Tiểu luận Quá trình sản xuất TBCN
Văn Công Vũ
MỤC LỤC
[5] TS. Nguyễn Trần Thành, C.Mác bàn về tác động của cách
mạng công nghiệp đến sản xuất, giao thương kinh tế và đời sống
người lao động, Tạp chí Mặt trận, ngày 11/06/2018
.......................
18
LỜI MỞ ĐẦU
Khác với trước đó, nếu như việc phát minh ra cơ khí là để làm giảm nhẹ
được lao động hàng ngày, thì việc phát minh ra máy móc theo kiểu tư bản chủ
nghĩa là: Cũng giống như mọi sự phát triển khác của sức sản xuất của lao
động, việc sử dụng máy móc theo kiểu tư bản chủ nghĩa phải làm cho hàng
hóa rẻ đi, rút ngắn phần ngày lao động mà người công nhân dùng cho bản thân
mình để kéo dài phần ngày lao động mà người công nhân làm không công cho
nhà tư bản. Máy móc là một phương tiện để sản xuất ra giá trị thặng dư.
1
Tiểu luận Quá trình sản xuất TBCN
Văn Công Vũ
Khi bàn về sự phát triển của máy móc và đại công nghiệp, C.Mác đưa ra
quan điểm: “Nếu coi máy móc chỉ là một phương tiện để làm cho sản
phẩm rẻ đi, thì giới hạn sử dụng máy móc được quyết định bởi cái tình
hình là: số lao động tiêu phí để sản xuất ra máy móc phải ít hơn số lao
động mà việc sử dụng máy móc thay thế. Song đối với nhà tư bản thì giới
hạn đó lại còn hẹp hơn nữa”. Đây là một quan điểm sâu sắc, nêu bật được ý
nghĩa của việc sử dụng máy móc.
Trong phạm vi tiểu luận học phần Quá trình sản xuất tư bản chủ
nghĩa, học viên thực hiện đề tài với chủ đề bình luận về quan điểm trên của
Mác. Quan điểm đó không chỉ có ý nghĩa ở thời đại Mác mà còn có ý nghĩa
thực tiễn mang tính thời sự trong bối cảnh hiện nay của thế giới và của Việt
Nam.
PHẦN NỘI DUNG
I. MÁY MÓC
1. Khái niệm
Những nhà toán học và những nhà cơ học cho rằng “công cụ là một máy
móc đơn giản và máy móc là một công cụ phức tạp”.
2
Tiểu luận Quá trình sản xuất TBCN
Văn Công Vũ
Mác viết: “Nhưng theo quan điểm kinh tế thì định nghĩa đó hoàn toàn không
có giá trị gì cả, vì nó thiếu mất yếu tố lịch sử. Mặt khác, có ng ười cho rằng sự
khác nhau giữa công cụ và máy móc là ở chỗ, ở công cụ động lực là con ng ười,
còn ở máy móc thì động lực là những lực l ượng tự nhiên khác hẳn sức người
như súc vật, nước, gió, v.v.”
C. Mac tranh luận: “Như thế thì một cái cày do bò kéo, thuộc về những thời
kỳ sản xuất khác nhau nhất, sẽ là một cái máy, còn chiếc máy dệt kim của Clau
xen, chạy được nhờ bàn tay của một người thợ duy nhất và một phút dệt được
96.000 mũi, lại chỉ là một công cụ đơn giản. Hơn thế nữa, cũng cái máy dệt đó
nếu quay bằng tay thì là một công cụ, còn nếu chạy bằng hơi nước thì đó lại là
một chiếc máy (Nghĩa là khái niệm đó không ổn, rất hời hợt)”1
Từ đó, C.Mác cho rằng “Tất cả máy móc đó phát triển đều gồm 3 bộ phận
khác nhau một cách căn bản: động cơ, cơ cấu truyền lực và cuối cùng là máy
công cụ hay máy công tác. Động cơ hoạt động với tư cách là sức đẩy của toàn
thể cơ cấu. Nó tạo ra sức chuyển động của chính nó, như máy hơi nước, máy
nhiệt lực, máy điện từ, v.v., hoặc nó nhận được sức đẩy của một lực tự nhiên
có sẵn ở bên ngoài, như bánh xe nước chạy nhờ sức nước, hay cánh cối xay gió
quay nhờ sức gió, v.v.. Cơ cấu truyền lực gồm có vôlăng đà, trục truyền lực,
bánh xe răng, đĩa lệch tâm, cần, dây truyền lực, dây cuaroa, những thiết bị và
phụ tùng trung gian đủ các loại khác nhau điều tiết sự chuyển động, nếu cần
thì thay đổi hình thái chuyển động, ví dụ từ hình thái vuông góc sang hình thái
tròn, phân phối và chuyển sự chuyển động sang máy công cụ. Hai bộ phận này
của cơ cấu chỉ tồn tại là để chuyển sự chuyển động sang máy công cụ, nhờ thế
mà máy công cụ nắm lấy đối tượng lao động và thay đổi nó đi theo mục đích đã
định”2.
1
2
C.Mác và Ăngghen: toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 23, trang 537
C.Mác và Ăngghen: toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 23, trang 538, 539
3
Tiểu luận Quá trình sản xuất TBCN
Văn Công Vũ
C. Mac viết: Chính bộ phận này của máy móc, tức máy công cụ, là điểm
xuất phát của cuộc cách mạng công nghiệp trong thế kỷ XVIII.
Khái niệm máy công cụ: Như vậy, máy công cụ là một cơ cấu mà sau khi
nhận được một sự chuyển động thích hợp thì với những công cụ của nó, nó
cũng làm những công việc giống như công việc mà người công nhân đã làm
trước kia với những công cụ tương tự.
“Việc sáng tạo ra máy công cụ chính là yêu cầu sáng tạo ra các máy động
lực để đáp ứng cho nó”3
Hệ thống máy móc: “từ máy công cụ kéo theo sự phát triển của máy động
lực, máy truyền lực”. C. Mac viết: “Bây giờ, cần phải phân biệt hai điều: sự
hiệp tác của nhiều máy cùng loại và hệ thống máy móc”4.
Máy móc: toàn bộ công việc do cùng một máy công tác làm ra. Máy này làm
tất cả những công việc khác nhau mà trước kia người thợ thủ công tiến hành với
công cụ của mình, ví dụ như người thợ dệt với khung cửi của mình, hoặc do
nhiều người thợ thủ công lần lượt tiến hành với những công cụ khác nhau,
chẳng kể đó là những người thợ thủ công độc lập hay là những thành viên của
cùng một công trường thủ công).
Hệ thống máy móc: hệ thống máy móc chính cống chỉ thay thế một cái máy
độc lập riêng lẻ ở nơi nào đối tượng lao động trải qua một loạt những quá trình
bộ phận liên quan với nhau, được tiến hành bởi một chuỗi những máy công tác
khác loại nhưng bổ sung cho nhau.
Khái niệm máy tự động: Khi máy công tác đã đảm nhiệm được tất cả
những chuyển động cần thiết để chế biến nguyên liệu mà không cần đến sự trợ
lực của con người nữa và chỉ cần đến con người để kiểm tra công việc thì lúc
3
4
C.Mác và Ăngghen: toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 23, trang 542
C.Mác và Ăngghen: toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 23, trang 545, 546
4
Tiểu luận Quá trình sản xuất TBCN
Văn Công Vũ
đó chúng ta có một hệ thống máy móc tự động, tuy nhiên, nó cũng vẫn có thể
được cải tiến thường xuyên về chi tiết.
2. Việc chuyển giá trị của máy móc sang sản phẩm
C. Mac đặt vấn đề: Nếu như ngay mới thoạt nhìn, người ta cũng thấy rõ
được rằng, khi gắn những lực lượng tự nhiên khổng lồ và khoa học tự nhiên vào
quá trình sản xuất, đại công nghiệp tất phải nâng cao năng suất lao động lên một
cách khác thường, thì đối với vấn đề liệu việc nâng cao sức sản xuất đó bù lại
những chi phí lao động nhiều hơn ở chỗ khác không, người ta lại hoàn toàn
không biết rõ được như thế.
Cũng như mọi bộ phận cấu thành khác của tư bản bất biến, máy móc
không tạo ra một giá trị nào cả, nhưng nó chuyển giá trị của bản thân nó vào sản
phẩm mà nó được dùng để chế tạo ra. Vì máy móc có giá trị và vì nó chuyển giá
trị đó vào sản phẩm, cho nên nó là một bộ phận cấu thành của giá trị sản phẩm.
Đáng lẽ làm cho sản phẩm rẻ đi thì nó lại làm cho sản phẩm đắt lên một
cách tỷ lệ với giá trị của bản thân nó. Và rõ ràng là máy móc và hệ thống máy
móc phát triển tư liệu lao động đặc trưng của đại công nghiệp đã phình lên
một cách không tương xứng về mặt giá trị, so với tư liệu lao động của nền sản
xuất thủ công và công trường thủ công.
“Cần chú ý rằng máy móc bao giờ cũng tham gia toàn bộ vào quá trình lao
động và bao giờ cũng chỉ tham gia từng phần vào quá trình hình thành giá trị. Nó
không bao giờ nhập thêm một giá trị nhiều hơn là số giá trị mà trung bình nó mất
đi do việc hao mòn của nó. Vì vậy, có một sự chênh lệch lớn giữa giá trị của
máy móc và phần giá trị mà máy móc chuyển sang sản phẩm trong từng thời kỳ
một. Có một sự khác nhau lớn giữa máy móc với tư cách là yếu tố hình thành giá
trị và máy móc với tư cách là yếu tố hình thành sản phẩm”5
5
C.Mác và Ăngghen: toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 23, trang 568
5
Tiểu luận Quá trình sản xuất TBCN
Văn Công Vũ
II. BÌNH LUẬN QUAN ĐIỂM CỦA C.MÁC
Quan điểm: “Nếu coi máy móc chỉ là một phương tiện để làm cho sản
phẩm rẻ đi, thì giới hạn sử dụng máy móc được quyết định bởi cái tình hình là:
số lao động tiêu phí để sản xuất ra máy móc phải ít hơn số lao động mà việc sử
dụng máy móc thay thế. Song đối với nhà tư bản thì giới hạn đó lại còn hẹp hơn
nữa” được Mác đưa ra trong Chương XIII, Quyển I của Bộ Tư bản khi bàn về
máy móc và đại công nghiệp, cụ thể là được trích trong C. Mác và Ăngghen:
Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 23, trang 565 – 566.
1. Vế thứ nhất: “Nếu coi máy móc chỉ là một phương tiện để làm cho
sản phẩm rẻ đi, thì giới hạn sử dụng máy móc được quyết định bởi cái tình
hình là: số lao động tiêu phí để sản xuất ra máy móc phải ít hơn số lao động
mà việc sử dụng máy móc thay thế”
Đối với xã hội nói chung, trong đó có nhà tư bản, việc áp dụng máy móc khi
mà số lao động để sản xuất ra máy móc nhỏ hơn số lao động mà máy móc thay
thế. Khi đó, số chi phí lao động để sản xuất ra máy móc sẽ nhỏ hơn số chi phí
số lao động mà máy móc thay thế.
Về mặt xã hội, mục tiêu của con người là giải phóng lao động hằng ngày
để thỏa mãn nhu cầu tinh thần. Để lao động hằng ngày được giải phóng, thì máy
móc xuất hiện và thay thế lao động của con người.
Mác viết: “nếu việc sản xuất ra một chiếc máy cũng tốn một s ố lao
độ ng bằng với số lao động mà việc sử d ụ ng máy đó tiết kiệm được, thì
chỉ xảy ra có một sự chuyển dịch lao động mà thôi, nghĩa là tổng số lao
độ ng cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa không giảm đi, hay sức sản
xuất của lao đ ộng không tăng lên. Nh ư ng s ự chênh lệch giữa lao động tiêu
phí để làm ra máy và lao động mà máy đó tiết kiệm đượ c, hay mức năng
suất của máy, rõ ràng không phụ thuộc vào số chênh lệch giữa giá trị của
6
Tiểu luận Quá trình sản xuất TBCN
Văn Công Vũ
bản thân cái máy và giá trị của công cụ mà máy đó thay thế. Sự chênh
lệch đó vẫn tiếp tục tồn tại ch ừ ng nào mà những chi phí lao động cho
máy móc, và do đó, bộ phận giá trị do nó chuyển sang cho sản phẩm,
vẫn nhỏ hơn cái giá trị mà người công nhân với công cụ của mình đã
thêm vào đối tượng lao động. Như vậy là năng suất của máy được đo
bằ ng mức độ mà máy đó thay thế sức lao động của con người”6.
Mác vi ết ti ếp: “T heo ông Bâyxơ thì cần 2 công nhân rưỡi để đứng
450 cọc sợi tự động với các thiết bị có sẵn, do một mã lực hơi nước
làm chuyển đ ộng; và mỗi một cọc sợi của máy kéo sợi tự động trong
một ngày lao động 10 giờ kéo được 13 ônxơ sợi (số trung bình), tức là 2
công nhân rưỡi một tuần kéo được 365 5/8 pao sợi. Do đó, trong việc
chuyển thành sợi, khoảng 366 pao bông (để cho giản đơn hơn, ta không nói
đến cái phần bông cặn phải bỏ đi) chỉ thu hút 150 giờ lao động, hay 15
ngày lao độ ng mỗi ngày 10 giờ, trong khi với cái xa quay tay, người thợ
kéo sợi thủ công kéo được 13 ônxơ trong 60 giờ, nghĩa là cũng một số
lượng bông như vậy sẽ thu hút hết 2700 ngày lao động mỗi ngày 10 giờ,
hay 27 000 giờ lao động. Chỗ nào mà phương pháp blockprinting (in b ằng
bản g ỗ) cũ hay phương pháp in vải hoa thủ công đã được thay thế bằng
phương pháp in bằng máy, thì chỉ một cái máy với một người đàn ông hay
một thiếu niên trong một giờ cũng in được một số vải hoa 4 màu, bằng số
vải 200 người in trước kia. Trước khi Ilai Uýtni phát minh ra chiếc máy
cán bông năm 1873 thì trung bình phải một ngày lao động mới cán được một
pao bông. Nhờ có phát minh đó, một phụ nữ da đen có thể cán 100 pao
bông một ngày, và từ đó đến nay, năng suất của máy cán bông còn tăng
lên nhiều nữa. Trước kia phải chi phí 50 xu để sản xuất ra một pao bông
6
C.Mác và Ăngghen: toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 23, trang 563
7
Tiểu luận Quá trình sản xuất TBCN
Văn Công Vũ
sợi, nh ư ng về sau chỉ bán có 10 xu cũng đã thu được nhiều lợi nhuận
hơn, nghĩa là trong đó bao gồm một số lượng lao động không được trả
công nhiều hơn. Ở Ấn Độ, để tách xơ bông ra khỏi hạt người ta dùng một
dụng cụ nửa cơ khí gọi là churka; với dụng cụ ấy một người đàn ông và
một người đàn bà một ngày cán được 28 pao bông. Với cái churka do tiến
sĩ Phơbơxơ sáng chế ra mấy năm trước đây, một người đàn ông và một
thiếu niên có thể cán được 250 pao bông một ngày. Ở nơi nào bò, hơi
nước và nước được dùng làm động lực thì chỉ cần dùng vài thiếu niên và
thiếu nữ làm feeders (tức là người cung cấp nguyên liệu cho máy). Mười
sáu cái máy như thế, dùng bò kéo, mỗi ngày thực hiện được công việc trước
đây trung bình phải 750 người làm”7.
“Như trên đã nói, cái cày máy chạy bằng hơi nước, mỗi giờ tốn 3 pen
ny hay 1/4 silinh, thì làm được công việc bằng 66 người với tiền công mỗi
giờ là 15 silinh. Tôi trở lại ví dụ ấy để tránh một quan niệm sai lầm. Cụ thể
là số 15 silinh đó hoàn toàn không phải là biểu hiện của lao động mà 66
người thêm vào trong 1 giờ. Nếu tỷ lệ của lao động thặng dư so với lao
động cần thiết là 100%, thì trong 1 giờ, 66 công nhân ấy sản xuất ra một
giá trị là 30 silinh, mặc dù vật ngang giá mà họ nhận đượ c, tức là 15 si
linh tiền công, chỉ đại biểu cho 33 giờ. Như vậy, nếu giả định rằng một cái
máy cũng trị giá bằng số tiền công hàng năm của 150 công nhân bị nó gạt ra, ví
dụ 3000 p.xt. chẳng hạn, thì 3000 p.xt. đó cũng hoàn toàn không phải là biểu
hiện bằng tiền của số lao động do 150 công nhân thực hiện và đã gộp vào
đối tượng của số lao động, mà đó chỉ là một phần trong lao động hàng
năm của họ, thể hiện ra bằng tiền công cho họ. Trái lại, giá trị bằng tiền
của cái máy 3000 p.xt. là biểu hiện của toàn bộ lao động đã chi phí để sản
7
C.Mác và Ăngghen: toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 23, trang 564 564
8
Tiểu luận Quá trình sản xuất TBCN
Văn Công Vũ
xuất ra cái máy đó, không kể là lao động đó đã hình thành một tỷ lệ như thế
nào giữa tiền công cho công nhân và giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Do đó,
ngay nếu cái máy trị giá ngang với sức lao động mà nó thay thế, thì lao
động đã vật hóa ở trong cái máy đó bao giờ cũng ít hơn rất nhiều so với lao
động sống mà nó thay thế”8.
2. Vế thứ hai: “Song đối với nhà tư bản thì giới hạn đó lại còn hẹp hơn
nữa”
Mục tiêu của nhà tư bản là giá trị thặng dư, lợi nhuận. Do đó, họ chỉ dùng
máy móc khi giá trị (giá mua) máy móc phải nhỏ hơn giá mua sức lao động.
Sở dĩ Mác viết “Song đối với nhà tư bản thì giới hạn đó lại còn hẹp hơn
nữa”. “Vì hắn không trả cho lao đ ộ n g đã sử d ụ n g, mà chỉ trả cho giá trị
sức lao động đã s ử d ụ ng , cho nên đối với hắn, việc sử d ụ n g máy móc bị
giới hạn bởi số chênh l ệ c h giữa giá trị của chiếc máy và giá trị của sức
lao đ ộ n g bị máy đó thay thế. Vì sự phân chia ngày lao đ ộ n g thành lao đ ộ n g
cần thiết và lao đ ộ n g thặng dư lại khác nhau trong các nước khác nhau,
và trong cùng một nước thì cũng khác nhau tùy theo từng thời kỳ, còn
trong cùng một thời kỳ thì lại khác tùy theo từng ngành kinh doanh; tiếp nữa
vì tiền công thực tế của công nhân khi thì xuố n g thấp, khi thì lên cao hơn
giá trị sức lao độ n g của họ, cho nên số chênh lệch giữa giá cả của máy và
giá cả sức lao đ ộ n g mà máy đó thay thế có thể lên xuố n g rất nhiều, mặc
dù sự chênh l ệch giữa số lượng lao độ n g cần thiết để sản xuất ra cái máy
và tổng s ố lư ợ n g lao đ ộ n g được máy đó thay th ế vẫn không thay đổi.
Nhưng đối với bản thân nhà tư bản thì chỉ có con số chênh l ệch thứ
nhất mới quyết định chi phí sản xuất ra hàng hóa và ảnh hư ở n g đến hắn
thông qua những quy luật có tính chất cư ỡ n g ch ế của cạnh tranh” 9 .
8
9
C.Mác và Ăngghen: toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 23, trang 565
C.Mác và Ăngghen: toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 23, trang 566567
9
Tiểu luận Quá trình sản xuất TBCN
Văn Công Vũ
M á c d ẫ n c h ứ n g : “ Chính vì vậy mà hiện nay, những máy móc
được phát minh ra ở Anh chỉ dùng ở Bắc Mỹ, cũng như vào thế kỷ XVI và
XVII những máy móc phát minh ở Đức chỉ được dùng ở Hà Lan, và vào
thế kỷ XVIII nhiều phát minh của Pháp lại chỉ dùng ở Anh thôi. Ở
những nước phát triển lâu đời hơ n , bản thân máy móc đã gây nên do
việc sử d ụ n g chúng trong một vài ngành công nghiệp nạn thừa lao
độ n g (mà Ricácđô gọi là redundancy of labour) trong các ngành
khác, đến nỗi trong những ngành này, tiền công thấp hơn giá trị sức lao
độ n g đã ngăn cản việc s ử d ụ n g máy móc và khiến cho việc sử d ụ n g máy
móc trở thành vô ích, lắm khi không th ể thực hiện được theo quan
điểm của t ư bản, bởi vì lợi nhuận của nó bắt nguồn không phải từ việc
giảm bớt lao động được s ử d ụ ng , mà là t ừ việc giảm bớt lao đ ộ ng
được trả công.
Trong một vài ngành công nghiệp dệt len ở Anh, trong những năm gần
đây lao động trẻ em đã giảm đi rất nhiều, có nơi hầu như bị loại bỏ. Tại sao
vậy? Vì luật công xưởng bắt buộc phải sử dụng trẻ em làm hai ca, một ca 6
giờ một ca 4 giờ, hoặc mỗi ca 5 giờ thôi. Nhưng bố mẹ chúng không muốn
bán những halftimes (những người làm việc nửa thời gian) rẻ hơn là trước
kia bán cả fulltimes (những người làm việc đầy đủ thời gian). Thế là
những người làm việc nửa thời gian bị máy móc thay thế. "Nếu không cần
thiết thì bọn chủ xí nghiệp không cần duy trì chế độ làm việc hai ca của trẻ em
dưới 13 tuổi... Trên thực tế có một hạng chủ xưởng, chủ xưởng kéo sợi len, bây
giờ ít khi sử dụng trẻ em dưới 13 tuổi, tức là những người halftimes. Họ
dùng những máy móc mới đã được cải tiến thuộc các loại khác nhau, khiến cho
việc sử dụng trẻ em" (tức là trẻ em dưới 13 tuổi) "bị hoàn toàn xóa bỏ; ví dụ,
để minh họa cho việc giảm bớt số trẻ em trong sản xuất, tôi sẽ nêu ra một quá
10
Tiểu luận Quá trình sản xuất TBCN
Văn Công Vũ
trình sản xuất trong đó nhờ việc lắp thêm một thiết bị gọi máy xe sợi hiện có,
mỗi cái máy, có thể chỉ do một thiếu niên" (trên 13 tuổi) "làm… Chế độ half
time đã kích thích "việc phát minh ra máy xe sợi" ("Reports of Insp. of Fact, for
31st October 1858").
Trước khi có lệnh cấm dùng phụ nữ và trẻ em (dưới 10 tuổi) trong
các hầm mỏ, tư bản đã tìm được cách sử dụ ng những người đàn bà và thiếu
nữ trần truồng ở các giếng mỏ than và các mỏ khác, lắm lúc cùng với đàn
ông một điều phù hợp với quy tắc đạo đức của nó và nhất là phù hợp với
sổ cái kế toán của nó đến mức là chỉ sau khi điều đó bị cấm thì tư bản
mới dùng đến máy móc. Người Mỹ đã phát minh ra máy nghiền đá. Người
Anh không sử dụng những máy đó, bởi vì “kẻ khốn khổ” (“wretch” đó là
thuật ngữ đặc biệt của khoa kinh tế chính trị Anh để chỉ những người
công nhân nông nghiệp) làm công việc ấy chỉ được trả một phần rất nhỏ
trong số lao động của họ, thành thử máy móc sẽ làm cho sản xuất đắt lên
đối với nhà tư bản. "Máy móc” thường chỉ được sử dụng khi nào giá cả lao
động" (ý ông muốn nói tiền công) "tăng lên" (Ricardo. " Principles of Political
Economy", 3rd ed. London, 1821, p. 479).
Ở Anh, để kéo thuyền dọc sông đào, v.v. thỉnh thoảng người ta vẫn
còn dùng phụ nữ thay cho ngựa, bởi vì lao độ ng cần thiết để sản xuất ra
ngựa và máy móc là một đại lượng đã được xác định về mặt toán học,
còn lao động cần thiết để duy trì đời sống của phụ nữ trong số nhân khẩu
quá thừa đó, thì tính bao nhiêu cũng đượ c. Vì vậy, không một nơi nào lại lãng
phí sức người một cách vô liêm sỉ vào những công việc nhỏ nhặt như ở
ngay nước Anh, nước của máy móc”10.
III. Ý NGHĨA
10
C.Mác và Ăngghen: toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 23, trang 567 568
11
Tiểu luận Quá trình sản xuất TBCN
Văn Công Vũ
1. Ý nghĩa của việc sử dụng máy móc
Qua phân tích, ta thấy rằng, việc sử dụng máy móc có ý nghĩa hết sức quan
trọng.
Bản thân máy móc càng chứa đựng lao động ít bao nhiêu, thì giá trị mà
chúng chuyển vào sản phẩm lại càng ít bấy nhiêu. Máy móc càng chuyển ít giá
trị bao nhiêu thì chúng càng có năng suất bấy nhiêu và vì vậy, chúng càng phục
vụ gần giống như một lực lượng tự nhiên bấy nhiêu. Một sự phân tích so sánh
giá cả của những hàng hóa được sản xuất bằng lối thủ công hay công trường
thủ công, với giá cả của những hàng hóa đó với tư cách là sản phẩm của máy
móc, cho thấy rằng, nói chung, trong sản phẩm của máy móc, cái phần giá trị do
tư liệu lao động chuyển sang đó tăng lên một cách tương đối nhưng lại giảm
xuống một cách tuyệt đối.
Thực tế cho thấy, với sự tham dự của máy móc đã tạo ra năng suất lao
động vượt trội gấp hàng chục, hàng trăm lần so với lao động thủ công, bởi máy
móc làm thay đổi toàn bộ phương thức sản xuất tồn tại từ trước tới nay. Hàng
hóa do máy móc sản xuất ra thì rẻ hơn và tốt hơn so với hàng hóa do công nhân
sản xuất bằng xe kéo sợi và khung cửi dệt vải của mình, cho phép trong một
thời gian ngắn có thể tăng thêm sản xuất công nghiệp một cách vô hạn mà chi
phí lại không nhiều, góp phần giảm nhẹ lao động.
“Việc sản xuất bằng máy móc đó làm cho sự phân công lao động xã hội
tiến xa hơn rất nhiều so với công trường thủ công, bởi vì nó đó làm tăng, với
một mức vô cùng cao hơn, sức sản xuất của các ngành công nghiệp mà nó đó
chiếm lĩnh được”.
Kết quả trước tiên của máy móc là làm tăng thêm giá trị thặng dư và khối
lượng sản phẩm trong đó giá trị thặng dư được thể hiện, do đó làm tăng thêm cái
12
Tiểu luận Quá trình sản xuất TBCN
Văn Công Vũ
chất mà giai cấp các nhà tư bản cùng với tay chân của họ tiêu dùng, đồng thời
cũng làm tăng thêm chính ngay các tầng lớp xã hội đó.
Của cải không ngừng tăng thêm của những tầng lớp này và con số không
ngừng giảm xuống một cách tương đối của những công nhân cần thiết để sản
xuất ra những tư liệu sinh hoạt thiết yếu nhất, đã làm nảy sinh ra những nhu
cầu xa xỉ mới và đồng thời cũng tạo ra những phương tiện mới để thoả mãn
những nhu cầu ấy.
Một mặt, máy móc trực tiếp làm tăng thêm khối lượng nguyên liệu. Mặt
khác, giá rẻ của các sản phẩm của máy móc và những phương tiện giao thông
vận tải đó được cách mạng hoá là những vũ khí để chinh phục những thị trường
ngoài nước. Bằng cách làm phá sản những sản phẩm thủ công của những thị
trường đó, nền sản xuất bằng máy móc buộc những thị trường ấy phải biến
thành những nơi sản xuất nguyên liệu cho nó.
Nhờ dùng máy móc, nhờ các quá trình hóa học và các phương pháp khác,
nền công nghiệp hiện đại không ngừng đảo lộn những cơ sở kỹ thuật của nền
sản xuất, và cùng với chúng là những chức năng của công nhân và những sự kết
hợp xã hội của quá trình lao động. Do đó, nền công nghiệp hiện đại không
ngừng cách mạng hoá sự phân công lao động trong xã hội và không ngừng ném
những khối lượng tư bản và khối lượng công nhân từ ngành sản xuất này sang
ngành sản xuất khác.
Tuy nhiên Mác chỉ rõ, cùng với việc khẳng định bản chất cố hữu của CNTB
là bóc lột giá trị thặng dư, Mác cho rằng để có nhiều giá trị thặng dư nhà tư bản
không có cách nào hiệu quả hơn là gia tăng năng suất lao động thông qua việc
phát triển lực lượng sản xuất, mà cụ thể ở đây là cải tiến công cụ lao động.
Công cụ lao động yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất được CNTB đầu
tư mạnh nên liên tục được cải tiến, gia tăng nhanh chóng cả về số lượng, qui
13
Tiểu luận Quá trình sản xuất TBCN
Văn Công Vũ
mô và chất lượng để bóc lột được nhiều hơn, và vì vậy số lượng giai cấp công
nhân bị bần cùng hóa ngày càng nhiều hơn, dẫn đến kết cục là trong CNTB chỉ
tồn tại hai giai cấp cơ bản có lợi ích đối lập nhau, đó là giai cấp tư sản và giai
cấp công nhân.
Điều này có ý nghĩa trong việc dẫn đến các cuộc cách mạng công nghiệp.
2. Liên hệ thực tiễn Việt Nam
Quan điểm của Mác về việc sử dụng máy móc và sự phát triển của hệ
thống máy móc có ý nghĩa thực tiễn quan trọng đối với nước ta, nhất là trong bối
cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang có tầm ảnh hưởng sâu
rộng trên phạm vi toàn cầu.
Ở Việt Nam, sau hơn 30 năm đổi mới, nhận thức về CNXH và con đường
đi lên CNXH ngày càng rõ hơn. Đảng ta đã đánh giá đúng đắn hơn về vị trí, vai
trò của khoa học công nghệ, của việc đổi mới trong sản xuất, của phương thức
tổ chức, quản lý TBCN trong phát triển lực lượng sản xuất nên chủ động tiếp
thu, kế thừa kinh nghiệm thành tựu loài người đã đạt được trong CNTB, đặc
biệt về khoa học, công nghệ, y tế, giáo dục đào tạo nguồn nhân lực, các chính
sách an sinh xã hội lao động việc làm thu nhập, giải quyết thất nghiệp, giảm
nghèo bền vững.
Qua thực tiễn đổi mới, Đảng ta đã xác định để từng bước thực hiện mục
tiêu dân giàu, nước mạnh vấn đề là nhận thức sâu sắc và triển khai hiệu quả
trên thực tế nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, với nhiều thành phần
kinh tế, trong đó khoa học công nghệ là lực lượng sản xuất trực tiếp.
Nghị quyết 23NQ/TW ngày 22/03/2018 của Bộ Chính trị về định hướng
xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn
đến năm 2045, Đảng ta xác định “khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo
giữ vị trí then chốt, là khâu đột phá trong chính sách công nghiệp quốc gia; tận
14
Tiểu luận Quá trình sản xuất TBCN
Văn Công Vũ
dụng hiệu quả lợi thế của nước đi sau trong công nghiệp hoá, đặc biệt là cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 để có cách tiếp cận, đi tắt, đón đầu một cách
hợp lý trong phát triển các ngành công nghiệp”.
Trên cơ sở đó, ta thấy rằng, những quan điểm của C.Mác về ứng dụng máy
móc cũng như khoa học, công nghệ vào quá trình sản xuất đã chỉ cho chúng ta
thấy rằng để thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn
mới, chúng ta phải:
Một là, tăng tỷ trọng lao động trí óc trong cơ cấu lao động xã hội bằng cách
tăng đầu tư cho giáo dục đào tạo, cho nghiên cứu khoa học và công nghệ. Không
tăng được số lượng công nhân tri thức thì sẽ rơi vào tình huống thừa lao động
giản đơn, thiếu lao động lành nghề, số người dôi dư do công nghiệp hoá, hiện
đại hoá tăng lên thành một sức ép xã hội gay gắt, trong khi có quá nhiều việc làm
không tìm được người thích hợp.
Hai là, đổi mới giáo dục và đào tạo. Vì sản xuất công nghệ trở thành loại
hình quan trọng hàng đầu, phát minh trở thành một nghề đặc biệt, nên giáo dục,
đào tạo phải khuyến khích tư duy sáng tạo của người học chứ không phải là
nhồi nhét kiến thức, không nên đẩy người học vào tình trạng "chết đuối trong
thông tin nhưng lại chết đói vì tri thức".
Do tốc độ thay đổi nhanh chóng của công nghệ mà giáo đục phải cập nhật
liên tục trong suốt cuộc đời người lao động. Tăng cường lý thuyết cho các lớp
học nghề, tạo điều kiện cho những người đã tốt nghiệp các lớp học nghề theo
học đại học, và tăng thời gian thực tập cho các học sinh, tăng giáo dục thông qua
việc làm.
Ba là, xã hội hoá các công tác nghiên cứu khoa học và công nghệ, xã hội hoá
giáo dục và đào tạo.
15
Tiểu luận Quá trình sản xuất TBCN
Văn Công Vũ
Chỉ có tăng đầu tư cho giáo dục, đào tạo, cho nghiên cứu khoa học, công
nghệ, chỉ có xã hội hoá việc nghiên cứu và giáo dục đào tạo thì mới có thể thực
hiện được chủ trương của Đảng. Đẩy mạnh đổi mới công nghệ trong sản xuất,
kinh doanh và các lĩnh vực hoạt động khác, thu hẹp khoảng cách về trình độ
công nghệ so với các nước tiên tiến trong khu vực. Đi thẳng vào công nghệ hiện
đại đối với các ngành mũi nhọn, đồng thời lựa chọn các công nghệ thích hợp,
không gây ô nhiễm và khai thác được lợi thế về lao động. Chú trọng nhập khẩu
công nghệ mới, hiện đại, thích nghi công nghệ nhập khẩu, cải tiến từng bộ
phận, tiến tới tạo ra những công nghệ đặc thù Việt Nam.
KẾT LUẬN
Theo đà phát triển của đại công nghiệp, máy móc sẽ từng bước thay thế lao
động giản đơn, quá trình sản xuất từ chỗ là một quá trình lao động đơn giản sẽ
trở thành một quá trình khoa học, lao động trực tiếp trở thành thứ yếu so với lao
động khoa học. Hệ thống máy móc biểu hiện ra là một hình thức thích hợp nhất
của tư bản cố định và sự phát triển của tư bản cố định lại là chỉ số của sự phát
triển sức sản xuất, là thước đo mức độ phát triển của sự giàu có dựa trên
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên việc hệ thống máy móc tự
16
Tiểu luận Quá trình sản xuất TBCN
Văn Công Vũ
động thay thế lao động giản đơn, làm giảm lao động trực tiếp nhưng không hề
có nghĩa là giảm vai trò nhân tố con người trong sức sản xuất của lao động. Bởi
vì, như C.Mác đã khẳng định: "Thiên nhiên không chế tạo ra máy móc... Tất cả
những cái đó đều là sản phẩm lao động của con người... Tất cả những cái đó
đều là những cơ quan của bộ óc con người do bàn tay con người tạo ra, đều là
sức mạnh đã vật hoá của tri thức”.
Có thể nói quan điểm của Mác có giá trị lịch sử to lớn và đồng thời có ý
nghĩa thực tiễn quan trọng trong giai đoạn hiện nay, khi mà cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ tư đang ngày càng tác động sâu sắc trên phạm vi toàn cầu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] C. Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập
23
[2] Nghị quyết 23NQ/TW ngày 22/03/2018 của Bộ Chính trị về định hướng
xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn
đến năm 2045
[3] Reports of Insp. of Fact, for 31st October 1858
17
Tiểu luận Quá trình sản xuất TBCN
Văn Công Vũ
[4] Ricardo, "Principles of Political Economy", 3rd ed. London, 1821, p. 479
[5] TS. Nguyễn Trần Thành, C.Mác bàn về tác động của cách mạng công
nghiệp đến sản xuất, giao thương kinh tế và đời sống người lao động, Tạp chí
Mặt trận, ngày 11/06/2018
18