Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Đẩy mạnh đào tạo và nghiên cứu ứng dụng xã hội học chuyên ngành góp phần phát triển khoa học xã hội (Trường hợp vùng Nam Bộ - Việt Nam)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (534.1 KB, 7 trang )

HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”

ĐẨY MẠNH ĐÀO TẠO VÀ NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG XÃ HỘI HỌC CHUYÊN
NGÀNH GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN KHOA HỌC XÃ HỘI (TRƢỜNG HỢP VÙNG
NAM BỘ - VIỆT NAM)
PGS. TS Huỳnh Quốc Thắng
Khoa Văn hóa học, Trƣờng ĐH KHXH&NV, ĐHQG TP. HCM
Email:
Tóm tắt: Với xu thế chung của quá trình hội nhập và đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện
đại hóa đặc biệt là trong bối cảnh cách mạng công ngiệp 4.0 hiện nay, Nam Bộ là một trong
những vùng đất có những tình thế và yêu cầu hết sức đặc biệt đối với sự nghiệp đào tạo và
nghiên cứu về khoa học xã hội nói chung, xã hội học nói riêng. Vấn đề đặt ra không chỉ là
nhằm góp phần sớm khắc phục tình trạng “vùng trũng về nguồn nhân lực” (đặc biệt ở Tây
Nam Bộ) và việc tạo điều kiện để phát triển nhanh các “chính sách đầu tư” và sớm triển
khai thực hiện các “quy hoạch, kế hoạch” mà còn là bởi nhiều vấn đề kinh tế, văn hóa - xã
hội lớn lao khác của toàn vùng…Tất cả đã và đang đặt ra yêu cầu đẩy mạnh đào tạo và
nghiên cứu ứng dụng Xã hội học, đặc biệt là về Xã hội học chuyên ngành nhằm góp phần
giải quyết những vấn đề sách lược và chiến lược liên quan thực tiễn phát triển của vùng đất
này cả trong trước mắt lẫn về tương lai lâu dài.
Từ khóa: Đào tạo và nghiên cứu ứng dụng, Xã hội học chuyên ngành, vùng Nam Bộ.
Dẫn nhập
Xuất phát từ yêu cầu thực tế đất nƣớc, thời gian qua trong đào tạo đặc biệt là trong nghiên
cứu khoa học, nhiều đề tài độc lập hoặc các đề tài khoa học xã hội nhìn chung đều có thể và
cần thiết phải có sự tham gia của Xã hội học. Lý do trực tiếp là vì trong các ngành khoa học
xã hội:
“Xã hội học là một ngành khoa học thực tiễn và ứng dụng cao. Từ những vấn đề về toàn
cầu hóa, đến vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vấn đề về đô thị hóa, từ vấn đề di dân và
dân nhập cƣ, vấn đề nghèo đói, những vấn đề về biến đổi xã hội, vấn đề dân tộc, tôn giáo,
vấn đề phân hóa, phân tầng xã hội đến các vấn đề về xung đột xã hội, xung đột đất đai; từ
những vấn đề về nông nghiệp nông thôn đến quản lý và phát triển đô thị bền vững…” (Vũ
Thị Thùy Dung (2014), tr. 20).


Liên hệ vùng đất Nam Bộ, nơi mà tiến trình lịch sử - văn hóa và xã hội đã và đang đặt ra
nhiều vấn đề bức xúc đối với các yêu cầu nói trên bởi không chỉ những vấn đề thuộc hệ quả
của quá khứ hay mâu thuẫn hiện tại mà còn là vì những định hƣớng chiến lƣợc của địa
phƣơng cũng nhƣ cho cả nƣớc trong tƣơng lai lâu dài. Theo đó, những vấn đề liên quan Xã
hội học chuyên ngành đƣợc đặt ra đã nhƣ là một nhu cầu tất yếu.

22


HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”

1. Khái quát yêu cầu thực tế và định hƣớng nội dung đào tạo, nghiên cứu ứng dụng
Xã hội học chuyên ngành ở vùng Nam Bộ
Tùy mục tiêu, nội dung, chủ đề trọng tâm của từng đề tài hoặc vấn đề đặt ra trong từng
thời kỳ để xác định những định hƣớng đào tạo, nghiên cứu nhƣng nhìn chung hiện nay có
thể xác định một số chuyên ngành Xã hội học trọng tâm cần thiết xuất phát từ yêu cầu thực
tế Nam Bộ nhƣ sau:
Xã hội học nông thôn
Theo góc nhìn chuyên môn, Xã hội học nông thôn nói chung đó là khoa học “nghiên cứu
động lực và tình hình đời sống nông thôn…” (Tô Duy Hợp, 1997), hoặc “nghiên cứu về mối
quan hệ, cơ cấu xã hội, chức năng và hành vi xã hội ở vùng nông thôn để nói lên sự phát
triển của xã hội nông thôn, những quy luật biến đổi xã hội nông thôn” (Lý Thƣ Kinh, 1989).
Tuy nhiên, nông thôn Nam Bộ không chỉ là những vấn đề liên quan nông dân và nông
nghiệp bao gồm nghề trồng trọt (lúa, cây ăn trái…) hay chăn nuôi (cá đồng, gia súc…) mà
còn là, những vấn đề ngày càng lớn mang ý nghĩa trên nhiều mặt (kinh tế, văn hóa, chính trị,
an ninh quốc phòng…) với đối tƣợng đặc thù là ngƣ dân, ngƣ nghiệp ở các vùng biển, đảo.
Đối với vùng Đông Nam Bộ nói riêng và trên toàn vùng Nam Bộ nói chung, khái niệm
“vùng ven đô” ở các đô thị lớn (nhƣ TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dƣơng, Cần Thơ…)
cùng với chủ trƣơng phát triển “nông nghiệp công nghệ cao”, “du lịch sinh thái” (nhà vƣờn)
với “du lịch làng nghề” (thủ công mỹ nghệ) trở thành một bộ phận quan trọng của ngành

“công nghiệp không khói” của địa phƣơng. Đây thực sự là định hƣớng mới có ý nghĩa lớn.
Đặc biệt, chủ trƣơng xây dựng nông thôn mới triển khai trên cả nƣớc với yêu cầu tạo ra
quá trình chuyển đổi từ xã hội nông nghiệp cổ truyền tiến lên nông nghiệp hiện đại, quá trình
đô thị hóa tự giác mà trong chừng mức vẫn bảo tồn và phát huy tốt những giá trị văn hóa
nông thôn truyền thống từng gắn bó lâu đời với lịch sử văn hóa dân tộc. Điều đó càng mang
ý nghĩa sâu sắc đối với Nam Bộ nói chung và nhất là với Đồng bằng sông Cửu Long, nơi có
vai trò quan trọng không chỉ là vựa lúa lớn nhất, nơi góp phần quyết định chiến lƣợc an ninh
lƣơng thực cho cả nƣớc mà còn là nơi “văn minh miệt vƣờn”, “văn minh chợ nổi” mang
những nét đặc trƣng văn hóa nổi bật so với cả nƣớc…
Xã hội học đô thị
Đông Nam Bộ (với các địa phƣơng điển hình nhƣ TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình
Dƣơng…) , trung tâm của Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đồng thời cũng là những trung
tâm đô thị hàng đầu với tốc độ đô thị hóa, công nghiệp hóa – hiện đại hóa thuộc loại phát
triển nhanh, mạnh nhất nƣớc. Thực tế minh chứng rõ nhất về điều đó khi các địa phƣơng ở
đây đang đi trƣớc so với cả nƣớc đối với việc ứng dụng thành tựu của cuộc cách mạng 4.0.
Khái niệm “đô thị thông minh” không còn là viễn cảnh xa xôi mà hiện đã từng bƣớc đƣợc
triển khai thực hiện bằng nghị quyết và đề án tại địa phƣơng.
Tây Nam Bộ cũng có những trung tâm đô thị lớn nhƣ Cần Thơ từng đƣợc xem là “Tây
Đô” của toàn vùng, Đồng Tháp đang chuyển động mạnh với chỉ số năng lực cạnh tranh
(CPI) liên tục đứng trong tốp đầu cả nƣớc và Phú Quốc (Kiên Giang) đang từng ngày
23


HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”

chuyển động tiến lên trở thành một “đặc khu” theo mô hình “công nghiệp du lịch” thuộc tầm
cỡ quốc gia và khu vực…Tất cả đều chuyển động theo hƣớng quá trình đô thị hóa ngày càng
gia tốc với nhiều thành tựu phát triển xã hội nhƣng cũng có nhiều hệ lụy đặt ra nhƣ văn hóa
giao tiếp ứng xử thị dân, giao thông đô thị, vệ sinh môi trƣờng… Tất cả đều là những nét đặc
thù lớn đồng thời là những yêu cầu cao cho chuyên ngành Xã hội học đô thị cả về khía cạnh

đào tạo nhân lực lẫn về nghiên cứu ứng dụng hiện nay.
Xã hội học văn hóa
Thông thƣờng, Xã hội học văn hóa chủ yếu tập trung nghiên cứu thực trạng của mọi lĩnh
vực đời sống văn hóa, sự đồng hóa về văn hóa, sự giao lƣu tiếp biến văn hóa, quá trình xã
hội hóa, sự vận động và biến đổi của văn hóa trong không gian, thời gian nhằm xác định
những nhu cầu văn hóa cụ thể của từng nhóm công chúng để từ đó có những đề xuất về việc
hoạch định chính sách văn hóa phù hợp…Tuy nhiên vấn đề không chỉ nhƣ thế, so với cả
nƣớc, vùng văn hóa Nam Bộ mang những nét đặc trƣng rõ rệt về văn hóa lịch sử, văn hóa
tộc ngƣời. Trong đó, tôn giáo tín ngƣỡng trong vùng khá phức tạp với số lƣợng tín đồ, thiết
chế tôn giáo nhiều nhất nƣớc. Ngoài các tôn giáo thế giới nhƣ Phật giáo, Thiên Chúa giáo,
Tin Lành, Hồi Giáo…, nơi đây còn là địa bàn sinh sôi, phát triển mạnh những tôn giáo địa
phƣơng mang đậm cả màu sắc tín ngƣỡng dân gian nhƣ Cao Đài, Hòa Hảo, Bửu Sơn Kỳ
Hƣơng…Đáng chú ý, một số lễ hội dân gian nơi đây có sức hút thuộc loại lớn nhất nƣớc nhƣ
Lễ hội Bà Chúa Xứ - Châu Đốc (An Giang), Lễ hội Bà Đen – Tây Ninh…
Bên cạnh văn hóa tôn gáo, tín ngƣỡng và lễ hội, văn hóa tộc ngƣời vùng đất này cũng
mang nhiều nét đặc trƣng so với các vùng miền khác. Cộng đồng ngƣời Hoa ở đây chủ yếu
là “Hoa cận – hiện đại” (Hoa Minh Hƣơng), họ vừa mang nét riêng của văn hóa tộc ngƣời
vừa đóng góp một truyền thống chung đó là văn hóa kinh doanh trở thành nhƣ là một bộ
phận quan trọng tạo nên bản sắc văn hóa địa phƣơng của Nam Bộ, vùng đất năng động với
nền kinh tế thị trƣờng phát triển thuộc loại nhanh, mạnh nhất nƣớc. Ngƣời Khmer và ngƣời
Chăm ở đây cũng có những nét văn hóa tôn giáo, phong tục tập quán đặc thù so với ngƣời
Khmer ở Campuchia và ngƣời Chăm ở Nam Trung Bộ để trở thành những “nhóm địa
phƣơng” (ethnographic group). Ngay cả cộng đồng ngƣời Việt (Kinh) ở Nam Bộ cũng mang
những nét riêng nhất định so với các vùng miền khác: “do diện giao tiếp rộng với nhiều tầng,
nhiều lớp nhƣ vậy kết hợp với các yếu tố khác về địa lý, lịch sử...đã góp phần tạo ra tính đa
dạng về địa - văn hóa (geo - culture) của vùng, tiểu vùng và các địa phƣơng trong vùng cùng
tính năng động, cởi mở…nhƣ là một bản sắc chung nhất của văn hóa Nam Bộ. Tất cả đƣợc
phản ánh trong mọi mặt đời sống vật chất, tinh thần của ngƣời dân Việt nơi đây…” (Huỳnh
Quốc Thắng (2003), tr. 83 – 84). Nhìn trên tổng thể, văn hóa Nam Bộ từ truyền thống tiến
lên hiện đại với quá trình chuyển đổi từ trong nhận thức đến thực tế đời sống xã hội theo mô

hình văn hóa nông nghiệp chuyển thành công nghiệp với rất nhiều vấn đề phải trực diện đối
đầu từ “nhu cầu văn hóa” và “thị hiếu thẩm mỹ” cho đến vấn đề “lối sống”, “văn hóa giao
tiếp ứng xử” (ở công sở, nơi công cộng, trong gia đình…) tất cả đều là những vấn đề lớn

24


HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”

đang và sẽ đặt ra cho chuyên ngành Xã hội học văn hóa và cả những môn Xã hội học chuyên
ngành liên quan (nhƣ Xã hội học Tôn giáo chẳng hạn…).
Xã hội học nghệ thuật
Do vị trí, đặc điểm lịch sử - xã hội của địa phƣơng, Nam Bộ có thể vừa là nơi có thể hội
tụ đầy đủ các dòng, các trƣờng phái của tất cả các ngành nghệ thuật từng phát triển trong cả
nƣớc, kể cả hiện đại/chuyên nghiệp lẫn truyền thống/dân gian. Từ tranh sơn dầu hoặc phù
điêu, tƣợng tròn sáng tác theo phong cách trừu tƣợng, siêu thực…cho tới tranh thủy mặc,
tranh lụa, màu nƣớc… vẽ theo phong cách dân gian hoặc các làng nghề truyền thống liên
quan hàng thủ công mỹ nghệ mây, tre, lá, thêu, đan, các sản phẩm gốm, sơn mài; những
chƣơng trình ca, múa, nhạc hiện đại/chuyên nghiệp lẫn dân tộc/dân gian (của ba miền, kể cả
của các dân tộc ít ngƣời), những chƣơng trình biểu diễn thời trang và trang phục dân tộc,
những chƣơng trình múa rối và có cả múa rối nƣớc (một thể loại sân khấu dân gian)... Hơn
nữa, Nam Bộ là nơi phát sinh, phát triển những loại hình nghệ thuật đặc trƣng vùng nhƣ Đờn
ca Tài tử (đã đƣợc UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại), sân
khấu Cải Lƣơng và Hát Bội cùng các thể loại văn học nghệ thuật dân gian tiêu biểu khác.
Vùng Nam Bộ (đặc biệt là TP. Hồ Chí Minh và các trung tâm đô thị lớn của vùng) là nơi
phát triển mạnh những loại hình nghệ thuật hiện đại (âm nhạc, múa, xiếc, sân khấu, mỹ
thuật, thời trang…) với những xu thế phát triển rất nhanh về nhu cầu văn hóa và thị hiếu
thẩm mỹ liên quan các loại hình đó.
Xã hội học du lịch
Nhìn từ góc độ Xã hội học kết hợp Du lịch học, du lịch là hiện tƣợng xã hội mang tính

mục đích và có ý nghĩa kinh tế to lớn đối với ngƣời làm du lịch nhƣng đồng thời lại mang
bản chất văn hóa sâu sắc đối với ngƣời đi du lịch nói riêng cũng nhƣ đối với toàn bộ hoạt
động du lịch nói chung. Du lịch luôn mang tính liên ngành, liên vùng và tính xã hội hóa rất
cao theo phƣơng thức hoạt động của một ngành “công nghiệp không khói”. Về thực tế, theo
quy hoạch chung, Nam Bộ thuộc Vùng du lịch III (trong mối quan hệ trực tiếp với Nam
Trung Bộ và Tây Nguyên), trong đó TP. Hồ Chí Minh đƣợc xác định là đầu mối trung tâm
của toàn vùng, là nơi có hoạt động du lịch, số lƣợng du khách quốc tế và nguồn thu trực tiếp
về du lịch cao nhất nƣớc. Những trung tâm du lịch lớn của Vùng ngoài TP. Hồ Chí Minh
còn có Bà Rịa – Vũng Tàu (Côn Đảo), Đồng Nai, Tiền Giang, An Giang, Cần Thơ, Kiên
Giang (Phú Quốc), Đồng Tháp…đều là những trung tâm có vị trí quan trọng trong bản đồ du
lịch cả nƣớc. Thời gian qua những đề tài quy hoạch du lịch của các địa phƣơng trong vùng
sau khi đƣợc phê duyệt đã và đang ngày càng đƣợc triển khai cụ thể hóa thành nhiều đề tài
khoa học với nhu cầu nguồn nhân lực du lịch, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lƣợng cao
ngày càng là vấn đề bức xúc. Đáng chú ý là trong xu thế chung của vùng, vấn đề du lịch
cộng đồng với các chủ đề du lịch sinh thái, làng nghề, du lịch văn hóa gắn với du lịch đồng
quê (nông thôn, nông nghiệp…), du lịch miệt vƣờn ngày càng là vấn đề lớn.

25


HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”

Xã hội học gia đình
Vấn đề gia đình vẫn luôn là một trong những vấn đề thời sự xã hội của cả nƣớc cũng nhƣ
của vùng. Bởi gia đình không chỉ là tế bào xã hội mà nó còn là những “vi - môi trƣờng”
(micro - milieu) nhƣ lý thuyết Xã hội học phƣơng Tây từng nhắc đến (Y.Sytchov, 1977),
tƣơng ứng với những “tiểu văn hóa” (subculture) của lý thuyết Văn hóa học từng đề cập. Từ
đó, vấn đề xây dựng văn hóa gia đình và gia đình văn hóa nhƣ là những “môi trƣờng nhỏ”
trong môi trƣờng xã hội nói chung là vấn đề thời sự trong nhận thức lý luận (của nhiều
ngành khoa học xã hội, đặc biệt là của Xã hội học) cũng nhƣ trong thực tế phong trào “xây

dựng đời sống văn hóa” đã và đang triển khai sâu rộng trên quy mô toàn quốc ở Việt Nam.
Vấn đề trọng tâm vẫn là việc nghiên cứu sự vận động biến đổi của văn hóa gia đình dƣới
những tác nhân xã hội từ đó tìm ra xu hƣớng và những phƣơng thức tác động tích cực đối
với sự vận động biến đổi này. Rõ ràng trong xã hội công nghiệp – hiện đại ngày nay gia đình
so với trƣớc nữa đã có sự biến đổi mạnh mẽ cả về qui mô, cấu trúc và chức năng của nó.
Quá trình đô thị hóa không chỉ diễn ra trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội mà còn diễn ra ngay
trong lối sống và cách thức tổ chức cuộc sống của từng gia đình.
Đối với Nam Bộ, vấn đề đặt ra là những biến đổi mạnh mẽ tận tầng sâu của đời sống gia
đình, dòng họ không chỉ nổi lên những vấn đề hôn nhân, giới tính, bạo lực gia đình mà còn
là vấn đề phong trào lấy chồng nƣớc ngoài (Hàn Quốc, Đài Loan…). Trong đó, vai trò, vị trí
ngƣời phụ nữ, trẻ em trong gia đình ngày càng là có nhiều vấn đề rất đáng quan tâm. Trục
trung tâm của vấn đề là những chuyển động xã hội từ gia đình truyền thống đến gia đình
hiện đại trên vùng đất này không chỉ là quá trình thay đổi lớn về nhận thức và thực tế có
nhiều mâu thuẫn gay gắt (nhƣ trình độ dân trí, tác động của mặt trái cơ chế thị trƣờng…) mà
đó còn là việc xác lập các mối quan hệ xã hội mới chƣa đủ nền tảng vững chắc về quy chế,
luật pháp trong khi những phong tục tập quán, thói quen cũ còn nhiều hạn chế không theo
kịp đƣợc với những yêu cầu của cuộc sống mới… Theo đó, nội dung và phƣơng pháp điều
tra, nghiên cứu về Xã hội học gia đình không thể chỉ bằng định lƣợng, định tính nói chung
mà còn phải bằng quan sát, thậm chí là thực nghiệm/trải nghiệm với mục tiêu cao nhất là
giải pháp nào để thay thổi về chất cuộc sống - lối sống - đời sống văn hóa gia đình thực sự.
2. Một số giải pháp đầu tƣ phát triển về đào tạo và nghiên cứu ứng dụng Xã hội học
chuyên ngành ở vùng Nam Bộ
Tất cả nội dung, định hƣớng qua một số chuyên ngành Xã hội học trong đào tạo và ứng
dụng nhƣ đã nêu ở trên chỉ có thể triển khai tốt trong hiện thực đời sống xã hội vùng Nam
Bộ bằng những điều kiện và giải pháp thực tế, ít nhất phải bằng những điền kiện cụ thể đƣợc
gợi mở bƣớc đầu nhƣ sau:
Về nội dung, chƣơng trình và phƣơng thức đào tạo
Cũng từ yêu cầu chung nhƣ đã xác định, nội dung và phƣơng pháp đào tạo Xã hội học
chuyên ngành cần phải đƣợc tiếp tục làm rõ. Trên thực tế, Xã hội học với trên dƣới 20
chuyên ngành đào tạo cho thấy khả năng ứng dụng của ngành này trong nhiều lãnh vực đời

sống xã hội là một yêu cầu và khả năng hiện thực. Theo đó, qua một số chuyên ngành Xã hội
26


HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”

học trọng tâm nhƣ đã nêu ở phần trên cho thấy việc gắn các môn Xã hội học chuyên ngành
theo định hƣớng ứng dụng và thực hành tùy tình hình thực tế là một yêu cầu cụ thể. Trong
đó, việc chú ý vận dụng các kiến thức, kỹ năng và phƣơng pháp của Xã hội học đại cƣơng
kết hợp với Xã hội học chuyên ngành, tăng cƣờng hoạt động thực tập, thực tế, lấy nghiên
cứu giải quyết các vấn đề thực tế trong các nội dung ôn tập, thi cử hết môn, tốt nghiệp phải
là một trong những định hƣớng trọng tâm hàng đầu...
Liên quan định hƣớng trên, các hình thức đào tạo tại chức kết hợp với chính quy, đào tạo
dài hạn với bồi dƣỡng ngắn ngày, tập huấn chuyên đề cho những đối tƣợng cụ thể liên quan
Xã hội học chuyên ngành tất cả đều là rất cần thiết. Tất nhiên tất cả đều cần đƣợc chuẩn hóa
về nội dung chƣơng trình, tài liệu học tập, phƣơng pháp dạy và học, kiểm tra, thi cử, đánh
giá ...
Về tổ chức lực lƣợng và triển khai thực hiện các đề tài nghiên cứu ứng dụng
Đây là vấn đề còn bỏ ngỏ trong thực tế. Thời gian qua xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, các
cơ quan quản lý khoa học (Sở Khoa học và Công nghệ các tỉnh, thành Nam Bộ…) hàng năm
thƣờng đƣa ra những thông báo về các đề tài cần thiết của địa phƣơng, trong đó nhiều đề tài
liên quan hoặc nhất thiết cần phải có sự tham gia của các chuyên gia thuộc Xã hội học
chuyên ngành… Tuy nhiên, thông báo đó nhìn chung đều bị bỏ qua hoặc một số đề tài của
các khoa/bộ môn các trƣờng đƣa ra đăng ký với các Sở KHCN địa phƣơng sau khi nghiệm
thu xong cũng ít đƣợc phát huy tác dụng vào thực tế...
Cần có cơ chế liên kết phối hợp mới, mang tính chất định kỳ, thƣờng xuyên giữa các
Trƣờng, trực tiếp là Khoa/Bộ môn Xã hội học với các địa phƣơng về những định hƣớng đề
tài nghiên cứu ứng dụng kết hợp với nghiên cứu triển khai cụ thể. Cơ chế đó cần đƣợc bảo
đảm tính khoa học và pháp lý bằng những hợp đồng ký kết nghiêm túc giữa hai bên và định
kỳ có rút kinh nghiệm, kiểm điểm, đánh giá kết quả rõ ràng…

Về mối quan hệ phối hợp giữa đào tạo và nghiên cứu ứng dụng Xã hội học chuyên
ngành
Với nhu cầu từ tình hình thực tế của Nam Bộ nhƣ đã nói ở trên, chúng ta có thể khẳng
định rằng việc đào tạo nguồn nhân lực và nghiên cứu ứng dụng Xã hội học chuyên ngành có
thể phối hợp nhau để tạo nên sức mạnh tổng hợp để đem lại những hiệu quả tích cực thực sự.
Gắn bó chặt chẽ theo những yêu cầu thực tế cả trong mục tiêu, nội dung, chƣơng trình đào
tạo và định hƣớng công trình, đề tài nghiên cứu. Sử dụng lực lƣợng đào tạo tham gia tích
cực vào công tác nghiên cứu ứng dụng và ngƣợc lại. Khai thác các hoạt động thực tập, thực
hành của giảng viên, sinh viên gắn trong các chƣơng trình nghiên cứu ứng dụng...
Xác lập mối quan hệ phối hợp hoạt động cụ thể giữa các cơ quan quản lý tại địa phƣơng
thuộc vùng Nam Bộ với các cơ sở Khoa/Bộ môn Xã hội học của các trƣờng về kế hoạch đào
tạo bồi dƣỡng đồng thời với nghiên cứu ứng dụng Xã hội học chuyên ngành...
Kết luận
“Tri thức Xã hội học giúp chúng ta hiểu biết xã hội, nhóm xã hội, thiết chế xã hội, tổ chức
xã hội…Xã hội học giúp chúng ta vƣợt qua đƣợc những định kiến, những tham vọng vị kỷ,
27


HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”

giai cấp, tôn giáo và sự hận thù để đi vào phát hiện và giải quyết những vấn đề của thực tiễn
xã hội...Nghiên cứu Xã hội học giúp chính phủ đẩy mạnh hơn những chính sách phúc lợi xã
hội dành cho các nhóm yếu thế… Tri thức xã hội học giúp chúng ta hiểu và xây dựng chiến
lƣợc phát triển kinh tế - xã hội dễ dàng hơn…” 6. Đối với yêu cầu thực tế của vùng Nam Bộ,
khả năng tiếp cận và giải quyết vấn đề sâu hơn theo những định hƣớng nhƣ vừa nêu càng mở
ra nhiều triển vọng mới đối với việc đào tạo và nghiên cứu ứng dụng Xã hội học chuyên
ngành.
Về đào tạo, phổ cập tri thức và xây dựng đƣợc nguồn nhân lực Xã hội học chuyên ngành
góp phần đáp ứng tốt các yêu cầu thực tế đời sống. Về nghiên cứu ứng dụng, phát huy tri
thức và phƣơng pháp Xã hội học chuyên ngành để giải quyết kịp thời những vấn đề thực tiễn

xã hội. Đây là một trong những nỗ lực có ý nghĩa tích cực đối với việc góp phần khẳng định
và phát huy vai trò, tác dụng của ngành Xã hội học nói riêng, khoa học xã hội nói chung
trong cuộc diện chung của đất nƣớc giai đoạn hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thạch Phƣơng - Hồ Lê - Huỳnh Lứa - Nguyễn Quang Vinh (và một số cộng tác viên
khác). (1992). Văn hóa dân gian người Việt ở Nam Bộ. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
2. Huỳnh Quốc Thắng. (2003). Lễ hội dân gian Nam Bộ. Viện Văn hóa & Nxb Văn hóa
Thông Tin, Hà Nội.
3. Huỳnh Quốc Thắng. (2017). Đào tạo và nghiên cứu ứng dụng xã hội học góp phần
phát triển khoa học xã hội ở Tây Nguyên. Kỷ yếu Hội thảo khoa học Tri thức xã hội học
trong các nghiên cứu khoa học xã hội ở Tây Nguyên hiện nay, Khoa Xã hội học – Đại học
Đà Lạt, trang 29 – 34.
4. Ngô Đức Thịnh (chủ biên). (1993). Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam.
Nxb Khoa học xã hội; Hà Nội.
5. Y. Sytchov. (1977). Micromilieu et Personnalité. Ed. du Progress; Moscou.
6. Vũ Thị Thùy Dung. (2014). Báo cáo đề dẫn Hội thảo khoa học “Tri thức xã hội học
trong các nghiên cứu khoa học xã hội ở Tây Nguyên hiện nay”. Kỷ yếu Hội thảo Khoa Xã
hội học, Đại học Đà Lạt, trang 19 – 23.

6

Lê Thị Mai : Tri thức của Xã hội học trong xã hội đƣơng đại, trích lại theo Vũ Thị Thùy Dung : Báo cáo đề dẫn hội
thảo khoa học “Tri thức của xã hội học trong các nghiên cứu khoa học xã hội ở Tây Nguyên hiện nay”, tài liệu đã dẫn,
trang 20.

28




×