Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Nghiên cứu chỉ số độ cứng động mạch bằng phương pháp đo HA 24 giờ ở bệnh nhân tăng huyết áp nguyên phát

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (421.39 KB, 7 trang )

nghiên cứu khoa học

NGHIÊN CỨU CHỈ SỐ ĐỘ CỨNG ĐỘNG MẠCH BẰNG PHƯƠNG PHÁP
ĐO HA 24 GIỜ Ở BỆNH NHÂN TĂNG HUYẾT ÁP NGUYÊN PHÁT
Thạch Thị Ngọc Khanh*, Lương Công Thức*
*Bệnh viện Quân y 103

TÓM TẮT
Năm 2006, Yan Li và cộng sự đưa ra một phương pháp đánh giá độ cứng động mạch mới gọi là
chỉ số độ cứng động mạch lưu động AASI (Abulatory arterial stiffness index- AASI) từ phương pháp
đo HA 24 giờ, AASI = 1- hệ số gốc hồi quy HATTr/ HATT. Do vậy chúng tôi sử dụng máy đo HA 24 giờ
Spacelabs đo chỉ số độ cứng động mạch lưu động của 65 bệnh nhân THA nguyên phát (tuổi trung
bình 65,1) đồng thời tìm hiểu mối liên quan của chỉ số này với các đặc điểm lâm sàng, tổn thương
cơ quan đích của đối tượng. Chỉ số độ cứng động mạch lưu động AASI trung bình của đối tượng là
0,47 ± 0,14. AASI có tương quan thuận với tuổi (r = 0,4, p<0,05), áp lực mạch trung bình 24 giờ (r
= 0,47, p<0,05). AASI của nhóm có microalbumin niệu cao hơn nhóm không có microalbumin niệu
(0,51 vs 0,44), AASI của nhóm tăng chỉ số khối lượng cơ thất trái cao hơn nhóm không có tăng chỉ
số khối lượng cơ thất trái (0,50 vs 0,43). AASI có tương quan thuận với chỉ số khối lượng cơ thất trái
(r = 0,37, p<0,05).

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tăng huyết áp (THA) là một bệnh lý thường
gặp và có tỷ lệ mắc cao nhất trong các bệnh lý tim
mạch. Mặc dù thuốc và các phương pháp điều trị
tăng huyết áp không ngừng phát triển, tỷ lệ biến
cố tim mạch, tàn phế và tử vong do tăng huyết
áp vẫn rất cao [8]. Động mạch là mẫu số chung
của mọi biến cố tim mạch, trong đó độ cứng động
mạch là một chỉ số quan trọng trong tiên lượng và
là mục tiêu điều trị cơ bản đối với bệnh nhân tăng
huyết áp [14]. Theo định nghĩa của y văn thế giới:


độ cứng động mạch là năng lực của động mạch
giãn ra và co lại theo chu kỳ co bóp tống máu của
tim. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng độ cứng động
mạch là một yếu tố dự báo độc lập các biến cố tim
mạch trong quần thể nói chung và THA nói riêng
[2], tuy nhiên độ cứng động mạch chưa được sử
dụng thường quy trong thực hành lâm sàng do
các phương pháp đo chủ yếu là các phương pháp
xâm nhập, dụng cụ đo đắt tiền. Năm 2006, Yan Li
và CS đã đưa ra một phương pháp tính độ cứng
động mạch mới gọi là chỉ số độ cứng động mạch
lưu động (Ambulatory arterial stiffness indexAASI) từ kết quả đo huyết áp 24 giờ. Đây là một

252

Tạp chí

phương pháp đơn giản, không xâm nhập và có
tương quan chặt chẽ với các phương pháp khác
và là đại diện cho độ cứng động mạch [11]. Tại
Việt Nam chưa có nhiều nghiên cứu về độ cứng
động mạch ở bệnh nhân THA. Vì vậy, chúng tôi
tiến hành đề tài nhằm: Nghiên cứu độ cứng động
mạch bằng phương pháp đo huyết áp động mạch
24 giờ và mối liên quan với một số đặc điểm lâm
sàng, cận lâm sàng và tổn thương cơ quan đích ở
bệnh nhân THA nguyên phát.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu: gồm 65 bệnh nhân
(39 nam, 26 nữ) được chẩn đoán THA nguyên

phát điều trị nội trú tại Khoa Tim mạch, Bệnh viện
Quân y 103 từ tháng 6 - 2014 đến tháng 6 – 2015.
Những bệnh nhân được chẩn đoán tăng huyết áp
theo tiêu chuẩn WHO: một người trưởng thành
(>18 tuổi) có HATT ≥ 140mmHg và/hoặc HATTr ≥
90 mmHg, tăng HATT đơn độc HATT ≥140mmHg
và HATTr < 90mmHg. Chẩn đoán bệnh nhân tăng
huyết áp nguyên phát dựa vào khám lâm sàng,
nếu lâm sàng có gợi ý nguyên nhân tăng huyết áp
sẽ được làm thêm các xét nghiệm cần thiết khác
để chẩn đoán loại trừ.

Nội khoa Việt Nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX


nghiên cứu khoa học

2. Phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt ngang.
Các bệnh nhân được khám lâm sàng, làm các
xét nghiệm cần thiết để đánh giá tổn thương cơ
quan đích do THA, đo huyết áp 24 giờ bằng máy
SpaceLab 902017. Máy sẽ tự động đo huyết áp
ban ngày (từ 6 giờ - 22 giờ) 20 phút một lần, huyết
áp ban đêm (từ 22 giờ - 6 giờ) một giờ một lần.
Kết quả huyết áp 24 giờ được nhập vào Microsoft
Excel, xây dựng phương trình hồi quy tuyến tính
giữa HATT và HATTR. AASI = 1- hệ số góc của
phương trình hồi quy.
3. Xử lý số liệu: Số liệu thu thập được xử lý theo
thuật toán thống kê bằng phần mềm Excel 2007 và

SPSS 21.0. Số liệu được trình bày dưới dạng số
trung bình ± độ lệch chuẩn ( X ± SD) với các biến
định lượng hoặc dưới dạng tỷ lệ % với các biến
định tính. So sánh các biến định tính bằng thuật
toán Chi-square, các biến định lượng bằng thuật
toán t-student (so sánh hai nhóm) hoặc ANOVA
(so sánh trên hai nhóm). Phân tích mối tương
quan giữa các biến liên tục bằng phương trình hồi
quy và tính hệ số tương quan. Giá trị p<0,05 được
coi là có ý nghĩa thống kê. Các phương trình, biểu
đồ, đồ thị được vẽ tự động trên máy.

Giai đoạn II

34/65 (52,3%)

Giai đoạn III

19/65 (29,2%)

Thời gian THA
< 5 năm

36/65 (55,4%)

5 – 10 năm

26/65 (40%)

> 10 năm


3/65 (4,3%)

Đặc điểm HA 24 giờ
HATT TB ngày (mmHg)

141,05±11,12

HATTr TB ngày (mmHg)

84,65±11,39

HATT TB đêm (mmHg)

133,52±11,32

HATTr TB đêm (mmHg)

80,24±11,81

HATT TB 24 giờ (mmHg) 139,64±10,74
HATTr TB 24 giờ (mmHg) 83,50±11,30
LOAD HATT 24 giờ (%)

59,48±27,57

LOAD HATTr 24 giờ (%)

43,13± 31,48


Nhịp tim TB 24 giờ CK/
phút

75,56±9,89

ALMTB 24 giờ (mmHg)

56,42±12,15

Đặc điểm lipid máu
Cholesterol máu
TB(mmol/l)

5,37±1,03

Triglycerid máu TB
(mmol/l)

2,60±1,68

Bảng 1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu

LDL-C máu TB (mmol/l)

3,44±0,83

ĐẶC
ĐIỂM

HDL-C máu TB (mmol/l)


1,15±0,49

III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

± SD
HOẶC n
65,1± 13,32

Tuổi
Giới (nam/nữ)

39/26

Đặc điểm nhân trắc
Cao (m)

1,58±0,86

AASI

0,47±0,14

Nhận xét: Tuổi trung bình của đối tượng
nghiên cứu là 65,1, đa số là người cao tuổi. Các
chỉ số BMI, VB/ VM đều nằm ở giới hạn cao của
bình thường.

Cân nặng (kg)


58,09±10,02

BMI (kg/m2)

23,18±2,56

VB/VM

0,93±0,59

Tỷ lệ bệnh nhân THA độ 1 là 32,3%, THA độ
2 là 30,8%, THA độ 3 là 36,9%. Đa số bệnh nhân
THA giai đoạn II chiếm 52,3%. Có 55,4% bệnh
nhân có thời gian THA < 5 năm.

Độ 1

21/65 (32,3%)

Các đặc đặc điểm huyết áp 24 giờ đều trên
giới hạn bình thường.

Độ 2

20/65 (30,8%)

Độ 3

24/65 (36,9%)


Độ tăng huyết áp

Giai đoạn THA
Giai đoạn I

12/65 (18,5%)

Nồng độ Cholesterol máu TB, triglycerid máu
trung bình, LDL-C đều trên giới hạn bình thường,
HDL-C máu nằm trong giới hạn bình thường.
Chỉ số độ cứng động mạch lưu động AASI là
0,47±0,14.
Tạp chí

Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX Nội khoa Việt Nam

253


nghiên cứu khoa học

Bảng 2. Tổn thương cơ quan đích của đối tượng nghiên cứu
Tổn thương cơ quan đích
Microalbumin niệu
Dày thất trái trên ĐTĐ
Tăng chỉ số KLCTT
Đột quỵ não
Tổn thương đáy mắt

Số lượng n


Tỷ lệ %



32

49,2

Không

33

50,8



32

49,2

Không

33

50,8



40


61,5

Không

25

38,5



8

13,3

Không

57

87,7



58

89,2

Không

7


10,8

Nhận xét: Trong các biến chứng của THA, tăng chỉ số KLCTT và biến chứng mắt chiếm tỷ lệ > 50%,
biến chứng dày thất trái trên điện tâm đồ và microalbumin niệu như nhau là 49,2%, tỷ lệ đột quỵ não thấp
nhất là 13,3%

Biểu đồ 1. Tương quan của chỉ số độ cứng động mạch lưu động với tuổi của đối tượng
Nhận xét: Có mối tương quan thuận giữa chỉ số độ cứng động mạch lưu động với tuổi của đối tượng
với r = 0,4, p < 0,05 (95% CI).
Bảng 3. Mối liên quan của chỉ số độ cứng động mạch lưu động AASI với các đặc điểm của
đối tượng nghiên cứu
ĐẶC ĐIỂM
Giới

Độ THA

Giai đoạn THA

254

Tạp chí

AASI
Nam

0,46±0,14

Nữ


0,49±0,13

Độ 1(n=21)

0,41±0,12

Độ 2 (n=20)

0,46±0,13

Độ 3 (n=24)

0,54±0,13

Giai đoạn I (n=12)

0,46±0,16

Giai đoạn II (n=34)

0,47±0,14

Giai đoạn III (n=19)

0,47±0,14

p
> 0,05

< 0,05


> 0,05

Nội khoa Việt Nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX


nghiên cứu khoa học

ĐẶC ĐIỂM
Thời gian THA

RL lipid máu

AASI
< 5 năm (n=36)

0,46±0,14

5 – 10 năm (n=26)

0,50±0,12

> 10 năm (n=3)

0,37±0,05

Có (n=52)

0,48±0,13


Không (n=13)

0,46±0,13

p

> 0,05
> 0,05

Nhận xét: Chỉ số độ cứng động mạch lưu động của nữ giới cao hơn nam giới, sự khác biệt chưa có
ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
Chỉ số độ cứng động mạch lưu động tăng theo độ THA (p < 0,05).
Chỉ số độ cứng động mạch có xu hướng tăng theo giai đoạn và thời gian mắc bệnh THA và tình trạng
rối loạn lipid máu tuy, nhiên sự khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).

Biểu đồ 2. Tương quan của chỉ số độ cứng động mạch lưu động với áp lực mạch trung bình 24
giờ của đối tượng nghiên cứu
Có mối tương quan thuận giữa chỉ số độ cứng động mạch lưu động với áp lực mạch trung bình 24
giờ với r = 0,47, p < 0,05 (95% CI).
Bảng 4. Mối liên quan của chỉ số độ cứng động mạch lưu động với tổn thương cơ quan đích
Tổn thương cơ quan đích
Microalbumin niệu
Dày thất trái trên ĐTĐ
Tăng chỉ số KLCTT
Đột quỵ não
Tổn thương đáy mắt

AASI

Có (n=32)


0,51±0,13

Không (n=33)

0,44±0,12

Có (n=32)

0,48±0,13

Không (n=33)

0,46±0,13

Có (n=40)

0,50±0,13

Không (n=25)

0,43±0,13

Có (n=8)

0,50±0,13

Không (n=57)

0,47±0,14


Có (n=58)

0,48±0,13

Không (n=7)

0,44±0,15

p
< 0,05
> 0,05
< 0,05
< 0,05
> 0,05

Tạp chí

Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX Nội khoa Việt Nam

255


nghiên cứu khoa học

Nhận xét: Chỉ số độ cứng động mạch lưu động của nhóm có microalbumin niệu, tăng chỉ số KLCTT,
đột quỵ não cao hơn có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) so với nhóm không có microalbumin niệu, không tăng
chỉ số khối lượng cơ thất trái và không bị đột quỵ não.
Chỉ số độ cứng động mạch lưu động của nhóm dày thất trái trên điện tâm đồ, có tổn thương đáy mắt
cao hơn so với nhóm không dày thất trái và nhóm không có tổn thương đáy mắt, tuy nhiên sự khác biệt

chưa có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).

Biểu đồ 3. Tương quan giữa chỉ số độ cứng động mạch lưu động với chỉ số khối lượng cơ thất trái
của đối tượng nghiên cứu
Nhận xét: có mối tương quan thuận giữa chỉ số độ cứng động mạch lưu động với chỉ số khối lượng
cơ thất trái với r = 0,37, p < 0,05 (95% CI).
IV. BÀN LUẬN
Bệnh nhân trong nghiên cứu có tuổi trung
bình 65,1, đa số là nam giới (39 BN= 60%) cũng
tương tự như một số các tác giả trên thế giới [6].
Trong nghiên cứu của chúng tôi nhận thấy các đặc
điểm về nhân trắc của đối tượng như BMI nằm ở
mức dư cân, béo phì, VB/VM đều tăng. Các chỉ
số lipid máu như cholesterol trung bình, triglycerid
máu trung bình và LDL-C trung bình đều nằm ở
giới hạn cao của bình thường, đây đều là các yếu
tố nguy cơ tim mạch nói chung và THA nói riêng.
Các đặc điểm về HA 24 giờ của chúng tôi
cũng tương tự như nhiều nghiên cứu đã công bố
trong và ngoài nước [1], [13].
THA làm tăng sức đề kháng xuôi dòng của các
tiểu động mạch, gây nên một áp lực tăng truyền
ngược lại đối với các mạch máu trung tâm làm
màng đàn hồi của mạch máu bị căng thêm và trở

256

Tạp chí

nên cứng. Đồng thời, THA theo thời gian dẫn đến

tái cấu trúc mạch máu, phì đại và tăng sinh lớp áo
giữa, làm xơ cứng bản thân mạch máu [3]. Do vậy
ở những người THA luôn có tăng độ cứng động
mạch. Chỉ số độ cứng động mạch lưu động trong
nghiên cứu của chúng tôi là 0,47 ± 0,14. Kết quả
này cao hơn có ý nghĩa thống kê so với chỉ số độ
cứng động mạch lưu động của người bình thường
mà chúng tôi đã công bố là 0,36 ± 0,08 (p<0,001),
và cũng tương tự với các tác giả trên tế giới như
Yan Li thấy chỉ số độ cứng động mạch lưu động
của nhóm THA là 0,45 ± 0,18 [11], Giovanna 0,5 ±
0,17 [10] , Gismosdi 0,43 ± 0,03 [6].
Tỷ lệ gặp các tổn thương cơ quan đích trong
nghiên cứu của chúng tôi cao hơn so với các
nghiên cứu khác [5], [10]. Điều này có thể do phần
nhiều các bệnh nhân trong nghiên cứu chưa dùng
thuốc hạ áp và thời gian mắc bệnh THA khá dài từ
5 đến 10 năm chiếm 40%.

Nội khoa Việt Nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX


nghiên cứu khoa học

Tuổi tác cùng với THA làm cho thành mạch bị
lão hóa, đứt gãy các phân tử protein elastin, tăng
sinh collagen làm giảm sự giãn nở và đàn hồi của
thành mạch [3]. Hậu quả lâu dài của vấn đề này
là làm động mạch trở nên cứng hơn. Trong bảng
1, chúng tôi cũng tìm được mối tương quan thuận

giữa chỉ số độ cứng động mạch lưu động với tuổi
của đối tượng nghiên cứu với r = 0,4, p<0,05
(95% CI). Kết quả này cũng phù hợp với các tác
giả khác trên thế giới khi nghiên cứu về chỉ số độ
cứng động mạch lưu động với tuổi [5], [6].
Chúng tôi nhận thấy chỉ số độ cứng động
mạch lưu động AASI tăng theo độ THA (p<0,05) và
giai đoạn THA (p>0,05). AASI cũng có xu hương
tăng theo thời gian mắc bệnh THA tuy nhiên nhóm
có thời gian THA >10 năm trong nghiên cứu của
chúng tôi chỉ có 3 đối tượng nên chưa thể tìm thấy
sự khác biệt giữa các nhóm thời gian THA.
THA làm mở rộng khoảng áp lực mạch và áp
lực mạch cũng là một thông số để đánh giá độ
cứng động mạch. Nhiều nghiên cứu trên thế giới
đẽ tìm thấy mối tương quan ở các mức độ khác
nhau giữa chỉ số độ cứng động mạch lưu động với
áp lực mạch trung bình 24 giờ [7], [11]. Kết quả
trong nghiên cứu của chúng tôi cũng tìm thấy mối
tương quan thuận r = 0,47, p < 0,05 (95% CI) giữa
chỉ số độ cứng động mạch lưu động với áp lực
mạch trung bình 24 giờ (biểu đồ 2).
THA làm ảnh hưởng trực tiếp lên áp lực lọc
của cầu thận và sự xuất hiện microalbumin niệu.
Các nghiên cứu cũng thấy rằng sự xuất hiện và
tồn tại của microalbumin niệu vẫn có ý nghĩa dự
báo độc lập các biến cố tim mạch sau khi đưa mức
huyết áp về mục tiêu điều trị [12]. Nhiều nghiên
cứu đã chỉ ra rằng khi động mạch bị cứng sẽ làm


huyết áp tâm thu tăng với cùng một thể tích co bóp
tống máu của tim. Hậu quả lâu dài của vấn đề này
là làm tăng nhu cầu tiêu thụ oxy cơ tim, làm phì đại
thất trái [3]. Dựa vào những hiểu biết sinh lý bệnh
và các nghiên cứu mà chúng tôi cũng tìm hiểu mối
liên quan của chỉ số độ cứng động mạch lưu động
với tổn thương cơ quan đích của bệnh nhân THA
thấy rằng: chỉ số độ cứng động mạch lưu động của
nhóm có microalbumin niệu và tăng chỉ số KLCTT
cao hơn so với nhóm không có microalbumin niệu
và không tăng chỉ số KLCTT (p<0,05); chỉ số độ
cứng động mạch của nhóm dày thất trái trên điện
tim và tổn thương đáy mắt do THA cao hơn so với
nhóm không dày thất trái và chưa có tổn thương
đáy mắt, tuy nhiên sự khác biệt chưa có ý nghĩa
thống kê. Đồng thời, chúng tôi cũng tìm được mối
tương quan thuận giữa chỉ số độ cứng động mạch
lưu động với chỉ số khối lượng cơ thất trái với r =
0,37, p<0,05 (95% CI) (biểu đồ 3). Kết quả này
cũng tương tự với các tác giả trên thế giới [4],[9].
Nghiên cứu này cũng góp phần lý giải về cơ chế
sinh lý bệnh của độ cứng động mạch trong THA.
V. KẾT LUẬN
Chỉ số độ cứng động mạch của bệnh nhân
THA là 0,47 ± 0,14.
Chỉ số độ cứng động mạch lưu động có tương
quan với tuổi và áp lực mạch trung bình 24 giờ.
Chỉ số độ cứng động mạch có mối liên quan
với sự xuất hiện mcroalbumin niệu và tăng chỉ số
KLCTT của bệnh nhân THA.

Có mối tương quan thuận giữa chỉ số độ
cứng động mạch lưu động với chỉ số KLCTT của
bệnh nhân THA.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Huỳnh Ngọc Cẩn (2008), “ Nghiên cứu
biến đổi HA 24 giờ ở bệnh nhân THA có hội chứng
chuyển hóa “, Học viện Quân y.

3. Franklin S. S. (2005), “Arterial Stiffness and
Hypertension A Two-Way Street?”, Hypertension,
Vol 45, pp.349-351.

2. Dolan E., Thijs L., Li Y., Atkins N., Mccormack
P., Mcclory S., O’brien E., Staessen J. A., and
Stanton A. V. (2006), “Ambulatory arterial stiffness
index as a predictor of cardiovascular mortality in
the Dublin Outcome Study”, Hypertension,Vol 47,
pp.365-370.

4. García-García Á., Gómez-Marcos M. A.,
Recio-Rodriguez J. I., González-Elena L. J., ParraSanchez J., Muñoz-Moreno M. F., Alonso C. P.,
Gude F., and García-Ortiz L. (2011), “Relationship
between ambulatory arterial stiffness index and
subclinical target organ damage in hypertensive
Tạp chí

Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX Nội khoa Việt Nam

257



nghiên cứu khoa học

patients”, Hypertension research,Vol 34, pp.180186.
5. Gómez-Marcos M. Á., Recio-Rodríguez
J. I., Patino-Alonso M. C., Gómez-Sánchez
L., Agudo-Conde C., Gómez-Sánchez M.,
Rodríguez-Sánchez E., and García-Ortiz L.
(2012), “Ambulatory arterial stiffness indices
and target organ damage in hypertension”, BMC
cardiovascular disorders,Vol 12, pp.1.
6. Gismondi R. A., Neves M. F., Oigman
W., and Bregman R. (2012), “Ambulatory arterial
stiffness index is higher in hypertensive patients
with chronic kidney disease”, International journal
of hypertension,Vol 2012.
7. Hansen T. W., Staessen J. A., TorpPedersen C., Rasmussen S., Li Y., Dolan E.,
Thijs L., Wang J.-G., O’brien E., and Ibsen H.
(2006), “Ambulatory arterial stiffness index
predicts stroke in a general population”, Journal of
hypertension,Vol 24, pp.2247-2253.
8. Kearney P. M., Whelton M., Reynolds
K., Muntner P., Whelton P. K., and He J. (2005),
“Global burden of hypertension: analysis of
worldwide data”, The Lancet,Vol 365, pp.217-223.
9. Lee H. T., Lim Y.-H., Kim B. K., Lee K. W.,
Lee J. U., Kim K. S., Kim S. G., Kim J. H., Lim H.
K., and Shin J. (2011), “The relationship between
ambulatory arterial stiffness index and blood

pressure variability in hypertensive patients”,

Korean Circulation Journal,Vol 41, pp.235-240.
10.Leoncini G., Ratto E., Viazzi F., Vaccaro
V., Parodi A., Falqui V., Conti N., Tomolillo C.,
Deferrari G., and Pontremoli R. (2006), “Increased
ambulatory arterial stiffness index is associated
with target organ damage in primary hypertension”,
Hypertension,Vol 48, pp.397-403.
11. Li Y., Wang J. G., Dolan E., Gao P. J., Guo
H. F., Nawrot T., Stanton A. V., Zhu D. L., O’brien
E., and Staessen J. A. (2006), “Ambulatory arterial
stiffness index derived from 24-hour ambulatory
blood pressure monitoring”, Hypertension,Vol 47,
pp.359-364.
12.Mule G., Calcaterra I., Costanzo M.,
Morreale M., D’ignoto F., Castiglia A., Geraci G.,
Rabbiolo G., Vaccaro F., and Cottone S. (2015),
“Average real variability of 24-h systolic blood
pressure is associated with microalbuminuria
in patients with primary hypertension”, J Hum
Hypertens,Vol 18, pp.66.
13.Mulè G., Nardi E., Cottone S., Cusimano
P., Volpe V., Piazza G., Mongiovi R., Mezzatesta G.,
Andronico G., and Cerasola G. (2005), “Influence
of metabolic syndrome on hypertension‐related
target organ damage”, Journal of internal
medicine,Vol 257, pp.503-513.
14.Payne R. A., Wilkinson I. B., and Webb
D. J. (2010), “Arterial Stiffness and Hypertension

Emerging Concepts”, Hypertension,Vol 55, pp.9-14.

ABSTRACT
In 2006, Yan Li hypothesized that 1 minus the slope of diastolic on systolic pressure during 24-hour
ambulatory monitoring to measure of arrterial stiffness called AASI (ambulatory arterial stiffness- AASI).
Therefore, we used Spacelabs monitor to measure AASI from 65 patients with primary hypertension
(the mean of age: 65.1) and its relations with the characteristic of patients and their organs damage.
The mean of AASI is 0.47±0.14. AASI was positively correlated to age (r = 0.5, p<0.05), and the 24-hour
mean of pulse pressure (r = 0.4, p<0.05). AASI is significant higher in microalbumin urine group
(0.51 vs 0.44) and hyper left ventricular mass index group (0,50 vs 0.43) than group without these
(p<0.05). AASI was positively corelated to left ventricular mass index (r = 0.37, p<0.05).
Keyword: ambulatory arterial stiffness index, 24-hour blood pressure monitoring.

258

Tạp chí

Nội khoa Việt Nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX



×