Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

LUẬN VĂN: PHÁT TRIỂN VĂN HÓA ỨNG XỬ CỦA HỌC VIÊN Ở TRƯỜNG SĨ QUAN CHÍNH TRỊ HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (366.08 KB, 86 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Ch¬ng MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN PHÁT

Trang
3

1 TRIỂN VĂN HOÁ ỨNG XỬ CỦA HỌC VIÊN Ở
TRƯỜNG SĨ QUAN CHÍNH TRỊ
9
1.1.

Một số vấn đề lý luận phát triển văn hoá ứng xử của
9

1.2.

học viên ở Trường Sĩ quan Chính trị
Thực trạng và nguyên nhân phát triển văn hóa ứng xử

của học viên ở Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay
Ch¬ng 2 NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VÀ GIẢI PHÁP

29

PHÁT TRIỂN VĂN HOÁ ỨNG XỬ CỦA HỌC VIÊN
47

2.1.

Ở TRƯỜNG SĨ QUAN CHÍNH TRỊ HIỆN NAY


Những yếu tố tác động đến phát triển văn hóa ứng xử

46

2.2.

của học viên ở Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay.
Một số giải pháp phát triển văn hoá ứng xử của học viên
ở Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

57
81
83
86


2
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ
Chính trị viên
Công tác đảng, công tác chính trị
Môi trường văn hoá
Quân đội nhân dân
Trường Sĩ quan Chính trị

Chữ viết tắt

CTV
CTĐ, CTCT
MTVH
QĐND
TSQCT


3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển văn hoá ứng xử của học viên ở Trường Sĩ quan Chính trị hiện
nay là một nội dung hết sức quan trọng trong quá trình giáo dục - đào tạo của
Nhà trường. Với mục tiêu đào tạo đội ngũ chính trị viên tương lai có đủ phẩm
chất, năng lực, trong đó những giá trị văn hoá nói chung và văn hoá ứng xử nói
riêng là một yếu tố quan trọng, có vai trò ngày càng tăng trong quá trình hoàn
thiện nhân cách người học viên theo mục tiêu, yêu cầu đào tạo, đáp ứng yêu
cầu xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Văn hóa ứng xử của học viên đào tạo chính trị viên không phải tự
nhiên có, cũng không phải hình thành một lần là xong mà được phát triển
trong quá trình lâu dài, phức tạp, chịu tác động của nhiều yếu tố như: môi
trường; nhận thức và hoạt động của các lực lượng quản lý, giáo dục; quy
trình giáo dục và tự giáo dục; trong đó giáo dục, bồi dưỡng và tự giáo dục,
tự bồi dưỡng ở nhà trường có vai trò quan trọng hàng đầu.
Những năm qua, công tác phát triển văn hoá ứng xử cho học viên đào
tạo ở TSQCT đã được Đảng uỷ, Ban Giám hiệu, các cơ quan, khoa giáo
viên và đơn vị hết sức quan tâm, xác định nội dung, phương pháp và hình
thức giáo dục phù hợp cho các đối tượng, đồng thời mỗi học viên phát huy
tính tích cực, tự giác tu dưỡng, rèn luyện đã tạo ra bước phát triển mới về
văn hoá ứng xử.
Những năm gần đây, do tác động của nhiều nguyên nhân khách quan và

chủ quan, một số học viên đã có những biểu hiện lệch chuẩn về giá trị, chuẩn
mực văn hóa ứng xử trong quan hệ với cấp trên, với đồng đội và nhân dân…
Do đó, đã ảnh hưởng, cản trở sự phát triển, hoàn thiện nhân cách chính trị
viên, làm xấu đi hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”; ảnh hưởng đến chất lượng giáo
dục - đào tạo, xây dựng Nhà trường tiên tiến, chính quy, mẫu mực. Vì vậy,
phát triển văn hoá ứng xử của học viên đào tạo chính trị viên ở TSQCT đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ là vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp thiết cần được nhận thức


4
và thực hiện trên cơ sở khoa học. Điều đó đã tạo thôi thúc tác giả lựa chọn
vấn đề: “Phát triển văn hóa ứng xử của học viên ở Trường Sĩ quan Chính
trị hiện nay” làm đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sĩ triết học.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
* Các công trình nghiên cứu của nước ngoài
Đã có một số công trình khoa học trực tiếp nghiên cứu về vấn đề liên
quan đến luận văn với nhiều góc độ tiếp cận khác nhau, ở các phạm vi khác
nhau, trong đó nổi bật là: lý luận về văn hoá và nhân cách.
Khi nghiên cứu văn hoá và nhân cách, đặc biệt văn hoá và nhân cách
trong điều kiện chủ nghĩa xã hội phát triển, các nghiên cứu của
AV.Lunatsaroxki, PN.Phedoxeep, AG.Egorop, GI.Gomman, AK.Uledop và
LN.Cogan (Liên Xô) đã luận chứng khá sâu sắc dưới góc độ triết học, xã
hội học; chỉ ra sự tương tác chặt chẽ giữa văn hoá và nhân cách; khẳng
định: sự tồn tại trọn vẹn của con người, sự phát triển toàn diện lực lượng
sáng tạo, trí tưởng tượng, đời sống tình cảm cũng như đời sống thể lực của
con người, đó là các hiện tượng cơ bản của văn hoá. GS La Quốc Kiệt, nhà
nghiên cứu ở Trung Quốc, trong “Tu dưỡng đạo đức tư tưởng” (2003) đã đưa
ra quan điểm về nhân cách, giá trị, luận chứng bản chất và sự thống nhất giữa
giá trị bản thân và giá trị xã hội trong nhân cách; đặc biệt, đã làm rõ khái niệm
“tố chất văn hoá”, coi đó là tố chất cơ sở, nó thẩm thấu và ảnh hưởng rất mạnh

đối với sự hình thành, phát triển các tố chất khác. Việc tu dưỡng tố chất văn
hoá là điều kiện tiên quyết nhằm hoàn thiện nhân cách ở mỗi người. Tuy nhiên
“văn hoá” ở đây chỉ được hiểu theo nghĩa hẹp, tức là “trình độ học vấn”.
* Các công trình nghiên cứu trong nước
Về văn hoá và vai trò của văn hoá: ngay từ khi thành lập, Đảng ta và Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã coi phát triển văn hoá gắn với phát triển kinh tế - xã hội là
nhiệm vụ vừa cấp bách vừa lâu dài. Đề cương văn hoá Việt Nam(1943) xác
định những đặc trưng của nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là: dân tộc, khoa
học, đại chúng. Tư tưởng đó ngày càng được bổ sung, hoàn thiện và cụ thể hoá
phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong các kỳ Đại hội của


5
Đảng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011) tiếp tục khẳng định: “Phát triển toàn diện, đồng
bộ các lĩnh vực văn hoá, vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa
tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, xử lý tốt mối quan hệ giữa kinh tế và
văn hoá để văn hoá thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là một động lực
phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Tập trung xây dựng đời sống, lối
sống và môi trường văn hoá lành mạnh; coi trọng văn hoá trong lãnh đạo, quản
lý, văn hoá trong kinh doanh và văn hoá trong ứng xử”[9, tr. 126].
Lý luận và vai trò của Văn hoá quân sự được nhiều công trình, luận án và
luận văn khoa học đề cập tới: “Văn hoá quân sự một văn hoá độc đáo Việt
Nam”, các tác giả đặc biệt đi sâu phân tích làm rõ biểu hiện đặc thù như: văn
hoá quân sự gắn liền với nếp sống chính quy, văn hoá chỉ huy và văn hoá lãnh
đạo, văn hoá chiến hào, văn hoá đánh giặc và đánh giặc có văn hoá… Tổng cục
Chính trị “Chặng đường 5 năm thực hiện cuộc vận động xây dựng môi truờng
văn hoá trong các đơn vị quân đội” đã đăng tải tiêu chuẩn đơn vị có môi
trường văn hoá tốt, những kinh nghiệm xây dựng môi trường văn hoá ở một số
loại hình đơn vị cơ sở thuộc quân khu, quân đoàn, quân chủng. TS Văn Đức

Thanh (2001), về xây dựng MTVH cơ sở, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội;
PGS, TS Lê Văn Quang chủ biên “Giáo trình văn hoá học”, Nxb QĐND, H.
2002; PGS, TS Văn Đức Thanh chủ biên “Giáo trình văn hoá học”, Nxb
QĐND, H. 2009 trình bày những vấn đề cơ bản nhất của văn hoá với tư cách
là đối tượng nghiên cứu của Văn hoá học, làm rõ khái niệm văn hoá, đặc
trưng, tính chất và phân loại văn hoá, văn hoá quân sự; đặc biệt nhấn mạnh việc
nhận thức và vận dụng quy luật phát triển văn hoá trong sự nghiệp xây dựng
văn hoá quân sự theo quan điểm của Đảng ta. Đoàn Mô, chủ biên đề tài “Nâng
cao chất lượng hoạt động văn hoá ở đơn vị cơ sở trong Quân đội nhân dân
Việt Nam hiện nay”, luận giải tương đối toàn diện việc tổ chức các hoạt động
văn hoá ở đơn vị cơ sở trong quân đội. Võ Văn Ninh, luận văn thạc sĩ: “Nâng
cao trình độ văn hoá pháp luật cho học viên cấp phân đội ở Học viện Chính


6
trị Quân sự hiện nay”, luận giải những vấn đề về trình độ và biểu hiện trình
độ văn hoá pháp luật; vai trò của việc nâng cao trình độ văn hoá pháp luật
cho học viên cấp phân đội ở Học viện Chính trị Quân sự; đồng thời đề xuất một
số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao trình độ văn hoá pháp luật cho họ trong
giai đoạn hiện nay.
Văn hoá ứng xử và vai trò của văn hoá ứng xử được nhiều công trình
quan tâm nghiên cứu và luận giải sâu sắc ở nhiều góc độ khác nhau. Trần
Thuý Anh, “Vài nét về ứng xử xã hội của người Việt”, Tạp chí Hà Nội ngày
nay, số 94, tháng 01/2002, khẳng định: truyền thống ứng xử xã hội là di sản
văn hoá, hành trang đặc biệt cần thiết của người Việt Nam và tập trung làm rõ,
chỉ ra đặc trưng căn bản trong cách ứng xử truyền thống của người Việt Nam.
Phan Quang Long, luận văn thạc sĩ ( 2005) “ Văn hóa ứng xử của người Hà
Nội trong thời kỳ đổi mới hiện nay” đã đề cập đến những quan niệm, đặc
điểm, thực trạng và đề ra những giải pháp trong xây dựng văn hóa ứng xử cho
người Hà Nội trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Phạm Minh Thảo, “Hỏi đáp về

văn hoá ứng xử của người Việt”, Nxb QĐND, 2008, tác giả đưa ra một loạt
câu hỏi liên quan đến những tình huống căn bản nhất của văn hoá ứng xử,
đồng thời trả lời một cách khái quát nhưng đầy đủ, sâu sắc thông qua những ví dụ
thực tiễn, dẫn chứng sinh động. TS Đoàn Trọng Thiều, “Giáo dục văn hoá giao
tiếp trong nhà trường: giáo dục cái tâm, cái đẹp”; Đại học Sư phạm Thành phố
Hồ Chí Minh, Kỷ yếu Hội thảo: Giáo dục văn hoá giao tiếp trong nhà trường,
tháng 12/2009, cho rằng: giáo dục văn hoá giao tiếp có nhiều giải pháp, nhưng
giải pháp quan trọng nhất là giáo dục về cái tâm, làm cho mọi người có cái tâm
trong sáng, lương thiện, giáo dục về cái đẹp và xây dựng các nguyên tắc giao tiếp.
Nguyễn Tú, Minh Thu, “Chiến sĩ nói lời hay, nếp sống đẹp”, Báo QĐND, thứ 6,
ngày 07/08/2011, chỉ ra tầm quan trọng của việc bồi dưỡng, xây dựng văn hoá
ứng xử cho học viên, chiến sĩ phù hợp với môi trường quân đội không chỉ góp
phần xây dựng môi trường văn hoá trong đơn vị mà còn giúp họ phát triển toàn


7
diện, đẹp cả về thể chất lẫn tinh thần. TS Đào Huy Tín (2012) chủ biên, “Bồi
dưỡng văn hoá ứng xử cho học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội trong nhà
trường quân đội hiện nay”, đề tài cấp Tổng cục Chính trị, đã làm rõ quan niệm về
văn hoá ứng xử, bồi dưỡng văn hoá ứng xử, đánh giá thực trạng, dự báo những
nhân tố tác động và đề xuất các giải pháp cơ bản bồi dưỡng văn hoá ứng xử cho
học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội trong nhà trường quân đội hiện nay.
Trước những biến động trong nước, quốc tế hiện nay và yêu cầu ngày càng
cao của sự nghiệp cách mạng, xây dựng quân đội, xây dựng đội ngũ cán bộ
chính trị theo tinh thần Nghị quyết 51 của Bộ chính trị, đòi hỏi người chính trị
viên phải phát triển toàn diện, trong đó có trình độ văn hóa ứng xử đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ. Tuy vậy, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách cơ
bản, hệ thống về phát triển văn hoá ứng xử cho học viên ở TSQCT, trong khi vấn
đề này đang cần được làm sáng tỏ cả về phương diện lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

* Mục đích: Làm rõ một số vấn đề lý luận, thực tiễn và đề xuất giải
pháp phát triển văn hoá ứng xử của học viên ở TSQCT hiện nay
* Nhiệm vụ:
Làm rõ một số vấn đề lý luận về phát triển văn hóa ứng xử của học
viên ở TSQCT.
Đánh giá thực trạng và đề xuất một số giải pháp phát triển văn hóa ứng
xử của học viên ở TSQCT hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Phát triển văn hóa ứng xử của học viên ở TSQCT.
* Phạm vi nghiên cứu: Phát triển văn hóa ứng xử của học viên đào tạo
chính trị viên, trình độ đại học (5 năm) ở TSQCT từ năm 2008 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Hệ thống các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam,


8
Quân ủy Trung ương, Đảng ủy TSQCT về vấn đề văn hóa, văn hóa ứng xử
của người quân nhân cách mạng và người học viên đào tạo chính trị viên.
* Cơ sở thực tiễn: là thực tế phát triển văn hóa ứng xử của học viên ở
TSQCT hiện nay qua báo cáo tổng kết của các cơ quan, đơn vị trong Nhà
trường và kết quả điều tra, khảo sát của tác giả.
* Phương pháp nghiên cứu: Vận dụng tổng hợp phương pháp luận
chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và một số phương
pháp cụ thể khác như: Phương pháp lịch sử và lô gich, phương pháp khái
quát hóa, trừu tượng hóa, điều tra xã hội học, nghiên cứu tài liệu, quan sát
và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả của luận văn góp phần nâng cao hiệu quả phát triển văn hóa ứng
xử của học viên ở TSQCT hiện nay
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy

và phát triển văn hóa ứng xử của học viên ở TSQCT và học viên đào tạo sĩ quan
cấp phân đội ở các nhà trường quân đội.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm phần mở đầu; 2 chương (4 tiết); kết luận; danh mục tài
liệu; tham khảo và phụ lục.


9
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN VĂN
HOÁ ỨNG XỬ CỦA HỌC VIÊN Ở TRƯỜNG SĨ QUAN CHÍNH TRỊ
1.1. Một số vấn đề lý luận phát triển văn hoá ứng xử của học viên ở
Trường Sĩ quan Chính trị
1.1.1. Văn hoá ứng xử và biểu hiện của nó ở học viên Trường Sĩ
quan Chính trị
* Văn hóa và văn hóa ứng xử
Năm 2002, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hiệp
Quốc (United Nations Educational Scentific Cultural Organization gọi tắt là
UNESCO) đã đưa ra định nghĩa về văn hóa: Văn hóa nên được đề cập đến
như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, trí thức và xúc
cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài
văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá
trị, truyền thống và đức tin. Trong Từ điển Triết học, văn hóa được định
nghĩa: “Văn hoá - toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người
tạo ra trong quá trình thực tiễn xã hội - lịch sử và tiêu biểu cho trình độ đạt
được trong lịch sử phát triển xã hội... Văn hoá là một hiện tượng lịch sử, phát
triển phụ thuộc vào sự thay thế các hình thái kinh tế - xã hội” [43, tr. 656]
Từ những cách định nghĩa trên, có thể khẳng định văn hóa có nghĩa
chính là trở thành đẹp, thành có giá trị, đó là giá trị Chân - Thiện - Mỹ. Sáng
tạo, nhân đạo, cao đẹp chính là bản chất của văn hóa. Văn hóa với ý nghĩa

chân chính là sự hoạt động có ý thức và sáng tạo, là hệ thống giá trị mà cốt
lõi là hệ thống tư tưởng. Trong mối quan hệ khách thể - chủ thể, văn hóa là
những giá trị xã hội khách quan, là giá trị nhân cách được biểu hiện trong ý
thức, thái độ, hành vi, nhu cầu, nếp sống... của con người.
Ứng xử là từ ghép gồm “ứng” và “ xử” gắn với nhau. “Ứng” là ứng
đối, ứng phó, đối phó với sự tác động từ bên ngoài. “Xử” là xử thế, xử lí,
xử sự…theo cách riêng của mỗi người trước tác động từ bên ngoài đến


10
họ. Ứng xử là phản ứng của con người đối với sự tác động từ bên ngoài
đến mình trong một tình huống cụ thể nhất định. Về bản chất ứng xử là
động từ chỉ thái độ, hành vi, lời nói của một người khi tiếp xúc với người
xung quanh.
Nếu như văn hoá là cái đẹp nhân bản kết tinh từ những tinh hoa của dân
tộc, nhân loại, là nền tảng vững chắc để duy trì sự tồn tại, phát triển xã hội thì
văn hoá ứng xử là nét đẹp trong quan hệ với tự nhiên, với xã hội và với chính
bản thân con người.
Ở góc độ nghiên cứu của đề tài, tác giả tiếp cận khái niệm văn hoá ứng xử
theo nghĩa hẹp: là thái độ, hành vi ứng xử của con người trong giải quyết các
mối quan hệ với xã hội, với bản thân mình theo những giá trị, chuẩn mực văn
hoá phù hợp với yêu cầu và lợi ích xã hội. Theo khái niệm này, văn hoá ứng xử
chỉ bao gồm hai chiều quan hệ: với xã hội, với bản thân. Hồ Chí Minh đã viết:
“Bất kỳ ở tầng lớp nào, giữ địa vị nào, làm nghề nghiệp gì, sự hoạt động của
một người trong xã hội có thể chia làm 3 mặt:
1. Mình đối với mình.
2. Mình đối với người.
3. Mình đối với công việc” [25, tr. 643].
Về thực chất, Hồ Chí Minh nói đến cách thức con người thể hiện với
người khác, với công việc và với mình ra sao. Hay nói cách khác, là cách thức

để con người chung sống và làm việc với người khác, là đối nhân, xử thế.
Văn hoá ứng xử có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống tinh thần của
nhân loại nói chung và dân tộc Việt Nam nói riêng. Ứng xử có văn hoá không
chỉ tạo nên vẻ đẹp cho từng cá nhân, mà còn phản ánh bản sắc văn hoá của một
cộng đồng, quốc gia, dân tộc. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “cán bộ phải có văn hoá làm
gốc” [25, tr. 224], mới giải quyết đúng đắn và hiệu quả các quan hệ phức tạp
trong cuộc sống. Muốn có cách ứng xử đúng chuẩn mực văn hoá phải có tri
thức sâu rộng cùng với bản lĩnh, tài năng và trải qua quá trình bồi dưỡng, học
tập, tiếp thu nghiêm túc.


11
Văn hoá ứng xử của học viên ở Trường Sĩ quan Chính trị
Trường Sĩ quan Chính trị là trung tâm đào tạo cán bộ chính trị cấp phân
đội cho toàn quân. Học viên ở TSQCT gồm: những học sinh phổ thông, hạ
sĩ quan, chiến sĩ, trung đội trưởng - quân nhân chuyên nghiệp, cán bộ
chuyên môn kỹ thuật chưa có bằng cử nhân, những cử nhân đã tốt nghiệp
đại học ở các trường trong và ngoài quân đội, có đủ tiêu chuẩn về chính trị,
đạo đức, văn hoá, sức khoẻ; đã trúng tuyển kỳ thi tuyển sinh quân sự hoặc cử
tuyển theo quy chế hiện hành, được đào tạo để trở thành CTV trong Quân đội
và Công an nhân dân Việt Nam, giảng viên khoa học xã hội nhân văn quân sự.
Nhưng luận văn chỉ tập trung nghiên cứu đối tượng học viên đào tạo CTV có
trình độ đại học theo chương trình 5 năm.
Đặc điểm cơ bản của học viên đào tạo chính trị viên.
Học viên được tuyển chọn kỹ lưỡng theo tiêu chuẩn tuyển sinh của Bộ Giáo
dục - Đào tạo và Bộ Quốc phòng. Số con em đồng bào các dân tộc thiểu số được
cử tuyển cũng là những người có đủ phẩm chất và trình độ cần thiết theo yêu cầu
đầu vào bậc đại học. Họ có động cơ học tập, rèn luyện đúng đắn và xu hướng
nghề nghiệp rõ ràng; hầu hết còn ở lứa tuổi thanh niên đang độ trưởng thành, rất
sôi nổi, nhiệt tình, hăng hái, ham học hỏi cầu tiến bộ, nhạy cảm với cái mới.

Dù điểm xuất phát không giống nhau, nhưng khi trở thành học viên, họ là
những quân nhân, được học tập, rèn luyện trong môi trường văn hoá sư phạm quân
sự, được tổ chức và quản lý chặt chẽ, với sự giúp đỡ, hướng dẫn trực tiếp của đội ngũ
giảng viên, cán bộ quản lý có phẩm chất đạo đức, lối sống, trình độ kiến thức và văn
hoá ứng xử cao. Ở môi trường ấy, họ tham gia vào các mối quan hệ văn hóa đa
dạng, phong phú và đã có cách ứng xử theo những giá trị, chuẩn mực văn hóa phù
hợp với đặc điểm, cương vị chức trách theo mục tiêu, yêu cầu đào tạo của Nhà
trường.
Tuy nhiên, xét tổng thể các đối tượng đào tạo, đội ngũ này còn bộc lộ sự
chênh lệch nhất định về trình độ nhận thức, trình độ giác ngộ, sự trải nghiệm;


12
đặc biệt, do đến từ nhiều vùng, miền, đơn vị, dân tộc khác nhau, chịu ảnh hưởng
rất lớn của phong tục, tập quán, lối sống, thói quen ở từng vùng, miền, nên trình
độ nhận thức và hành vi ứng xử theo chuẩn mực văn hoá cũng rất khác nhau.
Quá trình học tập và rèn luyện tại Trường, học viên trải qua quá trình xã
hội hoá song song, họ vừa tiếp thu các chuẩn mực, giá trị văn hoá quân sự để trở
thành quân nhân; thành sĩ quan, cán bộ trong quân đội; vừa tiếp thu các chuẩn
mực, giá trị văn hoá của người cán bộ chính trị để trở thành CTV. Đặc điểm đó
làm cho quá trình phát triển để trở thành quân nhân - sĩ quan - cán bộ chính trị của
học viên phức tạp và khó khăn. Hơn nữa, sau khi ra trường, họ là người chủ trì
công tác đảng, công tác chính trị, có trách nhiệm trực tiếp xây dựng đơn vị
vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; giữ vững, phát huy bản chất giai
cấp công nhân, tính nhân dân, tính cách mạng của “Bộ đội Cụ Hồ”; cùng với
người chỉ huy chịu trách nhiệm chủ yếu trong giải quyết mọi quan hệ trong đơn
vị, với nhân dân địa phương nơi đóng quân. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đối với bộ
đội, chính trị viên phải luôn luôn chăm sóc đến sinh hoạt vật chất của họ: ăn, mặc,
ở, nghỉ, tập luyện, công tác, sức chiến đấu. Về mặt tinh thần phải chăm sóc đến
nâng cao kỷ luật, bài trừ hủ hoá, phát triển văn hoá và đường lối chính trị trong bộ

đội…” [19, tr. 392]. Điều đó quy định mục tiêu, yêu cầu đào tạo CTV vừa là
người lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, vừa là nhà tâm lý, nhà giáo dục, đồng thời phải
có trình độ văn hóa ứng xử tương xứng.
Văn hóa ứng xử của học viên ở TSQCT là thái độ, hành vi ứng xử
của người học viên trong giải quyết các mối quan hệ với xã hội, với bản
thân và chức trách, nhiệm vụ theo những giá trị, chuẩn mực văn hoá đáp
ứng mục tiêu yêu, cầu đào tạo.
Đặc trưng căn bản nhất trong văn hoá ứng xử của học viên là thái độ, hành
vi ứng xử của họ trong các mối quan hệ giao tiếp.
Thái độ ứng xử của học viên thể hiện ở vốn tri thức về văn hoá ứng xử, tình
cảm, niềm tin vào hệ thống giá trị, chuẩn mực văn hoá xã hội và quân đội. Trên


13
cơ sở tri thức, tư tưởng về văn hoá ứng xử, tình cảm, niềm tin của học viên
vào các giá trị, chuẩn mực văn hoá được củng cố và không ngừng được bồi
dưỡng phát triển. Tình cảm, niềm tin vào các giá trị, chuẩn mực văn hoá giữ
vai trò động cơ thúc đẩy, điều chỉnh hành vi ứng xử của học viên theo hướng
tích cực, tiến bộ, đúng với chuẩn mực văn hoá xã hội và quân đội.
Hành vi ứng xử của học viên thể hiện ở sự phản ứng, cách ứng xử theo giá
trị, chuẩn mực văn hoá trở thành thói quen, nếp sống và nhu cầu thường xuyên với
tư cách là những phẩm chất nhân cách của họ. Cách ứng xử của học viên trên cơ
sở tư tưởng, tình cảm, niềm tin, là quá trình hiện thực hoá thái độ ứng xử của họ
trong một tình huống cụ thể. Do vậy, hành vi ứng xử của học viên được chỉ đạo
bởi vốn tri thức văn hoá ứng xử, tình cảm, niềm tin và trách nhiệm, biến thành
nhu cầu, động cơ thôi thức họ hành động.
Văn hoá ứng xử của học viên ở TSQCT có điểm chung, thống nhất vừa có
nét đặc thù so với văn hoá ứng xử của cán bộ, chiến sĩ quân đội ta. Nét đặc thù
văn hoá ứng xử của học viên ở TSQCT là mọi giá trị, chuẩn mực văn hoá phải gắn
với đặc điểm, cương vị, chức trách người học viên đào tạo CTV. Trong Nhà

trường, người học viên tham gia vào nhiều mối quan hệ: quan hệ giữa giảng viên
với học viên, cấp trên với cấp dưới, quan hệ đồng chí đồng đội, quan hệ quân
dân… Mỗi mối quan hệ đòi hỏi người học viên phải có thái độ, hành vi ứng xử
theo những giá trị, chuẩn mực văn hoá, phù hợp với đặc điểm, cương vị, chức
trách của mình. Vì vậy, văn hóa ứng xử của học viên ở TSQCT là một chỉnh thể
toàn vẹn các giá trị, chuẩn mực văn hoá, phản ánh đầy đủ những yêu cầu khách
quan của nhiệm vụ học tập, rèn luyện theo mục tiêu, yêu cầu đào tạo với nỗ lực
chủ quan của họ. Có thể khái quát văn hoá ứng xử của học viên ở TSQCT trên
các nhóm chủ yếu: giá trị, chuẩn mực văn hoá ứng xử về mục đích, lý tưởng
cách mạng; trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ; trong sinh hoạt hoạt hàng
ngày.
Thứ nhất, nhóm giá trị, chuẩn mực văn hoá ứng xử về mục tiêu, lý tưởng
cách mạng


14
Là CTV, bí thư chi bộ tương lai, người giương cao ngọn cờ chính trị, tư
tưởng của Đảng, giữ vững và phát huy sự lãnh đạo của Đảng trong mọi hoạt
động của đơn vị, cho nên sự kiên định, vững vàng về mục tiêu, lý tưởng cách
mạng là cốt lõi trong văn hoá ứng xử của người học viên. Hồ Chí Minh đã chỉ
ra yêu cầu đối với người chính trị viên đó là: phải là người giác ngộ cách
mạng sâu sắc, nhận thức cách mạng vững vàng, lý luận cách mạng cứng cáp.
Đồng thời phải là người có kinh nghiệm chính trị dồi dào
Do vậy, “Trung với Đảng, hiếu với dân sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì
độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn
thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng” là thái độ,
cách ứng xử văn hoá cơ bản nhất, đúng đắn nhất của họ góp phần thực hiện
mục tiêu, lý tưởng cách mạng. Đó cũng là những giá trị, chuẩn mực văn hóa
ứng xử quan trọng hàng đầu đối với mỗi người học viên ở TSQCT, Bởi vì,
những giá trị, chuẩn mực này thấm sâu vào toàn bộ tư tưởng, tình cảm định

hướng thái độ, hành vi ứng xử của mỗi học viên trong các mối quan hệ: với
Đảng, Tổ quốc, nhân dân, đoàn thể, đồng chí đồng đội…trong suốt quá trình
học tập công tác tại Trường và thực hiện nhiệm vụ theo chức trách lãnh đạo,
chỉ huy trong tương lai.
Thứ hai, nhóm giá trị, chuẩn mực văn hóa ứng xử trong thực hiện chức
trách, nhiệm vụ
Ham học hỏi, cầu tiến bộ
Học tập, rèn luyện phát triển toàn diện cả phẩm chất và năng lực trong
đó trình độ học vấn và chuyên môn nghiệp vụ cao là những yếu tố cơ bản,
quan trọng của học viên ở TSQCT. Vì, CTĐ, CTCT là một khoa học - khoa
học về xây dựng con người và tổ chức của con người trong hoạt động quân
sự.Cho nên, họ phải có trình độ nhận thức, sự thông hiểu về văn hóa, khoa
học kỹ thuật, trực tiếp là tri thức chuyên ngành CTĐ,CTCT; phương pháp, tác
phong công tác và khả năng vận dụng vào các điều kiện, tình huống cụ thể


15
đáp ứng mục tiêu đào tạo. Nó là cơ sở, nền tảng hình thành thế giới quan,
phương pháp luận khoa học, năng lực, chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ học
viên. Đúng như Lênin đã khẳng định: “Giữ vững vai trò lãnh đạo toàn bộ
phong trào, đương nhiên không phải là giữ vững bằng uy quyền mà là bằng
uy tín, bằng nghị lực, bằng kinh nghiệm phong phú hơn, bằng kiến thức về
nhiều mặt hơn và bằng tài năng nhiều hơn” [12, tr.15]. Vì vậy, học viên đào tạo
CTV phải không ngừng nâng cao trình độ học vấn, trình độ chuyên môn nghiệp
vụ, tích cực, chủ động nghiên cứu, học tập mọi lúc, mọi nơi; tranh thủ học thầy,
học bạn, học trong sách vở, trong thực tiễn quân sự và sinh hoạt hàng ngày ở
Nhà trường để không ngừng phát triển, hoàn thành mục tiêu đào tạo.
Độc lập, sáng tạo, năng động, nhạy bén
Tính chất học tập, rèn luyện theo mục tiêu đào tạo đòi hỏi mỗi học viên
phải tận tâm, tận lực và tích cực, sáng tạo trong tiếp thu tri thức khoa học, nâng

cao trình độ, kỹ năng tiến hành CTĐ,CTCT ở cấp phân đội. Ở phân đội người
CTV tiến hành CTĐ, CTCT một cách trực tiếp “miệng nói, tay làm”. Điều đó
đòi hỏi họ phải có tính độc lập rất cao, năng động, nhạy bén trước những vấn
đề mới mẻ trên tất cả các lĩnh vực hoạt động của phân đội. “Lãnh đạo toàn
diện nhưng cụ thể”, cẩn thận mà nhanh nhẹn, kịp thời làm đến nơi đến chốn";
có khả năng cụ thể hoá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước, chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên thành những nội dung, biện pháp, kế
hoạch CTĐ, CTCT phù hợp với tình hình thực tiễn ở phân đội và tổ chức thực
hiện thắng lợi những nội dung, kế hoạch đó; có khả năng đánh giá, kiểm tra
phát hiện kịp thời những mâu thuẫn nảy sinh trong khi thực hiện nhiệm vụ
của phân đội, đưa ra những biện pháp hữu hiệu giải quyết những mâu thuẫn
đó; đồng thời có khả năng đấu tranh chống lại những quan điểm, tư tưởng phi
vô sản, bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước. Vì thế, mỗi học viên phải thường xuyên củng cố niềm tin, rèn luyện tinh
thần độc lập, sáng tạo, năng động, nhạy bén trong nghiên cứu, học tập, xử trí


16
các tình huống giao tiếp hàng ngày ở Nhà trường và xã hội để không ngừng
phát triển, hoàn thành mục tiêu đào tạo.
Đoàn kết, dân chủ, kỷ luật
Đoàn kết là cơ sở vững chắc xác lập quan hệ tốt đẹp giữa các quân nhân,
cơ sở tạo nên sức mạnh chiến đấu của quân đội. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cán bộ
có thân đội viên như chân tay, thì đội viên mới thân cán bộ như ruột thịt…”
[30, tr. 109]. Bởi vậy, mỗi học viên ở TSQCT phải luôn rèn luyện tinh thần
đoàn kết, gắn bó với thầy, với bạn..., thực hiện đúng Lời thề danh dự của quân
nhân. Song, đó không phải là thứ đoàn kết một chiều mà nó kiên quyết đấu
tranh loại bỏ các biểu hiện, hành vi thiếu tôn trọng và làm rạn vỡ tình cảm
thầy trò, đồng chí, đồng đội... Đoàn kết phải trên cơ sở dân chủ, dân chủ trên tất
cả các mặt chính trị, quân sự, kinh tế… Dân chủ trong hoạt động học tập, rèn

luyện ở nhà trường quân đội được biểu hiện cụ thể ở thái độ của đội ngũ học
viên và cán bộ, giảng viên.... Mỗi học viên phải dám nói những điều mình muốn
nói, mạnh dạn, thẳng thắn đóng góp ý kiến của mình vào xây dựng chủ trương,
biện pháp thực hiện nhiệm vụ của Nhà trường, đơn vị, đóng góp phê bình cán
bộ, giảng viên. Đồng thời phải biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến của đồng chí,
đồng đội, của cán bộ, giảng viên. Dân chủ hoàn toàn đối lập với thói tự cao tự
đại, thiếu tôn trọng người khác, dân chủ hình thức cũng như thái độ rụt rè, không
dám nói lên chính kiến của mình, chỉ biết phụ hoạ, nói theo. Đoàn kết, dân chủ
phải gắn liền với giữ nghiêm kỷ luật. Mọi học viên tự giác chấp hành nghiêm
túc, vô điều kiện trên cơ sở tích cực, tự nguyện. Chấp hành kỷ luật quân đội vừa
là tuân theo pháp luật, vừa thực hành văn hoá. Với tư cách là một giá trị, chuẩn
mực văn hoá, kỷ luật không chỉ thực hiện chức năng điều chỉnh hành vi theo
điều lệnh quân đội, phù hợp chuẩn mực văn hoá ứng xử mà còn đóng vai trò
định hướng tích cực cho học viên trong quá trình rèn luyện, học tập và công tác,
giúp họ hạn chế được những mặt tiêu cực, thói tự do, tuỳ tiện.
Nói hấp dẫn, lôi cuốn, mạch lạc, dễ hiểu, chuẩn xác


17
Lời nói là công cụ quan trọng nhất trong ứng xử, giải quyết các quan hệ.
Cùng một nội dung của câu nói, nhưng tuỳ theo giọng nói, cách nói mà người
ta có thể thông cảm cho nhau, nhưng cũng có thể gây trách cứ, hiểu lầm nhau.
Học viên ở TSQCT được học tập, rèn luyện để trở thành CTV - người trực tiếp
tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng; xây dựng, phát huy nhân tố chính trị
tinh thần của bộ đội. Cho nên, họ phải học cách nói năng giao tiếp chuẩn mực;
kỹ năng nói chuyện, thuyết trình hấp dẫn, lôi cuốn, mạch lạc, dễ hiểu, đi vào
lòng người, cảm hoá con người. Hồ Chí Minh khẳng định: “... ai cũng phải học
nói nhất là học nói cho quần chúng hiểu” [20, tr. 301]. Sử dụng lời nói phải
luôn tế nhị và nhạy cảm; câu nói phải có đầy đủ chủ, vị ngữ, đơn giản nhưng
hàm ý sâu xa; trước khi nói phải nghĩ cho chín, phải sắp đặt cẩn thận, không

nói bừa, nói ẩu; trong khi nói phải hiểu và nắm bắt được tâm lý người nghe, đặt
mình vào vị trí của người nghe, tôn trọng người nghe, xưng hô đúng mực...
Tuyệt đối không dùng những lời miệt thị, tránh nói về mình, tự đề cao mình…,
đặc biệt không nói bậy, văng tục, nói năng tuỳ tiện, lỗ mãng. Trong ứng xử
hàng ngày, nên thường trực câu xin lỗi, cảm ơn nơi cửa miệng. Xin lỗi, cảm ơn
là một nét đẹp, chỉ những người sống có văn hoá mới biết nhận lỗi để xin lỗi
người khác, biết nhận ơn và cảm ơn người khác. Đồng thời luôn ý thức và kiểm
tra mình trong mọi lời nói, lời chào khi đến, lúc về, bởi “lời chào cao hơn mâm
cỗ”.
Học viên đào tạo CTV không chỉ biết nói một cách hấp dẫn, lôi cuốn, dễ hiểu,
nói đúng, nói đủ, mà cần đúng chuẩn mực văn hoá quân nhân, trực tiếp là cách
xưng hô, chào hỏi được quy định trong Điều lệnh quản lý bộ đội Quân đội nhân dân
Việt Nam. Những quy định ấy chính là sự cụ thể hoá giá trị, chuẩn mực văn hoá
ứng xử quân nhân. Mặt khác, đặc trưng phương thức tổ chức quân đội và hoạt động
quân sự là chỉ huy - phục tùng theo một hệ thống quy chế, điều lệnh, điều lệ và
mệnh lệnh. Điều đó đòi hỏi người CTV phải không ngừng rèn luyện, phát triển
ngôn ngữ quân sự, kỹ năng sử dụng ngôn ngữ chỉ huy - ngắn gọn, rõ ràng, chính
xác đáp ứng mục tiêu đào tạo và chức trách, nhiệm vụ sau khi ra trường.


18
Thứ ba, nhóm giá trị, chuẩn mực văn hóa ứng xử trong sinh hoạt hàng ngày.
Tôn sư, trọng đạo
Trong học tập, rèn luyện học viên vừa ứng xử đúng những quy định, lễ
tiết, tác phong quân nhân, vừa ứng xử đúng với những giá trị, chuẩn mực văn
hoá học đường; trong đó ứng xử theo tinh thần “tôn sư, trọng đạo” giữ vị trí
quan trọng hàng đầu.
“Tôn sư” là lòng tôn kính, thương mến của người học trò đối với người thầy;
“trọng đạo” là đề cao, xem trọng đạo lý - cái đạo làm người. Tinh thần “Tôn sư,
trọng đạo” có từ rất lâu, đã trở thành truyền thống tốt đẹp trong văn hoá ứng xử

của dân tộc ta, quân đội ta. Ngày nay, trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập
quốc tế, tinh thần “tôn sư, trọng đạo” của học viên ở TSQCT càng cần được nhận
thức đầy đủ và phát huy cao độ. Trong thực tế, người ta thường nhấn mạnh cái
“tôn sư”, còn “trọng đạo” không mấy chú ý, thậm chí không chú ý đến. Mặt
khác, hiểu “trọng đạo” cũng chỉ bó hẹp trong quan hệ thầy - trò, nhận thức như
vậy là không đầy đủ. Trọng đạo, phải làm cho cái đạo làm người chân chính
luôn giữ vị trí ưu trội trong mọi mối quan hệ: quan hệ học viên với giảng viên,
quan hệ học viên với cán bộ quản lý, học viên với học viên, học viên với lực
lượng phục vụ và với nhân dân. Điều đó giúp việc xây dựng phong cách ứng
xử văn hoá đối với mọi người, mọi tầng lớp, nhất là đối với cấp dưới sau khi
học viên ra trường trở thành CTV.
Trung thực, khiêm tốn, giản dị, nhân ái, vị tha, sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau
hoàn thành nhiệm vụ.
Đây là những giá trị, chuẩn mực văn hóa ứng xử tạo nên sự gần gũi, tin
yêu, khơi dậy tính tích cực hành động cách mạng của mỗi học viên. Đồng thời
cũng là những giá trị, chuẩn mực cơ bản về phương pháp, tác phong công tác
của CTV. Ở phân đội, người CTV cùng ăn, ở, công tác và chiến đấu với cán bộ,
chiến sĩ thuộc quyền, tự mình giải quyết nhiều mối quan hệ xã hội, nhiều vấn
đề thuộc về đời sống chính trị, tinh thần của bộ đội, những vấn đề có sự phức
tạp riêng, không giống với sự phức tạp của công tác chỉ huy, hậu cần, kỹ thuật


19
và khác cả việc tiến hành CTĐ, CTCT ở cấp trên phân đội. Vì thế, người CTV
phải thật sự gần gũi sâu sát bộ đội, hiểu họ như hiểu mình, thân thiết như anh
em ruột thịt; tiêu biểu cho lòng vị tha, yêu thương con người như tấm lòng
người chị; thẳng thắn, nghiêm túc, minh mẫn về trí tuệ và quyết đoán, sáng tạo
của người anh; chân tình cởi mở, thông hiểu lẫn nhau của người bạn. Trong thư
gửi Hội nghị chính trị viên toàn quốc năm 1948 Hồ Chí Minh đã dạy: “đối với
bộ đội, chính trị viên phải thân thiết như một người chị, công bình như một

người anh, hiểu biết như một người bạn”... [19, tr. 392]. Do đó, mỗi học viên
cần được giáo dục, tự giáo dục nâng cao tính trung thực, khiêm tốn, giản dị,
lòng nhân ái, vị tha, sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau hoàn thành nhiệm vụ. Điều đó
có ý nghĩa to lớn trong xây dựng khối đoàn kết, nhất trí ở tập thể học viên, tạo
môi trường thuận lợi phát triển, hoàn thiện nhân cách văn hoá người CTV.
Ăn, ở và trang phục gọn gàng, sạch sẽ; cử chỉ thanh cao, đàng hoàng
chững chạc, đúng quy định. Đây là giá trị, chuẩn mực vừa biểu hiện sự thống
nhất, vừa làm nên vẻ đẹp, ý nghĩa và giá trị văn hoá đặc sắc của đời sống
quân đội. TSQCT là môi trường chuẩn mực cùng chức trách, nhiệm vụ của
đội ngũ học viên đòi hỏi họ phải có tính chuẩn xác, ý thức tự giác chấp hành
mọi quy định từ ăn, ở, trang phục, đi đứng một cách nghiêm chỉnh theo đúng
điều lệnh. Hơn nữa, là CTV tương lai - người lãnh đạo, người thể hiện tinh thần
của Đảng trong quân đội, càng đòi hỏi mỗi học viên không ngừng tu dưỡng,
rèn luyện, phát triển, hoàn thiện văn hoá ứng xử, trong đó việc ăn, ở, trang
phục, cử chỉ giao tiếp thật sự mẫu mực. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “chính trị viên
phải làm kiểu mẫu trong mọi việc”[19, tr. 393].
Như vậy, văn hoá ứng xử thể hiện ở mỗi lời nói và hành động trong mọi
mối quan hệ, mỗi học viên ở TSQCT phải luôn tu dưỡng, rèn luyện để hoàn
thiện văn hóa ứng xử của mình về cả nội dung và hình thức. Đồng thời, đó
còn là trách nhiệm của tất cả các chủ thể trong phát triển văn hóa ứng xử của
học viên đáp ứng mục tiêu đào tạo.


20
1.1.2. Quan niệm về phát triển văn hoá ứng xử của học viên ở
Trường Sĩ quan Chính trị
* Quan niệm về phát triển văn hóa ứng xử của học viên ở TSQCT
Phát triển văn hóa ứng xử cuả học viên ở TSQCT tuân theo những quy
luật khách quan và chịu sự tác động của nhiều yếu tố. Biểu hiện tập trung ở
trình độ của các chủ thể trong việc nắm bắt, vận dụng các quy luật khách

quan, huy động tốt nhất những điều kiện, khả năng có thể thúc đẩy sự phát
triển văn hóa ứng xử của họ đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo.
Vì vậy, Phát triển văn hóa ứng xử của học viên ở TSQCT là quá
trình tác động tích cực, tự giác, hợp quy luật của các chủ thể nhằm
trang bị và nâng lên một trình độ mới về thái độ, hành vi ứng xử của học
viên trong giải quyết các mối quan hệ với xã hội, với bản thân và chức
trách nhiệm vụ theo những giá trị, chuẩn mực văn hóa đáp ứng mục tiêu
yêu, cầu đào tạo.
Như vậy, phát triển văn hoá ứng xử của học viên ở TSQCT là quá trình
tác động tự giác, có chương trình, kế hoạch, có mục đích với những nội dung,
hình thức rõ ràng nhằm trang bị, nâng cao thái độ, hành vi ứng xử có văn hóa
của học viên đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo.
Mục đích phát triển văn hoá ứng xử của học viên ở TSQCT là nhằm xác
lập ở họ thái độ, hành vi ứng xử có văn hoá của người CTV và biến chúng
thành thói quen trong giải quyết các mối quan hệ hàng ngày cũng như trong
thực hiện mọi nhiệm vụ theo chức trách.
Như trình bày trên, học viên ở TSQCT đều có trình độ phổ thông
trung học trở lên, có thời gian nhất định học tập, rèn luyện trong môi
trường quân sự, do vậy, họ đã có những hiểu biết về truyền thống, những
giá trị và chuẩn mực văn hoá xã hội, văn hoá quân sự và trình độ, khả năng
ứng xử văn hóa ở một mức độ nhất định. Tuy nhiên, so với mục tiêu, yêu
cầu đào tạo và trình độ văn hoá ứng xử của người CTV còn thiếu và yếu.


21
Vì vậy, trong quá trình đào tạo phải tiếp tục trang bị, bù đắp những thiếu
hụt và nâng lên một trình độ cao hơn về văn hoá ứng xử để họ có đủ phẩm
chất, năng lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ và chức trách được giao. Phát
triển văn hoá ứng xử ở TSQCT là một hoạt động, một quá trình xã hội cho
nên phải gắn với chủ thể nhất định.

Chủ thể phát triển văn hoá ứng xử của học viên ở TSQCT
Chủ thể phát triển văn hoá ứng xử của học viên ở TSQCT là tổ chức lãnh
đạo, chỉ huy các cấp, các cơ quan quản lý giáo dục - đào tạo, đội ngũ giảng
viên, cán bộ quản lý học viên và các tổ chức quần chúng trong Nhà trường.
Đảng uỷ Nhà trường đến đảng uỷ, chi bộ các khoa giáo viên và các đơn vị
quản lý học viên trực tiếp ra nghị quyết lãnh đạo, chỉ đạo phát triển văn hoá ứng
xử cho học viên.
Hệ thống tổ chức chỉ huy từ Ban Giám hiệu đến ban chỉ huy lớp (đại
đội) quản lý học viên là chủ thể trực tiếp lập kế hoạch, tổ chức triển khai thực
hiện các nội dung, chương trình phát triển văn hoá ứng xử cho học viên mà
nghị quyết lãnh đạo đã xác định.
Các cơ quan quản lý giáo dục - đào tạo, đặc biệt là phòng chính trị,
phòng đào tạo, văn phòng, là cơ quan tham mưu cho Đảng uỷ, Ban Giám hiệu
đề xuất chủ trương, nội dung, biện pháp, tổ chức lực lượng; đồng thời, trực
tiếp xây dựng kế hoạch, hướng dẫn, theo dõi, kiểm tra, đánh giá quá trình phát
triển văn hoá ứng xử cho học viên.
Đội ngũ giảng viên thông qua các bài giảng và các hình thức sau bài giảng
truyền thụ những tri thức về điều lệnh, lễ tiết, tác phong quân nhân, tri thức về
văn hoá, đặc biệt là tri thức về văn hoá ứng xử gắn với chức trách, nhiệm vụ
người học viên phải thực hiện trong tương lai; trao đổi, mạn đàm, thảo luận, cổ
vũ, khuyến khích những thái độ và hành vi chuẩn mực, uốn nắn, phê phán những
hiện tượng phi văn hóa qua đó nâng cao trình độ tri thức làm cơ sở hình thành,
phát triển thái độ và hành vi ứng xử có văn hóa trong thực tiễn cuộc sống của họ.


22
Trong các tổ chức quần chúng, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh với
những nội dung, hình thức sinh hoạt, hoạt động phong phú, phù hợp tâm lý tuổi
trẻ giúp người học viên tích cực, tự giác tham gia, lĩnh hội cái hay, cái đẹp, cái
tốt, thấy được điều nên và không nên làm, từ đó rèn luyện, nâng cao trình độ văn

hóa ứng xử của mình.
Trên đây là các chủ thể cơ bản, trực tiếp phát triển văn hoá ứng xử cho
học viên, những chủ thể này có vị trí, vai trò khác nhau theo chức trách,
nhiệm vụ; đồng thời có quan hệ hỗ trợ, bổ sung cho nhau và cùng tác động
đến quá trình phát triển văn hóa ứng xử của học viên. Vì vậy, phát triển văn
hoá ứng xử của học viên phải có sự phối, kết hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa
các chủ thể trong Nhà trường.
Trong Nhà trường, học viên không chỉ là đối tượng mà còn là chủ thể của
quá trình tự phát triển văn hoá ứng xử của bản thân. Đó là quá trình lĩnh hội,
chuyển hoá những giá trị, chuẩn mực văn hoá ứng xử của xã hội, quân đội
thành những giá trị, chuẩn mực văn hoá ứng xử bên trong của người học viên.
Do đó, sự năng động, sáng tạo, tự giác của học viên trực tiếp quyết định kết
quả phát triển văn hoá ứng xử của họ.
Phát triển văn hoá ứng xử của học viên không phải là quá trình đóng kín,
TSQCT là một bộ phận của xã hội, hoạt động của học viên cũng chịu sự tác
động của xã hội; cho nên, ngoài những chủ thể trực tiếp, còn những chủ thể khác
như: bố, mẹ, anh, em, bạn bè của học viên; nhân dân địa phương nơi đóng quân.
Vai trò của các chủ thể này đối với phát triển văn hoá ứng xử của học viên cũng
hết sức quan trọng, cần được quan tâm và phát huy.
Nội dung phát triển văn hoá ứng xử cho học viên đào tạo ở TSQCT
Văn hoá ứng xử của học viên ở TSQCT là sự biểu hiện tập trung, thống
nhất biện chứng giữa ý thức văn hoá ứng xử và hành vi ứng xử có văn hoá
của người học viên trong giải quyết các mối quan hệ đáp ứng mục tiêu yêu,
cầu đào tạo. Vì thế, phát triển văn hoá ứng xử cuả học viên ở TSQCT gồm
những nội dung cơ bản sau:


23
Một là, nâng cao trình độ tri thức và khả năng vận dụng đúng đắn, sáng
tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của

Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hoá, về pháp luật, đạo đức, thẩm mỹ. Những
tri thức đó là cơ sở lý luận giúp học viên nhận thức sâu sắc những giá trị,
chuẩn mực văn hoá và vận dụng chúng trong điều chỉnh thái độ, hành vi ứng
xử của mình. Đồng thời bồi dưỡng những giá trị, chuẩn mực văn hoá ứng xử
truyền thống của dân tộc, quân đội, nhất là truyền thống ứng xử trong lao
động sản xuất và đánh giặc giữ nước.
Hai là, trang bị cho học viên những tri thức về văn hoá ứng xử và ý thức tự
giác thực hiện hành vi ứng xử có văn hoá. Để học viên dựa vào đó giải quyết tốt các
mối quan hệ theo những giá trị, chuẩn mực văn hoá đã được thừa nhận đáp ứng mục
tiêu, yêu cầu đào tạo và chức trách, nhiệm vụ tương lai.
Ba là, xây dựng phong cách, lối sống của con người mới xã hội chủ
nghĩa, rèn luyện thói quen ứng xử có văn hoá gắn với rèn luyện lễ tiết, tác
phong quân nhân, rèn luyện ý thức tự giác chấp hành kỷ luật và tác phong
chính quy trong thực hiện nhiệm vụ học tập, rèn luyện cũng như giải quyết các
mối quan hệ theo cương vị của người học viên và người CTV.
Bốn là, nâng cao nhận thức về hành vi ứng xử có văn hoá, đấu tranh
phê phán các quan điểm và hành vi thiếu văn hoá, trái với lễ tiết, tác phong
quân nhân, với thuần phong mỹ tục Việt Nam trong sinh hoạt, học tập, rèn
luyện, giải quyết các mối quan hệ hàng ngày cũng như trong thực hiện nhiệm
vụ của người học viên.
Các nội dung cơ bản trên thể hiện những mặt khác nhau, nhưng có quan
hệ biện chứng, tác động lẫn nhau hợp thành văn hoá ứng xử của người học
viên ở TSQCT. Vì vậy, trong quá trình phát triển văn hoá ứng xử cuả học viên
phải phát triển toàn diện, tránh xem nhẹ hoặc tuyệt đối hoá một nội dung nào.
Hình thức phát triển văn hoá ứng xử cho học viên ở TSQCT
Phát triển văn hoá ứng xử của học viên ở TSQCT được thực hiện với
nhiều hình thức đa dạng, phong phú, song nổi lên các hình thức cơ bản sau:


24

Một là, thông qua các bài giảng lý thuyết kết hợp với hình thức trực
quan trong giáo dục - đào tạo tại Nhà trường. Phát triển văn hoá ứng xử của
học viên là một hoạt động cơ bản trong giáo dục - đào tạo. Bởi lẽ, nhà trường
đào tạo học viên phát triển toàn diện, trong đó có văn hoá ứng xử. Thông qua
những bài giảng lý thuyết kết hợp với hình thức trực quan của giảng viên
trang bị và nâng cao trình độ tri thức văn hoá ứng xử, xây dựng tình cảm,
niềm tin, ý chí của học viên; trên cơ sở đó họ điều chỉnh thái độ, hành vi ứng
xử đúng giá trị, chuẩn mực văn hoá đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo.
Hai là, thông qua hoạt động giáo dục - đào tạo chính khoá và ngoại khoá.
Đây là hình thức quan trọng nhằm kết hợp chặt chẽ giữa học lý thuyết với thực
hành trong phát triển văn hóa ứng xử cuả học viên. Vì, chương trình chính khoá
mới chỉ giới thiệu những vấn đề cơ bản, những nguyên tắc chung, trong khi văn
hoá ứng xử thể hiện hết sức đa dạng, sinh động; cho nên, cần được bổ sung bằng
hình thức ngoại khoá gắn với những tình huống cụ thể của cuộc sống hiện thực.
Ba là, thông qua tổ chức, quản lý, duy trì các hoạt động của học viên
trong quá trình học tập tại Trường. Việc tổ chức, duy trì chấp hành điều lệnh,
xây dựng chính quy và môi trường văn hoá, thường xuyên kiểm tra, kịp thời
phát hiện uốn nắn những thái độ, hành vi thiếu văn hoá; khuyến khích, ủng hộ
thái độ và hành vi văn hoá là những hình thức giúp học viên nâng cao nhận
thức về văn hoá ứng xử, tự rèn luyện phát triển văn hóa ứng xử của họ.
Bốn là, thông qua các hoạt động khác trong quá trình đào tạo tại
Trường như: thực hành, thực tập trên các cương vị từ thấp lên cao, thực tập
theo chức trách ở các đơn vị, làm công tác dân vận v.v., Những hoạt động này
giúp học viên rèn luyện kỹ năng, khả năng đánh giá năng lực thực hành văn
hóa ứng xử của mình, qua đó tự điều chỉnh, phấn đấu để đạt kết quả cao hơn.
Đồng thời còn là cơ sở đánh giá chất lượng hoạt động phát triển văn hóa ứng
xử của học viên của các chủ thể trong Nhà trường.


25

Năm là, thông qua các phương tiện thông tin tuyên truyền. Hiện nay,
dưới tác động của cách mạng khoa học và công nghệ, các phương tiện thông
tin tuyên truyền phát triển rất mạnh, đa dạng và hiện đại. Các phương tiện đó
truyền tải một khối lượng lớn tri thức, tập quán, truyền thống văn hoá các
nước, các dân tộc cũng như truyền thống văn hoá dân tộc và quân đội ta tới
mỗi học viên. Qua đó không chỉ bổ sung lý luận mà còn cung cấp những hình
ảnh cảm tính về văn hóa ứng xử của xã hội, quân đội, từ đó nâng cao trình độ
văn hóa ứng xử của mỗi học viên.
Sáu là, nêu gương ứng xử văn hóa trong Nhà trường. Đây là hình thức có
ý nghĩa to lớn, trực tiếp trong phát triển văn hóa ứng xử cho học viên. Vì, thái
độ, hành vi ứng xử đúng chuẩn mực văn hoá của các chủ thể là những tấm
gương, hình mẫu có sức cảm hoá mạnh mẽ đối với học viên, cuốn hút họ học tập
noi theo. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nói chung thì các dân tộc phương Đông đều
giầu tình cảm, và đối với họ một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm
bài diễn văn tuyên truyền”[18, tr. 263].
Trên đây là những hình thức cơ bản phát triển văn hoá ứng xử cho
học viên ở TSQCT. Mỗi hình thức có tác dụng truyền tải nội dung dưới góc
độ khác nhau. Tuy nhiên, các hình thức này không tồn tại tách biệt, mà
quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ, bổ sung cho nhau. Vì vậy, để phát triển văn hoá
ứng xử cuả học viên ở TSQCT có hiệu quả cần phải sử dụng tổng hợp, kết
hợp nhiều hình thức phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, tránh dập
khuôn máy móc.
Thực chất phát triển văn hóa ứng xử của học viên ở TSQCT:
Phát triển văn hóa ứng xử của học viên đào tạo ở TSQCT là quá trình
khách quan.
Sự phát triển văn hóa ứng xử của học viên ở TSQCT là quá trình
khách quan, chịu sự tác động, chi phối của tổng hợp các quy luật tự nhiên



×