Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Gia đình hạnh phúc ở nông thôn Việt Nam hiện nay (Qua khảo sát tại 3 xã ở Yên Bái, Thừa Thiên Huế và Tiền Giang)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (299.56 KB, 10 trang )

Nghiên cứu
Gia đình và Giới
Số 1 - 2009

Gia đình hạnh phúc
ở nông thôn Việt Nam hiện nay

(Qua khảo sát tại 3 xã ở Yên Bái, Thừa Thiên Huế và Tiền Giang)
Đỗ Thiên Kính
Viện Xã hội học

Tóm tắt: Dựa vào số liệu của dự án Nghiên cứu liên ngành về
gia đình Việt Nam hiện nay (2004-2007) nhằm tìm hiểu về
những thay đổi của gia đình nông thôn Việt Nam trong thời kỳ
Đổi mới, bài viết này tập trung xem xét những yếu tố quyết định
đến hạnh phúc gia đình ở vùng nông thôn. Kết quả từ mô hình
hồi quy lôgistic về các yếu tố tác động đến hạnh phúc gia đình
cho thấy những nhân tố thuộc về đời sống hôn nhân và sự hòa
hợp giữa hai vợ chồng giữ vai trò chủ yếu để nâng cao hạnh phúc
gia đình. Điều này cho thấy trong gia đình nông thôn hiện nay
việc duy trì hạnh phúc chủ yếu vẫn đợc dựa trên cơ sở tình yêu
và sự hài lòng về cuộc sống hôn nhân giữa hai vợ chồng, cũng
nh giữa các thành viên khác nói chung.
Từ khoá: Gia đình; Gia đình nông thôn; Gia đình hạnh phúc.

1. Giới thiệu

Nghiên cứu này dựa trên cơ sở số liệu của dự án Nghiên cứu liên
ngành về gia đình Việt Nam hiện nay (2004-2007). Đây là dự án nhằm
tìm hiểu về những thay đổi của gia đình nông thôn Việt Nam trong thời
kỳ Đổi mới. Mẫu nghiên cứu của dự án gồm 900 hộ gia đình. Các hộ gia


đình đợc lựa chọn ở 3 x , mỗi x chọn 300 hộ. Ba x thuộc 3 tỉnh đại


48

Nghiên cứu Gia đình và Giới. Quyển 19, số 1, tr. 47-56

diện cho 3 miền Bắc (Yên Bái), miền Trung (Thừa Thiên Huế) và miền
Nam (Tiền Giang) của Việt Nam. Phơng pháp thu thập số liệu là sử dụng
bảng hỏi soạn sẵn, thực hiện phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm tập trung.
Thời gian thu thập số liệu đợc tiến hành vào 3 lần: năm 2004 (Yên Bái),
năm 2005 (Tiền Giang), và năm 2006 (Thừa Thiên Huế).
Gia đình hạnh phúc trong nghiên cứu này chỉ đề cập đến những gia đình
có đầy đủ cả hai vợ chồng. Nó đợc xác định dựa trên câu hỏi: Nhìn chung,
ông/bà có cho rằng gia đình của ông/bà là Gia đình hòa hợp và hạnh phúc
không và ở mức độ nào? Có 5 lựa chọn để trả lời cho câu hỏi này: (a) Gia
đình tôi là gia đình rất hòa hợp và hạnh phúc; (b) Gia đình tôi là gia đình
tơng đối hòa hợp và hạnh phúc; (c) Gia đình tôi không phải là gia đình hòa
hợp và hạnh phúc; (d) Khó trả lời; (e) Không biết. Việc xác định nh thế nào
là gia đình hạnh phúc hoàn toàn do ngời trả lời tự đánh giá.
2. Chân dung về những gia đình hạnh phúc ở nông thôn

2.1. Về gia đình hạnh phúc
Số liệu ở Bảng 1 cho thấy có tới 97,4% gia đình hạnh phúc (gồm 48,1%
hộ rất hạnh phúc và 49,3% hộ tơng đối hạnh phúc), chỉ có 1,9% gia đình
không hạnh phúc. Nhóm gia đình không hạnh phúc với số quan sát quá nhỏ
(15 hộ), không đủ ý nghĩa để so sánh với các gia đình hạnh phúc còn lại.
Do vậy, để làm rõ sự so sánh giữa nhóm hộ gia đình thực sự hạnh phúc với
các nhóm còn lại, những gia đình hạnh phúc đợc xác định trong nghiên
cứu này chỉ bao gồm phạm trù Rất hạnh phúc là 375 hộ gia đình. Những

gia đình còn lại bao gồm những phơng án trả lời nh Tơng đối hạnh
Bảng 1. Những con số liên quan đến gia đình hạnh phúc


Đỗ Thiên Kính

49

phúc, Không hạnh phúc và Không biết gọi là những gia đình khác.
Việc xác định những gia đình hạnh phúc chỉ bao gồm phạm trù Rất hạnh
phúc với hàm ý khẳng định chắc chắn gia đình đó thực sự hạnh phúc.
Những gia đình còn lại, sự hạnh phúc đối với họ cha thật chắc chắn.
2.2. Những đặc điểm về cá nhân
Trong phần sau đây sẽ lần lợt xem xét một số đặc điểm về gia đình
hạnh phúc theo một số đặc điểm cá nhân của ngời trả lời nh giới tính,
tuổi, học vấn, dân tộc, tôn giáo, nghề nghiệp, nhằm có một chân dung về
những gia đình rất hạnh phúc ở nông thôn.
Số liệu từ Bảng 2 cho thấy một số điểm nh sau:
Đối với nhóm nam, tỷ lệ cho biết gia đình rất hạnh phúc cao hơn những
Bảng 2. Các đặc điểm cá nhân về ngời trả lời


50

Nghiên cứu Gia đình và Giới. Quyển 19, số 1, tr. 47-56

gia đình khác (51,7% so với 48,3%). Trái lại, trong nhóm nữ có tỉ lệ gia
đình hạnh phúc là ít hơn những gia đình khác (44,1% so 55,9%). So sánh
theo giới tính ngời trả lời cho thấy tỷ lệ ngời trả lời là nam giới cho biết
gia đình rất hạnh phúc cao hơn so với là nữ (51,7% so với 44,1%).


Trong các nhóm từ 49 tuổi trở xuống, tỉ lệ gia đình hạnh phúc ít hơn
những gia đình khác (44,4% so với 55,6%; 48,9% so với 51,2% và 49,1%
so với 50,9%). Trái lại, trong các nhóm từ 50 tuổi trở lên, tỉ lệ gia đình
hạnh phúc là nhiều hơn những gia đình khác (52,5% so 47,5%; 54,4% so
với 45,6% và 50,5% so 49,5%). Có thể là do vào thời kỳ này, con cái đ
trởng thành, bố mẹ đợc nhàn rỗi hơn và mức sống kinh tế của gia đình
cũng đầy đủ hơn, vì thế mà các gia đình cảm thấy hạnh phúc nhiều hơn.
Xu hớng chung là tuổi của ngời trả lời càng cao thì cảm thấy gia đình
hạnh phúc nhiều hơn, ví dụ từ 44,4% ở độ tuổi dới 40, tỷ lệ này ở độ tuổi
40-44 là 48,9%, lên tới 52,5% và 54,4% ở dộ tuổi trên 50.

Trong các nhóm có trình độ học vấn thấp (từ trung học cơ sở trở
xuống), tỉ lệ gia đình hạnh phúc ít hơn những gia đình khác (41,7% ở
nhóm so với 58,3%; 45,4% so 54,6% và 49,4% so với 50,6%). Trái lại,
trong nhóm có trình độ học vấn cao (từ trung học phổ thông trở lên), tỉ lệ
gia đình hạnh phúc là nhiều hơn những gia đình khác (53,9% so 46,1%).
Nh vậy số liệu cho thấy học vấn của ngời trả lời càng cao thì cảm thấy
gia đình hạnh phúc nhiều hơn. Cụ thể, trình độ học vấn càng cao thì tỉ lệ
gia đình hạnh phúc cũng tăng theo tơng ứng: 41,7% ở nhóm học vấn mù
chữ, tỷ lệ ở nhóm tiểu học đ lên tới 45,4%, ở nhóm học vấn trung học cơ
sở là 49,4% và nhóm học vấn trung học phổ thông và cao hơn là 53,9%.
Đối với những đặc điểm còn lại của ngời trả lời: nhóm dân tộc Kinh,
theo Phật giáo và nghề phi nông nghiệp có tỉ lệ gia đình hạnh phúc lớn hơn
những gia đình khác nh: 52,8% so với 47,2%; 59,8% so với 40,2% và
57,6% so với 42,5%.

Tóm lại, số liệu trên đây cho thấy giới tính của ngời trả lời là nam,
nhóm tuổi và trình độ học vấn càng cao, thuộc dân tộc Kinh, theo đạo Phật
và làm nghề phi nông thờng có cuộc sống gia đình hạnh phúc hơn những

ngời trả lời là nữ, tuổi và trình độ học vấn thấp, thuộc dân tộc ít ngời,
không theo đạo Phật và làm nghề nông nghiệp. Nh vậy, xem xét mối
tơng quan giữa những đặc điểm này với gia đình hạnh phúc, rất có thể
chúng sẽ là những nhân tố tác động đến sự hạnh phúc của gia đình. Điều
này sẽ đợc thực hiện trong mô hình hồi quy ở phần sau.


Đỗ Thiên Kính

51

2.3. Một số yếu tố tác động khác
Phần sau đây sẽ tiếp tục xem xét một số yếu tố liên quan đến khía cạnh
khác trong gia đình nh mức sống, đời sống hôn nhân, phân công làm việc
nhà trong mối tơng quan với hạnh phúc gia đình (Bảng 3).
Kết quả từ Bảng 3 cho thấy:
Về cuộc sống vật chất, những gia đình có mức sống khá giả và ngời
chồng có đóng góp nhiều nhất vào chi tiêu thờng xuyên, thì tỉ lệ gia đình
hạnh phúc lớn hơn những gia đình khác: 60,4% so 39,6% và 57,0% so với
43,0%. Nh vậy xem xét mối tơng quan giữa mức sống khá giả và chồng
có đóng góp nhiều nhất vào chi tiêu hàng ngày với những gia đình hạnh
phúc, rất có thể chúng sẽ là những nhân tố tác động đến hạnh phúc gia
đình. Điều này sẽ đợc thực hiện trong mô hình hồi quy ở phần sau
Về cuộc sống hôn nhân, số liệu ở Bảng 3 cho thấy hai vợ chồng là ngời
quyết định hôn nhân thì tỉ lệ gia đình hạnh phúc cũng lớn hơn (48,7%) so
với 46,8% là bố mẹ quyết định là chính và so với 42,9% là những ngời
khác. Điều này có thể là do hai vợ chồng quyết định kết hôn thì họ sẽ có
đời sống hôn nhân hòa hợp hơn. Hoặc là, khi vợ chồng hài lòng với đời
sống hôn nhân và không bao giờ c i nhau thì tỉ lệ gia đình hạnh phúc sẽ
lớn hơn (50% hài lòng so với 9,1% là không hài lòng; và 65,4% ngời

không bao giờ c i nhau có gia đình rất hạnh phúc so với mức c i nhau
thờng xuyên là 49,3%, thỉnh thoảng là 33,3% và hiếm khi là 9,5%). Đặc
biệt, khi vợ chồng không bao giờ c i nhau thì tỉ lệ những gia đình hạnh
phúc lớn hơn rất nhiều tỉ lệ những gia đình khác. Nh vậy khi hai vợ chồng
quyết định hôn nhân là chính và hài lòng với đời sống hôn nhân và không
bao giờ c i nhau, thì tỉ lệ gia đình hạnh phúc sẽ lớn hơn. Rất có thể đây
cũng là những nhân tố tác động đến hạnh phúc gia đình. Điều này sẽ đợc
thực hiện trong mô hình hồi quy ở phần sau.

Về phân công làm việc nhà, số liệu cũng cho thấy khi vợ là ngời chủ
yếu đảm nhiệm hoặc mức độ cả hai vợ chồng làm chính các công việc nấu
cơm, rửa bát và giặt giũ thì có tỉ lệ gia đình hạnh phúc cũng lớn hơn các
trờng hợp khác. Ví dụ, đối với những gia đình rất hạnh phúc thì tỷ lệ vợ
là ngời đảm nhiệm công việc nấu cơm chính chiếm 50% và 46% gia đình
là cả hai vợ chồng làm bằng nhau so với 35% gia đình việc nấu cơm do
chồng làm chính và 43,6% là do ngời khác. ở những công việc khác cũng
cho thấy tình hình tơng tự. Điều này cho thấy sự phân công lao động hợp
lý giữa hai vợ chồng thì cuộc sống gia đình sẽ hạnh phúc hơn. Liệu đây có
thể cũng là những nhân tố tác động đến sự hạnh phúc của gia đình.


52

Nghiªn cøu Gia ®×nh vµ Giíi. QuyÓn 19, sè 1, tr. 47-56

B¶ng 3. Mét sè yÕu tè t¸c ®éng ®Õn h¹nh phóc gia ®×nh (%)


Đỗ Thiên Kính


53

Việc phân công lao động sản xuất và hoạt động x hội

Đối với công việc sản xuất, mua sắm đồ đạc đắt tiền và các quan hệ
trong gia đình và họ hàng, khi cả hai vợ chồng cùng quyết định những
công việc này thì có tỉ lệ gia đình hạnh phúc lớn hơn so với chỉ vợ (hoặc
chỉ chồng) quyết định là chính. Cụ thể, các tỉ lệ so sánh tơng ứng là:
(54,0% so với 39,2%; 46,4%); (52,9% so với 42,0%; 45,5%); (49,7% so
với 40,2%; 48,0%). Đối với các hoạt động x hội chung của cả hai vợ
chồng, khi ngời chồng quyết định những hoạt động này thì có tỉ lệ gia
đình hạnh phúc lớn hơn so với chỉ vợ (hoặc cả hai vợ chồng) quyết định
là chính (50,8% so với 36,3%; 48,1%). Liệu các hoạt động này cũng là
những nhân tố tác động đến hạnh phúc gia đình. Điều này sẽ đợc thực
hiện trong mô hình hồi quy ở phần sau.
3. Mô hình về những yếu tố quyết định gia đình hạnh phúc

Mặc dù đ xem xét mối tơng quan giữa các nhân tố trong các Bảng 2
và Bảng 3 với gia đình hạnh phúc, nhng số liệu từ hai bảng này dễ có khả
năng ớc lợng vợt quá về ảnh hởng của từng nhân tố đến hạnh phúc
gia đình. Ví dụ, khi ngời trả lời có trình độ học vấn cao thì mức sống của
gia đình họ cũng cao. Tiếp theo lại thấy những gia đình hạnh phúc thì có
mức sống khá giả và trình độ học vấn của chủ hộ cũng cao. Vậy, gia đình
hạnh phúc là do có mức sống khá giả? Hay là do có trình độ học vấn cao?
Ta có thể giải quyết vấn đề này bằng cách sử dụng đồng thời các biến số
độc lập trong cùng mô hình hồi quy. Nó cho phép đo lờng sự tác động
trực tiếp của từng biến số với điều kiện giữ nguyên các ảnh hởng của
những biến số khác ở mức không đổi. Sau quá trình ớc lợng và chọn lựa
trong số các mô hình, ta có mô hình hồi quy logistic tốt nhất về gia đình
hạnh phúc nh sau:


ở Bảng 4, biến số phụ thuộc là gia đình hạnh phúc của ngời trả lời.
Biến số phụ thuộc này là biến nhị phân (binary variable), có hai giá trị là
0 hoặc 1. Biến số này bằng 1, nếu gia đình ngời trả lời là gia đình hạnh
phúc, và bằng 0 nếu ngợc lại. Các biến số độc lập của mô hình hầu hết
đợc giữ nguyên nh đ miêu tả trong các Bảng 2 và Bảng 3. Các biến độc
lập đều là biến giả (dummy variables), có hai giá trị là 0 hoặc 1 (trừ biến
số tuổi là biến liên tục). Với những biến số có ý nghĩa thống kê (P 10% tức là những hệ số có dấu *, hoặc **), dấu âm của hệ số thể hiện sự tác
động ngợc chiều của biến số độc lập lên biến số phụ thuộc; dấu dơng
thể hiện sự tác động thuận chiều. Nói cách khác, nếu hệ số mang giá trị
âm thì sự thay đổi của biến phụ thuộc bị giảm đi; hoặc nếu hệ số mang giá


54

Nghiên cứu Gia đình và Giới. Quyển 19, số 1, tr. 47-56

trị dơng thì sự thay đổi của biến phụ thuộc tăng lên. Ta chỉ phân tích
những biến số có ý nghĩa thống kê. Khi xem xét tác động trực tiếp của mỗi
biến độc lập lên biến phụ thuộc thì phải giới hạn với điều kiện các biến
độc lập khác đợc giữ nguyên không đổi. Để hiểu cụ thể hơn về giá trị các
hệ số, ta có thể xem xét những ví dụ minh họa bằng con số % ở cột cuối
cùng trong Bảng 3. Những con số này là kết quả tính toán dựa trên cơ sở
các hệ số của các biến độc lập. Cần nhớ rằng các gia đình đều có mức xác
suất ban đầu là 48% để trở thành gia đình hạnh phúc. Bởi vì tỉ lệ gia đình
hạnh phúc trong mẫu khảo sát là 48% (Bảng 1). Phân tích các biến số
trong Bảng 4 nh sau:
Kết quả ở Bảng 4 cho thấy có 10 biến số có ý nghĩa thống kê. Trong
đó, có 2 biến số tác động làm giảm sự hạnh phúc của gia đình. Đó là các
biến số nghề nghiệp và vợ quyết định các hoạt động x hội chung cho cả

hai vợ chồng. Khi ngời trả lời làm nghề nông nghiệp, thì xác suất để là
gia đình hạnh phúc đ giảm từ 48,0% xuống còn 35,3% so với hộ gia đình
tơng tự mà ngời trả lời làm nghề phi nông. Làm nghề phi nông sẽ có
cuộc sống vật chất đầy đủ hơn và gia đình hạnh phúc hơn. Hoặc là, khi
ngời vợ quyết định các hoạt động x hội chung cho cả hai vợ chồng, thì
xác suất để là gia đình hạnh phúc đ giảm từ 48,0% xuống còn 34,0% so
với hộ gia đình tơng tự mà ngời chồng (hoặc ngời khác) quyết định các
hoạt động x hội. Trong gia đình, ngời chồng thờng có nhiều quyền lực
hơn ngời vợ. Đây là một trong những yếu tố quan trọng để hình thành gia
đình vào thời điểm kết hôn và duy trì sự phát triển của gia đình về sau.
Nếu ngời vợ nhiều quyền lực hơn chồng, thì sự hạnh phúc của gia đình
có nguy cơ bị giảm sút.
Đối với những biến số có tác động làm tăng sự hạnh phúc của gia đình,
các ví dụ minh họa cũng tơng tự nh trên. Cụ thể, xác suất để có gia đình
hạnh phúc đ tăng từ 48,0% lần lợt lên tới 65,9% đối với dân tộc Kinh
(so với dân tộc thiểu số), lên tới 63,8% đối với ngời theo đạo Phật (so với
ngời không theo đạo Phật), lên tới 57,7% đối với hộ giàu khá (so với hộ
trung bình, hoặc nghèo), lên tới 58,0% khi chồng đóng góp nhiều nhất vào
chi tiêu (so với vợ, hoặc ngời khác đóng góp vào chi tiêu), lên tới 92,0%
khi hai vợ chồng hài lòng với đời sống hôn nhân (so với những vợ chồng
không hài lòng), lên tới 76,3% khi hai vợ chồng không bao giờ c i nhau
(so với những vợ chồng c i nhau thờng xuyên, hoặc thỉnh thoảng c i
nhau), lên tới 57,0% khi vợ là ngời làm công việc là nấu cơm chủ yếu
trong nhà (so với chồng hoặc ngời khác cùng làm công việc này).
Nhìn vào những ví dụ về xác suất để có gia đình hạnh phúc, cho ta thấy


Đỗ Thiên Kính

55


Bảng 4. Ước lợng mô hình hồi quy lôgistic về gia đình rất hạnh phúc

ý nghĩa đợc ẩn chứa đằng sau những con số. Cụ thể, ngời Kinh và theo
đạo Phật có xác suất để là gia đình hạnh phúc khá lớn. Điều này có thể do
triết lý đạo Phật đ dạy ngời ta sống lơng thiện hơn. Mức sống gia đình
khá giả cũng góp phần quan trọng củng cố sự hạnh phúc của gia đình. Khi


56

Nghiên cứu Gia đình và Giới. Quyển 19, số 1, tr. 47-56

ngời chồng đóng góp nhiều nhất vào chi tiêu thì cũng góp phần làm tăng
hạnh phúc gia đình nhiều hơn (so với ngời vợ, hoặc ngời khác đóng góp
vào chi tiêu). Điều này thể hiện vai trò trụ cột kinh tế của ngời chồng đ
quy định vai trò là trụ cột trong việc củng cố và duy trì hạnh phúc gia đình
của anh ta. Đặc biệt, hai vợ chồng hài lòng với đời sống hôn nhân và không
bao giờ c i nhau thì xác suất để có gia đình hạnh phúc là rất lớn. Điều đó
chứng tỏ những nhân tố thuộc về đời sống hôn nhân và sự phù hợp lẫn nhau
giữa hai vợ chồng giữ vai trò chủ yếu để duy trì gia đình hạnh phúc. Kết
quả từ mô hình này cũng cho thấy việc vợ là ngời nấu cơm chủ yếu trong
nhà có mức ý nghĩa thống kê cho thấy vai trò nội trợ của ngời vợ trong
việc duy trì gia đình hạnh phúc. Trên thực tế đây là công việc phần lớn do
phụ nữ đảm nhiệm từ trớc đến nay nhất là ở nông thôn Việt Nam.
Tóm lại, qua những trình bày và phân tích trên đây có thể miêu tả tóm
tắt về gia đình hạnh phúc ở nông thôn Việt Nam nh sau: Gia đình hạt
nhân đang trở nên chiếm u thế và khoảng quá nửa (65,9%) gia đình hạnh
phúc là gia đình hạt nhân. Tỉ lệ gia đình rất hạnh phúc ở nhóm gia đình
hạt nhân là thấp hơn ở các gia đình khác. Tình trạng nghề nghiệp của hai

vợ chồng trong gia đình rất hạnh phúc cũng tơng tự nh mẫu hình nghề
nghiệp trong gia đình nông thôn nói chung (Đỗ Thiên Kính, 2007: 44).
Nhng, trong nhóm gia đình rất hạnh phúc tình trạng u thế về nghề
nghiệp của ngời chồng nổi rõ hơn so với nhóm gia đình khác. Gia đình
rất hạnh phúc có mức sống khá giả hơn những gia đình khác. Hoặc là,
trong nhóm hộ gia đình có mức sống khá giả, thì tỉ lệ gia đình rất hạnh
phúc lớn hơn những gia đình khác. Sự hòa hợp trong gia đình cũng là yếu
tố ảnh hởng đến hạnh phúc gia đình. Nh vậy các kết quả rút ra từ nghiên
cứu này cho thấy những nhân tố thuộc về đời sống hôn nhân và sự hòa hợp
giữa hai vợ chồng giữ vai trò chủ yếu để nâng cao hạnh phúc gia đình.
Điều này chứng tỏ rằng, để thực hiện chức năng trung tâm của gia đình
hiện đại ở Việt Nam là nâng cao hạnh phúc cho các thành viên trong gia
đình, thì chủ yếu là duy trì tình yêu và sự hài lòng về cuộc sống hôn nhân
giữa hai vợ chồng, cũng nh sự hòa hợp và hài lòng giữa các thành viên
khác nói chung.
Tài liệu tham khảo

Đỗ Thiên Kính. 2007. Mẫu hình việc làm và nghề nghiệp của cặp vợ chồng
trong gia đình nông thôn Việt Nam. Tạp chí X hội học, số 3 (99).
Ochiai, Emiko. 1997. The Japanese Family System in Transition: A Sociological
Analysis of Family Change in Postwar Japan, Tokyo: LTCB International
Library Foundation.



×