Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

QUẢN lý NHÀ nước về KIỂM SOÁT tài sản, THU NHẬP của cán bộ, CÔNG CHỨC từ THỰC TIỄN HUYỆN KRÔNG BUK, TỈNH đăk lăk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (751.43 KB, 86 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LỤC DUY PHƯƠNG

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KIỂM SOÁT TÀI SẢN, THU NHẬP CỦA
CÁN BỘ, CÔNG CHỨC TỪ THỰC TIỄN HUYỆN KRÔNG BUK,
TỈNH ĐĂK LĂK

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

ĐẮK LẮK, THÁNG 6 NĂM 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LỤC DUY PHƯƠNG

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KIỂM SOÁT TÀI SẢN, THU NHẬP CỦA
CÁN BỘ, CÔNG CHỨC TỪ THỰC TIỄN HUYỆN KRÔNG BUK,
TỈNH ĐĂK LĂK

Ngành: LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Mã số: 8380102

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN TUẤN KHANH

Đăk Lăk, năm 2020



LỜI CAM ĐOAN

Luận văn Thạc sỹ “Quản lý nhà nước về kiểm soát tài sản, thu nhập
của cán bộ, công chức từ thực tiễn huyện Krông Buk, tỉnh Đăk Lăk” là
công trình nghiên cứu khoa học độc lập của tôi dưới sự hướng dẫn của TS.
Nguyễn Tuấn Khanh. Các số liệu, kết quả nghiên cứu trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, trung thực. Trong công trình nghiên cứu này, mọi sự tham
khảo, chính dẫn đều được chú thích thỏa đáng, không có sự sao chép nào mà
không có trích dẫn nguồn, tác giả.
Tôi cam đoan những lời trên đây là đúng sự thật và chịu hoàn toàn
trách nhiệm về lời cam đoan của mình./.

Đăk Lăk, ngày 22 tháng 6 năm 2020
Người cam đoan

Lục Duy Phương


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .............................. Error! Bookmark not defined.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài.................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.............. Error! Bookmark not defined.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn ........................................... 5
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu . Error! Bookmark not defined.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn... Error! Bookmark not defined.
7. Kết cấu của luận văn ..................................................................................... 6
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
KIỂM SOÁT TÀI SẢN, THU NHẬP CỦA CÁN BỘ, CÔNG CHỨC........... 7
1.1. Khái niệm, vai trò và nội dung của kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ,

công chức .......................................................................................................... 7
1.2. Thẩm quyền và nội dung quản lý nhà nước về kiểm soát tài sản, thu nhập
....................................................................... Error! Bookmark not defined.5
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về kiểm soát tài sản, thu
nhập của cán bộ, công chức .......................... Error! Bookmark not defined.2
Tiểu kết chương 1.......................................... Error! Bookmark not defined.6
Chương 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KIỂM SOÁT TÀI
SẢN, THU NHẬP CỦA CÁN BỘ, CÔNG CHỨC TẠI HUYỆN KRÔNG
BUK, TỈNH ĐĂK LĂK ................................ Error! Bookmark not defined.7
2.1. Khái quát đặc điểm tình hình liên quan đến quản lý nhà nước về kiểm
soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức tại huyện Krông Buk, tỉnh Đăk
Lăk................................................................. Error! Bookmark not defined.7
2.2. Thực tiễn quản lý nhà nước về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ,
công chức ở huyện Krông Buk, tỉnh Đăk Lăk Error! Bookmark not defined.


2.3. Đánh giá chung về công tác quản lý nhà nước về kiểm soát tài sản, thu
nhập của cán bộ, công chức ở huyện Krông Buk, tỉnh Đăk Lăk .............Error!
Bookmark not defined.5
Tiểu kết chương 2.......................................... Error! Bookmark not defined.2
Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KIỂM SOÁT TÀI SẢN, THU NHẬP CỦA
CÁN BỘ, CÔNG CHỨC TỪ THỰC TIỄN HUYỆN KRÔNG BUK, TỈNH
ĐĂK LĂK ....................................................... Error! Bookmark not defined.
3.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về kiểm soát tài sản,
thu nhập của cán bộ, công chức huyện Krông Buk, tỉnh Đăk Lăk ..........Error!
Bookmark not defined.
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về kiểm soát tài sản, thu
nhập của cán bộ, công chức huyện Krông Buk, tỉnh Đăk Lăk ................Error!
Bookmark not defined.

Tiểu kết chương 3............................................ Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN ..................................................... Error! Bookmark not defined.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........ Error! Bookmark not defined.


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tham nhũng là một hiện tượng tiêu cực của xã hội, mang tính lịch sử. Tham
nhũng gắn liền với sự hình thành giai cấp và sự ra đời, phát triển của bộ máy nhà
nước. Hiện nay, tham nhũng diễn ra ở tất cả các quốc gia trên thế giới, không phân
biệt chế độ chính trị, điều kiện và trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Để phòng,
chống tham nhũng, từ nhiều năm nay, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn
bản và thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham
nhũng.
Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy
định: “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước phải tôn trọng nhân
dân tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và
chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện quan
liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng” [29].
Cùng với Hiến pháp, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật, tạo
nên một hệ thống các văn bản pháp luật tương đối đầy đủ, đồng bộ nhằm điều chỉnh
toàn diện các vấn đề về phòng, chống tham nhũng như Luật Phòng, chống tham
nhũng, các Nghị định, Quyết định, Chỉ thị và nhiều văn bản pháp luật khác, quy
định trách nhiệm của các chủ thể trong phòng, chống tham nhũng.
Trong số các biện pháp phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng, minh
bạch tài sản, thu nhập là một trong các chế định về phòng ngừa tham nhũng được
quy định trong Pháp lệnh Chống tham nhũng năm 1998 và tiếp đó được quy định
trong Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 và được sửa đổi, bổ sung tại Luật
Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2012. Hiện
nay, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 tiếp tục kế thừa Luật Phòng, chống

tham nhũng năm 2005 và có quy định khá rõ về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán
bộ, công chức. Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 được thiết kế với tinh
thần “kiểm soát” rất mạnh mẽ, với bốn nhóm trụ cột chính, bao gồm quy định về cơ
1


quan kiểm soát tài sản, thu nhập; về việc kê khai tài sản, thu nhập; về xác minh tài
sản, thu nhập và việc xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về kiểm soát tài sản, thu
nhập.
Trong những năm qua, việc kiểm soát việc kê khai tài sản, thu nhập đã bước
đầu phát huy hiệu quả, góp phần vào công cuộc đấu tranh phòng chống tham
nhũng. Tuy nhiên, cho tới nay, việc kiểm soát vẫn mang tính hình thức và thiếu tác
dụng răn đe. Đồng thời, do chưa kiểm soát được tài sản, thu nhập của các đối tượng
khác trong xã hội nên việc dịch chuyển tài sản nhằm tránh sự kiểm soát cũng gây
khó khăn cho việc xác định tính trung thực của việc kê khai tài sản, thu nhập. Việc
kê khai tài sản vẫn còn mang tính hình thức; việc công khai bản kê khai tài sản chưa
được thực hiện nghiêm túc; các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền
chưa chủ động tiến hành xác minh tài sản của cán bộ, đảng viên, công chức, viên
chức thuộc diện phải kê khai; công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện quy định
về kê khai tài sản còn hạn chế; việc xử lý vi phạm trong việc kê khai tài sản, thu
nhập hầu như còn rất ít [37]. Có thể nói, thực tiễn công tác kiểm soát tài sản, thu
nhập của người có chức vụ, quyền hạn thời gian qua ở Việt Nam nói chung, ở các
địa phương nói riêng đã bộc lộ rất nhiều bất cập, khiến cho hoạt động này hầu như
chỉ được thực hiện trên danh nghĩa. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến
tình hình tham nhũng vẫn đang diễn ra nghiêm trọng và phức tạp.
Từ những phân tích nêu trên, Học viên lựa chọn nghiên cứu đề tài: "Quản lý
nhà nước về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức từ thực tiễn huyện
Krông Buk, tỉnh Đăk Lăk" làm luận văn Thạc sỹ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Thời gian qua, có khá nhiều công trình nghiên cứu của nhiều tác giả về kiểm

soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức nói riêng và phòng, chống tham nhũng
nói chung.
Về sách chuyên khảo, bình luận có các công trình sau: Sách chuyên khảo:
Tìm hiểu các tội phạm về tham nhũng, ma túy và xâm phạm tình dục đối với người
chưa thành niên, của Nguyễn Ngọc Điệp, Đoàn Tấn Minh; Kinh nghiệm phòng,
2


chống tham nhũng của một số nước trên thế giới, của Nguyễn Văn Quyền, Cuốn
sách Nhận diện tham nhũng và các giải pháp phòng chống tham nhũng ở Việt
Nam hiện nay của tác giả Phan Xuân Sơn, Phạm Thế Lực.
Những sách chuyên khảo, bình luận này đề cập tương đối có hệ thống về
cơ sở lý luận và thực tiễn để nhận diện đặc điểm, nguyên nhân và thiết lập các
biện pháp phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam; thực trạng phòng, chống tham
nhũng và phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả trong đấu tranh phòng,
chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay. Tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ
bản nhất về mặt lý luận đối với các tội phạm về tham nhũng, trang bị cho người đọc
những kiến thức chung, cơ bản về tham nhũng.
Ở cấp độ Luận án Tiến sĩ Luật học có các đề tài của các tác giả: Trần Đăng
Vinh, Hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay; Trần
Công Phàn, Tình hình, nguyên nhân và các biện pháp đấu tranh phòng, chống các
tội tham nhũng….
Ở cấp độ luận văn Thạc sĩ có các đề tài của các tác giả: Trương Quốc Hưng,
Quy định về phòng, chống tham nhũng trong Bộ luật Quốc triều hình luật và bài
học rút ra đối với công cuộc phòng, chống tham nhũng hiện nay; Ngọ Duy Hiểu,
Đổi mới tư duy pháp lý về đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện
nay....
Những Luận văn, Luận án này ở những góc độ khác nhau đã nghiên cứu về
tội phạm tham nhũng ở những khía cạnh chung, những vấn đề lý luận, tình hình
tham nhũng và công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, cũng như việc đổi mới

tư duy trong phòng ngừa, đấu tranh chống tham nhũng ở Việt Nam, trong đó có vấn
đề kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức.
Đề tài khoa học độc lập cấp nhà nước: Luận cứ khoa học cho việc xây dựng
chiến lược phòng ngừa và nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở
Việt Nam cho đến năm 2020, Chủ nhiệm Mai Quốc Bình. Đề tài đã phân tích làm
sáng tỏ một số vấn đề lý luận chung về tham nhũng và công tác đấu tranh phòng,
chống tham nhũng; thực trạng, hậu quả và nguyên nhân tham nhũng; tình hình công
3


tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng; yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa với nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng; kinh nghiệm về phòng,
chống tham nhũng trên thế giới; các giải pháp phòng ngừa và nâng cao hiệu quả đấu
tranh phòng, chống tham nhũng và việc xây dựng Chiến lược phòng, chống tham
nhũng ở Việt Nam.
Ngoài ra còn có các đề tài: Đinh Văn Minh, 2014: “Tổ chức và hoạt động của
các cơ quan có chức năng phòng, chống tham nhũng và một số vấn đề đang đặt ra”
– đề tài khoa học cấp bộ, Thanh tra Chính phủ; Mai Quốc Bình (2009), Luận cứ
khoa học cho việc xây dựng chiến lược phòng ngừa và nâng cao hiệu quả đấu tranh
phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam cho đến năm 2020, Đề tài khoa học cấp nhà
nước, Bộ Tư pháp, Hà Nội; Thanh tra Chính phủ (2014), Luận cứ khoa học cho việc
xây dựng chiến lược phòng ngừa và nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống
tham nhũng cho đến năm 2020, Đề tài khoa học cấp Bộ, Bộ Tư pháp, Hà Nội;
Nguyễn Quốc Hiệp, 2015, “Thực hiện trách nhiệm giải trình trong thực thi công vụ
nhằm phòng ngừa tham nhũng ở Việt Nam hiện nay” – đề tài khoa học trọng điểm
cấp bộ, Thanh tra Chính phủ; Phạm Trọng Đạt, 2011, “Kiểm soát thu nhập của
người có chức vụ, quyền hạn”, đề tài khoa học cấp bộ, Thanh tra Chính phủ; Văn
Tiến Mai, 2011, “Nâng cao hiệu quả công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật về
thanh tra, khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng của Thanh tra Chính
phủ”, đề tài cấp bộ, Thanh tra Chính phủ; Dương Hồng Thành, 2010, “Tăng cường

công tác phối hợp giữa Thanh tra Chính phủ và các cơ quan hữu quan trong việc
trao đổi, sử dụng thông tin, dữ liệu về phòng, chống tham nhũng”, đề tài cấp cơ sở,
Thanh tra Chính phủ; Vũ Thị Ngọc Huế, 2013, “Việc thực hiện công khai tài sản
của người có chức vụ, quyền hạn tại nơi cư trú và nơi công tác”, đề tài cấp cơ sở,
Thanh tra Chính phủ…
Các công trình trên đã đề cập đến các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan
đến nội hàm khái niệm tham nhũng, Luật về phòng chống tham nhũng, những
vấn đề thực tiễn liên quan đến công tác phòng chống tham nhũng ở những phạm
vi khác nhau. Tuy nhiên, vấn đề quản lý nhà nước về kiểm soát tài sản, thu nhập
4


của đội ngũ cán bộ, công chức nói riêng thì chỉ được đề cập trên bình diện
chung, đặc biệt là chưa nghiên cứu cụ thể từ một địa phương cấp huyện. Vì vậy,
từ những vấn đề lý luận chung và thực tiễn tại một địa phương cụ thể, Luận văn
tiếp tục đi sâu nghiên cứu những khó khăn cụ thể tại địa phương để có giải pháp
chung nhằm khắc phục những hạn chế, khuyết điểm đang mắc phải tại địa
phương.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn là góp phần hoàn thiện luận cứ khoa
học và thực tiễn cho việc đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý
nhà nước về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức huyện Krông
Buk, tỉnh Đăk Lăk.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Phân tích làm sáng tỏ các vấn đề lý luận cơ bản về quản lý nhà nước về
kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức.
- Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện việc quản lý nhà nước về kiểm
soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức huyện Krông Buk, tỉnh Đăk Lăk, chỉ
ra những mặt đạt được, những bất cập, hạn chế và nguyên nhân của những bất

cập, hạn chế đó.
- Đưa ra được phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu
quả quản lý nhà nước về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức nói
chung và ở huyện Krông Buk, tỉnh Đăk Lăk nói riêng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận, pháp lý và
thực tiễn hoạt động quản lý nhà nước về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ,
công chức huyện Krông Buk, tỉnh Đăk Lăk.
- Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu:
+ Không gian: huyện huyện Krông Buk, tỉnh Đăk Lăk.
+ Thời gian: từ năm 2014 đến nay.
5


5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phòng, chống tham nhũng.
- Phương pháp nghiên cứu: Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử
dụng trong luận văn là phương pháp phân tích, tổng hợp, quan sát, thống kê, so
sánh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Việc nghiên cứu Luận văn góp phần làm rõ cơ sở khoa học cho việc đề
xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước
về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức huyện Krông Buk, tỉnh Đăk
Lăk hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu Luận văn là tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác
nghiên cứu, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ, công chức các cơ quan hành chính
nhà nước nói chung và những người làm công tác tham mưu, trực tiếp thực hiện
nhiệm vụ trong kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức.

7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của Luận văn ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu
tham khảo, Luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề chung về quản lý nhà nước về kiểm soát tài sản,
thu nhập của cán bộ, công chức
Chương 2. Thực trạng quản lý nhà nước về kiểm soát tài sản, thu nhập của
cán bộ, công chức tại huyện Krông Buk, tỉnh Đăk Lăk
Chương 3. Phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước
về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức từ thực tiễn huyện Krông
Buk, tỉnh Đăk Lăk

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KIỂM SOÁT TÀI
SẢN, THU NHẬP CỦA CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của kiểm soát tài sản, thu nhập của
cán bộ, công chức
1.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước về kiểm soát tài sản, thu nhập cán bộ,
công chức
* Khái niệm quản lý nhà nước
Hiện nay có nhiều quan niệm về Quản lý nhà nước (QLNN), theo Giáo trình
về Quản lý nhà nước của Học viện Hành chính quốc gia thì: “Quản lý hành chính
nhà nước là dạng quản lý xã hội mang tính quyền lực nhà nước với chức năng chấp
hành luật và tổ chức thực hiện luật của các cơ quan trong hệ thống hành pháp và
hành chính nhà nước” [18, tr.10].
Trong cuốn Luật hành chính Việt Nam, PGS, TS Đinh Văn Mậu và PGS, TS
Phạm Hồng Thái cho rằng: “QLNN là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng
quyền lực nhà nước đối với quá trình xã hội và hành vi hoạt động của công dân do

các cơ quan hành pháp từ Trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện những chức
năng và nhiệm vụ của Nhà nước, phát triển các mối quan hệ xã hội, duy trì trật tự an
ninh, thỏa mãn nhu cầu hàng ngày của nhân dân” [22, tr.22].
Còn theo cuốn Từ điển Luật học do Viện Khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp Việt
Nam) biên soạn thì:
“QLNN là chức năng quan trọng nhất vận hành thường xuyên bằng bộ
máy nhà nước bảo đảm hoạt động của xã hội cũng như từng lĩnh vực đời sống xã
hội vận động theo một hướng, đường lối nhất định do Nhà nước vạch ra”.
“QLNN là hoạt động thực thi quyền lực nhà nước do các cơ quan nhà
nước thực hiện nhằm xác lập một trật tự ổn định và phát triển xã hội theo những
mục tiêu mà tầng lớp cầm quyền theo đuổi” [47, tr.633].
QLNN là một trong những hoạt động chủ yếu của cơ quan chấp hành quyền
lực nhà nước. Hoạt động này thường được tiếp cận theo những cách khác nhau tùy
7


theo góc độ nghiên cứu của mỗi ngành khoa học. Ngày nay, quản lý (nói chung) là
đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau. Với quan niệm rộng và
phổ biến thì quản lý được hiểu là sự kết hợp giữa trí thức và lao động trong việc
điều hành sản xuất và tổ chức đời sống xã hội. Dưới góc độ điều khiển học thì quản
lý thường được hiểu là chỉ huy, điều khiển, điều hành.
Mặc dù có nhiều quan niệm, cách tiếp cận khác nhau về QLNN, nhưng phần
lớn các tác giả đều thống nhất rằng QLNN là sự tác động bằng pháp luật của các
chủ thể mang quyền lực nhà nước tới các đối tượng quản lý nhằm thực hiện các
chức năng đối nội và đối ngoại của Nhà nước. Đây là sự quản lý của Nhà nước đối
với xã hội, là hoạt động mang tính chính trị - pháp lý có tính định hướng và mục
tiêu cụ thể. Hoạt động này nhằm hướng tới sự vận động, phát triển của xã hội phù
hợp với sự vận động và phát triển của quy luật khách quan. Đây là chức năng quan
trọng nhất, vận hành thường xuyên bằng bộ máy nhà nước nhằm đảm bảo mọi hoạt
động của xã hội cũng như trên các lĩnh vực đời sống xã hội vận động theo đúng

phương hướng, đường lối do Nhà nước vạch ra.
* Khái niệm cán bộ, công chức
Cán bộ là một bộ phận rất quan trọng trong lực lượng cách mạng của Đảng
Cộng sản, Nhà nước và nhân dân ta. Từ lâu, các khái niệm cán bộ đã được nhiều
nhà khoa học và cán bộ nghiên cứu nêu lên. Trong nhiều văn kiện của Đảng và Nhà
nước, nhiều công trình, đề tài nghiên cứu khoa học về xây dựng đội ngũ cán bộ,
khái niệm cán bộ vẫn tiếp tục được tiếp cận; danh từ cán bộ ngày càng được định
nghĩa chính xác hơn, rõ ràng hơn đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng đội ngũ
cán bộ cũng như trong nghiên cứu về cán bộ và công tác xây dựng đội ngũ cán bộ ở
nước ta hiện nay.
Theo Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 1998 viết: “Cán bộ là
người làm công tác nghiệp vụ chuyên môn trong các cơ quan nhà nước; cán bộ là
người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt với người
thường không có chức vụ”; ví dụ: cán bộ nhà nước, cán bộ khoa học, cán bộ chính
trị [44, tr.105]…
8


Từ điển Tiếng Việt của Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin, 1999 viết: “Cán
bộ là người trong cơ quan nhà nước”…và “Cán bộ là người giữ chức vụ, phân biệt
với người bình thường, không giữ chức vụ trong các cơ quan tổ chức nhà nước”
[45, tr.249].
Theo Luật Cán bộ, công chức năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2019 thì
“Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ,
chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã
hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách
nhà nước” [27].
Qua phân tích trên, khái niệm cán bộ được hiểu theo hai nghĩa:
Một là, cán bộ là những người làm việc trong các cơ quan nhà nước, được
hưởng lương từ ngân sách nhà nước, được bổ nhiệm hoặc bầu cử để giữ một chức

danh nào đó trong bộ máy nhà nước. Theo nghĩa này, khái niệm cán bộ có sự khác
biệt với những người không là cán bộ khi họ không làm việc trong bộ máy cơ quan
nhà nước, không hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Hai là, cán bộ là những người giữ những chức vụ nhất định trong một tổ
chức, là nòng cốt, bộ khung của một tổ chức. Theo nghĩa này, cán bộ khác với nhân
viên, công chức bình thường, không giữ chức vụ trong bộ máy.
Theo Luật sửa đổi, bổ sung một sốCán bộ, công chức năm 2008 được sửa
đổi, bổ sung năm 2019 thì “Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng,

bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh tương ứng với vị trí việc làm trong
cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở
trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân
dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc
phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ
quan, hạ sĩ quan phục vụ theo chế độ chuyên nghiệp, công nhân công an,
trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước” [33].
* Khái niệm quản lý nhà nước về kiểm soát tài sản, thu nhập:
9


Theo từ điển Tiếng Việt: “Kiểm soát” là “xem xét để phát hiện, ngăn chặn
những gì trái với quy định” [48, tr.523].
Tài sản tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau, phong phú và đa dạng. Tuy nhiên,
trong thực tế khái niệm tài sản được hiểu mơ hồ, chưa có sự thống nhất chung để có
thể xác định đối tượng đó có phải là tài sản hay không. Theo quy định của pháp luật
về dân sự, tài sản được liệt kê khép kín gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền
tài sản. Trong đó: Vật là một bộ phận của thế giới vật chất, tồn tại khách quan mà
con người có thể cảm giác được bằng các giác quan của mình. Vật chỉ có ý nghĩa
khi nó trở thành đối tượng trong quan hệ pháp luật, do vậy, nếu bộ phận của thế giới
vật chất mà con người không thể kiểm soát, chiếm hữu được nó thì đồng nghĩa với

việc con người không thể tác động được vào nó. Như vậy, muốn trở thành vật trong
quan hệ pháp luật phải thỏa mãn những điều kiện sau: Là bộ phận của thế giới vật
chất; chỉ khi con người chiếm hữu được nó thì nó mới được coi là vật, tức là con
người có thể nắm giữ, quản lý được thì mới có thể đưa vào giao dịch và được coi là
vật; có thể đang tồn tại hoặc sẽ hình thành trong tương lai. Tiền theo kinh tế chính
trị học là vật ngang giá chung được sử dụng làm thước đo giá trị của các loại tài sản
khác. Một tài sản được coi là tiền hiện nay khi nó đang có giá trị lưu hành trên thực
tế. Tiền được coi là một dạng đặc biệt của tài sản và cũng là thước đo để xác định
toàn bộ khối tài sản của một chủ thể nào đó trong quan hệ pháp luật dân sự. Giấy tờ
có giá là loại tài sản rất phổ biến trong giao dịch dân sự hiện nay đặc biệt là giao
dịch trong các hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. Căn cứ vào các
quy định của pháp luật hiện hành thì giấy tờ có giá bao gồm: Hối phiếu đòi nợ, hối
phiếu nhận nợ, séc, công cụ chuyển nhượng; Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công
ty, kỳ phiếu, cổ phiếu…. Giấy tờ có giá là một loại tài sản trong quan hệ pháp luật
và có các thuộc tính sau: Xác nhận quyền tài sản của một chủ thể xác định; trị giá
được bằng tiền và có thể chuyển giao quyền sở hữu cho chủ thể khác trong giao
dịch dân sự. Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao
trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ. Quyền này được hiểu là một
quyền năng dân sự chủ quan của chủ thể được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Quyền
10


đó phải được xác định tương đương với một đại lượng vật chất nhất định. Hiện nay,
một số quyền tài sản được công nhận như quyền sử dụng đất, quyền tài sản phát
sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp … “Thu nhập” là “nhận được tiền
bạc, của cải, vật chất từ một hoạt động nào đó” [48, tr.958]. Thực tế bất cứ cá nhân
nào đều có thể có thu nhập của riêng mình. Người lao động có thu nhập từ tiền
công, tiền lương, thu nhập từ những của cải, vật chất có được thông qua hoạt động
sản xuất, kinh doanh, đầu tư vốn, chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng bất động sản
và các thu nhập khác như trúng thưởng xổ số, trúng thưởng dưới các hình thức

khuyến mại, trò chơi có thưởng, thu nhập từ tiền bản quyền; thu nhập từ thừa kế,
quà tặng là cổ phiếu, trái phiếu, quyền sở hữu doanh nghiệp.... Với sự phát triển
mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, đa dạng hóa các thành phần kinh tế và hội nhập
kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, nguồn chi trả thu nhập cũng ngày càng đa dạng.
Nguồn thu nhập ngoài nhận được từ Nhà nước, còn có các khoản thu nhập nhận
được từ các tổ chức kinh tế trong nước và ngoài nước...
Trên cơ sở những phân tích trên, có thể đưa ra quan niệm “Quản lý nhà
nước về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức là tổng thể những
biện pháp, cách thức mà Nhà nước sử dụng để biết được biến động về tài sản,
thu nhập của cán bộ, công chức nhằm phòng ngừa, phát hiện, xử lý đối với cán
bộ, công chức lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để nhận lợi ích trái pháp
luật nhằm phòng ngừa tham nhũng”.
1.1.2. Vai trò của kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức
Thứ nhất, kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức là cơ sở để các
cơ quan chức năng có thẩm quyền đánh giá, xử lý cán bộ, công chức; từ đó xây
dựng đội ngũ cán bộ thanh liêm, trong sạch.
Quy định về công khai, minh bạch tài sản, thu nhập với những quy phạm cụ
thể về đối tượng phải công khai, minh bạch tài sản, thu nhập; các loại tài sản, thu
nhập phải công khai, minh bạch; về nội dung, hình thức công khai, minh bạch; về
trách nhiệm, thủ tục giải trình và xác minh tài sản, thu nhập; về thẩm quyền và các
hình thức xử lý vi phạm việc công khai, minh bạch tài sản, thu nhập của người có
11


chức vụ, quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước... là cơ sở pháp lý để các cơ
quan chức năng kiểm tra, giám sát nhằm phát hiện, xử lý những người có chức vụ,
quyền hạn về sự thanh liêm, trong sạch. Việc kiểm tra, giám sát được thực thi một
cách nghiêm túc thì những nguồn tài sản bất minh, đặc biệt là tài sản có nguồn gốc
từ thu nhập không thể trở thành tài sản hợp pháp. Vì vậy, dù tham nhũng mà không
thể hợp pháp được tài sản tham nhũng thì cũng không có ý nghĩa, thậm chí còn chịu

trách nhiệm hình sự nếu bị phát hiện khối tài sản đó là tài sản tham nhũng. Đây là
cách phòng ngừa tham nhũng từ khâu quản lý cán bộ, công chức khá hiệu quả nhằm
đánh giá được tính liêm chính của đội ngũ cán bộ công tác trong bộ máy thực hiện
chức năng quản lý nhà nước. Công khai, minh bạch tài sản, thu nhập là nền tảng của
“văn hóa liêm chính” trong hoạt động của bộ máy nhà nước. Để nhân dân có thể đặt
niềm tin vào Đảng và Nhà nước thì trước tiên, người có chức vụ, quyền hạn phải là
những người có phẩm chất đạo đức tốt, là tấm gương tiêu biểu về liêm chính. Công
khai, minh bạch tài sản, thu nhập cũng vừa giúp cán bộ, công chức hiểu rõ hơn vị
trí, chức trách, nhiệm vụ của mình, đồng thời cũng nhận thức được rằng người dân
và xã hội đang giám sát việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của mình theo đúng
quy định; đồng thời cũng giám sát nguồn gốc, biến động tài sản, thu nhập của
mình... để tự bản thân có sự điều chỉnh phù hợp, thanh liêm hơn, trong sạch hơn.
Thứ hai, kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức nhằm góp phần
phòng, chống tham nhũng.
Để phát hiện, ngăn chặn những gì trái quy định liên quan đến tài sản, thu
nhập của người có chức vụ, quyền hạn thì qua công khai, minh bạch, cơ quan có
thẩm quyền theo dõi, nắm bắt được sự biến động về tài sản, thu nhập của người có
chức vụ, quyền hạn. Không chỉ việc tăng tài sản, thu nhập mà ngay cả việc giảm tài
sản, thu nhập cũng tiềm ẩn những vi phạm pháp luật của người có chức vụ, quyền
hạn. Theo đó, pháp luật về công khai, minh bạch tài sản thu nhập với hệ thống các
quy phạm pháp luật điều chỉnh quá trình công bố, giải trình, xác minh thông tin về
tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức và những người hưởng lương từ
ngân sách nhà nước sẽ tạo ra khuôn khổ pháp lý cần thiết bảo đảm cho các cơ quan
12


nhà nước thực hiện hiệu quả chức năng quản lý nhà nước của mình nhằm phòng
ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng.
Tham nhũng là hành vi có mục đích vụ lợi và chiếm đoạt những giá trị vật
chất và tinh thần của nhân dân, của đất nước. Nếu có thể minh bạch thật rõ ràng

nguồn gốc tài sản, thu nhập của những người làm việc trong bộ máy hành chính nhà
nước thì họ sẽ không dám tham nhũng khi những tài sản bất minh do tham nhũng
mà có là những khối tài sản không rõ nguồn gốc và khi bị phát hiện sẽ chịu sự chế
tài của pháp luật.
Thứ ba, kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức một mặt thể hiện
tính nghiêm minh của Nhà nước trong công tác quản lý cán bộ, đồng thời thể hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ.
Pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập quy định quyền, đồng thời quy định
trách nhiệm, nghĩa vụ tương ứng mà người có chức vụ, quyền hạn phải thực hiện để
đảm bảo sự trong sạch không chỉ cho những cá nhân làm việc trong nền hành chính
công mà còn cho cả hệ thống cơ quan hành chính nhà nước. Công khai, minh bạch
để cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền biết được tài sản, thu nhập của người có
nghĩa vụ kê khai nhằm phục vụ công tác quản lý cán bộ, công chức, góp phần ngăn
ngừa hành vi tham nhũng. Bên cạnh đó, pháp luật về công khai, minh bạch tài sản,
thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn cũng xác định các biện pháp phát hiện và
xử lý hữu hiệu đối với cán bộ có hành vi tham nhũng, che đậy hoặc tẩu tán tài sản
bất minh. Công khai, minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức là một
trong những công cụ quan trọng góp phần tăng cường tính minh bạch của bộ máy
nhà nước, sự liêm chính của cán bộ, công chức; đồng thời, qua đó cũng giúp cơ
quan quản lý nhà nước giám sát, phòng ngừa các hành vi sai trái của cán bộ, công
chức, ngăn chặn, làm giảm thiểu nguy cơ làm giàu bất chính. Người có nghĩa vụ kê
khai tài sản, thu nhập nếu kê khai trung thực, đầy đủ, rõ ràng, đúng thời hạn các
thông tin về số lượng, giá trị tài sản, thu nhập và những biến động về tài sản, thu
nhập phải kê khai và tự chịu trách nhiệm về những thông tin đã kê khai... thì đây là
nguồn thông tin có ý nghĩa với các cơ quan có thẩm quyền trong việc phát hiện và
13


xử lý đối với cán bộ có hành vi tham nhũng. Ngoài ra, pháp luật kiểm soát tài sản,
thu nhập cũng thể hiện tính dân chủ, tạo môi trường pháp lý cho mọi cán bộ, công

chức biết, giám sát số lượng, nguồn gốc tài sản, thu nhập của người có chức vụ,
quyền hạn. Đây là một trong những hình thức tăng cường tính minh bạch, trách
nhiệm giải trình và tạo niềm tin của người dân vào bộ máy hành chính công thông
qua việc công khai thông tin về tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức.
1.1.3. Nội dung kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức
Trước đây đã có quy định, đã thực hiện việc kê khai, minh bạch tài sản, thu
nhập của cán bộ, công chức. Pháp lệnh Chống tham nhũng năm 1998 chỉ quy định
việc kê khai tài sản, thu nhập. Đến Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005, sửa
đổi, bổ sung năm 2012 đã quy định thành minh bạch tài sản, thu nhập. Luật phòng
chống tham nhũng năm 2018 quy định về kiểm soát tài sản, thu nhập. Như vậy,
chúng ta đã tiến một bước từ kê khai đến minh bạch và tiến tới kiểm soát tài sản,
thu nhập của cán bộ, công chức.
1.1.3.1. Kê khai tài sản, thu nhập
Kê khai tài sản, thu nhập là việc người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập
ghi rõ các loại tài sản, thu nhập phải kê khai theo mẫu mà pháp luật quy định. Kê
khai tài sản, thu nhập có kê khai lần đầu (người có nghĩa vụ kê khai thực hiện kê
khai lần đầu tiên theo định kỳ hàng năm mà chưa kê khai lần nào) và kê khai bổ
sung (người có nghĩa vụ kê khai thực hiện việc kê khai hàng năm từ lần thứ hai trở
đi). Không phải bất kỳ cá nhân nào cũng có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập mà
việc thực hiện kê khai chỉ được áp dụng cho những cá nhân có chức vụ, quyền hạn
nhất định. Việc quy định kê khai tài sản, thu nhập của các đối tượng này xuất phát
từ yêu cầu công tác quản lý cán bộ và yêu cầu phòng ngừa tham nhũng. Người có
chức vụ, quyền hạn được giới hạn ở những người làm việc trong các cơ quan, tổ
chức, đơn vị thuộc hệ thống chính trị; nói cách khác là ở các cơ quan, tổ chức, đơn
vị có sử dụng ngân sách, vốn, tài sản của Nhà nước; nhất là những người công tác
trong các cơ quan hành chính nhà nước, có tính đặc thù của cơ quan thực hiện chức
năng quản lý nhà nước. Các đối tượng này được nhà nước trao quyền nhằm thực
14



hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trong họat động chấp hành - điều hành.
Đó là những người trực tiếp quản lý ngân sách, tài sản của nhà nước trong các cơ
quan hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương như kế toán, thủ quỹ, mua
sắm tài sản công... của cơ quan nơi họ đang công tác hoặc được giao một nhiệm vụ
nhất định; là những người trực tiếp tiếp xúc và giải quyết công việc của cơ quan, tổ
chức, đơn vị trong các lĩnh vực được giao như tổ chức cán bộ, tài chính ngân hàng,
tài nguyên - môi trường, thanh tra, phòng, chống tham nhũng... Đặc điểm chung của
những đối tượng này là có thể lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để thực hiện
hành vi tham nhũng. Theo đó, việc giới hạn như vậy nhằm tập trung đấu tranh
chống những hành vi tham nhũng ở khu vực xảy ra phổ biến nhất, chống có trọng
tâm, trọng điểm, phù hợp với việc áp dụng các biện pháp phòng, chống tham nhũng.
Kê khai tài sản, thu nhập theo Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005, sửa
đổi, bổ sung năm 2012; Nghị định số 78/2013/NĐ-CP ngày 17/7/2013 của Chính
phủ về minh bạch tài sản, thu nhập bao gồm các quy định về đối tượng kê khai; tài
sản, thu nhập phải kê khai; trình tự, thủ tục kê khai, tiếp nhận bản kê khai; quản lý,
sử dụng bản kê khai; thủ tục khai thác, sử dụng bản kê khai; trách nhiệm của người
đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong việc kê khai, công khai, quản lý bản kê
khai. Cụ thể:
Thứ nhất, đối tượng phải kê khai tài sản, thu nhập phải kê khai tài sản, thu
nhập của bản thân, của vợ, chồng và con chưa thành niên. Đối tượng phải kê khai
tài sản, thu nhập gồm 9 nhóm đối tượng, là những người giữ chức vụ, quyền hạn
trong các cơ quan nhà nước, cơ quan của Đảng, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị sự
nghiệp công lập, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân, Công an nhân dân, doanh nghiệp
nhà nước, doanh nghiệp có phần vốn của nhà nước. Đồng thời, những người mặc dù
không giữ chức vụ quản lý nhưng làm công tác quản lý ngân sách, tài sản của Nhà
nước hoặc trực tiếp tiếp xúc và giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá
nhân trong các lĩnh vực quy định tại Danh mục ban hành kèm theo Nghị định
78/2013/NĐ-CP cũng phải kê khai tài sản, thu nhập.

15



Ngoài ra, Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân chuyên trách;
người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; người được dự kiến
bầu, phê chuẩn tại Quốc hội, Hội đồng nhân dân cũng phải kê khai tài sản, thu nhập
theo quy định.
Đối với cấp xã, đây là cấp cơ sở, trực tiếp tiếp xúc, giải quyết các công việc
đối với người dân, doanh nghiệp, ngoài các chức danh lãnh đạo, quản lý thì cán bộ,
công chức như Trưởng công an, Chỉ huy trưởng quân sự, cán bộ địa chính, xây
dựng, tài chính, tư pháp - hộ tịch cũng phải kê khai tài sản, thu nhập.
Thứ hai, tài sản, thu nhập phải kê khai gồm các tài sản ở trong nước và cả tài
sản ở nước ngoài, bao gồm: các loại bất động sản (nhà, công trình xây dựng, quyền
sử dụng đất…) đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng, quyền sở hữu hoặc
mặc dù chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng, quyền sở hữu hay đứng tên
người khác nhưng thực tế người có nghĩa vụ kê khai đang quản lý, sử dụng hoặc
được thuê.
Các loại tài sản theo quy định của pháp luật phải đăng ký sử dụng và được
cấp giấy đăng ký như: Ô tô, mô tô, xe máy, tầu, thuyền và những động sản khác có
giá trị từ 50 triệu đồng trở lên.
Tiền mặt, tiền cho vay, tiền gửi các cá nhân, tổ chức trong nước, nước ngoài,
kim loại quý, đá quý, cổ phiếu, các loại giấy tờ có giá trị chuyển nhượng khác có
giá trị từ 50 triệu đồng trở lên.
Tổng thu nhập trong năm (tiền lương, thưởng, phụ cấp và các khoản thu nhập
hợp pháp khác) của cá nhân hoặc gia đình.
Đồng thời, để theo dõi, quản lý biến động về tài sản, thu nhập thì các khoản
nợ phải trả có giá trị từ 50 triệu đồng trở lên cũng phải kê khai.
Thứ ba, về trình tự, thủ tục kê khai, tiếp nhận bản kê khai được quy định cụ
thể các mốc thời gian phải thực hiện, theo đó việc kê khai tài sản, thu nhập phải
hoàn thành trước ngày 31 tháng 12 hàng năm. Đồng thời, quy định trách nhiệm của
bộ phận, cán bộ, công chức được giao thực hiện.


16


Thứ tư, bản kê khai được lưu cùng hồ sơ cán bộ, công chức, viên chức và cơ
quan, đơn vị quản lý cán bộ theo phân cấp quản lý cán bộ của cấp ủy. Bản kê khai
được sử dụng phục vụ yêu cầu liên quan đến công tác tổ chức, cán bộ; phục vụ cho
hoạt động thanh tra, kiểm toán, kiểm tra, điều tra và phục vụ cho việc bầu, phê
chuẩn, bổ nhiệm, cách chức… đối với người có nghĩa vụ kê khai.
Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 tiếp tục kế thừa các quy định về kê
khai tài sản, thu nhập của Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005, sửa đổi, bổ
sung năm 2012, đồng thời có những quy định mới nhằm phù hợp với thực tế hiện
nay. Cụ thể:
Thứ nhất, đối tượng phải kê khai tài sản, thu nhập gồm: Cán bộ, công chức
theo quy định của Luật Cán bộ, công chức; Sỹ quan Công an nhân dân; sỹ quan
Quân đội nhân dân, quân nhân chuyên nghiệp; Người giữ chức vụ từ Phó trưởng
phòng và tương đương trở lên công tác tại đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp
nhà nước, người được cử làm đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp; Người
ứng cử đại biểu Quốc hội, người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
Thứ hai, tài sản, thu nhập phải kê khai, bao gồm: Quyền sử dụng đất, nhà ở,
công trình xây dựng và tài sản khác gắn liền với đất, nhà ở, công trình xây dựng;
Kim khí quý, đá quý, tiền, giấy tờ có giá và động sản khác mà mỗi tài sản có giá trị
từ 50.000.000 đồng trở lên; Tài sản, tài khoản ở nước ngoài. Về tổng thu nhập phải
kê khai đã quy định thêm tổng thu nhập giữa 02 lần kê khai.
Thứ ba, phương thức và thời điểm kê khai gồm có: Kê khai lần đầu; Kê khai
bổ sung; kê khai hằng năm và kê khai phục vụ công tác cán bộ.
Kê khai lần đầu được áp dụng cho những người có trách nhiệm kê khai tài
sản, thu nhập theo quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018. Việc kê
khai thực hiện ngay khi Luật này có hiệu lực thi hành và phải hoàn thành trước ngày
31 tháng 12 năm 2019. Đối với những người lần đầu giữ vị trí công tác theo quy

định của Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 phải hoàn thành chậm nhất là 10
ngày kể từ ngày được tiếp nhận, tuyển dụng, bố trí vào vị trí công tác.

17


Kê khai bổ sung được thực hiện khi người có nghĩa vụ kê khai có biến động
về tài sản, thu nhập trong năm có giá trị từ 300.000.000 đồng trở lên. Việc kê khai
phải hoàn thành trước ngày 31 tháng 12 của năm có biến động về tài sản, thu nhập,
trừ trường hợp đã kê khai theo quy định.
Kê khai hằng năm được thực hiện đối với những người giữ chức vụ từ Giám
đốc sở và tương đương trở lên. Đối với những người làm công tác tổ chức cán bộ,
quản lý tài chính công, tài sản công, đầu tư công hoặc trực tiếp tiếp xúc và giải
quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân khác theo quy định của Chính
phủ. Việc kê khai phải hoàn thành trước ngày 31 tháng 12.
Kê khai phục vụ công tác cán bộ được thực hiện đối với những trường hợp
khi dự kiến bầu, phê chuẩn, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, cử giữ chức vụ khác; Người
trong danh sách ứng cử, bầu cử. Thời điểm kê khai phải hoàn thành chậm nhất là 10
ngày trước ngày dự kiến bầu, phê chuẩn, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, cử giữ chức vụ
khác và theo quy định của pháp luật về bầu cử.
1.1.3.2. Công khai bản kê khai tài sản, thu nhập và giải trình việc kê khai tài
sản, thu nhập
Nội dung công khai, minh bạch tài sản, thu nhập của người có chức vụ,
quyền hạn trong các cơ quan hành chính nhà nước phải được quy định rõ ràng, bao
gồm việc công bố, giải trình và xác minh tài sản, thu nhập. Công khai bản kê khai
tài sản, thu nhập là việc công bố thông tin trong bản kê khai tài sản, thu nhập đó
bằng những hình thức được pháp luật quy định. Quy định về giải trình nguồn gốc tài
sản tăng thêm là quy định về việc tự giải thích, chứng minh của người có nghĩa vụ
kê khai về việc hình thành tài sản, thu nhập tăng thêm so với lần kê khai trước đó.
Pháp luật phải quy định người có nghĩa vụ kê khai tự giải trình và chịu trách nhiệm

về tính chính xác, trung thực, kịp thời của những thông tin về nguồn gốc tài sản
tăng thêm và các loại tài sản tăng thêm phải giải trình nguồn gốc.
Trình tự, thủ tục công khai minh bạch tài sản, thu nhập bao gồm thủ tục công
khai bản kê khai tài sản, thu nhập và thủ tục xác minh tài sản, thu nhập. Pháp luật về
trình tự, thủ tục phải quy định rõ cách thức thực hiện, chủ thể có thẩm quyền, đối
18


tượng có nghĩa vụ, thời hạn thực hiện … Trình tự thực hiện công khai phải được
quy định từ việc xây dựng kế hoạch công khai đến lựa chọn hình thức, phạm vi
công khai. Việc công khai, minh bạch tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền
hạn trong cơ quan hành chính nhà nước phải được quy định với các hình thức phù
hợp như hình thức công bố tại cuộc họp hoặc niêm yết tại trụ sở làm việc của cơ
quan, tổ chức, đơn vị nơi người đó làm việc. Hình thức công khai sẽ căn cứ vào đặc
điểm, tình hình của cơ quan, tổ chức, đơn vị và người có thẩm quyền quản lý cán
bộ, công chức để quyết định lựa chọn hình thức công khai phù hợp.
Thứ nhất, theo Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005, sửa đổi, bổ sung
năm 2012; Nghị định số 78/2013/NĐ-CP ngày 17/07/2013 của Chính phủ về minh
bạch tài sản, thu nhập quy định bản kê khai tài sản, thu nhập phải công khai như
sau:
Một là, về hình thức công khai bao gồm: Công bố tại cuộc họp của cơ quan,
tổ chức, đơn vị; Niêm yết tại trụ sở làm việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị; Thông
báo bằng văn bản đến cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan; Phát hành ấn
phẩm; Thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng; Đưa lên trang thông tin
điện tử; Cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Ngoài những trường hợp pháp luật có quy định về hình thức công khai,
người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm lựa chọn một hoặc một số
hình thức công khai theo quy định phù hợp với tình hình thực tế của cơ quan, đơn vị
và đảm bảo hiệu quả.
Hai là, về thời điểm công khai: Niêm yết tại trụ sở cơ quan, tổ chức, đơn vị

hoặc công bố tại cuộc họp được thực hiện vào thời điểm sau tổng kết hàng năm. Vị
trí niêm yết phải đảm bảo an toàn, đủ Điều kiện để mọi người trong cơ quan, tổ
chức, đơn vị có thể xem các Bản kê khai; thời gian niêm yết tối thiểu là 30 ngày liên
tục. Việc công khai Bản kê khai phải được thực hiện sau khi đơn vị, bộ phận phụ
trách công tác tổ chức cán bộ hoàn thành việc kiểm tra Bản kê khai và phải hoàn
thành trước ngày 31 tháng 3 năm sau.
Ba là, về phạm vi công khai:
19


- Đối với Trung ương:
1. Cán bộ, công chức giữ chức vụ từ Bộ trưởng và tương đương trở lên thì
công khai trước đối tượng ghi phiếu tín nhiệm để lấy phiếu tín nhiệm hàng năm.
2. Cán bộ, công chức giữ chức vụ Thứ trưởng, Tổng cục trưởng, Phó Tổng
cục trưởng và tương đương trở lên công khai trước lãnh đạo từ cấp cục, vụ và tương
đương trở lên của cơ quan mình.
3. Cán bộ, công chức giữ chức vụ Cục trưởng, Phó cục trưởng, Vụ trưởng,
Phó vụ trưởng và tương đương công khai trước lãnh đạo cấp phòng và tương đương
trở lên trong đơn vị mình; trường hợp không tổ chức cấp phòng thì công khai trước
toàn thể công chức, viên chức trong đơn vị mình.
4. Người có nghĩa vụ kê khai không thuộc diện quy định tại điểm 1, 2, 3 trên
đây thì công khai trước toàn thể công chức, viên chức thuộc phòng, ban, đơn vị
mình. Nếu biên chế của phòng, ban, đơn vị có từ 50 người trở lên và có tổ, đội,
nhóm thì công khai trước tổ, đội, nhóm trực thuộc phòng, ban, đơn vị đó.
- Đối với địa phương:
1. Bí thư, Phó Bí thư, Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch,
Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Ủy viên thường trực Hội đồng nhân dân,
trưởng các ban của Hội đồng nhân dân, các thành viên khác của Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh công khai trước đối tượng ghi phiếu tín nhiệm để lấy phiếu tín nhiệm hàng
năm, gồm lãnh đạo Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, đại biểu Hội

đồng nhân dân cấp tỉnh, Giám đốc sở, ngành, trưởng các cơ quan, đơn vị trực thuộc
Hội đồng dân nhân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
2. Giám đốc, Phó giám đốc sở, ngành và tương đương, trưởng các cơ quan,
đơn vị trực thuộc Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh công khai trước
lãnh đạo cán bộ cấp phòng và tương đương trở lên trực thuộc sở, ngành, cơ quan,
đơn vị đó.
3. Bí thư, Phó bí thư, Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Ủy ban
nhân dân cấp huyện, cấp xã, Ủy viên thường trực Hội đồng nhân dân, trưởng các
ban của Hội đồng nhân dân, các thành viên khác của Ủy ban nhân dân cấp huyện,
20


×