Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Tiểu luận môn Quá trình sản xuất Tư bản chủ nghĩa: Bình luận về quan điểm sự phát triển của máy móc và đại công nghiệp của Các Mác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (542.75 KB, 18 trang )

Tiểu luận Quá trình sản xuất TBCN

Văn Công Vũ

MỤC LỤC

[5] TS. Nguyễn Trần Thành, C.Mác bàn về tác động của cách 
mạng công nghiệp đến sản xuất, giao thương kinh tế và đời sống 
 người lao động, Tạp chí Mặt trận, ngày 11/06/2018                        
 
.......................
    
 18

LỜI MỞ ĐẦU
Khác với trước đó, nếu như việc phát minh ra cơ khí là để làm giảm nhẹ 
được lao động hàng ngày, thì việc phát minh ra máy móc theo kiểu tư bản chủ 
nghĩa là: Cũng giống như  mọi sự  phát triển khác của sức sản xuất của lao  
động, việc sử  dụng máy móc theo kiểu tư  bản chủ  nghĩa phải làm cho hàng 
hóa rẻ đi, rút ngắn phần ngày lao động mà người công nhân dùng cho bản thân 
mình để kéo dài phần ngày lao động mà người công nhân làm không công cho  
nhà tư bản. Máy móc là một phương tiện để sản xuất ra giá trị thặng dư. 

1


Tiểu luận Quá trình sản xuất TBCN

Văn Công Vũ

Khi bàn về sự phát triển của máy móc và đại công nghiệp, C.Mác đưa ra 


quan điểm:  “Nếu coi máy móc chỉ  là một phương tiện để  làm cho sản  
phẩm rẻ  đi, thì giới hạn sử  dụng máy móc được quyết định bởi cái tình  
hình là: số  lao động tiêu phí để  sản xuất ra máy móc phải ít hơn số  lao  
động mà việc sử dụng máy móc thay thế. Song đối với nhà tư bản thì giới  
hạn đó lại còn hẹp hơn nữa”. Đây là một quan điểm sâu sắc, nêu bật được ý 
nghĩa của việc sử dụng máy móc. 
Trong phạm vi  tiểu luận học phần  Quá trình sản  xuất tư  bản  chủ  
nghĩa, học viên thực hiện đề  tài với chủ đề bình luận về quan điểm trên của  
Mác. Quan điểm đó không chỉ  có ý nghĩa  ở  thời đại Mác mà còn có ý nghĩa 
thực tiễn mang tính thời sự trong bối cảnh hiện nay của thế giới và của Việt  
Nam. 

PHẦN NỘI DUNG
I. MÁY MÓC
1. Khái niệm
Những nhà toán học và những nhà cơ  học ­ cho rằng “công cụ  là một máy 
móc đơn giản và máy móc là một công cụ phức tạp”.
2


Tiểu luận Quá trình sản xuất TBCN

Văn Công Vũ

Mác viết: “Nhưng theo quan điểm kinh tế thì định nghĩa đó hoàn toàn không 
có giá trị gì cả, vì nó thiếu mất yếu tố lịch sử. Mặt khác, có ng ười cho rằng sự 
khác nhau giữa công cụ và máy móc là ở chỗ, ở công cụ động lực là con ng ười, 
còn  ở  máy móc thì động lực là những lực l ượng tự  nhiên khác hẳn sức người 
như súc vật, nước, gió, v.v.”
C. Mac tranh luận: “Như thế thì một cái cày do bò kéo, thuộc về những thời 

kỳ sản xuất khác nhau nhất, sẽ là một cái máy, còn chiếc máy dệt kim của Clau­
xen, chạy được nhờ bàn tay của một người thợ duy nhất và một phút dệt được  
96.000 mũi, lại chỉ là một công cụ đơn giản. Hơn thế nữa, cũng cái máy dệt đó  
nếu quay bằng tay thì là một công cụ, còn nếu chạy bằng hơi nước thì đó lại là 
một chiếc máy (Nghĩa là khái niệm đó không ổn, rất hời hợt)”1
Từ đó, C.Mác cho rằng “Tất cả máy móc đó phát triển đều gồm 3 bộ phận 
khác nhau một cách căn bản: động cơ, cơ  cấu truyền lực và cuối cùng là máy  
công cụ  hay máy công tác. Động cơ  hoạt động với tư  cách là sức đẩy của toàn 
thể  cơ  cấu. Nó tạo ra sức chuyển động của chính nó, như  máy hơi nước, máy 
nhiệt lực, máy điện từ, v.v., hoặc nó nhận được sức đẩy của một lực tự  nhiên 
có sẵn ở bên ngoài, như bánh xe nước chạy nhờ sức nước, hay cánh cối xay gió 
quay nhờ  sức gió, v.v.. Cơ  cấu truyền lực­ gồm có vô­lăng đà, trục truyền lực, 
bánh xe răng, đĩa lệch tâm, cần, dây truyền lực, dây cua­roa, những thiết bị  và  
phụ tùng trung gian đủ các loại khác nhau ­ điều  tiết sự chuyển động, nếu cần  
thì thay đổi hình thái chuyển động, ví dụ  từ  hình thái vuông góc sang hình thái 
tròn, phân phối và chuyển sự chuyển động sang máy công cụ. Hai bộ  phận này  
của cơ cấu chỉ tồn tại là để chuyển sự chuyển động sang máy công cụ, nhờ thế 
mà máy công cụ nắm lấy đối tượng lao động và thay đổi nó đi theo mục đích đã 
định”2. 
1
2

C.Mác và Ăngghen: toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 23, trang 537
C.Mác và Ăngghen: toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 23, trang 538, 539
3


Tiểu luận Quá trình sản xuất TBCN

Văn Công Vũ


C. Mac viết: Chính bộ  phận này của máy móc, tức máy công cụ, là điểm  
xuất phát của cuộc cách mạng công nghiệp trong thế kỷ XVIII. 
Khái niệm máy công cụ: Như  vậy, máy công cụ  là một cơ  cấu mà sau khi  
nhận được một sự  chuyển động thích hợp thì với những công cụ  của nó, nó  
cũng làm những công việc giống như  công việc mà người công nhân đã làm 
trước kia với những công cụ tương tự. 
“Việc sáng tạo ra máy công cụ  chính là yêu cầu sáng tạo ra các máy động 
lực để đáp ứng cho nó”3 
Hệ  thống máy móc: “từ  máy công cụ  kéo theo sự  phát triển của máy động  
lực, máy truyền lực”.  C. Mac viết: “Bây giờ, cần phải phân biệt hai điều: sự 
hiệp tác của nhiều máy cùng loại và hệ thống máy móc”4. 
Máy móc: toàn bộ công việc do cùng một máy công tác làm ra. Máy này làm 
tất cả những công việc khác nhau mà trước kia người thợ thủ công tiến hành với  
công cụ  của mình, ví dụ  như  người thợ  dệt với khung cửi của mình, hoặc do  
nhiều người thợ  thủ  công lần lượt tiến hành với những công cụ  khác nhau,  
chẳng kể đó là những người thợ thủ  công độc lập hay là những thành viên của  
cùng một công trường thủ công). 
Hệ thống máy móc: hệ thống máy móc chính cống chỉ thay thế một cái máy 
độc lập riêng lẻ ở nơi nào đối tượng lao động trải qua một loạt những quá trình 
bộ  phận liên quan với nhau, được tiến hành bởi một chuỗi những máy công tác 
khác loại nhưng bổ sung cho nhau. 
Khái niệm máy tự  động: Khi máy công tác  đã đảm nhiệm được tất cả 
những chuyển động cần thiết để chế biến nguyên liệu mà không cần đến sự trợ 
lực của con người nữa và chỉ  cần đến con người để  kiểm tra công việc thì lúc  

3
4

C.Mác và Ăngghen: toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 23, trang 542

C.Mác và Ăngghen: toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 23, trang 545, 546
4


Tiểu luận Quá trình sản xuất TBCN

Văn Công Vũ

đó chúng ta có một hệ  thống máy móc tự  động, tuy nhiên, nó cũng vẫn có thể 
được cải tiến thường xuyên về chi tiết. 
2. Việc chuyển giá trị của máy móc sang sản phẩm
C. Mac đặt vấn đề: Nếu như  ngay mới thoạt nhìn, người ta cũng thấy rõ  
được rằng, khi gắn những lực lượng tự nhiên khổng lồ và khoa học tự nhiên vào  
quá trình sản xuất, đại công nghiệp tất phải nâng cao năng suất lao động lên một  
cách khác thường, thì đối với vấn đề  liệu việc nâng cao sức sản xuất đó bù lại 
những chi phí lao động nhiều hơn  ở  chỗ  khác không, người ta lại hoàn toàn 
không biết rõ được như thế.
Cũng như  mọi bộ  phận cấu thành khác của tư  bản bất biến, máy móc 
không tạo ra một giá trị nào cả, nhưng nó chuyển giá trị của bản thân nó vào sản  
phẩm mà nó được dùng để chế tạo ra. Vì máy móc có giá trị và vì nó chuyển giá  
trị đó vào sản phẩm, cho nên nó là một bộ phận cấu thành của giá trị sản phẩm. 
Đáng lẽ  làm cho sản phẩm rẻ đi thì nó lại làm cho sản phẩm đắt lên một 
cách tỷ  lệ  với giá trị  của bản thân nó. Và rõ ràng là máy móc và hệ  thống máy 
móc phát triển ­ tư  liệu lao động đặc trưng của đại công nghiệp ­ đã phình lên  
một cách không tương xứng về mặt giá trị, so với tư liệu lao động của nền sản  
xuất thủ công và công trường thủ công.
“Cần chú ý rằng máy móc bao giờ  cũng tham gia toàn bộ  vào quá trình lao  
động và bao giờ cũng chỉ tham gia từng phần vào quá trình hình thành giá trị. Nó 
không bao giờ nhập thêm một giá trị nhiều hơn là số giá trị mà trung bình nó mất  
đi do việc hao mòn của nó. Vì vậy, có một sự  chênh lệch lớn giữa giá trị  của 

máy móc và phần giá trị mà máy móc chuyển sang sản phẩm trong từng thời kỳ 
một. Có một sự khác nhau lớn giữa máy móc với tư cách là yếu tố hình thành giá 
trị và máy móc với tư cách là yếu tố hình thành sản phẩm”5
5

C.Mác và Ăngghen: toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 23, trang 568
5


Tiểu luận Quá trình sản xuất TBCN

Văn Công Vũ

II. BÌNH LUẬN QUAN ĐIỂM CỦA C.MÁC
Quan điểm: “Nếu coi máy móc chỉ  là một phương tiện để  làm cho sản  
phẩm rẻ đi, thì giới hạn sử dụng máy móc được quyết định bởi cái tình hình là:  
số lao động tiêu phí để sản xuất ra máy móc phải ít hơn số lao động mà việc sử  
dụng máy móc thay thế. Song đối với nhà tư bản thì giới hạn đó lại còn hẹp hơn  
nữa” được Mác đưa ra trong Chương XIII, Quyển I của Bộ Tư bản khi bàn về 
máy móc và đại công nghiệp, cụ  thể  là được trích trong C. Mác và Ăngghen:  
Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 23, trang 565 – 566. 
1. Vế thứ  nhất: “Nếu coi máy móc chỉ  là một phương tiện để  làm cho  
sản phẩm rẻ đi, thì giới hạn sử dụng máy móc được quyết định bởi cái tình  
hình là: số lao động tiêu phí để sản xuất ra máy móc phải ít hơn số lao động  
mà việc sử dụng máy móc thay thế”
Đối với xã hội nói chung, trong đó có nhà tư bản, việc áp dụng máy móc khi  
mà số lao động để sản xuất ra máy móc nhỏ hơn số lao động mà máy móc thay 
thế. Khi đó, số  chi phí lao động để sản xuất ra máy móc sẽ  nhỏ  hơn số  chi phí 
số lao động mà máy móc thay thế. 
Về  mặt xã hội, mục tiêu của con người là giải phóng lao động hằng ngày 

để thỏa mãn nhu cầu tinh thần. Để lao động hằng ngày được giải phóng, thì máy  
móc xuất hiện và thay thế lao động của con người. 
Mác viết: “nếu  việc  sản  xuất  ra  một  chiếc  máy  cũng  tốn  một  s ố  lao 
độ ng  bằng  với  số  lao  động  mà  việc  sử  d ụ ng  máy  đó  tiết  kiệm được,  thì 
chỉ  xảy  ra  có  một  sự  chuyển  dịch  lao  động  mà  thôi,  nghĩa là  tổng  số  lao 
độ ng  cần  thiết  để  sản  xuất  ra  một  hàng  hóa  không giảm đi, hay sức sản 
xuất của lao đ ộng không tăng lên. Nh ư ng s ự  chênh  lệch  giữa  lao  động  tiêu 
phí  để  làm  ra  máy  và  lao  động  mà máy  đó  tiết  kiệm  đượ c,  hay  mức  năng 
suất  của  máy, rõ  ràng không phụ  thuộc  vào  số  chênh  lệch  giữa  giá  trị  của 
6


Tiểu luận Quá trình sản xuất TBCN

Văn Công Vũ

bản  thân  cái  máy  và  giá  trị  của  công  cụ  mà  máy  đó  thay  thế.  Sự  chênh 
lệch  đó  vẫn  tiếp  tục  tồn  tại  ch ừ ng  nào  mà  những  chi  phí  lao  động  cho 
máy  móc,  và do  đó,  bộ  phận  giá  trị  do  nó  chuyển  sang  cho  sản  phẩm, 
vẫn  nhỏ  hơn  cái  giá  trị  mà  người  công  nhân  với  công  cụ  của  mình  đã 
thêm  vào  đối  tượng  lao  động.  Như  vậy  là  năng  suất  của  máy  được  đo 
bằ ng mức độ mà máy đó thay thế sức lao động của con người”6.
Mác vi ết ti ếp: “T heo  ông  Bây­xơ  thì  cần  2  công  nhân  rưỡi  để  đứng 
450  cọc  sợi  tự  động với  các  thiết  bị   có  sẵn,  do  một  mã  lực  hơi  nước 
làm   chuyển đ ộng;  và  mỗi  một  cọc  sợi  của  máy  kéo  sợi  tự  động  trong 
một ngày  lao  động  10  giờ  kéo  được  13  ôn­xơ  sợi  (số  trung  bình),  tức  là 2 
công  nhân  rưỡi  một  tuần  kéo  được  365  5/8  pao  sợi.  Do  đó,  trong  việc 
chuyển thành sợi, khoảng 366 pao bông (để cho giản đơn hơn, ta không nói 
đến  cái  phần  bông  cặn  phải  bỏ  đi)  chỉ  thu  hút  150  giờ  lao  động,  hay  15 
ngày  lao  độ ng  mỗi  ngày  10  giờ,  trong  khi  với  cái xa  quay  tay,  người  thợ 

kéo  sợi  thủ  công  kéo  được  13  ôn­xơ  trong 60  giờ,  nghĩa  là  cũng  một  số 
lượng  bông  như  vậy  sẽ  thu  hút  hết 2700  ngày  lao  động  mỗi  ngày  10  giờ, 
hay  27  000  giờ  lao  động. Chỗ  nào  mà  phương  pháp  blockprinting (in b ằng 
bản g ỗ)   cũ  hay  phương  pháp  in vải  hoa  thủ  công  đã  được  thay  thế  bằng 
phương  pháp  in  bằng  máy, thì chỉ một cái máy với một người đàn ông hay 
một thiếu niên trong một  giờ  cũng  in  được  một  số  vải  hoa  4  màu,  bằng  số 
vải  200  người in  trước  kia.  Trước  khi  I­lai  Uýt­ni  phát  minh  ra  chiếc  máy 
cán bông năm 1873 thì trung bình phải một ngày lao động mới cán được  một 
pao  bông.  Nhờ  có  phát  minh  đó,  một  phụ  nữ  da  đen  có  thể  cán  100  pao 
bông  một  ngày,  và  từ  đó  đến  nay,  năng  suất  của máy  cán  bông  còn  tăng 
lên  nhiều  nữa.  Trước  kia  phải  chi  phí  50  xu để  sản  xuất  ra  một  pao  bông 
6

C.Mác và Ăngghen: toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 23, trang 563
7


Tiểu luận Quá trình sản xuất TBCN

Văn Công Vũ

sợi,  nh ư ng  về  sau  chỉ  bán  có  10  xu  cũng  đã  thu  được  nhiều  lợi  nhuận 
hơn,  nghĩa  là  trong  đó  bao  gồm  một  số  lượng  lao  động  không  được  trả 
công  nhiều  hơn.  Ở  Ấn  Độ, để tách xơ bông ra khỏi hạt người ta  dùng một 
dụng  cụ  nửa  cơ  khí gọi  là churka;  với  dụng  cụ  ấy một  người  đàn  ông  và 
một  người đàn  bà  một  ngày  cán  được  28  pao  bông.  Với  cái  churka  do  tiến 
sĩ Phơ­bơ­xơ  sáng  chế  ra  mấy  năm  trước  đây,  một  người  đàn  ông  và một 
thiếu  niên  có  thể  cán  được  250  pao  bông  một  ngày.  Ở  nơi  nào  bò,  hơi 
nước  và  nước  được  dùng  làm  động  lực  thì  chỉ  cần  dùng  vài  thiếu  niên  và 
thiếu  nữ  làm  feeders  (tức  là  người  cung  cấp  nguyên  liệu  cho  máy).  Mười 

sáu cái máy như thế, dùng bò kéo, mỗi ngày thực hiện được công việc trước 
đây trung bình phải 750 người làm”7.
“Như  trên  đã  nói,  cái  cày  máy  chạy  bằng  hơi  nước,  mỗi  giờ  tốn  3 pen­
ny  hay  1/4  si­linh, thì  làm  được  công  việc  bằng  66  người  với  tiền công  mỗi 
giờ là 15 si­linh. Tôi trở lại ví dụ ấy để tránh một quan niệm sai  lầm.  Cụ thể 
là  số  15  si­linh  đó  hoàn  toàn  không  phải  là  biểu  hiện của  lao  động  mà  66 
người  thêm  vào  trong  1  giờ.  Nếu  tỷ  lệ  của  lao động  thặng  dư  so  với  lao 
động  cần  thiết  là  100%,  thì  trong  1  giờ,  66 công  nhân  ấy  sản  xuất  ra  một 
giá  trị  là  30  si­linh,  mặc  dù  vật  ngang giá  mà  họ  nhận  đượ c,  tức  là  15  si­
linh  tiền  công,  chỉ  đại  biểu  cho  33 giờ. Như vậy, nếu giả định rằng một cái 
máy cũng trị giá bằng số tiền công hàng năm của 150 công nhân bị nó gạt ra, ví 
dụ 3000 p.xt. chẳng hạn,  thì  3000  p.xt. đó  cũng hoàn toàn  không phải  là  biểu 
hiện  bằng tiền  của  số  lao  động  do  150  công  nhân  thực  hiện  và  đã  gộp  vào 
đối  tượng  của  số  lao  động,  mà  đó  chỉ  là  một  phần  trong  lao  động  hàng 
năm  của  họ,  thể  hiện  ra  bằng  tiền  công  cho  họ.  Trái  lại,  giá  trị  bằng tiền 
của  cái  máy  3000  p.xt.  là  biểu  hiện  của  toàn  bộ  lao  động  đã  chi phí  để  sản 
7

C.Mác và Ăngghen: toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 23, trang 564 ­ 564
8


Tiểu luận Quá trình sản xuất TBCN

Văn Công Vũ

xuất ra cái  máy đó, không kể là lao động đó đã hình thành một tỷ lệ như thế 
nào giữa tiền công cho công nhân và giá trị thặng dư  cho  nhà  tư  bản.  Do  đó, 
ngay  nếu  cái  máy  trị  giá  ngang  với  sức  lao  động  mà  nó  thay  thế,  thì  lao 
động  đã  vật  hóa  ở  trong  cái  máy  đó  bao giờ cũng ít hơn rất nhiều so với lao 

động sống mà nó thay thế”8.
2. Vế thứ hai: “Song đối với nhà tư bản thì giới hạn đó lại còn hẹp hơn  
nữa”
Mục tiêu của nhà tư bản là giá trị  thặng dư, lợi nhuận. Do đó, họ  chỉ dùng 
máy móc khi giá trị (giá mua) máy móc phải nhỏ hơn giá mua sức lao động. 
Sở  dĩ Mác viết “Song đối với nhà tư  bản thì giới hạn đó lại còn hẹp hơn  
nữa”. “Vì  hắn  không  trả  cho lao  đ ộ n g  đã  sử  d ụ n g,  mà  chỉ  trả  cho  giá  trị 
sức  lao  động  đã  s ử  d ụ ng ,  cho  nên  đối  với  hắn,  việc  sử  d ụ n g  máy  móc  bị 
giới  hạn  bởi số  chênh  l ệ c h  giữa  giá  trị  của  chiếc  máy  và  giá  trị  của  sức 
lao đ ộ n g bị  máy đó thay thế. Vì sự phân chia ngày lao đ ộ n g thành lao đ ộ n g 
cần  thiết  và  lao  đ ộ n g  thặng  dư  lại  khác  nhau  trong  các  nước khác  nhau, 
và  trong  cùng  một  nước  thì  cũng  khác  nhau  tùy  theo   từng  thời  kỳ,  còn 
trong cùng một thời kỳ thì lại khác tùy theo từng ngành kinh doanh; tiếp nữa 
vì  tiền  công  thực  tế  của  công  nhân  khi thì  xuố n g thấp,  khi  thì  lên  cao  hơn 
giá trị sức lao độ n g của họ, cho nên  số  chênh  lệch  giữa  giá  cả  của  máy  và 
giá  cả  sức  lao  đ ộ n g  mà máy  đó  thay  thế  có  thể  lên  xuố n g  rất  nhiều,  mặc 
dù  sự  chênh  l ệch  giữa số lượng lao độ n g cần thiết để sản xuất ra cái máy 
và tổng s ố lư ợ n g  lao  đ ộ n g  được  máy  đó  thay  th ế  vẫn  không  thay  đổi. 
Nhưng  đối  với  bản  thân  nhà  tư  bản  thì  chỉ  có  con  số  chênh  l ệch   thứ 
nhất  mới  quyết  định  chi  phí  sản  xuất  ra  hàng  hóa  và  ảnh hư ở n g  đến  hắn 
thông  qua  những  quy  luật  có  tính  chất  cư ỡ n g  ch ế của  cạnh  tranh” 9 . 
8
9

C.Mác và Ăngghen: toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 23, trang 565
C.Mác và Ăngghen: toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 23, trang 566­567
9


Tiểu luận Quá trình sản xuất TBCN


Văn Công Vũ

M á c   d ẫ n   c h ứ n g :   “ Chính  vì  vậy  mà  hiện  nay,  những  máy  móc 
được phát minh ra ở  Anh chỉ  dùng ở Bắc  Mỹ, cũng như vào thế  kỷ XVI và 
XVII  những  máy  móc  phát  minh  ở  Đức  chỉ  được  dùng  ở  Hà Lan,  và  vào 
thế  kỷ  XVIII  nhiều  phát  minh  của  Pháp  lại  chỉ  dùng  ở  Anh  thôi.  Ở 
những  nước  phát  triển  lâu  đời  hơ n ,  bản  thân  máy  móc  đã  gây  nên  ­  do 
việc  sử  d ụ n g  chúng  trong  một  vài  ngành  công   nghiệp    ­    nạn    thừa    lao 
độ n g    (mà    Ri­các­đô    gọi    là    redundancy   of    labour)   trong    các    ngành 
khác,  đến  nỗi  trong  những  ngành này,  tiền  công  thấp  hơn  giá  trị  sức  lao 
độ n g  đã  ngăn  cản  việc  s ử d ụ n g  máy  móc  và  khiến  cho  việc  sử  d ụ n g  máy 
móc  trở  thành  vô ích,   lắm   khi  không   th ể    thực   hiện   được   theo   quan 
điểm  của  t ư bản,  bởi  vì  lợi  nhuận  của  nó  bắt  nguồn  không  phải  từ  việc 
giảm bớt  lao  động  được  s ử   d ụ ng ,  mà  là  t ừ   việc  giảm  bớt  lao  đ ộ ng 
được trả công. 
Trong  một  vài  ngành  công  nghiệp  dệt  len  ở  Anh,  trong  những  năm  gần 
đây lao động trẻ em đã giảm đi rất nhiều, có nơi hầu như bị loại bỏ. Tại sao 
vậy? Vì luật công xưởng bắt buộc phải sử dụng trẻ em làm hai ca, một ca 6 
giờ  một  ca  4  giờ,  hoặc  mỗi ca  5  giờ  thôi.  Nhưng  bố  mẹ  chúng  không  muốn 
bán  những  half­times  (những  người  làm  việc  nửa  thời  gian)  rẻ  hơn  là  trước 
kia  bán  cả  full­times  (những  người  làm  việc  đầy  đủ  thời  gian).  Thế  là 
những  người  làm  việc  nửa thời  gian  bị  máy  móc  thay  thế. "Nếu không cần 
thiết thì bọn chủ xí nghiệp không cần duy trì chế độ làm việc hai ca của trẻ em 
dưới 13 tuổi... Trên thực tế có một hạng chủ xưởng, chủ xưởng kéo sợi len, bây 
giờ  ít  khi  sử  dụng  trẻ  em  dưới  13  tuổi,  tức  là  những  người  half­times.  Họ 
dùng những máy móc mới đã được cải tiến thuộc các loại khác nhau, khiến cho 
việc sử  dụng trẻ em" (tức là trẻ em dưới 13 tuổi) "bị hoàn toàn xóa bỏ; ví dụ, 
để minh họa cho việc giảm bớt số trẻ em trong sản xuất, tôi sẽ nêu ra một quá 
10



Tiểu luận Quá trình sản xuất TBCN

Văn Công Vũ

trình sản xuất trong đó nhờ việc lắp thêm một thiết bị gọi máy xe sợi hiện có, 
mỗi cái máy, ­ có thể chỉ do một thiếu niên" (trên 13 tuổi) "làm… Chế độ half­
time đã kích thích "việc phát minh ra máy xe sợi" ("Reports of Insp. of Fact, for 
31st October 1858").
Trước  khi  có  lệnh  cấm  dùng  phụ  nữ  và  trẻ  em  (dưới  10  tuổi)  trong 
các  hầm  mỏ,  tư  bản  đã  tìm  được cách sử dụ ng những người đàn bà và thiếu 
nữ trần truồng ở các giếng mỏ  than  và  các  mỏ  khác,  lắm  lúc  cùng  với  đàn 
ông  ­  một  điều  phù hợp với quy tắc đạo đức của nó và nhất là phù hợp với 
sổ cái  kế  toán của  nó  đến  mức  là  chỉ  sau  khi  điều  đó  bị  cấm  thì  tư  bản 
mới  dùng  đến  máy  móc.  Người  Mỹ  đã  phát  minh  ra  máy  nghiền đá.  Người 
Anh không  sử  dụng  những  máy  đó,  bởi  vì  “kẻ  khốn  khổ”  (“wretch”  ­  đó là 
thuật  ngữ  đặc  biệt  của  khoa  kinh  tế  chính  trị  Anh  để  chỉ  những người 
công  nhân  nông  nghiệp)  làm  công  việc  ấy  chỉ  được  trả  một phần  rất  nhỏ 
trong  số  lao  động  của  họ,  thành  thử  máy  móc  sẽ  làm cho  sản  xuất  đắt  lên 
đối  với  nhà  tư  bản. "Máy móc” thường chỉ được sử  dụng khi nào giá cả lao 
động"  (ý  ông  muốn  nói tiền  công)  "tăng lên"  (Ricardo.  "  Principles  of  Political 
Economy", 3rd ed. London, 1821, p. 479).
Ở  Anh,  để  kéo  thuyền dọc  sông  đào,  v.v.  thỉnh  thoảng  người  ta  vẫn 
còn  dùng  phụ  nữ  thay cho  ngựa,  bởi  vì  lao  độ ng  cần  thiết  để  sản  xuất  ra 
ngựa  và  máy móc  là  một  đại  lượng  đã  được  xác  định  về  mặt  toán  học, 
còn  lao  động cần  thiết  để duy trì đời  sống của  phụ nữ  trong  số  nhân khẩu 
quá thừa đó, thì tính bao nhiêu cũng đượ c. Vì vậy, không một nơi nào lại lãng 
phí  sức  người  một  cách  vô  liêm  sỉ  vào  những  công  việc  nhỏ  nhặt như ở 
ngay nước Anh, nước của máy móc”10.

III. Ý NGHĨA 
10

C.Mác và Ăngghen: toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 23, trang 567 ­ 568
11


Tiểu luận Quá trình sản xuất TBCN

Văn Công Vũ

1. Ý nghĩa của việc sử dụng máy móc
Qua phân tích, ta thấy rằng, việc sử dụng máy móc có ý nghĩa hết sức quan  
trọng. 
Bản thân máy móc càng chứa đựng lao động ít bao nhiêu, thì giá trị  mà 
chúng chuyển vào sản phẩm lại càng ít bấy nhiêu. Máy móc càng chuyển ít giá 
trị  bao nhiêu thì chúng càng có năng suất bấy nhiêu và vì vậy, chúng càng phục 
vụ  gần giống như  một lực lượng tự nhiên bấy nhiêu. Một sự  phân tích so sánh 
giá cả  của những hàng hóa được sản xuất bằng lối thủ  công hay công trường 
thủ  công, với giá cả  của những hàng hóa đó với tư  cách là sản phẩm của máy 
móc, cho thấy rằng, nói chung, trong sản phẩm của máy móc, cái phần giá trị do  
tư  liệu lao động chuyển sang đó tăng lên một cách tương đối nhưng lại giảm  
xuống một cách tuyệt đối. 
Thực tế  cho thấy,  với sự  tham dự  của máy móc đã tạo ra năng suất lao  
động vượt trội gấp hàng chục, hàng trăm lần so với lao động thủ công, bởi máy 
móc làm thay đổi toàn bộ  phương thức sản xuất tồn tại từ trước tới nay. Hàng  
hóa do máy móc sản xuất ra thì rẻ hơn và tốt hơn so với hàng hóa do công nhân 
sản xuất bằng xe kéo sợi và khung cửi dệt vải của mình, cho phép trong một 
thời gian ngắn có thể  tăng thêm sản xuất công nghiệp một cách vô hạn mà chi  
phí lại không nhiều, góp phần giảm nhẹ lao động.

“Việc sản xuất bằng máy móc đó làm cho sự  phân công lao động xã hội 
tiến xa hơn rất nhiều so với công trường thủ  công, bởi vì nó đó làm tăng, với 
một mức vô cùng cao hơn, sức sản xuất của các ngành công nghiệp mà nó đó 
chiếm lĩnh được”.
Kết quả  trước tiên của máy móc là làm tăng thêm giá trị  thặng dư  và khối 
lượng sản phẩm trong đó giá trị thặng dư được thể hiện, do đó làm tăng thêm cái 

12


Tiểu luận Quá trình sản xuất TBCN

Văn Công Vũ

chất mà giai cấp các nhà tư  bản cùng với tay chân của họ  tiêu dùng, đồng thời  
cũng làm tăng thêm chính ngay các tầng lớp xã hội đó. 
Của cải không ngừng tăng thêm của những tầng lớp này và con số  không 
ngừng giảm xuống một cách tương đối của những công nhân cần thiết để  sản  
xuất ra những tư  liệu sinh hoạt thiết yếu nhất, đã làm nảy sinh ra những nhu  
cầu xa xỉ  mới và đồng thời cũng tạo ra những phương tiện mới để  thoả  mãn 
những nhu cầu ấy. 
Một mặt, máy móc trực tiếp làm tăng thêm khối lượng nguyên liệu. Mặt 
khác, giá rẻ  của các sản phẩm của máy móc và những phương tiện giao thông  
vận tải đó được cách mạng hoá là những vũ khí để chinh phục những thị trường 
ngoài nước. Bằng cách làm phá sản những sản phẩm thủ  công của những thị 
trường đó, nền sản xuất bằng máy móc buộc những thị  trường  ấy phải biến  
thành những nơi sản xuất nguyên liệu cho nó.
Nhờ  dùng máy móc, nhờ  các quá trình hóa học và các phương pháp khác, 
nền công nghiệp hiện đại không ngừng đảo lộn những cơ  sở  kỹ  thuật của nền  
sản xuất, và cùng với chúng là những chức năng của công nhân và những sự kết  

hợp xã hội của quá trình lao động. Do đó, nền công nghiệp hiện đại không 
ngừng cách mạng hoá sự  phân công lao động trong xã hội và không ngừng ném  
những khối lượng tư  bản và khối lượng công nhân từ  ngành sản xuất này sang  
ngành sản xuất khác. 
Tuy nhiên Mác chỉ rõ, cùng với việc khẳng định bản chất cố hữu của CNTB 
là bóc lột giá trị thặng dư, Mác cho rằng để có nhiều giá trị thặng dư nhà tư bản  
không có cách nào hiệu quả  hơn là gia tăng năng suất lao động thông qua việc  
phát triển lực lượng sản xuất, mà cụ  thể   ở  đây là cải tiến công cụ  lao động. 
Công cụ lao động ­ yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất ­ được CNTB đầu 
tư  mạnh nên liên tục được cải tiến, gia tăng nhanh chóng cả  về  số  lượng, qui 
13


Tiểu luận Quá trình sản xuất TBCN

Văn Công Vũ

mô và chất lượng để bóc lột được nhiều hơn, và vì vậy số lượng giai cấp công 
nhân bị bần cùng hóa ngày càng nhiều hơn, dẫn đến kết cục là trong CNTB chỉ 
tồn tại hai giai cấp cơ bản có lợi ích đối lập nhau, đó là giai cấp tư  sản và giai  
cấp công nhân.
Điều này có ý nghĩa trong việc dẫn đến các cuộc cách mạng công nghiệp. 
2. Liên hệ thực tiễn Việt Nam
Quan điểm của Mác về  việc sử  dụng máy móc và sự  phát triển của hệ 
thống máy móc có ý nghĩa thực tiễn quan trọng đối với nước ta, nhất là trong bối  
cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang có tầm ảnh hưởng sâu  
rộng trên phạm vi toàn cầu. 
Ở Việt Nam, sau hơn 30 năm đổi mới, nhận thức về CNXH và con đường  
đi lên CNXH ngày càng rõ hơn. Đảng ta đã đánh giá đúng đắn hơn về vị trí, vai  
trò của khoa học công nghệ, của việc đổi mới trong sản xuất, của phương thức  

tổ  chức, quản lý TBCN trong phát triển lực lượng sản xuất nên chủ  động tiếp 
thu, kế  thừa kinh nghiệm thành tựu loài người đã đạt được trong CNTB, đặc 
biệt về  khoa học, công nghệ, y tế, giáo dục đào tạo nguồn nhân lực, các chính  
sách an sinh xã hội lao động ­ việc làm ­ thu nhập, giải quyết thất nghiệp, giảm  
nghèo bền vững.
Qua thực tiễn đổi mới, Đảng ta đã xác định để  từng bước thực hiện mục  
tiêu dân giàu, nước mạnh vấn đề  là nhận thức sâu sắc và triển khai hiệu quả 
trên thực tế  nền kinh tế  thị  trường định hướng XHCN, với nhiều thành phần 
kinh tế, trong đó khoa học công nghệ là lực lượng sản xuất trực tiếp. 
Nghị  quyết 23­NQ/TW ngày 22/03/2018 của Bộ  Chính trị  về  định hướng 
xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn  
đến năm 2045, Đảng ta xác định “khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo  
giữ  vị trí then chốt, là khâu đột phá trong chính sách công nghiệp quốc gia; tận  
14


Tiểu luận Quá trình sản xuất TBCN

Văn Công Vũ

dụng hiệu quả lợi thế của nước đi sau trong công nghiệp hoá, đặc biệt là cuộc  
Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 để có cách tiếp cận, đi tắt, đón đầu một cách  
hợp lý trong phát triển các ngành công nghiệp”.
Trên cơ sở đó, ta thấy rằng, những quan điểm của C.Mác về ứng dụng máy 
móc cũng như  khoa học, công nghệ  vào quá trình sản xuất đã chỉ  cho chúng ta  
thấy rằng để  thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn  
mới, chúng ta phải:
Một là, tăng tỷ trọng lao động trí óc trong cơ cấu lao động xã hội bằng cách 
tăng đầu tư cho giáo dục đào tạo, cho nghiên cứu khoa học và công nghệ. Không 
tăng được số  lượng công nhân tri thức thì sẽ  rơi vào tình huống thừa lao động 

giản đơn, thiếu lao động lành nghề, số  người dôi dư  do công nghiệp hoá, hiện 
đại hoá tăng lên thành một sức ép xã hội gay gắt, trong khi có quá nhiều việc làm 
không tìm được người thích hợp. 
Hai là, đổi mới giáo dục và đào tạo. Vì sản xuất công nghệ  trở  thành loại 
hình quan trọng hàng đầu, phát minh trở thành một nghề đặc biệt, nên giáo dục,  
đào tạo phải khuyến khích tư  duy sáng tạo của người học chứ  không phải là 
nhồi nhét kiến thức, không nên đẩy người học vào tình trạng "chết đuối trong  
thông tin nhưng lại chết đói vì tri thức".
Do tốc độ thay đổi nhanh chóng của công nghệ mà giáo đục phải cập nhật 
liên tục trong suốt cuộc đời người lao động. Tăng cường lý thuyết cho các lớp 
học nghề, tạo điều kiện cho những người đã tốt nghiệp các lớp học nghề  theo 
học đại học, và tăng thời gian thực tập cho các học sinh, tăng giáo dục thông qua  
việc làm. 
Ba là, xã hội hoá các công tác nghiên cứu khoa học và công nghệ, xã hội hoá 
giáo dục và đào tạo. 

15


Tiểu luận Quá trình sản xuất TBCN

Văn Công Vũ

Chỉ  có tăng đầu tư  cho giáo dục, đào tạo, cho nghiên cứu khoa học, công 
nghệ, chỉ có xã hội hoá việc nghiên cứu và giáo dục đào tạo thì mới có thể thực 
hiện được chủ trương của Đảng. Đẩy mạnh đổi mới công nghệ trong sản xuất, 
kinh doanh và các lĩnh vực hoạt động khác, thu hẹp khoảng cách về  trình độ 
công nghệ so với các nước tiên tiến trong khu vực. Đi thẳng vào công nghệ hiện  
đại đối với các ngành mũi nhọn, đồng thời lựa chọn các công nghệ  thích hợp,  
không gây ô nhiễm và khai thác được lợi thế về lao động. Chú trọng nhập khẩu 

công nghệ  mới, hiện đại, thích nghi công nghệ  nhập khẩu, cải tiến từng bộ 
phận, tiến tới tạo ra những công nghệ đặc thù Việt Nam.

KẾT LUẬN
Theo đà phát triển của đại công nghiệp, máy móc sẽ từng bước thay thế lao  
động giản đơn, quá trình sản xuất từ chỗ là một quá trình lao động đơn giản sẽ 
trở thành một quá trình khoa học, lao động trực tiếp trở thành thứ yếu so với lao  
động khoa học. Hệ thống máy móc biểu hiện ra là một hình thức thích hợp nhất 
của tư bản cố định và sự phát triển của tư bản cố định lại là chỉ  số  của sự phát  
triển sức  sản xuất, là thước  đo mức  độ  phát triển  của sự  giàu có dựa trên  
phương thức sản xuất tư  bản chủ nghĩa. Tuy nhiên việc hệ  thống máy móc tự 
16


Tiểu luận Quá trình sản xuất TBCN

Văn Công Vũ

động thay thế  lao động giản đơn, làm giảm lao động trực tiếp nhưng không hề 
có nghĩa là giảm vai trò nhân tố con người trong sức sản xuất của lao động. Bởi  
vì, như  C.Mác đã khẳng định: "Thiên nhiên không chế  tạo ra máy móc... Tất cả  
những cái đó đều là sản phẩm lao động của con người... Tất cả  những cái đó  
đều là những cơ quan của bộ óc con người do bàn tay con người tạo ra, đều là  
sức mạnh đã vật hoá của tri thức”. 
Có thể  nói quan điểm của Mác có giá trị  lịch sử  to lớn và đồng thời có ý 
nghĩa thực tiễn quan trọng trong giai đoạn hiện nay, khi mà cuộc cách mạng  
công nghiệp lần thứ tư đang ngày càng tác động sâu sắc trên phạm vi toàn cầu. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] C. Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập  

23
[2] Nghị quyết 23­NQ/TW ngày 22/03/2018 của Bộ Chính trị  về định hướng 
xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn  
đến năm 2045
[3] Reports of Insp. of Fact, for 31st October 1858
17


Tiểu luận Quá trình sản xuất TBCN

Văn Công Vũ

[4] Ricardo, "Principles of Political Economy", 3rd ed. London, 1821, p. 479
[5] TS. Nguyễn Trần Thành,  C.Mác bàn về  tác động của cách mạng công  
nghiệp đến sản xuất, giao thương kinh tế và đời sống người lao động, Tạp chí 
Mặt trận, ngày 11/06/2018

18



×