Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Thực trạng, giải pháp phát triển nguồn nhân lực ngành công nghệ thông tin ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.02 KB, 12 trang )

Thực trạng, giải pháp phát triển nguồn nhân lực
ngành công nghệ thông tin ở Việt Nam hiện nay

Tóm tắt: Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) đã và đang mở
ra động lực mới, thời cơ mới cho sự phát triển toàn diện, sâu rộng ngành Công
nghệ Thông tin (CNTT), trong đó nguồn nhân lực CNTT là nhân tố quyết định
sự phát triển CMCN 4.0 và kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, dân tộc. Việt
Nam đã và đang là điểm đến của các công ty đa quốc gia lớn như Samsung,
LG, Intel.... bên cạnh đó, Nhà nước ta bắt đầu triển khai xây dựng Chính phủ
điện tử, các bộ, ngành, địa phương đang hướng đến ứng dụng công nghệ thông
minh phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh xây dựng, bảo vệ
Tổ quốc; đây là nhân tố thúc đẩy ngành CNTT, nguồn nhân lực CNTT chất
lượng cao phát triển trong thời gian tới. Tuy nhiên, thực trạng nguồn nhân lực
CNTT ở Việt Nam hiện nay còn nhiều bất cập, từ đào tạo, tuyển dụng, bồi
dưỡng, sử dụng, đãi ngộ cán bộ; số, chất lượng nhân lực ngành CNTT còn hạn
chế, chưa tương xứng với yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước…
Thực trạng đó, đặt ra yêu cầu cấp thiết cần phải nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực CNTT ở Việt Nam. Bài viết tập trung phân tích làm rõ thực trạng, chỉ
ra một số nguyên nhân, trên cơ sở đó đề xuất hệ thống giải pháp xây dựng
nguồn nhân lực CNTT đáp ứng yêu cầu CMCN 4.0 ở Việt Nam hiện nay.
Từ khoá: Nhân lực CNTT, thực trạng.
Tổng quan một số công trình nghiên cứu trong và ngoài nước:
Khi nghiên cứu về nguồn nhân lực, nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu
cầu phát triển của xã hội, có nhiều công trình của các nhà khoa học trong và
ngoài nước, trong đó một số công có trình liên quan đến bài viết như sau:
- Một số công trình ở nước ngoài: Kristine Sydhagen và Peter
Cunningham (2007) với công trình “Human Resource Development
International” (1); Julia Storberg và Walker Claire Gubbins (2007) trong công
1



trình “Social Networks as a Conceptual and Empirical Tool to Understand and
‘Do’ HRD” (2); Greg G.Wang và Judy Y.Sun (2009) với công trình
“Perspectives on Theory Clarifying the Boundaries of Human Resource
Development” (3); Abdullsh Haslinda (2009) với “Definition of HRD: Key
Concepts from a National and International Context” (4); Frederick W.Kagan
(2011) với công trình “The US Military's Manpower Crisis” (5)…
- Một số công trình trong nước: Trần Khánh Đức (2010), “Giáo dục và
phát triển nguồn nhân lực trong thế kỷ XXI” (6); Nguyễn Ngọc Phú (2010),
“Nguồn nhân lực và nhân tài cho phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở
Việt Nam trong tiến trình đổi mới” (7); Lê Thị Hồng Điệp (2011) với luận án
kinh tế“Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để hình thành nền kinh tế tri
thức ở Việt Nam” (8); Phạm Đức Tiến (2014) “Kinh tế tri thức trong thế giới
đương đại” (9);Hoàng Chí Bảo, Phạm Đức Tiến (2016), “Phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao trong bối cảnh hội nhập quốc tế” (10)…
Nhìn chung, các công trình khoa học của các tác giả trong và ngoài nước
nêu trên đã tập trung xác định, luận giải khá sâu sắc về khái niệm, mục đích, nội
dung và chức năng của phát triển nguồn nhân lực. Tổng hợp lý luận và thực tiễn
về phát triển nguồn nhân lực ở các phạm vi, góc độ khác nhau trên thế giới…
Mặc dù đã luận giải khá sâu sắc những mối liên hệ toàn diện trong phát triển
nguồn nhân lực, song chưa có công trình đề cập đến nguồn nhân lực CNTT và
các nhân tố tác động đến quá trình phát triển bộ phận nhân lực này trong bối
cảnh hiện nay.
Nội dung: Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn xây dựng
chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa” (11).. Nhận thức sâu sắc
vấn đề đó, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã xác định lấy sự
phát triển con người toàn diện làm mục tiêu phấn đấu cao nhất, làm nền tảng để
xây dựng chế độ xã hội mới. Hiện nay, thế giới đã bước vào giai đoạn đầu của
cuộc CMCN 4.0. Trong bối cảnh của cuộc CMCN 4.0, Việt Nam có cơ hội để
rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước khác. Tuy nhiên, để áp dụng khoa
2



học công nghệ vào nền kinh tế một cách hiệu quả, cần phải có nguồn nhân lực
chất lượng cao, nhất là nhân lực CNTT.
Trong bối cảnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xu thế
hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế tri thức ngày càng cao như hiện nay, vấn
đề phát triển con người toàn diện, đặc biệt xây dựng nguồn nhân lực chất lượng
cao, nhân lực ngành CNTT ở Việt Nam càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Đúng như Giáo sư Trần văn Giàu đã nhận định: “Nếu thế kỷ XX, Việt Nam cần
và đã có con người cách mạng kiên cường, con người chiến binh thượng đẳng,
thì với thế kỷ XXI, Việt Nam cần và phải có những con người xây dựng tài ba,
rất mực cần mẫn, lao động có kỹ thuật, có kỷ luật, có năng suất cao, đồng thời là
con người được trang bị tư tưởng vững vàng, lý tưởng tốt đẹp” (12).
Đối với ngành CNTT, những năm gần đây nhu cầu nhân lực chất lượng
cao đã tăng đáng kể. Theo thống kê, số doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
công nghiệp CNTT (ngành công nghiệp phần mềm, nội dung số, phần cứng điện
tử và dịch vụ CNTT) năm 2019 tăng 21,01% so với năm 2018. Ước tính trong
năm 2019, tổng số lao động của ngành công nghiệp CNTT khoảng trên 1 triệu
lao động (tăng 23,6% so với năm 2018). Lao động ngành CNTT Việt Nam được
đánh giá cao và tiềm năng, lập trình viên Việt Nam xếp hạng thứ 23 trên thế giới
- theo HackerRank, năm 2017, sinh viên Việt Nam xếp thứ 34/128 tại kỳ thi lập
trình quốc tế ACM/ICPC.
Tuy nhiên, nguồn nhân lực CNTT Việt Nam chưa đáp ứng được nhu cầu
của xã hội, nhu cầu của CMCN 4.0. Thực trạng nguồn nhân lực CNTT ở Việt
Nam hiện nay như thế nào? Việt Nam cần có những giải pháp gì để thúc đẩy
phát triển nguồn nhân lực CNTT hiện nay?
1. Về thực trạng nguồn và chất lượng nguồn nhân lực CNTT ở Việt Nam hiện nay
Theo số liệu của Bộ Giáo dục và Đào tạo, cả nước hiện có 235 trường đại
học, trong đó có 153 trường đào tạo CNTT, hàng năm có khoảng 50.000 sinh
viên CNTT ra trường (13). Số lượng này là rất thiếu so với nhu cầu phát triển

doanh nghiệp CNTT, nhất là theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ là đến năm
3


2020 có một triệu doanh nghiệp khởi nghiệp, trong đó ưu tiên khởi nghiệp
CNTT. Việt Nam hiện nay đang trở thành một điểm đến của các tập đoàn công
nghệ lớn trên thế giới như Samsung, LG, Intel… và đang thúc đẩy mạnh mẽ quá
trình chuyển đổi số, thực hiện cuộc CMCN 4.0, hướng tới mục tiêu 1 triệu
doanh nghiệp vào năm 2020. Năm 2019 - 2020, thị trường Việt Nam thiếu
350.000 - 400.000 nhân lực CNTT. Trong đó, nhu cầu tuyển dụng sẽ tập trung
vào các lĩnh vực như trí tuệ nhân tạo (AI), lưu trữ đám mây, thực tế ảo (VR),
thực tế tăng cường (AR) và blockchain. Các lĩnh vực quan trọng khác như
Internet vạn vật (IoT), thương mại điện tử, quy trình kinh doanh và gia công
phần mềm CNTT… cũng đã và đang được các doanh nghiệp trong nước, liên
doanh nước ngoài chuẩn bị tích cực.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ ra, trong số 50.000 cử nhân CNTT ra
trường, chỉ có 30% làm việc được ngay, 70% phải đào tạo bổ sung (13). Thực
trạng đó phản ánh chất lượng nguồn nhân lực lĩnh vực CNTT được đào tạo từ nhà
trường đã chưa thể đáp ứng được nhu cầu từ doanh nghiệp, lãng phí, tốn kém,
thiệt thòi cho cả doanh nghiệp lẫn người lao động. Nhiều nhà trường, cơ sở đào
tạo vẫn chưa có tư duy về những gì mình tạo ra, tức là các kỹ sư, cử nhân chính là
một sản phẩm để phục vụ thị trường, mà vẫn xem đào tạo là việc của nhà trường,
còn đáp ứng nhu cầu việc làm xã hội là chuyện của xã hội, của các kỹ sư, cử
nhân. Một số trường đào tạo cái mình có chứ chưa đào tạo những cái mà xã hội
cần. Hay nói cách khác, không ít trường đại học đã bằng nhiều cách cố gắng để
tuyển sinh cho đủ, dù biết rằng chất lượng đầu vào thấp, như vậy chất lượng đầu
ra sẽ hạn chế.
Trong những năm đầu của thế kỷ XXI, lĩnh vực CNTT bắt đầu phát triển
mạnh mẽ, và bùng nổ trong thời gian hiện nay, dẫn đến sự bùng phát về nhu cầu
nguồn nhân lực chất lượng cao. Nhu cầu tuyển dụng nhân lực ngành CNTT ngày

càng cao trong kỷ nguyên số dẫn đến việc thu hút, giữ chân, đãi ngộ nhân tài còn
nhiều khó khăn, thách thức. Bên cạnh đó, sự khan hiếm nhân lực có chuyên môn
công nghệ mới (như Blockchain và AI) dẫn đến sự mất cân đối về mức lương
4


trên thị trường và tiềm ẩn nguy cơ nhóm nhân lực có chuyên môn không còn là
xu hướng sẽ thất nghiệp hoặc được trả mức lương thấp hơn…
2. Nguyên nhân của thực trạng trên
Một là, đào tạo của các trường chưa sát thực tiễn, không đáp ứng tiêu
chuẩn của doanh nghiệp
CNTT vẫn tiếp tục phát triển mạnh mẽ trong những năm tới, đặc biệt là
công nghiệp phần mềm, xuất khẩu phần mềm. Nhưng hệ thống đào tạo cơ bản ở
một số nhà trường vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng và chất lượng.
Chuẩn đầu ra của các trường còn lệch nhiều so với chuẩn đầu vào của thi trường
và nhu cầu của các doanh nghiệp. Cụ thể, doanh nghiệp cần người biết làm việc,
có khả năng làm việc độc lập trong dự án, biết các yêu cầu của dự án, biết sử
dụng các công cụ, ngôn ngữ, công nghệ, có khả năng giao tiếp, phối hợp làm
việc trong các nhóm. Sinh viên thiếu thực hành dự án nghiêm túc, chưa được
hướng dẫn nên không thể có kỹ năng. Chưa kể rất nhiều thầy cô cũng chưa từng
được đào tạo cơ bản hoặc chưa có chuyên môn sâu về CNTT nên không thể
hướng dẫn cho sinh viên, không thể tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, đáp ứng
yêu cầu của thị trường lao động công nghệ cao.
Hai là, chưa có sự liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp với nhà trường và
cơ quan quản lý
Trên thực tế, CMCN 4.0 là cơ hội rút ngắn khoảng cách phát triển cho các
nước đang phát triển trong đó có Việt Nam; giúp các nước đang phát triển nâng
cao vị thế khi tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Trong cuộc đua này, Việt
Nam đang chú trọng phát triển các sản phẩm CNTT thương hiệu Việt, đẩy mạnh
thị trường CNTT nội địa, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào nghiên cứu

phát triển và xây dựng nguồn nhân lực với năng lực sáng tạo, trí tuệ cao, hướng
chuẩn quốc tế. Để nguồn nhân lực đáp ứng được các yêu cầu của CMCN 4.0,
cần phải có sự liên kết, hợp tác chặt chẽ giữa 3 bên: doanh nghiệp với nhà
trường và cơ quan quản lý. Tuy nhiên, trên thực tế sự liên kết, phối hợp đó còn
mờ nhạt, nhất là ở những nhà trường “tốp dưới”. Bên cạnh đó, cơ quan quản lý
5


các cấp cũng chưa có cơ chế quản lý chặt chẽ, chưa có cơ chế, quy định cụ thể
để phát triển nhân tài, xây dựng nguồn nhân lực CNTT chất lượng cao cho
tương lai…
Ba là, mức lương có sự phân hóa
Báo cáo năm 2018 của Tổ chức Nghiên cứu khoa học và công nghiệp của
Khối thịnh vượng chung về nền kinh tế kỹ thuật số tương lai của Việt Nam cho
thấy trong năm 2020, Việt Nam cần 1 triệu nhân lực CNTT. Tuy nhiên trên thực
tế, không chỉ ở Việt Nam mà hầu như các nhà tuyển dụng trên toàn châu Á đều
gặp khó khăn trong việc tìm kiếm nhân viên CNTT đủ điều kiện để lấp đầy các
vị trí tuyển dụng. Nguyên nhân do mức lương các doanh nghiệp trả cho ứng viên
không như họ mong đợi. Điều này thể hiện rõ qua khảo sát về mức lương đang
được nhận và mức lương mong đợi theo cấp bậc của nhân viên CNTT do
Navigos Group thực hiện. Kết quả cho thấy hầu hết người tham gia khảo sát đều
cho rằng họ đang nhận được mức lương không đúng như mong đợi. Mức chênh
lệch thấp nhất vào khoảng 300 USD và cao nhất vào khoảng 1.000 USD. Cụ thể
như nhóm kỹ sư cấp quản lý tại TP HCM mong đợi mức lương 2.625 USD
nhưng thực nhận là 1.550 USD, tức đang chênh lệch khoảng 1.075 USD; nhóm
kỹ sư Front-end tại Hà Nội mong đợi mức lương 1.385 USD nhưng đang nhận
mức lương 635 USD, tức chưa bằng 1/2 so với mong đợi và chênh đến 750
USD; tương tự trường hợp chỉ nhận lương chưa bằng 1/2 so với mong đợi là
nhóm kỹ sư ngôn ngữ JavaScript với mong đợi là 1.555 USD và thực tế đang
nhận 725 USD.

3. Giải pháp phát triển nguồn nhân lực CNTT thời gian tới
Một là, đổi mới, nâng cao chất lương đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực CNTT.
Đây là giải pháp hàng đầu, giữ vai trò then chốt, chi phối, quyết định nhất
đối với việc xây dựng nguồn nhân lực CNTT chất lượng cao trong tương lai. Đặc
biệt, từ trung ương đến cơ sở cần quán triệt nghiêm chủ trương, đường lối của
Đảng về giáo dục, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài: “Đổi mới căn bản và
toàn diện giáo dục, đào tạo; phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; tăng
6


cường tiềm lực và đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ” (14). Tại Diễn đàn
kinh tế thế giới về ASEAN diễn ra ở Việt Nam tháng 9/2018, Bà Vivian Lau, Chủ
tịch JA châu Á - Thái Bình Dương cho rằng, bản chất của cuộc CMCN 4.0 là
cuộc cách mạng về con người và trọng tâm của cuộc cách mạng về con người là
cuộc cách mạng về giáo dục, đào tạo. Vì vậy, các nhà trường, cơ sở đào tạo cần có
chính sách tuyển sinh, đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cụ thể, sát điều
kiện thị trường lao động; chú trọng liên kết, hợp tác với các doanh nghiệp trong
và ngoài nước đào tạo, bồi dưỡng có trọng tâm, trọng điểm, sát điều kiện thực
tiễn, tạo nên đội ngũ kỹ sư có chất lượng ở các cấp học, bậc học khác nhau. Đồng
thời tăng cường bồi dưỡng, rèn luyện thực hành, thực tập, kỹ năng tin học, ngoại
ngữ, kiến thức quản lý nhà nước, lý luận chính trị - hành chính, văn hoá, đạo đức,
lối sống…
Bên cạnh đó, đặc biệt ưu tiên đào tạo các chuyên gia, viên chức khoa học
và công nghệ có trình độ cao, nhà quản lý giỏi, coi đây là giải pháp có tính đột
phá trong chiến lược phát triển ngành CNTT. Ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
CNTT chất lượng cao của Đảng và Nhà nước đã xác định, phù hợp với kế hoạch
phát triển ngành CNTT. Bên cạnh đó, đảm bảo sự tự do sáng tạo trong nghiên
cứu học thuật khoa học và công nghệ, nhất là CNTT. Đầu tư, liên doanh, liên
kết, nâng cấp, mở rộng hệ thống cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nhân lực chất lượng
cao với trình độ phù hợp. Khuyến khích mở các cơ sở đào tạo trình độ trên đại

học của các trường đại học danh tiếng trong nước và quốc tế, các viện nghiên
cứu đầu ngành của quốc gia, nhất là trong các lĩnh vực công nghệ cao. Chú
trọng gắn kết nghiên cứu khoa học với ứng dụng thực tế; đẩy mạnh việc xây
dựng và phát triển các nhóm nghiên cứu thế mạnh về các lĩnh vực khoa học
quan trọng, mũi nhọn, đáp ứng yêu cầu của CMCN 4.0.
Hai là, tiếp tục bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển nhân
lực CNTT chất lượng cao.
Luật Khoa học và công nghệ năm 2013 được Quốc hội thông qua có
nhiều nội dung đổi mới trong hoạt động khoa học công nghệ. Đây là một dấu
7


mốc quan trọng mở đường và tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc đẩy mạnh tổ
chức và hoạt động của khoa học công nghệ nói chung, ngành CNTT nói riêng.
Vì vậy, việc cần làm trong thời gian tới là tiếp tục thực hiện có hiệu quả các nghị
quyết, chỉ thị, quy định, đồng thời nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính
sách phát triển nhân lực CNTT chất lượng cao để đáp ứng yêu của cuộc
CMCN4.0. Trong đó, đặc biệt chú trọng thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 36NQ/TW, ngày 01/7/2014 của Bộ Chính trị khóa XI về “Đẩy mạnh ứng dụng,
phát triển công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập
quốc tế”; Nghị quyết số 36a/NQ-CP của Chính phủ, ngày 14/10/2015 về “Chính
phủ điện tử”; Quyết định số 153/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, ngày
30/01/2018, “Về việc phê duyệt chương trình, mục tiêu công nghệ thông tin giai
đoạn 2016-2020”… gần đây nhất là Nghị quyết số 26-NQ/TW của Ban Chấp
hành Trung ương (Khóa XII) “Xề xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp
chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” đã xác định
quan điểm, chủ trương xây dựng đội ngũ cán bộ toàn diện, trong đó có nhấn
mạnh yêu cầu về trình độ, năng lực CNTT trong điều kiện mới: Cán bộ đào tạo
các chức danh phải được đào tạo toàn diện cả về lý luận chính trị, chuyên môn
nghiệp vụ, kỹ năng và nghệ thuật lãnh đạo, quán lý, công nghệ thông tin, ngoại
ngữ.

Các bộ, ngành cần có kế hoạch rà soát các văn bản quy phạm pháp luật về
đào tạo, quản lý, sử dụng nguồn nhân lực CNTT để đánh giá một cách toàn diện
nhằm phát hiện kịp thời phát hiện những hạn chế, khiếm khuyết, từ đó đề xuất các
giải pháp khắc phục tồn tại, hạn chế, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp
luật về quản lý nhà nước về xây dựng nguồn nhân lực CNTT, phù hợp yêu cầu
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đặc biệt, cần chú ý bổ
sung, hoàn thiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, đãi ngộ, tôn vinh các
nhà trường, cơ sở đào tạo, đội ngũ cán bộ đi đầu, có nhiều đóng góp tiêu biểu,
quan trọng trong ngành CNTT; xây dựng, hoàn thiện cơ chế liên kết, phối hợp
chặt chẽ giữa doanh nghiệp với nhà trường và cơ quan quản lý trong đào tạo, bồi
8


dưỡng, sử dụng nguồn nhân lực CNTT chất lượng cao. Đồng thời có cơ chế,
chính sách đổi mới công tác tuyển dụng, bố trí, đánh giá và bổ nhiệm cán bộ khoa
học và công nghệ, CNTT trong cơ quan quản lý nhà nước; chính sách áp dụng
nâng lương, thưởng trước thời hạn để khuyến khích người lao động của các doanh
nghiệp.
Ba là, bảo đảm tiền lương và các chế độ đãi ngộ tốt nhất đối với nhân lực
ngành CNTT.
Trên cơ sở các quy định của nhà nước, các cơ quan, doanh nghiệp cần có
chính sách xếp lương và trả lương thoả đáng cho lực lượng làm việc trong lĩnh
vực CNTT, nhất là nhân lực có chất lượng cao, có cống hiến to lớn, đóng góp
quan trọng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng cơ
quan, doanh nghiệp. Cơ chế trả lương cần gắn với kết quả, hiệu quả thực hiện
công việc, nhiệm vụ được giao. Đây là điều rất quan trọng, bởi nếu thực hiện
được thì không chỉ thu hút, giữ chân được nhân tài, chuyên gia đầu ngành về
CNTT mà còn giúp giữ gìn phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp của người lao động.
Hiện nay, để thu hút nhân lực chất lượng cao ngành CNTT, nhiều cơ quan,
doanh nghiệp đã áp dụng nhiều chính sách như xếp lương cao, thưởng Tết,

thưởng theo dự án, sản phẩm công nghệ… cho cán bộ, nhân viên. Tuy nhiên,
trên thực tế chỉ 40% nhân lực CNTT cảm thấy hài lòng và hơn 8% trong số đó
được bảo đảm tốt so với chế độ lương, thưởng hiện tại, số còn lại cảm thấy bình
thường và không hài lòng ở mức độ khác nhau. Nhóm không hài lòng chiếm hơn
20%, với lý do bởi mức lương, thưởng quá thấp. Vì vậy, để bảo đảm, nâng cao
chất lượng cuộc sống của người lao động, cần chi trả mức lương, thưởng hợp lý
với từng đối tượng, theo chất lượng, hiệu quả công việc, tương xứng với trình độ
và đóng góp của họ.
Bốn là, tăng cường hợp tác quốc tế về xây dựng, phát triển nguồn nhân
lực CNTT đáp ứng yêu cầu CMCN 4.0.
Trước những yêu cầu, đòi hỏi cấp bách của cuộc CMCN 4.0, nhân lực
ngành CNTT phải được xây dựng, phát triển toàn diện mới có thể tham gia hội
9


nhập sâu rộng vào nền kinh tế trí thức của thế giới. Trong bối cảnh năng lực đào
tạo, khả năng tài chính, trình độ giáo dục, đào tạo kỹ sư CNTT của một số nhà
trường ở nước ta còn bất cập so với các nước trong khu vực, thì giải pháp về
tăng cường hợp tác quốc tế về xây dựng, phát triển nguồn nhân lực CNTT nhằm
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là vô cùng cần thiết và quan trọng.
Theo đó, các chương trình hợp tác quốc tế về xây dựng, phát triển nhân lực
CNTT cần được tiến hành trên những vấn đề cụ thể như: Thực hiện chính sách
hỗ trợ về tài chính từ ngân sách nhà nước và huy động các nguồn vốn xã hội
hoá, kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài nhằm xây dựng một số nhà trường đạt chuẩn
quốc tế; xúc tiến, thu hút một số trường đại học có đẳng cấp quốc tế về CNTT
vào Việt Nam hoạt động; tăng cường hợp tác với các nước có trình độ khoa học
công nghệ, CNTT phát triển cao trong đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên ở
các bậc học.
Chú trong liên kết, phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường - doanh nghiệp - cơ
quan quản lý trong và ngoài nước trong nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao

CNTT hiện đại trên các lĩnh vực như trí tuệ nhân tạo (AI), lưu trữ đám mây, thực
tế ảo (VR), thực tế tăng cường (AR), blockchain, Internet vạn vật (IoT), thương
mại điện tử, quy trình kinh doanh và gia công phần mềm CNTT. Nhà nước cần
có cơ chế, chính sách khích lệ, động viên các nhà trường, cơ sở đào tạo và doanh
nghiệp chủ động xây dựng chương trình, hợp tác với các tổ chức quốc tế, tổ
chức phi chính phủ nhằm thu hút đội ngũ giáo viên, sinh viên tình nguyện quốc
tế đến Việt Nam tham gia công tác giảng dạy, thực hành, thực tập, nghiên cứu,
ứng dụng, phát triển khoa học CNTT, đặc biệt là một số lĩnh vực mũi nhọn…
Thông qua đó từng bước xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách trong hợp tác
quốc tế về xây dựng, phát triển nguồn nhân lực CNTT đáp ứng yêu cầu CMCN
4.0, tạo động lực thúc đẩy ngành CNTT phát triển toàn diện và bền vững.
4. Kết luận
Nguồn nhân lực CNTT giữ vị trí, vai trò quan trọng, lực lượng tiên phòng,
đi đầu trong thời đại CMCN 4.0, đưa nước ta sớm trở thành nước công nghiệp
10


theo hướng hiện đại. Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành CNTT thời
gian tới, Đảng, Nhà nước ta cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật
về quản lý, xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao. Các trung tâm, cơ sở đào
tạo xác định, hoàn thiện cơ chế liên kết, phối hợp với doanh nghiệp trong và
ngoài nước tích cực đào tạo, bồi dưỡng, thu hút, trọng dụng, đãi ngộ xứng đáng
nhân tài CNTT. Phát triển thành công nguồn nhân lực CNTT chất lượng cao vừa
là nhiệm vụ chính trị quan trọng, đồng thời trực tiếp tạo nền tảng, động lực thúc
đẩy kinh tế - xã hội phát triển, góp phần xây dựng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới - thời đại công nghệ số, CMCN 4.0
hiện nay./.
Tài liệu tham khảo:
(1): Kristine Sydhagen - Peter Cunningham (2007), “Human Resource Development
International”, The Academy of Human Resource Development, Volume 10, Number 2. June.

(2): Julia Storberg - Walker Claire Gubbins (2007), “Social Networks as a Conceptual
and Empirical Tool to Understand and ‘Do’ HRD”, Advances in Developing Human
Resources, The Academy of Human Resource Development Vol. 9 Number 3, August, 2007,
Sage Publications, Georgia, USA, pp. 293-294.
(3): Greg G. Wang and Judy Y. Sun (2009), “Perspectives on Theory Clarifying the
Boundaries of Human Resource Development”, Human Resource Development International,
Volume 12, Number 1, Feb., 2009, pp. 93-103.
(4): Abdullah Haslinda (2009), “Definition of HRD: Key Concepts from a National
and International Context”, European Journal of Social Sciences - Volume 10, Number 4.
(5):

Frederick

W.Kagan

(2011)

“The

US

Military's

Manpower

Crisis”,FOREIGNAFFAIRS, />(6): Trần Khánh Đức (2010), Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực trong thế kỷ XXI,
Nxb Giáo dục Việt Nam, H
(7): Nguyễn Ngọc Phú (2010), Nguồn nhân lực và nhân tài cho phát triển xã hội và quản lý
phát triển xã hội ở Việt Nam trong tiến trình đổi mới, Đề tài khoa học KX.02.24/06, H. tr.12.
(8): Lê Thị Hồng Điệp (2010), Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để hình

thành nền kinh tế tri thức ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội.
(9): Phạm Đức Tiến (2014) “Kinh tế tri thức trong thế giới đương đại”, Chuyên đề số 37 thuộc
Đề tài KX.04-20/11-15, Chương trình Nghiên cứu khoa học Lý luận chính trị, giai đoạn 2011 – 2015.
11


(10): Hoàng Chí Bảo, Phạm Đức Tiến (2016), “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao trong bối cảnh hội nhập quốc tế”, Tạp chí Tuyên giáo (7), tr. 65-68
(11): Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, năm 2011, tr.
222.
(12): Trần Văn Giàu (1995), Con người thế kỷ XXI, Nghiên cứu con người, giáo dục,
phát triển và thế kỷ XXI, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế từ 27 - 29/7/1994 tại Hà Nội,
tr.412.
(13): Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Báo cáo công tác tuyển sinh đại học, cao đẳng
trình Chính phủ, Hà Nội.
(14): Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn
phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, tr.26.
15. Quyết định số 418/QĐ-TTgngày 11/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt
Chiến lược phát triểnkhoa học và công nghệ giai đoạn 2011- 2020.
16. Ban Tuyên giáo Trung ương (2018), Tài liệu nghiên cứu các Văn kiện Hội nghị
lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa XI (Dùng cho cán bộ chủ chốt, báo cáo
viên), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

12



×