳ và
thường phải đối mặt với những rủi ro tiềm tàng.
1.6. Những doanh nghiệp có tài sản ngầm
Đây là những doanh nghiệp sở hữu tài sản nào đó rất giá trị nhưng
trong báo cáo tài chính có thể chưa phản ánh hoặc phản ánh không đúng giá
trị tài sản này và phần lớn các nhà đầu tư không biết đến. Trong việc phát

hiện cơ hội đầu tư vào những doanh nghiệp này thì những thông tin nội bộ là
lợi thế lớn nhất.
Tài sản ngầm có thể biểu hiện dưới dạng bất động sản, kim loại, dầu
mỏ, các loại thuốc được cấp bằng phát minh sáng chế… , rất nhiều doanh
nghiệp Nhà nước khi cổ phần hoá, sở hữu rất nhiều bất động sản giá trị,
nhưng do chế độ kế toán hiện hành chưa bắt buộc phải phản ánh giá trị quyền
sử dụng đất vào bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp nên có nhiều bất
động sản có giá trị lớn không được đưa vào bảng cân đối kế toán. Có nhiều
nhà đầu tư nhanh nhạy biết được

13


2010

trước các nhà đầu tư khác và họ đã thu được những khoản lợi nhuận rất lớn
từ khoản đầu tư của mình.
2. Khái niệm công ty tăng trưởng
Công ty tăng trưởng mà sinh viên muốn đề cập trong luận văn này
chính là các công ty tăng trưởng nhanh, tức là những công ty được nhà đầu
tư kỳ vọng sẽ có lợi nhuận sẽ tăng trưởng nhanh và bền vững trong tương lai
để có thể nâng cao giá trị của công ty đó so với giá trị hiện tại đang được thị
trường đánh giá. Vì vậy khi nhà đầu tư đầu tư vào cổ phiếu của các công ty
này theo giá hiện tại sẽ kỳ vọng thu được lợi nhuận trong tương lai vì họ kỳ
vọng rằng trong tương lai giá trị của các công ty đó sẽ được nâng lên và do
đó thị trường sẽ đánh giá giá trị của công ty đó cao hơn mức giá hiện tại.

3. Các đặc điểm của công ty tăng trưởng
Trong thực tế thì các công ty tăng trưởng nhanh rất đa dạng, chúng có
đặc điểm chung là có tiềm năng tăng trưởng lớn, song về các yếu tố khác thì

chúng không hẳn là theo một khuôn mẫu nhất định nào. Tuy nhiên phần lớn
trong số đó sẽ hội tụ những đặc điểm chính sau:
3.1. Ngành nghề kinh doanh
Các công ty tăng trưởng nhanh hoặc là hoạt động trong một ngành có
tốc độ tăng trưởng nhanh, hoặc là phát hiện và khai thác có hiệu quả một
phân khúc thị trường còn bị bỏ ngỏ trong một ngành tăng trưởng chậm, hay
có khả năng đưa ra những sản phẩm mới có lợi thế cạnh tranh vượt trội so
với các đối thủ cạnh tranh trong ngành.
- Ngành nghề kinh doanh có tốc độ tăng trưởng cao: sẽ có những
nhiều doanh nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao. Các doanh nghiệp này không
cần có lợi thế cạnh tranh vượt trội và hiệu quả kinh doanh ở vị trí

14


2010

dẫn đầu mà có thể chỉcần hoạt động ở mức trung bình và giữ được thị phần
của mình trong một ngành tăng trưởng cao thì cũng đã có thể đạt được thành
tích tăng trưởng cao. Tuy nhiên nếu nhà đầu tư dự báo không tốt và đầu tư
vào những doanh nghiệp này vào thời điểm ngành tăng trưởng này sắp bão
hoà tức là thời điểm cuối của chu kỳ tăng trưởng của ngành thì mức giá mà
nhà đầu tư đã bỏ ra để mua cổ phiếu của các công ty này trước đây với kỳ
vọng sẽ duy trì được tốc độ tăng trưởng cao trong thời gian dài thì nhà đầu tư
có thể bị thua lỗ lớn. Hơn nữa những doanh nghiệp có thành tích hoạt động
trung bình trong một ngành tăng trưởng nhanh có thể dễ bị tổn thương trong
trường hợp ngành kinh doanh đó diễn biến không thuận lợi. Đối với nhà đầu
tư không có nhiều kinh nghiệm và khả năng dự báo còn hạn chế thì chỉ nên
đầu tư khi phát hiện được doanh nghiệp có lợi thế cạnh tranh và hiệu quả dẫn
đầu ngành, hoạt động kinh doanh trong một ngành không phát triển theo chu

kỳ (hoặc tính chu kỳ ở mức thấp) với mức giá hợp lý.

- Ngành có tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thậm chí là không
tăng trưởng: Các công ty tăng trưởng hoạt động trong các ngành có thể là
một doanh nghiệp năng động, đã xác định được một khoảng trống của thị
trường hay là một phân khúc thị trường nào đó chưa được khai thác, và các
công ty này thiết kế được những sản phẩm hay dịch vụ đáp ứng tốt, có hiệu
quả phân khúc thị trường đó, điều đó sẽ mang lại sự tăng trưởng nhanh cho
các công ty đó. Hoặc là những công ty đưa ra được những sản phẩm hay dịch
vụ mới, có lợi thế vượ trội so với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh, do đó họ
chiếm được thị phần của đối thủ cạnh tranh. Tuy nhiên, để duy trì được tốc
độ tăng trưởng cao thì các công ty này phải thường xuyên nghiên cứu và đưa
ra được những sản phẩm mới có lợi thế vượt trội, vì các sản phẩm mới có thể
bị đối thủ cạnh tranh sao chép rất nhanh.

15


2010

3.2. Về ban lãnh đạo
Để điều hành một doanh nghiệp thành công, ban lãnh đạo doanh
nghiệp phải là những người có tâm huyết, gắn bó với doanh nghiệp, nhất là
những lúc mà doanh nghiệp phải trải qua những giai đoạn phát triển khó
khăn. Nếu ban lãnh đạo không tâm huyết với doanh nghiệp thì rất khó có thể
chèo lái doanh nghiệp vượt qua được những khó khăn trở ngại và vì một
động cơ nào đó, có thể đưa ra những quyết định không đảm bảo quyền lợi
cho cổ đông. Thông thường, nếu ban lãnh đạo yêu ngành nghề kinh doanh
của doanh nghiệp, đồng thời là những nhà sáng lập và nắm giữ một số lượng
cổ phần đủ lớn thì sẽ tâm huyết với doanh nghiệp hơn là những nhà lãnh đạo

chỉ được thuê để làm công việc đó. Vì khi là nhà sáng lập thì ban lãnh đạo
xem doanh nghiệp như là đứa con tinh thần của mình nên sự phát triển của nó
rất quan trọng đối với họ.
Kinh nghiệm chuyên môn và kinh nghiệm quản lý cũng đóng va i trò
rất quan trọng đối với sự thành công của một nhà lãnh đạo doanh nghiệp. Các
nhà đầu tư thường đánh giá cao những người có nhiều năm kinh nghiệm về
chuyên môn và quản lý trong ngành.
Ngoài các yếu tố về tâm huyết và kinh nghiệm một nhà lãnh đạo thành
công còn cần phải có tư duy chiến lược, sự sáng tạo và đổi mới, biết cách thu
hút và khai thác nhân tài, và có tham vọng lớn. Tư duy chiến lược sẽ giúp
định hướng doanh nghiệp phát triển đúng hướng trong dài hạn, tận dụng
được các cơ hội và khai thác được tối đa thế mạnh của mình. Sự sáng tạo và
đổi mới sẽ giúp cho doanh nghiệp phát triển năng động hơn, có khả năng
thích nghi cao với sự thay đổi của môi trường kinh doanh, nhạy bén trong
việc nhận biết và khai thác cơ hội. Khả năng thu hút và khai thác nhân tài sẽ
giúp cho doanh nghiệp có lợi thế hơn đối với các doanh nghiệp khác trong
ngành và luôn có chi phí lao động thấp so với giá trị mà đội ngũ

16


2010

lao động mang lại. Và cuối cùng là một ban lãnh đạo có tham vọng sẽ luôn
tìm mọi cách để doanh nghiệp phát triển nhanh và có hiệu quả, chiến thắng
trong cạnh tranh, tăng trưởng về thị phần.
3.3. Về quy mô hoạt động
Về mặt lý thuyết thì chu kỳ phát triển của một doanh nghiệp thường
trải qua bốn giai đoạn đó là khởi đầu, tăng trưởng, bão hoà và suy thoái.
Trong thực tế thì mõi doanh nghiệp có tuổi đời khác nhau, có thời gian của

mỗi giai đoạn khác nhau và có thể chỉ trải qua một vài giai đoạn trong toàn
bộ chu kỳ đó. Như vậy, những doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, đang
trong giai đoạn tăng trưởng sẽ đạt được tốc độ tăng trưởng cao hơn những
doanh nghiệp có quy mô lớn và đi vào giai đoạn bão hoà.
Nếu đánh giá chung thì những doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ
thường có tốc độ tăng trưởng cao hơn các doanh nghiệp lớn. Nguyên onhân
là do các doanh nghiệp lớn thường có quy mô khá cồng kềnh, trì trệ, kém
năng động. Các doanh nghiệp này thường là đã chiếm một thị phần tương đối
lớn và do vậy nó không có đất để có thể phát triển với tốc độ cao. Muốn đạt
được tốc độ tăng trưởng cao, các doanh nghiệp này phải mở rộng, xâm nhập
được thị trường mới, hoặc có sản phẩm vượt trội so với sản phẩm của đối thủ
cạnh tranh để có thể chiếm lĩnh thị phần, hoặc có sản phẩm mới hứa hẹn
mang lại doanh thu lớn để đảm bảo cho sự tăng trưởng của doanh nghiệp.

Ngược lại với các doanh nghiệp lớn, các doanh nghiệp vừa và nhỏ
thường là những doanh nghiệp năng động hơn. Các doanh nghiệp này thường
mới phát hiện được một khoảng trống, một phân khúc thị trường có nhiều
tiềm năng và họ đang cố gắng để đáp ứng tốt nhu cầu của phân khúc thị
trường đó. Vì vậy họ có thị trường để đảm bảo duy trì được tốc độ tăng
trưởng cao trong một thời gian.

17


2010

3.4. Về khả năng cạnh tranh
Để đánh giá khả năng cạnh tranh thành công của một doanh nghiệp
chúng ta sẽ đánh giá cả hai mặt của cạnh tranh đó là áp lực cạnh tranh của
ngành và lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp.

Về áp lực cạnh tranh của ngành: phụ thuộc vào mức độ độc quyền của
ngành, các rào cản gia nhập ngành cao hay thấp. Nếu một ngành có mức độ
độc quyền cao và rào cản gia nhập ngành cao thì doanh nghiệp đó có thể thu
được lợi nhuận độc quyền nhờ khả năng định giá độc quyền, và các rủi ro
xuất phát từ nguyên nhân cạnh tranh sẽ rất thấp. Đối với những doanh nghiệp
này thì tốc độ tăng trưởng của họ phụ thuộc chủ yếu vào tốc độ phát triển của
ngành.
Về lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp: phụ thuộc vào các yếu tố
như: Chất lượng sản phẩm, giá, tính độc đáo của sản phẩm và thương hiệu
của doanh nghiệp. Để có thể chiến thắng trong cạnh tranh, duy trì tốc độ
tăng trưởng cao trong dài hạn, sản phẩm của doanh nghiệp phải có chất
lượng vượt trội, được bán với giá tương đối thấp so với chất lượng mà nó
mang lại, và nó phải có tính độc đáo, không thể bị nhầm lẫn với các sản
phẩm của đối thủ cạnh tranh, đáp ứng được tốt nhất nhu cầu của khách
hàng mục tiêu so với sản phẩm của đối thủ. Ngoài ra, một doanh nghiệp sở
hữu một thương hiệu nổi tiếng cũng có lợi thế cạnh tranh nhất định, nhất là
đối với những ngành mà sản phẩm của các công ty tương đối đồng nhất,
khách hàng rất khó đánh giá và so sánh chất lượng sản phẩm của các công
ty khác nhau, thì lúc đó thương hiệu của sản phẩm là rất quan trọng vì
khách hàng lựa chọn sản phẩm chủ yếu dựa vào uy tín của doanh nghiệp
và thương hiệu của sản phẩm.
Như vậy có thể nói để đạt được tốc độ tăng trưởng cao trong một thời
gian tương đối dài thì doanh nghiệp hoặc là phải hoạt động trong một

18


2010

ngành kinh doanh có rào cản gia nhập ngành tương đối lớn và có tốc độ tăng

trưởng cao.
3.5. Về chiến lược kinh doanh
Trong một môi trường kinh doanh thay đổi ngày càng nhanh chóng,
tốc độ xuất hiện các cơ hội và nguy cơ cũng nhanh hơn đối với các doanh
nghiệp. Vì vậy để doanh nghiệp đạt được tốc độ tăng trưởng cao trong dài
hạn thì doanh nghiệp phải xây dựng cho mình được một chiến lược kinh
doanh phù hợp để đón đầu các cơ hội và có biện pháp đẩy lùi các nguy cơ.
Một chiến lược đúng đắn và phù hợp phải đảm bảo được khả năng phát huy
tối đa lợi thế, điểm mạnh của doanh nghiệp mình và khắc phục được những
điểm yếu đang tồn tại.
Về cơ bản, khi xây dựng chiến lược kinh doanh, các nhà xây dựng
chiến lược cần trả lời được các câu hỏi sau:
- Phương hướng phát triển trong dài hạn, tức là mục tiêu mà doanh
nghiệp sẽ vươn tới trong dài hạn là ở đâu;
- Thị trường và phạm vi thị trường mà doanh nghiệp sẽ tham gia.
Doanh nghiệp phải cạnh tranh trên thị trường nào và những hoạt động nào
mà doanh nghiệp cần phải thực hiện để tham gia trên thị trường đó;
- Lợi thế của doanh nghiệp là ở đâu và làm thế nào để doanh nghiệp
phát huy nó? Tức là doanh nghiệp làm thế nào để hoạt động tốt hơn so với
các đối thủ cạnh tranh trên thị trường đó;
- Những nguồn lực nào (kỹ năng, tài sản, tài chính, các mối quan hệ,
năng lực kỹ thuật, trang thiết bị…) cần phải có để có thể cạnh tranh được;
- Những nhân tố từ môi trường bên ngoài ảnh hưởng tới khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp;

19


2010


- Những giá trị và kỳ vọng mà các cổ đông của doanh nghiệp cần là
gì?
Quá trình xây dựng và thực hiện chiến lược bao gồm phân tích chiến
lược, lựa chọn chiến lược và thực hiện chiến lược.
Để phân tích và đánh giá chiến lược của một doanh nghiệp có phù hợp
hay không nhà đầu tư có thể thu thập thông tin từ các nguồn như bản cáo
bạch, trang web của doanh nghiệp… Ở đó sẽ nêu rõ về môi trường hoạt động
kinh doanh, điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp và chiến lược phát
triển trong dài hạn của doanh nghiệp. Nhà đầu tư phải đưa ra được đánh giá
của mình về tính khả thi của chiến lược và khả năng thực hiện chiến lược đó
của doanh nghiệp để từ đó đưa ra các dự báo hỗ trợ cho công tác định giá
doanh nghiệp của nhà đầu tư.
Khi đánh giá chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, nhà đầu tư cần
cảnh giác với những doanh nghiệp có chiến lược đa dạng hoá quá mức,
không tập trung vào những lĩnh vực ngành nghề mà mình có thế mạnh và
kinh nghiệm. Khi đó khả năng cạnh tranh của nó thường có xu hướng giảm
sút và khó đi tới thành công. Việc đa dạng hoá kinh doanh quá mức có thể là
hệ quả của việc xây dựng chiến lược thiếu thận trọng, chạy theo lợi nhuận
trước mắt nhưng không ý thức được đầy đủ những rủi ro có thể xảy ra và
cũng có thể là xuất phát từ tham vọng bành trướng của ban lãnh đạo doanh
nghiệp không xuất phát từ động cơ tối đa hoá lợi ích cho cổ đông.
Như vậy có thể nói để duy trì được tốc độ tăng trưởng trong dài hạn thì
doanh nghiệp phải có được một chiến lược kinh doanh khả thi, đảm bảo mức
tăng trưởng cao hàng năm, được xây dựng trên những nguồn lực hiện có của
doanh nghiệp và dự báo tốt về những thay đổi của môi trường kinh doanh.

20


2010


3.6. Về các chỉ tiêu tài chính
Mặc dù các chỉ tiêu tài chính của một công ty phụ thuộc vào đặc điểm
của ngành nghề kinh doanh, quy mô hoạt động của doanh nghiệp, các giai
đoạn phát triển trong chu kỳ hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp…
nên không thể đưa ra những đặc trưng mang tính cụ thể về các chỉ tiêu tài
chính của các doanh nghiệp tăng trưởng nhanh. Tuy nhiên khi đặt các doanh
nghiệp tăng trưởng nhanh với các doanh nghiệp có cùng điều kiện để so sánh
thì các doanh nghiệp có tốc độ tăng trưởng nhanh sẽ có các chỉ tiêu tài chính
có xu hướng như sau:
- Nhóm các chỉ tiêu phản ánh tốc độ tăng trưởng: Như phần trên đã
nêu về khái niệm của công ty tăng trưởng, đây là những doanh nghiệp có tốc
độ tăng trưởng cao về doanh thu, lợi nhuận, quy mô tài sản… Nếu các chỉ
tiêu này được duy trì trong cả những thời gian mà môi trường kinh doanh của
công ty gặp khó khăn thì mức độ bền vững của sự tăng trưởng sẽ cao hơn.
Tuy nhiên đây là số liệu tăng trưởng trong quá khứ, để duy trì được tốc độ
tăng trưởng trong tương lai doanh nghiệp cần phải có mức đầu tư hợp lý và
khả năng mở rộng thị trường, phát triển sản phẩm mới…
- Nhóm các chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán: Do các doanh
nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao thường cần một lượng vốn tái đầu tư hàng
năm lớn, do đó tiền mặt dự trữ thường không nhiều, nhu cầu vốn lớn có thể
dẫn tới mức độ vay vốn cao hơn mức trung bình. Vì vậy các chỉ tiêu phản
ánh khả năng thanh toán của các doanh nghiệp này thường không cao, tuy
nhiên đối với các doanh nghiệp có chỉ số này thấp quá thì ca cơ sở rủi ro như
rủi ro thanh toán, rủi do do biến động lãi suất… là rất lớn.

-

Nhóm các chỉ tiêu phản ánh cơ cấu tài sản và nguồn vốn: Vớ i


nhóm chỉ tiêu này thì các doanh nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao và các

21


2010

doanh nghiệp bình thường không có sự khác biệt lớn nào. Nếu doanh nghiệp
có tốc độ tăng trưởng cao mà nguồn vốn tài trợ cho việc đầu tư lại chủ yếu
dựa vào vốn vay chứ không phải dựa vào lợi nhuận tích luỹ thì trong cơ cấu
nguồn vốn thường nguồn vốn vay có tỷ trọng lớn và rủi ro hoạt động của
doanh nghiệp này sẽ cao.
- Nhóm các chỉ tiêu phản ánh hiệu suất hoạt động: Doanh nghiệp tăng
trưởng cao thường có các chỉ tiêu này rất tốt. Nhờ có khả năng khai thác tốt
các tài sản của mình nên các doanh nghiệp này thường có giá thành thấp, khả
năng cạnh tranh cao. Các chỉ tiêu như vòng quay của tổng tài sản, vòng quay
hàng tồn kho, vòng quay các khoản phải thu, tỷ lệ doanh thu trên tài sản cố
định… thường rất cao. Các chỉ tiêu này cũng phản ánh rất tốt khả năng điều
hành của ban lãnh đạo doanh nghiệp.
- Nhóm các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lợi của doanh nghiệp: Để
một doanh nghiệp đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh thì nó phải tạo ra được
một nguồn tiền mặt hàng năm lớn để tài trợ cho các hoạt động đầu tư của
mình. Vì vậy chỉ có những doanh nghiệp có khả năng sinh lợi cao mới đạt
được tốc độ tăng trưởng nhanh. Do đó các chỉ tiêu như tỷ lệ lợi nhuận trên
doanh thu, tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản, tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở
hữu… của các doanh nghiệp tăng trưởng thường khá cao.
- Nhóm các chỉ tiêu đánh giá tính cho mỗi cổ phần: Do khả năng sinh
lợi cao nên chỉ tiêu thu nhập trên mỗi cổ phần (EPS) của các doanh nghiệp
này thường khá cao. Hơn nữa do có tốc độ tăng trưởng cao nên nhà đầu tư
thường đặt kỳ vọng rất lớn và cổ phiếu của các doanh nghiệp này nên nó

thường được giao dịch ở mức giá khá cao do đó chỉ tiêu giá trên thu nhập
(P/E) thường cao. Tuy nhiên nếu mua cổ phiếu có chỉ tiêu P/E quá
cao nhà đầu tư có thể gặp phải rủi ro lớn và mức sinh lời cũng thấp do thị
trường đã đánh giá cao tiềm năng phát triển của doanh nghiệp đó vì vậy cơ

22


2010

hội mua cổ phiếu ở mức giá rẻ là không còn. Nhà đầu tư cần tìm kiếm những
công ty có tiềm năng tăng trưởng cao, tuy nhiên chưa được thị trường nhận
biết, do đó nó vẫn được giao dịch ở mức P/E thấp. Ngoài ra, chỉ tiêu hệ số giá
trị trường trên giá trị sổ sách (P/B) của các doanh nghiệp này thường cao.
Còn tỷ suất cổ tức trên giá thị trường (D/P) thường thấp do các doanh nghiệp
này thường dùng phàn lớn lợi nhuận thu được để tái đầu tư, nhằm đạt được
mục tiêu tăng trưởng, còn lợi nhuận dành cho việc chi trả cổ tức thường là
thấp.
II.

CÁC PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH VÀ ĐỊNH GIÁ CỔ PHIẾU

TĂNG TRƯỞNG
1.

Các nhân tố chính ảnh hưởng đến biến động giá cổ phiếu của các công

ty trên thị trường chứng khoán
1.1. Các nhân tố vĩ mô
1.1.1. Tình hình chính trị

Tình hình chính trị của một quốc gia có ảnh hưởng rất lớn đến thị
trường chứng khoán. Các yếu tố chính trị bao gồm những thay đổi về Chính
phủ và các hoạt động chính trị. Ví dụ như khi Chính phủ đưa ra những kiến
nghị với Quốc hội thì thị trường chứng khoán sẽ chịu tác động trừ khi những
kiến nghị đó đã được dự đoán chính xác trước. Những kiến nghị này có thể là
về sửa đổi chính sách kinh tế, chính sách thuế, chi tiêu ngân sách, quốc
phòng, các kế hoạch xây dựng lớn… Chi riêng kế hoạch chi tiêu ngân sách
cũng đủ để tác động đến rất nhiều ngành nghề liên quan.
Thay đổi chính trị cũng làm cho nhiều quy định và sự kiểm soát c ủa
Chính phủ trong một số ngành được thắt chặt và một số quy định trong các
ngành khác lại được nới lỏng. Chúng đều có tác động rất lớn tới kết quả kinh
doanh của mỗi ngành, mỗi công ty.

23


2010

1.1.2. Môi trường pháp luật
Môi trường pháp luật cũng là yếu tố cơ bản gây tác động tới thị trường
chứng khoán. Các cơ quan Chính phủ tác động tới thị trường chứng khoán
bằng luật. Chẳng hạn, những quy định về giá cả dịch vụ sẽ gây tác động trực
tiếp tới ngành dịch vụ công cộng. Luật chống độc quyền thường làm giảm giá
chứng khoán của các công ty bị điều chỉnh bởi nó. Luạt thâu tóm sáp nhập
công ty có thể gây tác động tiêu cực haytích cực đến một nhóm các công ty.
Chính sách tiền tệ tín dụng của Ngân hàng Trung ương có thể gây tác động to
lớn đến thị trường… Do vậy môi trường pháp lý cần được xem xét theo các
góc độ như:
- Hệ thống hành lang pháp lý của thị trường chứng khoán được xây
dựng như thế nào? Có đủ để bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhà đầu tư

hay không?
- Các luật pháp liên quan có trùng chéo, mâu thuẫn không?
- Khả năng thực thi pháp luật thế nào?
- Những mặt khuyến khích, ưu đãi và hạn chế được quy định trong hệ
thống pháp luật.
- Sự ổn định của hệ thống pháp luật, khả năng sửa đổi và ảnh hưởng
của chúng đến thị trường chứng khoán.
1.1.3. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP), là tổng giá trị sản phẩm hàng hoá
dịch vụ cuối cùng của nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng GDP nhanh thể hiện
một nền kinh tế phát triển, tạo nhiều cơ hội cho các công ty tăng doanh số
bán hàng. Đây là đầu ra của nền kinh tế và là sản lượng sản xuất của nền kinh
tế.

24


2010

1.1.4. Tỷ giá hối đoái
Khi nhà đầu tư nhận định rằng đồng nội tệ có thể bị phá giá trong thời
gian tới thì nhà đầu tư đó sẽ quyết định không đầu tư vào chứng khoán hoặc
sẽ tìm cách thay thế chứng khoán bằng tài sản ngoại tệ vì chứng khoán chính
là tiền, nếu tiền mất giá thì giá trị chứng khoán sẽ bị giảm. Nếu được phép
đầu tư ra thị trường nước ngoài thì có thể nhà đầu tư này sẽ chuyển vốn ra
đầu tư ở nước ngoài.
1.1.5. Lạm phát và lãi suất
Đây là hai nhân tố rất quan trọng gây ảnh hưởng lớn tới quyết định đầu
tư vào thị trường chứng khoán. Lạm phát dẫn đến sự khác nhau giữa lãi suất
danh nghĩa và lãi suất thực, thay đổi hành vi tiêu dùng và tiết kiệm của dân

cư và doanh nghiệp. Thêm vào đó, sự thay đổi không mong đợi của tỷ lệ lạm
phát sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc lập kế hoạch, ngăn cản sự
tăng trưởng và đổi mới của doanh nghiệp. Không những thế, tỷ lệ lãi suất và
tỷ lệ lạm phát khác nhau còn tác động đến các khâu thanh toán giữa các nước
và tỷ giá hối đoái.
Lãi suất tác động đến chi phí vốn và lãi suất yêu cầu của nhà đầu tư khi
đầu tư vào chứng khoán do đó nó tác động trực tiếp tới giá chứng khoán, tuy
nhiên mối quan hệ này không hoàn toàn diễn ra một chiều. Nếu xét trên
phương diện tình hình hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp đơn thuần
thì có thể xảy ra một số trường hợp sau:
- Nếu lãi suất tăng lên do lạm phát thì giá hàng hoá bán ra của các
công ty có thể tăng cùng với lạm phát do chi phí đầu vào tăng. Điều này dẫn
đến thu nhập của công ty cũng tăng lên. Do vậy giá cổ phiếu trong trường
hợp này có thể giữ ổn định vì tuy lãi suất chiết khấu tăng lên nhưng dòng thu
nhập cũng tăng theo, hai nhân tố này bù đắp cho nhau và giữ cho giá cổ
phiếu ổn định hoặc thậm chí tăng.

25


2010

- Nếu lãi suất tăng nhưng các dòng thu nhập tương lai của công ty tăng
không nhiều vì các công ty không có khả năng tăng giá kịp với lạm phát thì
trong trường hợp này giá cổ phiếu sẽ giảm xuống.
- Lãi suất tăng nhưng giá trị các dòng thu nhập tương lai của công ty
giảm vì các nhân tố làm lãi suất tăng lại đồng thời gây tác động đến thu nhập.
Chẳng hạn, công ty phải huy động vốn với lãi suất cao do cạnh tranh vốn lớn,
song đến khi hàng hoá được sản xuất và bán ra thì lại gặp sự cạnh tranh gay
gắt, trong khi sức mua có hạn. Điều này có thể dẫn đến giảm giá hàng hoá

trong khi chi phí đầu vào vẫn tăng, do vậy thu nhập của công ty giảm sút.

Tuy nhiên, thông thường khi lạm phát và lãi suất cao thì Chính phủ sẽ
áp dụng chính sách tín dụng và tiền tệ thắt chặt để kiềm chế lạm phát, do đó
tiền trong lưu thông sẽ ít đi, nguồn vốn đầu tư vào thị trường chứng khoán do
đó cũng sẽ bị ảnh hưởng, thậm chí là ảnh hưởng rất mạnh, cộng với yếu tố
tâm lý bất án khi các yếu tố vĩ mô của nền kinh tế bất ổn thì nhà đầu tư có xu
hướng chuyển kênh đầu tư sang vàng và bất động sản. Tình hình này sẽ dẫn
đến sự sụt giảm mạnh của thị trường chứng khoán.
1.1.6. Thâm hụt ngân sách
Bất kỳ sự thâm hụt ngân sách nào đều phải được bù đắp bằng các
khoản vay của Chính phủ.Giá trị các khoản vay của Chính phủ càng lớn sẽ
càng có tác động để làm tăng lãi suất chuẩn. Các khoản vay của Chính phủ
quá lớn sẽ cản trở việc vay nợ và đầu tư cá nhân do lãi suất và bóp nghẹt việc
đầu tư kinh doanh.
1.1.7. Cung ứng tiền tệ và chi tiêu của người tiêu dùng
Một chính sách tiền tệ thắt chặt với tốc độ cung tiền giảm sẽ làm giảm
việc cung cấp vốn lưu động và sẽ hạn chế việc mở rộng sản xuất kinh

26


2010

doanh đối với tất cả các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, một chính sách tiền tệ
thắt chặt với lãi suất định trước có thể làm tăng lãi suất thị trường và do vậy
chi phí của các công ty sẽ tăng. Còn đối với các cá nhân thì việc vay vốn để
mua nhà hay các hàng hoá lâu bền như ô tô và thiết bị sẽ trở nên đắt đỏ hơn.
Do đó, chính sách tiền tệ tác động đến tất cả các bộ phận của một nền kinh tế.
Và do vậy nó tác động đến thị trường chứng khoán trên cả hai phương diện

đó là tác động thông qua tình hình hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp và tác động thông qua lượng tiền trong túi của các nhà đầu tư sẵn
sàng đầu tư vào thị trường chứng khoán.
1.1.8. Thái độ, tâm lý
Thái độ và tâm lý, sự lạc quan hay bi quan với nền kinh tế của người
tiêu dùng và nhà sản xuất là yếu tố quyết định đến nền kinh tế. Ví dụ, nếu
người tiêu dùng biết mức thu nhập của mình trong tương lai sẽ tăng thì họ
sẵn sàng chỉ tiêu cho các khoản tiêu dùng có giá trị lớn. Cũng tương tự như
vậy, các doanh nghiệp sẽ tăng sản lượng nếu họ đoán trước được sẽ có một
nhu cầu rất lớn về sản phẩm của mình.
Đặc biệt tâm lý lạc quan hay bi quan của các nhà đầu tư có ảnh hưởng
cực kỳ lớn nếu không muốn nói là quyết định đến giá cổ phiếu, đặc biệt là
đối với những thị trường còn non trẻ như ở Việt Nam, nơi mà trình độ của
nhà đầu tư còn nhiều hạn chế, chiến lược đầu tư chủ yếu là ngắn hạn nên
quyết định đầu tư chịu ảnh hưởng nhiều bởi tâm lý đám đông.
1.2. Các nhân tố thuộc về ngành kinh tế
1.2.1. Tốc độ tăng trưởng của ngành
Tốc độ tăng trưởng của một doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào tốc độ
phát triển của ngành mà doanh nghiệp đó hoạt động. Nếu một doanh nghiệp
hoạt động trong một ngành đang đi xuống thì doanh nghiệp đó rất

27


2010

khó để có thể tăng trưởng ở mức cao. Vì để đạt được điều đó thì nó phải
chiếm được thị phần của các doanh nghiệp khác với tốc độ cao hơn tốc độ
suy giảm của ngành. Nếu một doanh nghiệp hoạt động trong một ngành
không tăng trưởng thì để doanh nghiệp hoạt động trong ngành đó tăng trưởng

nó cũng phải có lợi thế cạnh tranh hơn hẳn các đối thủ cạnh tranh để chiếm
lĩnh thị phần. Còn nếu một doanh nghiệp hoạt động trong một ngành có tốc
độ tăng trưởng cao thì chỉ cần giữ vững thị phần c ủa nó là cũng có thể đạt
được tốc độ tăng trưởng cao rồi.
1.2.2. Chu kỳ kinh doanh của ngành
Những doanh nghiệp hoạt động trong những ngành có chu kỳ phát
triển rõ rệt thường được gọi là các doanh nghiệp chu kỳ. Những doanh nghiệp
này có sự phát triển theo chu kỳ rất rõ nét, ví dụ như các doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực sản xuất ô tô, sắt thép, xây dựng, bất động sản… Khi đầu
tư vào những doanh nghiệp trong các lĩnh vực này chúng ta phải biết được
thời điểm chúng ta đầu tư đang là giai đoạn nào trong chu kỳ phát triển của
ngành đó. Nếu chúng ta đầu tư vào thời điểm bắt đầu đi lên của ngành thì lợi
nhuận thu được là rất lớn. Tuy nhiên nếu lựa chọn sai thời điểm thì rủi ro
cũng rất cao.
Mặc dù vậy, có một số ngành kinh doanh ít biến động theo chu kỳ, các
doanh nghiệp hoạt động trong các ngành này khá ổn định, ví dụ như ngành
sản xuất hàng tiêu dùng thiết yếu, dược phẩm, đào tạo, năng lượng…
1.2.3. Mức độ độc quyền của ngành
Đối với những ngành nghề có tính độc quyền cao, rào cản để các
doanh nghiệp khác gia nhập ngành lớn thì các doanh nghiệp trong ngành đó
sẽ thu được lợi nhuận lớn. Ngược lại đối với những ngành nghề mà các rào
cản gia nhập ngành thấp, khi môi trường kinh doanh trong ngành đó

28


2010

hấp dẫn thì sẽ lôi cuốn các doanh nghiệp khác vào kinh doanh, cạnh tranh
giữa các doanh nghiệp trong ngành sẽ ngày càng tăng và do đó mà lợi nhuận

của các doanh nghiệp sẽ giảm.
Như vậy mức độ độc quyền của ngành sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận của
các doanh nghiệp hoạt động trong ngành đó và do đó ảnh hưởng đến giá cổ
phiếu của các doanh nghiệp đó. Những ngành càng có tính độc quyền cao,
rào cản gia nhập ngành càng lớn thì giá cổ phiếu của các doanh nghiệp trong
ngành đó càng cao và ngược lại.
Có nhiều mức độ độc quyền khác nhau và nguyên nhân dẫn đến độc
quyền cũng rất đa dạng. Nếu là độc quyền tự nhiên thì thường là do ngành
kinh doanh đó cho phép các doanh nghiệp hoạt động trong đó đạt được thu
nhập tăng theo quy mô, tức là khi quy mô tăng lên thì mức lợi nhuận thu
được trên mỗi sản phẩm sẽ tăng lên. Nếu là độc quyền thường thì do nhiều
nguyên nhân, nhưng có thể là do một hay một số nguyên nhân như: Chính
phủ nhượng quyền khai thác một thị trường nào đó; chế độ bản quyền đối với
phát minh sáng chế và sở hữu trí tuệ; do sở hữu được một nguồn lực rất khan
hiếm…
1.2.4. Mức độ rủi ro của ngành
Mức độ rủi ro của ngành sẽ ảnh hưởng đến mức độ rủi ro trong hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp do đó nó sẽ ảnh hưởng đến giá cổ phiếu
của các doanh nghiệp trong ngành đó. Có thể phân các ngành kinh doanh
thành ngành có mức độ rủi ro cao, ngành có mức độ rủi ro trung bình và
ngành có mức độ rủi ro thấp.
- Các ngành có mức độ rủi ro cao là những ngành có rủi ro đặc thù lớn
hoặc là những ngành rất nhạy cảm với sự biến động của nền kinh tế nói
chung ví dụ như ngành bất động sản, du lịch, sân golf, sòng bạc, ngành

29


2010


nghiên cứu và ứng dụng công nghệ cao, ngành sản xuất xe hơi, ngành nông
nghiệp…
- Các ngành có mức độ rủi ro trung bình là những ngành có mức độ rủi
rod dặc thù vừa phải và không quá nhạy cảm với những biến động của nền
kinh tế như ngành ngân hàng, năng lượng, xây dựng, giao thông vận tải, viễn
thông…
- Các ngành có mức độ rủi ro thấp là những ngành ít có những rủi ro
đặc thù và ít nhạy cảm với những biến động của nền kinh tế như ngành sản
xuất hàng tiêu dùng thiết yếu, ngành y tế, giáo dục đào tạo, ngành điện,
nước…
1.3. Các nhân tố nội tại của doanh nghiệp
1.3.1. Các yếu tố định tính
(1) Ban lãnh đạo doanh nghiệp
Có thể nói ban lãnh đạo là linh hồn của doanh nghiệp do vậy khả năng
và tâm huyết của ban lãnh đạo ảnh hưởng rất lớn đến sự tồn tại va fpt của
doanh nghiệp. Tuy nhiên việc đánh giá khả năng và tâm huyết của ban lãnh
đạo không hề đơn giản, sau đây là những khía cạnh mà nhà đầu tư nên tập
trung đánh giá về ban lãnh đạo:
- Trình độ, kinh nghiệm: bao gồm cả trình độ về chuyên môn và trình
độ quản lý, kinh nghiệm làm việc và quản lý trong ngành.
- Mức độ tâm huyết với doanh nghiệp của ban lãnh đạo: Đây là yếu tố
không dễ đánh giá, tuy nhiên nhà đầu tư nên nhìn trên hai góc độ là tình yêu
nghề nghiệp của họ và vai trò, thời gian gắn bó của họ đối với doanh nghiệp
trong quá trình phát triển.
- Khả năng đặt lợi ích của cổ đông lên trên hết trong các quyết định
điều hành hoạt động kinh doanh: Sự xung đột lợi ích giữa cổ đông và ban

30



2010

lãnh đạo tồn tại khá nhiều, nhất là trong các doanh nghiệp lớn, nơi tỷ lệ nắm
giữ cổ phần của ban lãnh đạo thường thấp. Vì vậy trong điều hành hoạt động
kinh doanh ban lãnh đạo có thể đưa ra những quyết định hướng đến lợi ích
kinh tế và quyền lực của họ nhiều hơn lợi ích của cổ đông. Vì vậy trong các
doanh nghiệp mà tỷ lệ nắm giữ cổ phần của ban lãnh đạo thấp thì việc thiết
lập một cơ chế kiểm soát của hội đồng quản trị, cơ chế khen thưởng và kỷ
luật tối đối với ban lãnh đạo là rất quan trọng.
(2) Uy tín của doanh nghiệp và thương hiệu
Uy tín và thương hiệu là tài sản vô hình của doanh nghiệp, tuy nhiên
nếu nó chưa được định giá và hạch toán và bảng cân đối kế toán thì nó sẽ là
nhân tố làm tăng giá trị cổ phiếu của doanh nghiệp.
- Uy tín của doanh nghiệp nói chung là sự tin tưởng, là niềm tin của
khách hàng đối với doanh nghiệp. Khi khách hàng có sự tin tưởng đối với
doanh nghiệp thì khách hàng thường lựa chọn sử dụng các sản phẩm và dịch
vụ của doanh nghiệp đó. Nhờ vậy mà công cuộc kinh doanh của doanh
nghiệp có được sự phát triển vững chắc nhờ doanh nghiệp có được chỗ đứng
tốt trong lòng khách hàng.
- Thương hiệu của các dòng sản phẩm cụ thể:
Theo Jack Trout và Steve Rivkin thì "Thương hiệu là một cam kết
tuyệt đối về chất lượng, dịch vụ và giá trị trong một thời gian dài được chứng
nhận qua hiệu quả sử dụng và bởi sự thoả mãn của khách hàng. Thương hiệu
là hình ảnh có tính chất văn hoá, lý tính, cảm tính, trực quan và độc quyền
mà bạn liên tưởng tới khi nhắc đến một sản phẩm hay một công ty".

Như vậy, có thể nói rằng thương hiệu sản phẩm là nhãn hiệu của sản
phẩm đã được doanh nghiệp "thổi" vào đó một "linh hồn" sống động, có cá

31



×