Bộ giáo dục và đào tạo
Trờng đại học vinh
------------------------
Nguyễn thị hoa
Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống
cho sinh viên Việt Nam hiện nay
(Qua khảo sát tại trờng Cao đẳng Văn hoá
Nghệ thuật Nghệ An)
Chuyên ngành: Lý luận và PPDH bộ môn Chính trị
MÃ số: 60.14.10
Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục
Ngời hớng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Đăng B»ng
2
NghÖ An - 2012
LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành nhất, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới các
thầy cơ giáo khoa Giáo dục Chính trị, Trường Đại học Vinh đã tận tình truyền
đạt những tri thức q báu, dìu dắt giúp đỡ tơi hồn thành tốt nhiệm vụ của
khóa học.
Tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS Nguyễn Đăng Bằng đã
tận tâm giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và hướng dẫn, đóng
góp ý kiến q báu cho tơi hồn thành luận văn này.
Tơi xin chân thành cảm ơn Phịng sau đại học, trường Đại học Vinh,
tập thể trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật Nghệ An, bạn bè và các bạn
học viên đã tạo điều kiện giúp đỡ để tơi có được những thông tin, số liệu
tin cậy. Xin cảm ơn gia đình, người thân đã ln bên tơi động viên, giúp
đỡ, tạo mọi điều kiện thuận lợi để tơi hồn thành khóa học và hồn thành
tốt luận văn của mình.
Vinh, tháng 10 năm 2012
Tác giả
Nguyễn Thị Hoa
MC LC
Trang
Bộ giáo dục và đào tạo...............................................................................................................1
Trờng đại học vinh .....................................................................................................................1
5
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Dân tộc Việt Nam có bề dày lịch sử lâu đời và đã trải qua biết bao sự
kiện biến động lớn lao. Sinh sống trong điều kiện tự nhiên khắc nghiệt lại
luôn phải chống lại những kẻ ngoại xâm hung bạo, muốn tồn tại và phát triển,
dân tộc ta khơng cịn cách nào khác là phải khơi dậy và phát huy sức mạnh
nội lực của chính mình. Trong những thử thách gay go, ác liệt của lịch sử,
những giá trị đạo đức truyền thống vừa là kết quả, vừa là động lực của quá
trình đấu tranh gian khổ, lâu dài và quật cường của dân tộc ta chống lại thiên
tai và địch hoạ. Những giá trị ấy đã làm nên cốt cách, tinh thần và sức mạnh
Việt Nam được bạn bè thế giới khâm phục.
Trong những năm gần đây, tình hình trên thế giới có nhiều biến
động lớn. Một trong những biến động đó là xu thế tồn cầu hố đang diễn
ra như một cơn lốc cuốn hút tất cả các nước trên thế giới. Đây là một xu
thế tất yếu, khách quan hợp quy luật của thời đại mà không một quốc gia
nào có thể đứng ngồi nếu khơng muốn bị tụt hậu. Tồn cầu hố hay nói
cụ thể hơn đó là nền kinh tế thị trường đã đem lại cho tất cả các nước đặc
biệt là các nước đang phát triển những cơ hội lớn, nhưng mặt khác, nó
cũng đặt ra những thách thức không nhỏ. Một trong những thách thức
đáng lo ngại đó là sự phá vỡ những giá trị đạo đức truyền thống vốn có từ
lâu đời của các dân tộc, làm cho dân tộc này có thể bị hồ tan trở thành
cái bóng của một dân tộc khác, tức là làm đánh mất bản thân mình và
đánh mất sức mạnh vốn có của chính dân tộc mình.
Việt Nam cũng nằm trong bối cảnh chung của thế giới và cũng chịu sự
tác động tích cực, tiêu cực do nền kinh tế thị trường đem lại. Nền kinh tế thị
trường với mặt tích cực của nó đã làm cho xã hội trở nên năng động, phát
triển. Nó thực sự là một động lực quan trọng đối với dân chủ và dân chủ hoá
6
đời sống xã hội. Và kết quả đã cho thấy điều đó - xã hội sau hơn hai thập kỷ
đổi mới (1986 - 2012) đã ra khỏi sự trì trệ, khủng hoảng, đã tạo ra những thay
đổi to lớn trong các lĩnh vực văn hố, kinh tế, chính trị…, và tạo tiền đề cho
quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Song mặt trái của kinh tế thị trường đã thâm nhập rất mạnh, ngày càng
mạnh và còn tiếp tục gay gắt hơn nữa trong những thập kỷ tới. Nó đã tạo ra
một bộ phận khơng nhỏ lớp người trong xã hội nói chung, một bộ phận thanh
niên, sinh viên nói riêng có lối sống chạy theo đồng tiền, buông thả, quay
lưng với văn hóa, với truyền thống dân tộc. Điều đó trực tiếp làm cho đạo đức
xã hội ở nước ta hiện nay đang suy thối nghiêm trọng, đang trở thành tình
huống có vấn đề trong phát triển, cần phải đưa ra lời cảnh báo và nghiên cứu
các biện pháp giải quyết. Từ thực tế đó, Đảng ta đặt ra yêu cầu phải gắn tăng
trưởng kinh tế với tiến bộ đạo đức và công bằng xã hội, vừa phát triển kinh
tế thị trường, đồng thời phải bảo tồn và phát huy những giá trị đạo đức
truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
Thực tiễn chứng tỏ rằng, tương lai của mỗi dân tộc phụ thuộc một
phần rất lớn vào thế hệ trẻ nói chung, sinh viên nói riêng. Liệu chúng ta
có thể giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa khi thanh niên bị phai nhạt
lý tưởng, thiếu ý thức giữ gìn những giá trị truyền thống dân tộc? Trong
những điều kiện mới của đất nước, chúng ta đã chuẩn bị "hành trang" gì
cho họ? Điều tiên quyết và khơng thể thiếu đó là "truyền thống dân tộc",
những truyền thống đáng tự hào của lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và
giữ nước đã giúp chúng ta "hội nhập" mà không bị "hịa tan", phát triển
mà khơng bị "mất gốc", trọng truyền thống mà khơng bảo thủ, tất cả
những điều đó đã và đang giúp cho thanh niên Việt Nam nói chung - sinh
viên Việt Nam nói riêng nâng cao hơn nữa bản lĩnh của mình, đứng vững
trước mọi thử thách khắc nghiệt của cuộc sống hiện đại.
7
Với ý nghĩa đó, vấn đề giáo dục đạo đức truyền thống dân tộc là vấn
đề hết sức cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Đó cũng là lý do để tác giả
chọn: "Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên Việt Nam hiện
nay (qua khảo sát tại trường Cao đẳng Văn hoá Nghệ thuật Nghệ An)" làm
đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Giáo dục đạo đức nói chung và giáo dục đạo đức truyền thống nói
chung là một chủ đề lớn đã và đang thu hút sự quan tâm chú ý của nhiều nhà
khoa học trong và ngoài nước trong giai đoạn hiện nay.
Ở nước ngồi có bài viết: “Tương lai của truyền thống dân tộc” của GS.
William Sweet, chuyên ngành triết học và tôn giáo, đại học St. Thomas,
Cannada. Trong bài này tác giả đã bàn về những thách thức chính yếu đối với
đạo đức truyền thống và đưa ra một vài nét về tương lai của truyền thống và
đạo đức truyền thống trước những thách thức của sự văn minh, hiện đại.
Ở trong nước về vấn đề này cũng đã có nhiều nghị quyết, văn bản, chỉ
thị, các cơng trình khoa học của nhiều tổ chức chính trị, xã hội, của các tác giả
được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng. Có thể chia thành 3
nhóm chính sau đây :
Nhóm thứ nhất, các văn kiện của Đảng, các văn bản của ngành.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
VIII, Về định hướng phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo trong thời kì cơng
nghiệp hóa và nhiệm vụ đến năm 2000 ; Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII , Về xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc văn hóa nhân loại ; Chỉ thị số 06-CTTW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Về công tác tổ chức vận động Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ; Chỉ thị số 23CT-TW của
Ban Bí thư , Về đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền giáo dục đạo đức trong
8
tình hình mới;…. Đây là những tài liệu quan trọng nhằm định hướng mục tiêu,
giáo dục tư tưởng đạo đức trong tồn Đảng, tồn dân.
Nhóm thứ hai, các đề tài nghiên cứu khoa học
- Đề tài nghiên cứu KHXH_04.03: "Xây dựng lối sống, đạo đức và
chuẩn mực giá trị xã hội mới trong điều kiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa,
phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa" do Huỳnh Khái
Vinh làm chủ nhiệm (thuộc chương trình khoa học cơng nghệ cấp Nhà nước
KHXH_04, Hà Nội, 2000) là đề tài nghiên cứu khá toàn diện có tính hệ thống
những vấn đề lý luận về lối sống, đạo đức và chuẩn giá trị xã hội, phân tích sự
tác động của các nhân tố chính trị, kinh tế, xã hội và xu hướng chuyển đổi lối
sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội; từ đó nêu phương hướng, quan điểm chỉ
đạo và giải pháp xây dựng lối sống, đạo đức và chuẩn mực giá trị xã hội mới
trong điều kiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Đề tài cấp Bộ của Huỳnh Văn Sơn nghiệm thu năm 2009, “Sự lựa
chọn các giá trị đạo đức và nhân văn trong định hướng lối sống của sinh viên.
Đề tài khảo sát 874 sinh viên từ các trường đại học tại thành phố Hồ Chí
Minh. Từ số liệu khảo sát, đề tài đánh giá sự lựa chon các giá trị đạo đức nhân
văn của sinh viên chưa rõ ràng, còn dao động, tồn tại nhiều thái độ tiêu cực ở
một bộ phận khơng nhỏ sinh viên và cịn chưa thống nhất giữa nhận thức với
thái độ, hành vi. Đề tài cũng nêu một số kiến nghị như: cần xây dựng mơ hình
nhân cách chuẩn mực, một thang giá trị rõ ràng để định hướng cho sinh viên;
chú trọng giáo dục những giá trị đạo đức nhân văn, thực hiện cơng tác giáo
dục bằng nhiều hình thức đa dạng,…
- Đề tài của Phan Huy Lê và Vũ Minh Giang, “Các giá trị truyền thống
và con người Việt Nam hiện nay”. Đề tài này đã nghiên cứu quá trình hình
thành, phát triển và biến đổi của các giá trị truyền thống Việt Nam, phân tích
9
nội dung cấu thành của truyền thống Việt Nam, đánh giá những mặt mạnh,
mặt yếu của di sản truyền thống đồng thời đưa ra những khuyến nghị về
phương hướng và giải pháp giáo dục, phát huy các giá trị truyền thống để giải
quyết một cách hài hoà mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại.
- Luận văn thạc sĩ triết học của Vũ Thanh Hương “Đạo đức của sinh
viên trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay ở Việt Nam – thực trạng và
giải pháp”, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2004. Qua
khảo sát một số trường đại học và cao đẳng ở Hà Nội, đề tài phân tích thực
trạng đạo đức sinh viên trong điều kiện hiện nay và nêu ra một số giải pháp
nhằm nâng cao phẩm chất đạo đức cho sinh viên trong điều kiện kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay như: Tạo lập môi trường kinh tế - xã hội lành
mạnh, nâng cao ý thức tự giáo dục đạo đức của sinh viên, đổi mới nội dung và
hình thức giáo dục đạo đức cho sinh viên.
- Luận văn thạc sỹ của Lê Kim Giang, Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về đạo đức trong q trình giáo dục đạo đức cho học sinh trung học cơ sở, Đại
học Vinh…
Nhóm thứ ba, các loại sách, báo, tạp chí đã được xuất bản
Tiêu biểu phải kể đến các cuốn sách sau:
- “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam”, Trần Văn Giàu,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1980. Cơng trình này, tác giả đã đề cập đến cơ
sở hình thành, nội dung và những biểu hiện của các giá trị tinh thần truyền
thống của dân tộc, trong đó chủ yếu là những giá trị đạo đức.
- "Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện
nay" do Nguyễn Trọng Chuẩn và Nguyễn Văn Phúc (đồng chủ biên), Nxb.
Chính trị quốc gia, 2003. Các tác giả đã phân tích những vấn đề xung quanh
một số vấn đề lý luận, thực trạng và những phương hướng, giải pháp để xây
dựng đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay khá sâu
10
sắc nhưng chưa hệ thống vì đây là tập hợp những bài viết riêng lẻ của nhiều
tác giả với những quan niệm khác nhau.
- “Định hướng giá trị cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay” do tập thể
thường trực Trung ương Hội sinh viên Việt Nam biên soạn, Nxb.Thanh niên,
2007. Quyển sách bàn về cơ sở lý luận về giá trị và định hướng giá trị, phân
tích thực trạng tình hình thanh niên và giáo dục định hướng giá trị cho thanh
niên sinh viên của Đoàn thanh niên, Hội sinh viên và đề xuất một số giải pháp
phát huy vai trị của Đồn thanh niên, Hội sinh viên trong việc giáo dục định
hướng giá trị cho thanh niên sinh viên.
Ngồi ra cịn một số bài báo, tạp chí tập trung vào việc tìm hiểu vấn đề
đạo đức, các giá trị truyền thống trong điều kiện hiện nay như:
- “Giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên trong giai đoạn hiện
nay”, bài viết của Trung tá Đồng Xuân Trường, Học viện Chính trị Quân sự.
Bài viết này đã nêu lên thực trang đạo đức thanh niên hiện nay và một số giả
pháp nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho thanh niên.
- “Giáo dục giá trị văn hoá truyền thống cho thế hệ trẻ” của Lê Cao
Thắng, tạp chí văn hố nghệ thuật, số 309, tháng 3-2010. Trong đó bàn về vấn
đề giáo dục một số nội dung cơ bản của giá trị đạo đức văn hoá truyền thong
cho thế hệ trẻ.
- “Các nội dung và hình thức giáo dục đạo đức cho sinh viên đại học Đà
Nẵng hiện nay”, bài viết của Lê Hữu Aí và Lê Thị Tuyết Ba, trường đại học
kinh tế Đà Nẵng . Trong bài viết này tác giả đã đề cập đến sự cần thiết phải
giáo dục giá trị đạo đức cho sinh viên, nội dung và hình thức giáo dục giá trị
đạo đức cho sinh viên đại học Đà Nẵng.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu, bài viết trên đều có ý nghĩa to
lớn đối với việc kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống hiện
nay ở nước ta. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một cơng trình nghiên cứu nào
11
đề cập một cách trực tiếp đến việc giáo dục đạo đức truyền thống dân tộc cho
sinh viên trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật Nghệ An trong giai đoạn hiện
nay. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là phải đẩy mạnh hơn nữa sự tập trung nghiên cứu
vấn đề này trong điều kiện hiện nay bởi đây là một vấn đề hệ trọng liên quan
đến sự tồn tại và phát triển của dân tộc trong xu thế hội nhập toàn cầu.
3. Mục đích và nhiệm vụ
3.1. Mục đích của luận văn:
Nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh
viên trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật Nghệ An trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn:
- Phân tích những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, từ đó
xác định sự cần thiết của việc giáo dục đạo đức truyền thống cho sinh
viên hiện nay.
- Điều tra, khảo sát thực trạng việc giáo dục đạo đức truyền thống cho
sinh viên trường Cao đẳng Văn hoá Nghệ thuật Nghệ An hiện nay và nguyên
nhân của nó.
- Đề xuất phuơng hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
chất lượng giáo dục đạo đức truyền thống cho sinh viên trường Cao đẳng Văn
hóa Nghệ thuật Nghệ An hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là giá trị đạo đức truyền thống và
giáo dục đạo đức truyền thống cho sinh viên trường Cao đẳng Văn hoá Nghệ
thuật Nghệ An .
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là vấn đề giáo dục đạo đức truyền
thống cho sinh viên trường Cao đẳng Văn hoá Nghệ thuật Nghệ An.
12
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, những nguyên lý đạo đức học Mác - Lênin, tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng về xây dựng đạo đức,
và giá trị đạo đức truyền thống. Ngồi ra, tác giả luận văn có kế thừa các thành
tựu của các cơng trình nghiên cứu đã được cơng bố có liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ đặt ra, luận văn đã sử dụng một số
phương pháp nghiên cứu khoa học sau đây:
- Phương pháp lịch sử và lơgíc;
- Phương pháp phân tích và tổng hợp;
- Phương pháp quy nạp và diễn dịch;
- Phương pháp điều tra xã hội học...
6. Giả thuyết khoa học
Nếu thực hiện đươc một cách đồng bộ các giải pháp mà luận văn nêu
ra thì vấn đề đạo đức của sinh viên cũng như công tác giáo dục đạo đức
truyền thống của trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật Nghệ An sẽ được
nâng cao.
7. Đóng góp mới về mặt khoa học của đề tài
- Về mặt lý luận : Góp phần xây dựng lý luận về nâng cao hiệu quả
công tác giáo dục đạo đức truyền thống cho sinh viên trường Cao đẳng Văn
hóa Nghệ thuật Nghệ An trong giai đoạn hiện nay.
- Về mặt thực tiễn : Góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức
truyền thống cho sinh viên trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật Nghệ An
trong giai đoạn hiện nay.
13
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống
cho sinh viên hiện nay.
Chương 2: Thực trạng giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh
viên hiện nay ( qua khảo sát tại trường cao đẳng văn hoá nghệ thuật Nghệ An)
Chương 3: Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
chất lượng giáo dục gia strij đạo đức truyền thống cho sinh viên hiện nay.
14
B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC
TRUYỀN THỐNG CHO SINH VIÊN HIỆN NAY.
1.1. Khái niệm, nội dung cơ bản của đạo đức truyền thống.
1.1.1.Một số khái niệm:
- Khái niệm đạo đức:
Với tư cách là bộ phận của tri thức triết học, những tư tưởng đạo đức
học đã xuất hiện cách đây hơn 20 thế kỷ trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ,
Hy Lạp cổ đại. Trong các học thuyết triết học từ thời cổ đại đến nay, vấn đề
đạo đức luôn được đề cập đến, đặc biệt, đối với một số học thuyết, đạo đức là
vấn đề trung tâm.
Về khái niệm đạo đức, ở phương Đông, theo các học thuyết về đạo
đức của người Trung Quốc cổ đại, đạo có nghĩa là con đường, đường đi, là
đường sống của con người trong xã hội. Đức dùng để nói đến nhân đức,
đức tính và nhìn chung đức là biểu hiện của đạo, là đạo nghĩa, là nguyên
tắc luân lý. Theo đó, đạo đức chính là những yêu cầu, những nguyên tắc do
cuộc sống đặt ra mà con người phải tuân theo. Trong các học thuyết của
Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo đều lấy đạo đức làm cơ sở trong đối nhân xử
thế và đề xuất các quy tắc, các chuẩn mực, những ràng buộc trong các hoạt
động sống của con người.
Ở phương Tây, danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng Latinh là mos,
moris, nghĩa là phong tục, tập quán. Đạo đức cịn có gốc từ tiếng Hy Lạp là
ethicos, cũng có nghĩa là thói quen, tập quán. Như vậy, theo phần gốc của
khái niệm khi nói đến đạo đức là nói đến những thói quen, tập quán hoạt động
và ứng xử của con người trong cộng đồng, trong xã hội. Nhà nghiên cứu đạo
15
đức học nổi tiếng người Nga là G.Bandzeladze, trên lập trường duy vật biện
chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin đã nêu quan niệm: "Đạo đức là hệ thống
những chuẩn mực biểu hiện sự quan tâm tự nguyện, tự giác của con người
trong quan hệ với nhau và trong quan hệ với xã hội nói chung" [12,104].
Theo từ điển Triết học, “Đạo đức là một trong những hình thái ý
thức xã hội, một chế định xã hội thực hiện chức năng điều chỉnh hành vi
của con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội…Trong đạo đức, sự
cần thiết xã hội, những nhu cầu lợi ích của xã hội, hoặc của các giai cấp
biểu hiện dưới nhữnghình thức, những quy định và những sự đánh giá đã
được mọi người thừa nhận và đã thành hình một các tự phát, được củng cố
bằng sức mạnh của tấm gương của quần chúng, của thói quen, phong tục,
dư luận xã hội…” [29, 156-157]
Như vậy, theo quan điểm Mácxít, đạo đức là một trong những hình
thái ý thức xã hội, một chế định xã hội, nó phản ánh tồn tại xã hội, phản ánh
hiện thực đời sống. Đạo đức là sản phẩm của những điều kiện sinh hoạt vật
chất của xã hội, của cơ sở kinh tế, là sản phẩm tổng hợp của các yếu tố khách
quan và chủ quan, là sản phẩm của hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận
thức của con người. Cùng với sự phát triển điều kiện kinh tế xã hội, nguyên
tắc, chuẩn mực đạo đức sẽ ngày càng hồn thiện thích ứng với sự tiến bộ của
xã hội lồi người.
Từ phân tích trên, có thể khái qt về khái niệm đạo đức như sau: Đạo
đức là một hình thái ý thức xã hội, bao gồm một hệ thống những nguyên tắc,
chuẩn mực xã hội, nhờ đó con người tự giác đánh giá và điều chỉnh hành vi
của mình trong các quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với xã hội
cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người và sự tiến bộ xã hội.
Nói tóm lại, đạo đức là tổng hợp các qui tắc, tiêu chuẩn chỉ đạo mối
quan hệ giữa con người với con người trong một cộng đồng, một xã hội nói
16
chung. Cho dù ở giai đoạn nào của lịch sử thì nét chung của đạo đức vẫn là
hướng tới cái thiện, chống lại cái ác, hướng tới quan hệ đẹp đẽ giữa con người
với con người, con người với tự nhiên và xã hội; đồng thời cũng là khẳng
định sự tự tu dưỡng giáo dục của mỗi cá nhân. Từ xa xưa ông cha ta đã rất coi
trọng và đề cao giáo dục đạo đức của con người. Bác Hồ cũng đã từng nói:
“Có Đức mà khơng có Tài thì làm việc gì cũng khó, có Tài mà khơng có Đức
là người vơ dụng”. Bác cịn chỉ rõ: “Dạy cũng như học phải chú trọng cả Đức
lẫn Tài. Đức là đạo đức cách mạng, đó là cái gốc rất quan trọng”. Công tác
giáo dục đạo đức trong nhà trường là một bộ phận quan trọng có tính chất nền
tảng của giáo dục trong nhà trường xã hội chủ nghĩa.
- Khái niệm truyền thống:
Trong lịch sử đã từng tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề
"truyền thống". Theo Từ điển Bách khoa Triết học của Liên Xơ, "truyền
thống" có nguồn gốc từ tiếng Latinh là traditio - sự chuyển giao, lưu truyền lại đó là các giá trị tinh hoa văn hóa được lưu truyền từ những thế hệ trước và nó
được gìn giữ ở các xã hội, giai cấp hay nhóm xã hội nhất định. Giáo sư
Nguyễn Trọng Chuẩn có nói: "Từ đây, cái được gọi là truyền thống chỉ khi
nào nó trở thành một bộ phận thiết yếu của cuộc sống chúng ta và chỉ khi nào
nó bảo tồn cuộc sống chúng ta và chỉ khi nào nó có khả năng phát triển cuộc
sống của chúng ta" [3, 23].
Dưới góc độ khoa học, truyền thống được hiểu theo hai nghĩa: tích
cực và tiêu cực. Nghĩa tích cực, truyền thống đó là những giá trị tốt đẹp,
được lưu truyền từ đời này qua đời khác, nó đứng vững được trong thời
gian và có thể đương đầu với những biến động của lịch sử. Hơn nữa, những
giá trị ấy có khả năng tạo ra sức mạnh, sản sinh ra các giá trị mới, đem lại
lợi ích cho con người.
17
Tuy nhiên, trong đó cũng có những cái mà chúng ta vẫn gọi là "truyền
thống" nhưng không đem lại lợi ích cho con người, nhiều khi nó kìm hãm sự
phát triển đây là nghĩa tiêu cực của phạm trù này. C.Mác đã viết: “Truyền
thống của tất cả các thế hệ đã chết đè nặng như quả núi lên đầu óc những
người đang sống”. Cịn Hồ Chí Minh, trong bài “Đạo đức cách mạng” (tháng
12-1958) cũng đã viết: “Thói quen và truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to;
nó ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ. Chúng ta lại khơng thể trấn áp nó,
mà phải cải tạo nó rất cẩn thận, rất chịu khó, rất lâu dài” .
Hiểu theo nghĩa tích cực, truyền thống trở thành một bộ phận thiết yếu
của đời sống con người. Nó góp phần duy trì, bảo vệ và phát triển cuộc sống
của chúng ta. Tóm lại, sự nhận thức truyền thống khơng tách rời nhận thức
các giá trị.
- Giá trị đạo đức truyền thống:
Các giá trị đạo đức truyền thống được hình thành trong q trình phát
triển của mỗi dân tộc. Chúng có những đặc điểm riêng tiêu biểu cho các dân
tộc đó, nhưng cũng có những nét tương đồng. Bởi lẽ, dân tộc nào cũng có
những cơng việc giống nhau, cần phải giải quyết, như việc xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, lao động sản xuất để kiến tạo cuộc sống của mình… Hơn nữa,
việc giao lưu văn hoá cũng là điều kiện làm cho các giá trị đạo đức của các
dân tộc có ảnh hưởng lẫn nhau.
Giá trị đạo đức truyền thống được tồn tại thông qua các phong tục tập
quán, đạo đức, và được biểu hiện tập trung nhất ở nhân cách. Chúng có tính
ổn định tương đối cao.
Mặc dù truyền thống là những gì ổn định, được lưu truyền từ đời này
qua đời khác, nhưng với tư cách là yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng, khi
điều kiện kinh tế-xã hội có những biến đổi, thì nó cũng có những biến đổi
nhất định, trong đó có sự biến đổi của giá trị đạo đức truyền thống. Tuy vậy,
18
các giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình vận động của mình, chúng
vẫn giữ được những “lõi bất biến”.
Vậy giá trị đạo đức truyền thống là nói tới tồn bộ những tư tưởng, tình
cảm, tập qn, thói quen đạo đức được truyền từ đời này sang đời khác và
được mọi người tự nguyện noi theo.
- Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc:
Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc là sự kết tinh toàn bộ tinh hoa
được cơ đúc nên trong suốt q trình hình thành, tồn tại và phát triển của dân
tộc. Cho nên giá trị truyền thống là cái thể hiện bản chất nhất, đặc trưng nhất
của cốt lõi văn hoá dân tộc tạo nên một sức mạnh tiềm tàng và bền vững.
Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc không phải là những gì sẵn có
khi dân tộc đó xuất hiện, mà do các thế hệ người nối tiếp nhau tạo thành. Tuy
nhiên, mỗi dân tộc cũng không thể tự lựa chọn cho mình những giá trị truyền
thống như mong muốn, mà những giá trị truyền thống được hình thành dựa
trên cơ sở những điều kiện kinh tế, lịch sử, xã hội của chính dân tộc đó trong
suốt tiến trình lịch sử của mình.
Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc cũng khơng phải là giá trị vĩnh
cửu, nó có lõi bất biến đồng thời có phần biến động để có thể bổ sung, đổi
mới cho ngày càng phong phú và phù hợp với đặc trưng, tính chất thời đại.
Như vậy, giá trị đạo đức truyền thống dân tộc được cơ đúc trong suốt
q trình hình thành tồn tại và phát triển của dân tộc, nó gắn liền với đời
sống, với những thăng trầm của dân tộc. Toàn bộ giá trị đạo đức truyền
thống dân tộc là cái thể hiện cô đọng nhất, độc đáo nhất, rõ nét nhất bản
chất dân tộc. Đồng thời nó cũng chính là sức mạnh nội sinh để một dân tộc,
một đất nước tồn tại và phát triển. Nói đến giá trị truyền thống của một
cộng đồng dân tộc, chính là nói đến truyền thống tốt đẹp của cộng đồng
dân tộc đó. Nó chính là những giá trị bình ổn, tốt đẹp, có thể lưu truyền từ
19
đời này qua đời khác, là những cái cần được giữ gìn phát huy phát triển cho
phù hợp với xã hội hiện tại.
Giá trị đạo đức truyền thống có một vị trí vơ cùng quan trọng trong sự
tồn tại và phát triển của dân tộc. Việc kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức
truyền thống dân tộc có một ý nghĩa vô cùng to lớn trong giai đoạn phát triển
mới của mỗi quốc gia.
1.1.2. Nội dung của một số giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc
Việt Nam.`
Như chúng ta đã biết, lịch sử Việt Nam đã trải qua hàng nghìn năm
dựng nước và giữ nước. Quá trình đó đã rèn luyện và hun đúc nên những thế
hệ con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, sẵn sàng xả thân để cứu nước,
thương yêu con người, thương yêu đồng loại, có tinh thần chịu đựng gian khổ,
khó khăn... Những đức tính đó đã trở thành truyền thống mà hàng ngàn đời
nay, những thế hệ con người Việt Nam đã nâng niu, gìn giữ, đó là những giá
trị tinh thần, tư tưởng, tâm lý như lòng yêu nước, tính cần cù, óc sáng tạo, hài
hước, trọng nhân nghĩa, kính thầy, ham học,… những giá trị tốt đẹp đó có tác
dụng củng cố, phát triển quan hệ xã hội, tạo ra sức mạnh cho con người vượt
qua khó khăn trong cuộc sống hiện tại để phát triển xã hội và hồn thiện nhân
cách. Có những phong tục tập qn, những thói quen khơng phù hợp với sự
phát triển xã hội thì khơng thể coi đó là những truyền thống. Vậy, khi nói đến
đạo đức truyền thống thường là nói đến những giá trị văn hóa, tinh thần tốt
đẹp, có ý nghĩa tích cực.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa
VIII) "Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc", đã khẳng định:
Bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam bao gồm những giá trị bền
vững, những tinh hoa được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh
20
dựng nước và giữ nước. Đó là lịng u nước nồng nàn; lịng tự tơn, tự cường
dân tộc; tinh thần cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc;
lòng nhân ái khoan dung, trọng nghĩa tình đạo lý; đức tính cần cù sáng tạo
trong lao động; là đức hy sinh cao thượng tất cả vì độc lập dân tộc, vì hạnh phúc
của nhân dân; là sự tế nhị trong cư xử, tính giản dị trong lối sống [6, 10-11].
Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta. Theo giáo sư Vũ Khiêu,
bao gồm: lịng u nước, truyền thống đồn kết, lao động cần cù và sáng tạo;
trong đó yêu nước là bậc thang cao nhất trong hệ thống giá trị đạo đức của
dân tộc [17, 74-86]. Theo giáo sư Trần Văn Giàu là: "Yêu nước, cần cù, anh
hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa" [13, 108]. Cịn nghị quyết
09 của Bộ Chính trị về một số định hướng lớn trong cơng tác tư tưởng hiện
nay thì chỉ rõ: "Những giá trị văn hóa truyền thống vững bền của dân tộc Việt
Nam là lòng yêu nước nồng nàn, ý thức cộng đồng sâu sắc, đạo lý "thương
người như thể thương thân", đức tính cần cù, vượt khó sáng tạo trong lao
động..." [8, 19].
Tuy cịn có sự khác biệt nào đó trong việc sắp xếp thang giá trị đạo
đức. Nhưng nhìn chung, giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam
bao gồm những nội dung cơ bản đó là:
- Chủ nghĩa yêu nước.
- Truyền thống nhân ái – yêu thương con người.
- Truyền thống cần cù, tiết kiệm, thông minh, sáng tạo.
- Truyền thống đồn kết.
- Truyền thống hiếu học, tơn sư trọng đạo.
Các giá trị đó, được ơng cha ta hun đúc từ xưa đến nay, không chỉ là
bản sắc, cội nguồn, sức mạnh nội sinh, mà còn là động lực cho sự phát triển
của dân tộc ta lên một tầm cao mới. Tuy khác nhau trong việc sắp xếp thang
bậc của các giá trị đạo đức truyền thống song các quan điểm, các ý kiến đều
21
thống nhất cao độ ở một điểm coi chủ nghĩa yêu nước là bậc thang cao nhất
trong hệ thống giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam. Nó là "sợi
chỉ đỏ xun qua tồn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại" [13, 100],
là "tiêu điểm của các tiêu điểm, giá trị của các giá trị" [26, 94], là "động lực
tình cảm lớn nhất của đời sống dân tộc, đồng thời là bậc thang cao nhất trong
hệ thống giá trị đạo đức của dân tộc ta" [19, 74].
- Truyền thống yêu nước.
Chủ nghĩa yêu nước của dân tộc Việt Nam được hình thành, được thử
thách và được khẳng định qua bao thăng trầm của lịch sử, nó đã được bổ sung
và phát triển qua từng thời kỳ, nó là một trong những giá trị truyền thống cao
quý và bền vững nhất của dân tộc ta. Truyền thống đó biểu hiện rõ nhất trong
cuộc đấu tranh chống kẻ thù xâm lược. Thật hiếm có một dân tộc nào trên thế
giới lại có q trình chống ngoại xâm kiên cường, dũng cảm, bất khuất như
dân tộc Việt Nam. Tinh thần “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất
nước, không chịu làm nô lệ”, “khơng có gì q hơn độc lập tự do” đã trở
thành quyết tâm của cả dân tộc trong suốt thế kỷ qua. Đảng ta, đứng đầu là
Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã kế thừa và phát huy truyền thống yêu nước của dân
tộc, nâng lên tầm cao mới là chủ nghĩa yêu nước gắn liền với chủ nghĩa xã hội
đưa dân tộc Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Chủ nghĩa yêu
nước chính là tinh thần đấu tranh xóa bỏ áp bức bóc lột, là ý thức chiến thắng
nghèo nàn và lạc hậu, vươn tới xã hội dân chủ, cơng bằng, bình đẳng, tổ quốc
phồn vinh dân giàu, nước mạnh.
Ngày nay, truyền thống yêu nước của nhân dân Việt Nam thể hiện
trong xây dựng đất nước, trước hết là chăm lo xây dựng đất nước về mọi mặt
kinh tế, chính trị, văn hóa... Thể hiện ở sự nhất trí, tin tưởng vào đường lối đổi
mới của Đảng, vào khả năng, sức mạnh tự lực tự cường của mình trong sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ,
22
văn minh. Có thể nói rằng, dưới thời đại Hồ Chí Minh, truyền thống yêu nước
được phát huy lên tầm cao mới thành lý tưởng: sống, chiến đấu, lao động, học
tập vì độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân...
- Truyền thống nhân ái – yêu thương con người.
Truyền thống nhân ái khoan dung là một truyền thống quý giá của dân
tộc Việt Nam. Truyền thống nhân ái đó đã được đúc kết trong tục ngữ ca dao
Việt Nam: “Bầu ơi thương lấy bí cùng”, “Thương người như thể thương
thân”, “Lá lành đùm lá rách”, “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”.
Truyền thống nhân ái khoan dung của dân tộc Việt Nam có lịng từ bi của
Phật, lịng nhân ái của Nho, có cả hệ tư tưởng nhân đạo của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Truyền thống tốt đẹp đó ln được các thế hệ
con người Việt Nam kế thừa và phát huy.
Hồ Chủ tịch là hiện thân của lòng nhân ái, nhân nghĩa. Xuất phát từ
lòng thương yêu con người - người lao động, yêu quê hương đất nước, Bác đã
bơn ba tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Cả cuộc đời mình, Bác hy
sinh cho độc lập dân tộc và hạnh phúc của nhân dân. Lòng nhân ái của Người
đã trở thành sức mạnh, nó đã thấm sâu vào chủ trương đường lối chính sách của
Đảng và Nhà nước ta, có tác dụng cảm hóa hàng vạn con người lầm đường
lạc lối, theo kẻ thù chống lại nhân dân. Bác xem họ như là những đứa con "lạc
bầy" cần được cưu mang. Bác nói: Giống như bàn tay cũng có ngón dài ngón
ngắn, nhưng ngắn dài đều hợp lại nơi bàn tay. Trong mấy chục triệu người, có
người thế này, người thế khác, nhưng tất cả đều là dòng dõi tổ tiên ta, đều là
người Việt Nam, nên cần phải khoan dung độ lượng. Hàng năm, Đảng và Nhà
nước thường có những đợt giảm án cho các phạm nhân cải tạo tốt, điều đó thể
hiện lòng nhân ái của Đảng và Nhà nước ta.
Ngày nay, truyền thống đó được thể hiện trong đường lối đối ngoại
của Đảng: Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế
23
giới, phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển. Lòng nhân ái của người Việt
Nam cũng là lòng u chuộng hịa bình và tình hữu nghị giữa các dân tộc.
Trong quan hệ với các nước láng giềng, nhân dân ta bao giờ cũng trọng tình
hịa hiếu, cố gắng tránh xảy ra những xung đột.
Trong đường lối đối nội, Đảng ta đã khơi dậy các phong trào "uống
nước nhớ nguồn", "đền ơn đáp nghĩa", chăm sóc bà mẹ Việt Nam anh hùng,
các gia đình thương binh liệt sĩ, giúp đỡ những người già cả neo đơn không
nơi nương tựa. Phát động phong trào xóa đói giảm nghèo, trợ giúp các dân tộc
vùng sâu vùng xa, rút ngắn khoảng cách thành thị - nông thôn, miền xuôi miền ngược... Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta đã khẳng
định: “Người Việt Nam vốn có lịng u nước thiết tha, có tinh thần dân chủ,
bình đẳng trong quan hệ giữa người với người” [4, 74]. "Thương nước thương nhà, thương người - thương mình" là truyền thống đậm đà của nhân
dân ta. Nhờ có tinh thần yêu nước và dân chủ ấy mà trong suốt quá trình lịch
sử bốn ngàn năm, dân tộc ta đã làm nên những chiến cơng oanh liệt. Từ ngày
có Đảng, dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, truyền thống yêu
nước và dân chủ của nhân dân ta được nâng lên một trình độ mới và phát huy
mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
- Truyền thống đoàn kết:
Truyền thống đồn kết của dân tộc Việt Nam cũng hịa vào dòng chảy
của chủ nghĩa yêu nước và trở thành biểu tượng của chủ nghĩa yêu nước. Đây
là nhân tố tinh thần hợp thành động lực thúc đẩy quá trình phát triển của lịch
sử dân tộc. Truyền thống đó được biểu hiện qua các mối quan hệ cộng đồng
lớn nhỏ khác nhau như gia đình, gia tộc, họ hàng, làng xã và lớn hơn là cộng
đồng các dân tộc Việt Nam. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, truyền
thống đoàn kết cộng đồng của người Việt Nam đã tạo nên sức mạnh to lớn,
góp phần đưa dân tộc ta vượt qua biết bao thử thách gian nguy, giành và giữ
24
vững quyền độc lập, tự do. Xưa Nguyễn Trãi nói: "Chèo thuyền là dân, lật
thuyền cũng là dân" để chỉ sức mạnh đoàn kết của nhân dân. Dân là gốc, là
nền tảng của sự tồn tại và phát triển. Nối tiếp truyền thống của cha ơng, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng khối đại đoàn kết của dân tộc Việt Nam dựa
trên nền tảng liên minh cơng, nơng, trí thức vững chắc. Người đã kết hợp sức
mạnh của thời đại, tạo nên sức mạnh tổng hợp, đưa cách mạng Việt Nam
giành những thắng lợi to lớn. Ngọn cờ tư tưởng đại đồn kết của Bác Hồ
chính là sức mạnh để dân tộc ta hội nhập và phát triển, mở rộng và nâng khối
đại đoàn kết lên một tầm cao mới. Người nêu tấm gương sáng chói trong việc
kế thừa và phát huy truyền thống đoàn kết dân tộc. Lúc sinh thời Bác Hồ từng
nói: “Dễ mười lần khơng dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong”.
Và: "Việc gì khó cho mấy, quyết tâm làm thì làm chắc được, ít người làm
khơng nổi, nhiều người đồng tâm hiệp lực mà làm thì phải nổi" [19, 258].
Người cịn khẳng định: "Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết; thành cơng, thành
cơng, đại thành cơng". Trước lúc đi xa, Người cịn căn dặn các cán bộ, đảng
viên: "Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta.
Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đồn kết nhất
trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình" (Di chúc của Chủ tịch Hồ
Chí Minh cơng bố năm 1969).
- Truyền thống lao động cần cù, thông minh sáng tạo
Đây là một truyền thống quý giá của dân tộc Việt Nam. Trải qua biết
bao thế hệ, nhờ được phát huy, dân tộc Việt Nam đã tạo ra nhiều giá trị văn
hóa vật chất và tinh thần phong phú. Nhờ đó, dân tộc ta đã vượt qua mọi khó
khăn, thử thách khắc nghiệt của tự nhiên để xây dựng và phát triển đất nước.
Để có bát cơm thơm dẻo, người nơng dân đã phải một nắng hai sương
"bán mặt cho đất bán lưng cho trời", hình ảnh người nơng dân trong những
câu ca dao dân ca Việt Nam cịn đó: "Trên đồng cạn dưới đồng sâu, chồng
25
cày vợ cấy con trâu đi bừa". Ông cha ta thường dạy con cháu phải biết quý
trọng thành quả lao động của con người: "Ai ơi bưng bát cơm đầy, dẻo thơm
một hạt đắng cay muôn phần".
Truyền thống cần cù của người Việt Nam ln gắn với tiết kiệm, vì
vậy cần mà khơng kiệm thì khác nào: "Tiền vào nhà khó như gió vào nhà
trống". Nên ơng cha ta thường nhắc nhở con cháu rằng: "Được mùa chớ phụ
ngô khoai. Đến khi thất bát lấy ai bạn cùng". Hồ Chủ tịch cũng đã nêu rõ: con
người phải có bốn đức tính: Cần, kiệm, liêm, chính, so sánh với bốn mùa của
trời, bốn phương của đất, nếu thiếu một đức thì không thành người.
Ngày nay, cần cù sáng tạo được biểu hiện càng rõ nét trong lao động
sản xuất, trong khoa học- kỹ thuật, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các
phong trào thi đua rộng rãi và thường xuyên trên mọi lĩnh vực: ở biên cương,
nơi đồng ruộng, trong nhà máy xí nghiệp, trong nhà trường...
Đặc biệt trong quá trình đổi mới đất nước, với mục tiêu "dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", hơn bao giờ hết truyền
thống cần cù, sáng tạo càng được phát huy cao độ.
- Truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo
Hiếu học, tôn sư trọng đạo là truyền thống quý giá của dân tộc ta. "Qua
sông phải bắc cầu Kiều. Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy". Câu hát ru đó
đã thể hiện truyền thống tơn sư trọng đạo của người Việt Nam.
Truyền thống tôn sư trọng đạo là một nội dung trong học thuyết của
Khổng Tử, khi vào Việt Nam đã trở thành một nội dung đạo lý của người Việt
Nam. Học trị Việt Nam ln ghi nhớ: "Cơm cha, áo mẹ, nghĩa thầy", "Mồng
một tết cha, mồng hai tết mẹ, mồng ba tết thầy". "Không thầy đố mày làm
nên", đó là một triết lý sống của người Việt Nam. Là cây phải có gốc, là sơng
phải có nguồn, để trở thành một con người đúng nghĩa phải có thầy. Nhớ cơng