Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Hoàn thiện cơ chế hậu kiểm đối với tổ chức khoa học và công nghệ ngoài công lập (nghiên cứu trường hợp văn phòng đăng ký hoạt động khoa học và công nghệ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1015.5 KB, 88 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ MAI HIỀN

HOÀN THIỆN CƠ CHẾ HẬU KIỂM ĐỐI VỚI
TỔ CHỨC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ NGOÀI CÔNG LẬP
(NGHIÊN CỨU TRƢỜNG HỢP VĂN PHÒNG ĐĂNG KÝ
HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ)

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

HÀ NỘI - 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ MAI HIỀN

HOÀN THIỆN CƠ CHẾ HẬU KIỂM ĐỐI VỚI
TỔ CHỨC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ NGOÀI CÔNG LẬP
(NGHIÊN CỨU TRƢỜNG HỢP VĂN PHÒNG ĐĂNG KÝ
HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ)

Ngành: Quản lý Khoa học và Công nghệ
Mã số: 8 34 04 12

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN NGỌC SONG


HÀ NỘI - 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
ví dụ, trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác. Những kết luận
khoa học của luận văn này chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.

Tác giả

Nguyễn Thị Mai Hiền


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM TRA VÀ TỔ CHỨC ................. 7
1.1.Kiểm tra ............................................................................................... 7
1.2. Tổ chức khoa học và công nghệ ...................................................... 10
1.3. Công tác hậu kiểm đối với tổ chức khoa học và công nghệ ngoài
công lập .................................................................................................... 16
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG CƠ CHẾ HẬU KIỂM ĐỐI VỚI TỔ
CHỨC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ NGOÀI CÔNG LẬP ĐĂNG
KÝ HOẠT ĐỘNG TẠI BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ .................. 21
2.1. Các quy định về hậu kiểm tổ chức khoa học và công nghệ
ngoài công lập ........................................................................................ 21
2.2. Thực trạng cơ chế hậu kiểm đối với tổ chức khoa học và công
nghệ ngoài công lập đăng ký hoạt động tại Bộ Khoa học và Công
nghệ từ năm 2000 đến nay ...................................................................... 32
Chƣơng 3: ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN CƠ CHẾ HẬU KIỂM ĐỐI

VỚI TỔ CHỨC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ NGOÀI CÔNG
LẬP ĐĂNG KÝ HOẠT ĐỘNG TẠI BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG
NGHỆ ............................................................................................................. 50
3.1. Ý nghĩa của việc hoàn thiện cơ chế hậu kiểm ................................. 50
3.2. Đề xuất hoàn thiện cơ chế hậu kiểm ................................................ 51
3.3. Nghiên cứu đề xuất các biểu mẫu sử dụng trong quy trình
kiểm tra ................................................................................................... 58
3.4. Nghiên cứu đề xuất cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức ..... 59
KẾT LUẬN .................................................................................................... 64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 66


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
KH&CN:

Khoa học và công nghệ

Luật KH&CN năm 2000:

Luật khoa học và công nghệ năm 2000

Luật KH&CN năm 2013:

Luật khoa học và công nghệ năm 2013

Văn phòng Đăng ký:

Văn phòng đăng ký hoạt động khoa học và
công nghệ


WTO:

World Trade Organization
Tổ chức Thương mại thế giới


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
Bảng 2.1. Số lượng các tổ chức KH&CN đã đăng ký hoạt động tại Bộ
KH&CN (tính đến hết năm 2019) ........................................................... 25
Biểu 2.1. Tương quan sự phát triển giữa tổ chức KH&CN công lập
Biểu 2.2. Tốc độ phát triển của tổ chức KH&CN ngoài công lập đăng ký
hoạt động tại Bộ KH&CN....................................................................... 26
Biểu 2.3. Cơ cấu lĩnh vực hoạt động của tổ chức KH&CN ngoài công lập
đăng ký tại Bộ KH&CN .......................................................................... 27


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày 28 tháng 01 năm 1992, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã
ban hành Nghị định số 35-HĐBT về công tác quản lý KH&CN, với mục tiêu
tiếp tục đổi mới quản lý KH&CN, thúc đẩy phát triển các hoạt động sáng tạo,
khuyến khích việc ứng dụng các thành tựu KH&CN mới vào sản xuất và đời
sống, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội của các hoạt động KH&CN. Đây là
chính sách đổi mới mạnh mẽ của Nhà nước để thực hiện xã hội hóa hoạt động
KH&CN. Các tổ chức và cá nhân có nguyện vọng hoạt động nghiên cứu triển khai, dịch vụ KH&CN được thành lập tổ chức KH&CN để hoạt động và
chỉ cần đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về KH&CN.
Năm 2000, Luật KH&CN được Quốc hội thông qua đã thừa nhận quyền
bình đẳng của mọi công dân trong hoạt động KH&CN. Tiếp đó, nhằm thể chế
hóa Nghị quyết Trung ương 6 Khóa XI về “Phát triển Khoa học và Công nghệ
phục vụ công nghiệp hóa - hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”, Quốc hội đã ban hành Luật
KH&CN năm 2013 thay thế Luật KH&CN năm 2000. Với nhiều nội dung
mới, Luật KH&CN năm 2013 đã làm rõ hơn vị trí, vai trò của tổ chức
KH&CN, sắp xếp lại mạng lưới tổ chức nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và
đầu tư phát triển KH&CN. Cùng với Luật KH&CN năm 2013, các Nghị định,
Thông tư hướng dẫn thi hành đã tạo ra một hành lang pháp lý thống nhất,
đồng bộ góp phần thúc đẩy phát triển KH&CN.
Qua hơn 20 năm triển khai chủ trương xã hội hóa hoạt động KH&CN, hệ
thống các tổ chức KH&CN nhiều thành phần được hình thành và phát triển.
Hệ thống các tổ chức này càng tăng về số lượng và chất lượng, tính đến nay
đã có hơn ba nghìn tổ chức KH&CN được thành lập, đã huy động được nhiều
nguồn lực trong nước cũng như quốc tế, góp phần tích cực vào sự nghiệp phát

1


triển kinh tế - xã hội của đất nước. Hiện nay, hơn nửa trong số các tổ chức
KH&CN đã thực hiện đăng ký hoạt động tại Bộ Khoa học và Công nghệ hoặc
các Sở Khoa học và Công nghệ là các tổ chức KH&CN ngoài công lập. Tuy
phát triển nhanh về số lượng, nhưng chất lượng hoạt động của loại hình tổ
chức KH&CN ngoài công lập chưa thực sự ổn định, nhiều tổ chức hoạt động
sai lĩnh vực, hoạt động yếu kém nhưng không giải thể hoặc có

hành vi vi

phạm trong hoạt động.
Vì vậy, để nâng cao hiệu quả công tác quản lý Nhà nước, tác giả
thấy rằng cần chú trọng hoàn thiện các quy định về công tác kiểm tra sau khi tổ
chức KH&CN thành lập và đi vào hoạt động. Đó chính là lý do vì sao tác giả lựa
chọn đề tài của luận văn là “Hoàn thiện cơ chế hậu kiểm đối với tổ chức khoa

học và công nghệ ngoài công lập” (Nghiên cứu trường hợp Văn phòng Đăng ký
hoạt động khoa học và công nghệ). Cũng từ thực tế nêu trên có thể khẳng định ý
nghĩa thực tiễn và tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Từ khi có sự phát triển của các tổ chức KH&CN ngoài công lập, đã có
rất nhiều các công trình nghiên cứu trong lĩnh vực quản lý loại hình tổ chức
KH&CN này, như quản lý tổ chức, quản lý nhân lực, quản lý tài chính, sở hữu
trí tuệ, hợp tác quốc tế, quản lý hoạt động thanh tra.... Nhiều kết quả nghiên
cứu đã được áp dụng vào thực tế, biểu hiện rõ rệt hơn cả là kết quả đó được
các cơ quan quản lý nhà nước sử dụng để xây dựng nên các văn bản quy
phạm pháp luật và pháp quy theo hướng tạo điều kiện thuận lợi nhất để tổ
chức KH&CN ngoài công lập thành lập và đi vào hoạt động.
Liên quan đến chủ đề nghiên cứu này, trong thời gian qua đã có một số
công trình được thực hiện, cụ thể:
Đề tài “ ghi n cứu hảo sát thực trạng và đề xuất một số giải pháp
cải cách thủ tục hành chính và tăng cường quản lý các tổ chức khoa học và

2


công nghệ ngoài công lập”, Văn phòng Đăng ký hoạt động KH&CN,
năm 2018 [25], đề tài đã đánh giá thực trạng thực hiện thủ tục hành chính về
đăng ký hoạt động KH&CN nói chung và của các tổ chức KH&CN ngoài
công lập nói riêng; đánh giá hiện trạng hoạt động của các tổ chức KH&CN
ngoài công lập từ đó tăng cường công tác quản lý Nhà nước đối với các tổ
chức KH&CN ngoài công lập và đề xuất một số giải pháp tiếp tục cải cách
thủ tục hành chính trong đăng ký hoạt động KH&CN.
Bùi Bích Ngọc (2015), Nghiên cứu động thái phát triển các loại hình
tổ chức KH&C


tr n địa bàn thành phố Hà Nội sau đổi mới, Luận văn

Thạc sĩ Quản lý KH&CN, Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN Học viện Khoa học Xã hội [19].
Nguyễn Hồng Yến (2016), Nhận diện vị trí của các tổ chức KH&CN
ngoài công lập trong hệ thống chính sách KH&CN tại Việt Nam, Luận văn
Thạc sĩ Quản lý KH&CN, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn [29].
Nguyễn Việt Thắng (2009), Xây dựng quy trình kiểm tra để quản lý
hoạt động của các tổ chức nghiên cứu và triển khai (Nghiên cứu trường hợp
Văn phòng Đăng ý hoạt động khoa học và công nghệ), Luận văn Thạc sĩ
Quản lý KH&CN, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn [23].
Như vậy, trong số các công trình nghiên cứu, hầu hết đều tập trung
tăng cường công tác quản lý đối với các tổ chức KH&CN, tuy nhiên chưa đi
sâu vào nghiên cứu công tác hậu kiểm đối với tổ chức KH&CN ngoài công
lập. Ngoài ra, có đề tài nghiên cứu về quy trình kiểm tra nhưng thời gian
tương đối lâu và không còn phù hợp với các quy định hiện nay. Do đó, cần có
công trình nghiên cứu thực trạng công tác hậu kiểm các tổ chức KH&CN
ngoài công lập hiện nay, từ đó đưa ra các đề xuất nhằm hoàn thiện công tác
này để nâng cao chức năng quản lý nhà nước.

3


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đề xuất hoàn thiện cơ chế
hậu kiểm đối với các tổ chức KH&CN ngoài công lập đăng ký tại Bộ
KH&CN, trên cơ sở lý thuyết và đánh giá thực trạng công tác hậu kiểm đối
với tổ chức KH&CN ngoài công lập trong thời gian vừa qua. Từ mục đích đó,
tác giả đưa ra các mục tiêu cụ thể cần nghiên cứu như sau:
- Nghiên cứu về tổ chức KH&CN ngoài công lập như: tình hình phát

triển, số lượng tổ chức đăng ký hoạt động và các chính sách của Nhà nước tác
động tới sự thay đổi về số lượng và chất lượng của loại hình tổ chức này;
- Nghiên cứu cơ chế hậu kiểm trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm
2013 và từ năm 2013 đến nay được áp dụng tại Văn phòng Đăng ký hoạt động
KH&CN;
- Đề xuất hoàn thiện cơ chế hậu kiểm đối với các tổ chức KH&CN
ngoài công lập đăng ký tại Bộ KH&CN.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu đã đặt ra, nôi dung luận văn thực hiện
các nhiệm vụ nghiên cứu như sau:
- Nghiên cứu hệ thống lý thuyết có liên quan đến tổ chức KH&CN
ngoài công lập, kiểm tra, hậu kiểm hoạt động của tổ chức KH&CN
ngoài công lập;
- Phân tích thực trạng công tác hậu kiểm đối với tổ chức KH&CN
ngoài công lập đăng ký hoạt động tại Bộ KH&CN;
- Đưa ra đề xuất hoàn thiện quy trình hậu kiểm, các văn bản, tài liệu và
cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị trong công tác hậu kiểm tổ chức
KH&CN ngoài công lập đăng ký hoạt động tại Bộ KH&CN;

4


4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Cơ chế hậu kiểm đối với các tổ chức KH&CN ngoài công lập.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Các tổ chức KH&CN ngoài công lập đăng ký hoạt động tại Bộ KH&CN
từ năm 2000 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở các quan điểm,

chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về
phát triển khoa học và công nghệ, chính sách phát triển tổ chức KH&CN
ngoài công lập.
Để thực hiện luận văn, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu
cụ thể:
- Phương pháp thống kê: thu thập, xử lý và phân tích các dữ liệu có sẵn
liên quan đến các tổ chức KH&CN cần nghiên cứu;
- Phương pháp phân tích tài liệu: sử dụng và phân tích các tài liệu liên
quan đến nội dung luận văn (Cơ sở lý thuyết, các báo cáo kiểm tra của
Văn phòng Đăng ký hoạt động KH&CN, Bộ KH&CN…).
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu đã làm rõ hơn cơ sở lý thuyết về kiểm tra, hậu kiểm,
khái niệm tổ chức, khái niệm tổ chức KH&CN. Ngoài ra, nghiên cứu đã đưa
ra đánh giá về các tổ chức KH&CN ngoài công lập thông qua việc nghiên
cứu, phân tích công tác hậu kiểm đối với các tổ chức KH&CN ngoài công lập
đăng ký hoạt động tại Bộ KH&CN từ năm 2000 đến nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn triển khai theo hướng xuất phát từ thực tế để xây dựng chính

5


sách tiếp đến quay trở lại phục vụ cho thực tế. Nói cách khác, quy trình kiểm
tra các tổ chức KH&CN phải xuất phát từ thực tiễn hoạt động của bản thân
các tổ chức cộng thêm “ý chí” của nhà quản lý để có được các phác thảo đầu
tiên. Vì vậy có thể nói rằng nó vừa quán triệt tính chỉ đạo của lý luận quản lý,
vừa có tính thực tế của bức tranh hiện trạng hoạt động của các tổ chức
KH&CN.
Công tác thanh tra, kiểm tra là hoạt động không thể thiếu trong hoạt

động quản lý Nhà nước, tuy nhiên, trong thực tế hoạt động của tổ chức luôn
biến động nên đòi hỏi công tác thanh tra, kiểm tra cần phải thay đổi, hoàn
thiện để đáp ứng được yêu cầu của quản lý.
Có thể thấy rằng, khi làm tốt công tác hậu kiểm không những nâng cao
được hiệu quả của công tác quản lý Nhà nước, mà còn giúp đưa ra những cơ
chế, chính sách phù hợp giúp hệ thống tổ chức KH&CN ngoài công lập
phát triển ngày một tốt hơn.
Kết quả luận văn là tài liệu tham khảo cho cơ quan quản lý nhà nước, Bộ
KH&CN, các Sở KH&CN cũng như cán bộ quản lý tại các tổ chức KH&CN
ngoài công lập.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về kiểm tra và tổ chức
Chương 2. Thực trạng cơ chế hậu kiểm đối với tổ chức khoa học và công
nghệ ngoài công lập đăng ký hoạt động tại Bộ Khoa học và Công nghệ
Chương 3. Đề xuất hoàn thiện cơ chế hậu kiểm đối với tổ chức khoa học
và công nghệ ngoài công lập đăng ký hoạt động tại Bộ Khoa học và
Công nghệ

6


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM TRA VÀ TỔ CHỨC
1.1. Kiểm tra
1.1.1. Khái niệm kiểm tra
Kiểm tra là một trong những chức năng của quy trình quản lý.
Thông qua chức năng kiểm tra mà chủ thể quản lý nắm bắt và điều chỉnh kịp
thời các hoạt động để thực hiện tốt mục tiêu đã xác định.

Có nhiều quan niệm khác nhau về kiểm tra trong quản lý:
- Harold Koontz: Kiểm tra là đo lường và chấn chỉnh hoạt động các bộ
phận cấp dưới để tin chắc rằng các mục tiêu và kế hoạch thực hiện mục tiêu
đó đã đang được hoàn thành [17].
- Theo tác giả Robert J. Mockler trong “The Management Control
Process”: Kiểm tra là quản trị, là một nỗ lực có hệ thống nhằm thiết lập những
tiêu chuẩn, những hệ thống phản hồi thông tin, nhằm so sánh những kết quả
thực hiện với định mức đã đề ra và để đảm bảo rằng những nguồn lực đã và
đang được sử dụng có hiệu quả nhất, để đạt được mục tiêu của tổ chức.
Từ những quan niệm về kiểm tra như đã trình bày, có thể kế thừa và
tổng hợp để đưa ra định nghĩa về kiểm tra như sau:
Kiểm tra là quá trình đo lường hoạt động và ết quả hoạt động của tổ
chức tr n cơ sở các ti u chuẩn đã được xác lập để phát hiện những ưu điểm
và hạn chế nhằm đưa ra các giải pháp phù hợp giúp tổ chức phát triển theo
đúng mục ti u.
Từ định nghĩa trên nội hàm khái niệm kiểm tra bao gồm:
- Xác lập các tiêu chuẩn
- Đo lường kết quả để phát hiện ưu điểm và nhược điểm
- Các giải pháp phù hợp (phát huy ưu điểm, điều chỉnh sai lệch và
sửa chữa sai lầm)

7


- Mục đích của kiểm tra là để tổ chức vận hành theo đúng mục tiêu.
1.1.2. Đặc điểm và vai trò của kiểm tra
1.1.2.1. Đặc điểm của iểm tra trong quản lý
- Kiểm tra là một quá trình.
- Kiểm tra là một chức năng của quy trình quản lý.
- Kiểm tra thể hiện quyền hạn và trách nhiệm của nhà quản lý đối với

hiệu lực và hiệu quả của tổ chức.
- Kiểm tra là một quy trình mang tính phản hồi.
1.1.2.2. Vai trò của iểm tra trong quản lý
Kiểm tra có vai trò quan trọng trong quản lý, điều đó được thể hiện ra ở
những khía cạnh sau:
- Thông qua kiểm tra mà nhà quản lý nắm được nhịp độ, tiến độ và mức
độ thực hiện công việc của các thành viên trong một bộ phận của tổ chức và
của các bộ phận trong tổng thể cơ cấu tổ chức. Thông qua kiểm tra người
quản lý nắm và kiểm soát được chất lượng các công việc được hoàn thành, từ
đó phát hiện những ưu điểm và hạn chế trong toàn bộ hoạt động của tổ chức
và quy trình quản lý để từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp hướng tới việc
thực hiện mục tiêu.
- Kiểm tra cung cấp các căn cứ cụ thể để hoàn thiện các quyết định quản
lý. Nhờ có kiểm tra mà nhà quản lý biết được quyết định, mệnh lệnh được
ban hành có phù hợp hay không, từ đó có sự điều chỉnh.
- Kiểm tra giúp đảm bảo thực thi quyền lực của chủ thể quản lý. Người
quản lý biết thái độ, trách nhiệm của nhân viên trong việc thực hiện mục tiêu,
nhằm duy trì trật tự của tổ chức.
- Thông qua kiểm tra, người quản lý nâng cao trách nhiệm của mình đối
với công việc được phân công và đảm bảo thực thi hiệu lực của quyết định
đã được ban hành.

8


- Kiểm tra giúp cho tổ chức theo sát và đối phó với sự thay đổi của môi
trường.
- Kiểm tra tạo tiền đề cho quá trình hoàn thiện và đổi mới tổ chức.
1.1.3. Phân loại kiểm tra
1.1.3.1. Căn cứ vào thời gian

- Kiểm tra trước khi thực hiện kế hoạch: Kiểm tra trước khi thực hiện kế
hoạch là loại hình kiểm tra nhằm phòng ngừa những sai lầm có thể xảy ra về
một nội dung hoặc tổng thể chương trình hành động của tổ chức (mục tiêu,
phương án, các nguồn lực...).
- Kiểm tra trong quá trình thực hiện kế hoạch: Kiểm tra trong quá trình
thực hiện kế hoạch là loại hình kiểm tra được tiến hành đồng thời với quá
trình đang diễn ra các hoạt động của kế hoạch trong thực tế. Mục đích của
loại kiểm tra này là xử lý kịp thời những sai lệch để đảm bảo chắc chắn mọi
cái đều diễn ra theo đúng mục tiêu. Việc kiểm tra đồng thời được thực hiện
chủ yếu bằng những hoạt động giám sát của các nhà quản lý. Thông qua các
hình thức thu thập thông tin tại chỗ, họ sẽ xác định xem việc làm của những
người khác có diễn ra đúng theo yêu cầu hay không. Việc trao quyền hạn cho
các nhà quản lý chính là một nhân tố đảm bảo cho việc kiểm tra đồng thời
được hiệu quả.
- Kiểm tra sau khi hoàn thành kế hoạch: Kiểm tra sau khi hoàn thành kế
hoạch là hình thức kiểm tra tập trung vào các kết quả cuối cùng. Biện pháp
chấn chỉnh nhằm cải thiện quá trình tích luỹ nguồn tài nguyên hay các hoạt
động thực tế. Kiểu kiểm tra này phụ thuộc nhiều vào những thông tin báo
cáo. Vì thế, đôi khi nó không có những xét đoán về nguyên nhân sai lệch
chính xác. Thông thường, việc kiểm tra cuối cùng áp dụng cho các tổ chức
như tài chính, chất lượng, kết quả thực hiện các mục tiêu phức tạp.v.v.

9


1.1.3.2. Căn cứ vào nội dung hoặc tổ chức
Tuỳ thuộc vào các loại hình tổ chức mà có những dạng kiểm tra cụ thể:
Kiểm tra sản xuất, kiểm tra tài chính, kiểm tra nhân sự, kiểm tra
nguyên liệu,…
1.1.3.3. Căn cứ vào tần suất của iểm tra

- Kiểm tra đột xuất: là hình thức kiểm tra không báo trước về thời gian,
nội dung và phương thức. Mục đích của hình thức kiểm tra này nhằm
đảm bảo tính khách quan của kết quả thu được.
- Kiểm tra định kì: là hình thức kiểm tra thường xuyên nhằm đảm bảo
tính ổn định trong hoạt động của đối tượng.
1.1.3.4. Căn cứ vào phạm vi của iểm tra
- Kiểm tra tổng thể
- Kiểm tra bộ phận
- Kiểm tra trọng điểm
1.1.3.5. Căn cứ vào các chức năng của quản lý
- Kiểm tra công tác kế hoạch: bao gồm các hoạt động kiểm tra việc tuân
thủ các quy trình, nguyên tắc lập kế hoạch.
- Kiểm tra công tác tổ chức: là kiểm tra những hoạt động liên quan đến
việc thiết lập quan hệ quyền lực - trách nhiệm, phân công công việc, xác định
biên chế và quản lý nhân lực.
- Kiểm tra công tác lãnh đạo: là kiểm tra những vấn đề liên quan đến
việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, thái độ làm việc của nhà quản lý.v.v.
- Kiểm tra công tác kiểm tra
1.2. Tổ chức khoa học và công nghệ
1.2.1. Khái niệm tổ chức
Thuật ngữ “Tổ chức” được nhiều ngành khoa học sử dụng với ý nghĩa
không giống nhau:

10


- Triết học định nghĩa “Tổ chức, nói rộng là cơ cấu tồn tại của sự vật.
Sự vật không thể tồn tại mà không có một hình thức liên kết nhất định các yếu
tố thuộc nội dung. Tổ chức vì vậy là thuộc tính của bản thân các sự vật” [15,
tr.28]. Tổ chức là thuộc tính của sự vật, nói cách khác sự vật luôn tồn tại

dưới dạng tổ chức nhất định;
- Nhân loại học khẳng định từ khi xuất hiện loài người, tổ chức xã hội
loài người cũng đồng thời xuất hiện. Tổ chức ấy không ngừng hoàn thiện và
phát triển cùng với sự phát triển của nhân loại. Theo nghĩa hẹp đó, tổ chức là
một tập thể của con người tập hợp nhau lại để thực hiện một nhiệm vụ chung
hoặc nhằm đạt tới một mục tiêu xác định của tập thể đó. Như vậy, tổ chức là
tập thể, có mục tiêu, nhiệm vụ chung;
Ngay trong những chuyên ngành khoa học có giao thoa về đối tượng,
phạm vi nghiên cứu cũng có những cách tiếp cận, cắt nghĩa khác nhau về
“Tổ chức”, cụ thể là:
- Luật học (khoa học luật dân sự) gọi tổ chức là pháp nhân để phân biệt
với thể nhân (con người) là các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự. Theo
quy định tại Điều 84 Bộ luật Dân sự thì một tổ chức được công nhận là pháp
nhân khi có đủ các điều kiện sau: được thành lập hợp pháp; có cơ cấu tổ chức
chặt chẽ; có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm
bằng tài sản đó; nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc
lập. Luật học nhấn mạnh đến các điều kiện thành lập tổ chức và các yêu cầu
đảm bảo hoạt động của tổ chức;
- Khoa học tổ chức và quản lý định nghĩa tổ chức với ý nghĩa hẹp là “tập
thể của con người tập hợp nhau lại để thực hiện một nhiệm vụ chung hoặc
nhằm đạt tới một mục tiêu xác định của tập thể đó” [20, tr.25]. Quan niệm về
tổ chức theo Khoa học tổ chức và quản lý có nhiều điểm tương đồng với Luật
học, Quản trị công ở chỗ đều xác định tổ chức thuộc về con người, là của con
người trong xã hội; vì là tổ chức của con người, có các hoạt động chung do

11


vậy mục tiêu của tổ chức là một trong những điều kiện quan trọng, không thể
thiếu của tổ chức;

Nếu nhất thiết phải đưa ra một định nghĩa về tổ chức thì đó là tập hợp
của con người trong xã hội có phạm vi, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, cơ
cấu xác định; được hình thành và hoạt động theo những nguyên tắc nhất định
phù hợp với quy định pháp luật nhằm gắn kết con người với nhau bởi những
mục đích xác định và hành động để đạt đến mục tiêu chung.
Tổ chức không chỉ là một thực thể, mà còn là một thực thể xã hội đặc biệt.
Thực thể xã hội đặc biệt này tạo ra những tính chất đặc trưng của tổ chức :
- Tổ chức phục vụ cho việc xác lập mục tiêu và vì mục tiêu mà nó hình
thành và tồn tại.
- Có sự khác biệt về vị trí, vai trò phân công lao động nhằm thực hiện
mục tiêu do chính tổ chức xác lập. Và từ đó tổ chức cũng định ra những
nguyên tắc, những quy định cho hoạt động của tổ chức bằng văn bản, không
lệ thuộc vào ý chí cá nhân, dù cá nhân đó là những người đứng đầu tổ chức.
- Tổ chức được cấu trúc bậc thang quyền lực phục vụ cho quản lý, có
những bộ phận kiểm tra để điều chỉnh và đảm bảo sự hoạt động nhịp nhàng
khi thực hiện mục tiêu.
- Tổ chức là nơi tập hợp những con người có nguồn gốc, có trình độ văn hoá,
kỹ năng, kiến thức và cương vị khác nhau, nhưng có chung một điểm



cùng nhau thực hiện mục tiêu của tổ chức, qua đó đạt được các mục tiêu cá nhân.
- Tổ chức tồn tại đòi hỏi luôn tự điều chỉnh để thích nghi với môi
trường và luôn có những giải pháp thúc đẩy hoạt động của các thành viên.
- Tổ chức không chỉ bao gồm các cá nhân liên kết với nhau thông qua vai trò
của họ trong tổ chức mà còn bao gồm cả liên minh của các nhóm lợi ích.
- Thực tiễn tổ chức có cơ cấu được xác định bởi những hình thức chế
ngự trong xã hội bởi việc xác định giá trị thông qua các chính sách của tổ
chức cũng như định hướng giá trị của những nhóm lợi ích khác nhau.


12


- Coi tổ chức là một thực thể xã hội đặc biệt cũng chính là định hướng
quan trọng khi phân tích tổ chức.
Như vậy, về mặt nguyên lý một tổ chức hiếm khi mang trong mình nó
mục tiêu riêng biệt mà nó là một công cụ để thực hiện các mục tiêu khác
nhau. Chính vì vậy, các tổ chức KH&CN phải được thiết kế trên cơ sở
những luận chứng khoa học, những mục tiêu xác định, phù hợp yêu cầu của
đời sống xã hội.
1.2.2. Khái niệm tổ chức khoa học và công nghệ
Xét một cách chung nhất thì tổ chức KH&CN là một loại hình của tổ
chức, do đó, nó cũng mang đầy đủ những đặc trưng của tổ chức. Các tổ chức
KH&CN tại Việt Nam xuất hiện từ những năm 45 của thế kỷ XX với các tên
gọi khác nhau như: tổ chức nghiên cứu và triển khai, tổ chức KH&CN, viện
nghiên cứu…
Điều 3 Luật KH&CN năm 2013 quy định “Tổ chức khoa học và công
nghệ là tổ chức có chức năng chủ yếu là nghiên cứu khoa học, nghiên cứu
triển khai và phát triển công nghệ, hoạt động dịch vụ khoa học và công nghệ,
được thành lập và đăng ký hoạt động theo quy định của pháp luật”.
1.2.3. Phân loại tổ chức khoa học và công nghệ
1.2.3.1. Hình thức của tổ chức KH&CN
Theo Điều 9 Luật KH&CN năm 2013 hình thức của tổ chức KH&CN
được quy định như sau:
- Tổ chức nghiên cứu khoa học, tổ chức nghiên cứu khoa học và phát
triển công nghệ được tổ chức dưới hình thức viện hàn lâm, viện, trung tâm,
phòng thí nghiệm, trạm nghiên cứu, trạm quan trắc, trạm thử nghiệm và hình
thức khác do Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ quy định;
- Cơ sở giáo dục đại học được tổ chức theo quy định của Luật Giáo dục
đại học;


13


- Tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ được tổ chức dưới hình thức
trung tâm, văn phòng, phòng thử nghiệm và hình thức khác do Bộ trưởng
Bộ Khoa học và Công nghệ quy định.
1.2.3.2. Phân loại tổ chức KH&CN
Tùy thuộc vào các tiêu chí và mục tiêu đã xác định, có nhiều cách khác
nhau để phân loại các tổ chức KH&CN.
- Theo lĩnh vực hoạt động: khoa học xã hội, khoa học nhân văn,
khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ, khoa học nông nghiệp và
khoa học y dược.
- Theo hoạt động KH&CN, được chia thành: Tổ chức nghiên cứu và
triển khai, tổ chức chuyển giao công nghệ và tổ chức dịch vụ KH&CN.
- Theo chủ thể sở hữu: Các tổ chức KH&CN thuộc khu vực nhà nước,
khu vực tập thể và khu vực tư nhân.
Luật KH&CN năm 2013 thì phân loại tổ chức KH&CN theo các
tiêu chí sau:
- Theo thẩm quyền thành lập, tổ chức khoa học và công nghệ do:
Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội; Chính phủ; Toà án nhân dân tối cao;
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; Thủ tướng Chính phủ thành lập hoặc ủy quyền
cho Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh; Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức
xã hội - nghề nghiệp; Doanh nghiệp, tổ chức khác, cá nhân thành lập.
- Theo chức năng, tổ chức khoa học và công nghệ gồm: tổ chức
nghiên cứu cơ bản, tổ chức nghiên cứu ứng dụng, tổ chức dịch vụ khoa
học và công nghệ;
- Theo hình thức sở hữu, tổ chức khoa học và công nghệ gồm: tổ chức

khoa học và công nghệ công lập, tổ chức khoa học và công nghệ ngoài công
lập, tổ chức khoa học và công nghệ có vốn nước ngoài.

14


1.2.4. Tổ chức khoa học và công nghệ ngoài công lập
Tổ chức KH&CN là những tổ chức có chức năng chủ yếu là nghiên cứu
khoa học, nghiên cứu triển khai và phát triển công nghệ, hoạt động dịch vụ
KH&CN, được thành lập và đăng ký hoạt động theo quy định của pháp luật.
Những tổ chức này đóng vai trò chủ yếu trong hoạt động KH&CN. Theo Luật
KH&CN năm 2013, các loại hình tổ chức KH&CN bao gồm: 1) các tổ chức
nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ được tổ chức dưới hình thức
viện hàn lâm, viện, trung tâm, phòng thí nghiệm, trạm nghiên cứu, trạm quan
trắc, trạm thử nghiệm; 2) các cơ sở giáo dục đại học; và 3) các tổ chức dịch
vụ KH&CN được tổ chức dưới hình thức trung tâm, văn phòng, phòng thử
nghiệm và hình thức khác.
Loại hình tổ chức KH&CN ngoài công lập bao gồm các viện nghiên cứu,
trung tâm KH&CN,… do các tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp thành lập
(các tổ chức nêu trên gồm cấp Trung ương và cấp tỉnh/thành phố trực thuộc
Trung ương); trực thuộc các doanh nghiệp, các trường đại học dân lập, các
bệnh viện ngoài công lập; hoặc do các cá nhân thành lập trên tinh thần tự
nguyện hợp tác với nhau.
Do vậy, nguồn tài chính của loại hình này do tự thân tổ chức, cá nhân
bỏ ra để thành lập và hoạt động, đồng thời, phương hướng hoạt động của tổ
chức cũng do cơ quan, tổ chức thành lập xác định hoặc tổ chức tự xác định.
Căn cứ Luật KH&CN và các văn bản hướng dẫn thi hành, sau khi có
Quyết định thành lập hoặc Biên bản của hội đồng sáng lập về việc thành lập
tổ chức KH&CN (trường hợp tổ chức do cá nhân thành lập), các tổ chức
KH&CN thuộc mọi thành phần kinh tế đều phải thực hiện việc đăng ký hoạt

động KH&CN và chỉ được tiến hành các hoạt động KH&CN sau khi đã được
cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động KH&CN.

15


1.3. Công tác hậu kiểm đối với tổ chức khoa học và công nghệ ngoài
công lập
1.3.1. Khái niệm cơ chế
Mặc dù không có khái niệm chung về “cơ chế ” nhưng trong Từ điển
Bách khoa Việt Nam đã đưa ra khái niệm về “cơ chế kinh tế” , “cơ chế thị
trường”, “cơ chế lập luận”, “cơ chế điều chỉnh pháp luật”, “cơ chế tâm lý”.v.v.
Đây là những cơ chế về từng lĩnh vực cụ thể được sử dụng trong thực tiễn.
Cơ chế kinh tế được định nghĩa là “phương thức vận động của nền sản
xuất xã hội được tổ chức và quản lý theo những quan hệ vốn có và được Nhà
nước quy định; nó phải phù hợp với yêu cầu của các quy luật kinh tế, với đặc
điểm của chế độ xã hội theo từng giai đoạn phát triển của xã hội ” [27, tr.612].
Trong lĩnh vực tin học, cơ chế lập luận dược giải thích là phần chương
trình thuộc hệ chuyên gia có chức năng thực hiện tự động các lập luận logic
để từ cơ sở tri thức của hệ chuyên gia rút ra các kết luận mới hoặc chứng
minh một kết luận mong muốn [27, tr.613].
Trong khoa học pháp lý, “cơ chế điều chỉnh pháp luật ” được hiểu là “hệ
thống các biện pháp pháp luật tác động đến quan hệ xã hội , bao gồm toàn bộ
những mối quan hệ tác động lẫn nhau giữa các bộ phận cấu thành: chủ thể
pháp luật , quy phạm pháp luật và sự kiện pháp lý” [27, tr.612].
Qua những khái niệm nêu liên có thể nói ngắn gọn “cơ chế ” là “phương
thức vận động” , là “cách thức sắp xếp tổ chức”, là “hình thức và phương
pháp điều tiết”, là “hệ thống các biện pháp tác động”.v.v. Từ đó có thể hiểu
cơ chế là một phương thức, cách thức theo đó một quá trình được thực hiện.
1.3.2. Khái niệm hậu kiểm

Tiền kiểm và hậu kiểm là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau với
phương thức quản lý riêng biệt. Điều kiện của Nhà nước khi tổ chức, cá nhân
muốn tham gia hoạt động trong lĩnh vực nào đó, thông thường chính là tiền

16


kiểm, nghĩa là Nhà nước cấp giấy phép, cấp chứng nhận cho phép tổ chức, cá
nhân hoạt động. Khi đó, gánh nặng tuân thủ quản lý và thực thi luật pháp
phần lớn đè nặng lên tổ chức, cá nhân. Còn với phương thức quản lý bằng các
quy chuẩn, tiêu chuẩn hậu kiểm, các cơ quan quản lý Nhà nước sẽ luôn phải
đồng hành, hướng dẫn, giám sát việc tổ chức, cá nhân tuân theo các tiêu
chuẩn, quy chuẩn đã ban hành. Bên cạnh đó, bản chất của quá trình hậu kiểm
thiên về việc kiểm soát chặt chẽ đầu ra, thí dụ kiểm soát quá trình sản xuất,
kiểm soát chất lượng sản phẩm,... Như vậy, có thể hiểu hậu kiểm là quá trình
giám sát của nhà nước về hoạt động của tổ chức, cá nhân sau khi đăng ký.
Căn cứ vào phân loại kiểm tra, thì hậu kiểm được coi là công tác kiểm
tra sau khi tổ chức, cá nhân đã được cấp giấy chứng nhận, giấy phép và đi vào
hoạt động.
1.3.3. Ý nghĩa của công tác hậu kiểm
Từ hai khái niệm “cơ chế” và “hậu kiểm”, có thể hiểu cơ chế hậu kiểm là
phương thức, cách thức thực hiện một cuộc kiểm tra đối với chủ thể bị kiểm
tra. Cụ thể, trong lĩnh vực quản lý tổ chức KH&CN, đó là trình tự, cách thức
tiến hành một cuộc kiểm tra đối với tổ chức KH&CN sau khi đã được thành
lập, cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động KH&CN và đi vào hoạt động.
Đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt đây là thời kỳ sau khi Việt
Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Quan điểm chỉ đạo của Đảng và
Nhà nước là phải đổi mới toàn diện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội,
đổi mới cả trong tư duy lẫn hành động. Đặc biệt phải nhấn mạnh sự cần thiết phải
đổi mới trong lĩnh vực quản lý nhà nước, trong đó có quản lý KH&CN.

Đến lượt mình, quản lý KH&CN lại đòi hỏi phải được đổi mới trong tất
cả các nội dung quản lý, ví dụ quản lý các tổ chức KH&CN; quản lý nhân lực
KH&CN; quản lý tài chính cho KH&CN; quản lý về thông tin KH&CN; về
sở hữu trí tuệ, về tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng vv…

17


Như trên đã đề cập, trong lĩnh vực quản lý các tổ chức KH&CN, công
tác hậu kiểm tại các tổ chức này giữ một vị trí quan trọng đối với cơ quan
quản lý và đối tượng quản lý là các tổ chức KH&CN.
Trước hết, đối với cơ quan quản lý nhà nước các cấp, ý nghĩa về mặt
khoa học và giá trị thực tế của công tác hậu kiểm các tổ chức KH&CN có thể
nêu lên như sau:
- Đánh giá được hiệu quả của các chính sách quản lý trong thực tế,
không phải chính sách nào cung phát huy tác dụng. Do đó trong hoạt động
quản lý nói chung, quản lý KH&CN nói riêng rất cần thiết phải không ngừng
nghiên cứu đổi mới, tiếp cận thực tế để từ đó đề xuất các chính sách quản lý
mới thiết thực hơn, hiệu quả hơn, sát với thực tế hơn.
- Tiếp cận thực tế, hiểu được những khó khăn, thuận lợi cũng như các
khuyến nghị từ các tổ chức KH&CN. Trực tiếp giúp các tổ chức KH&CN tháo
gỡ khó khăn và vướng mắc trong khuôn khổ của các chính sách hiện hành.
- Phát hiện kịp thời các điển hình tiên tiến (tập thể và cá nhân) cũng như
các đơn vị và cá nhân hoạt động chưa tốt, thậm chí có vi phạm các quy định
của nhà nước, từ đó tạo lập cơ sở cho việc đề xuất với các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền ban hành các quyết định khen thưởng hay kỷ luật (đối với tập
thể và cá nhân).
Đối với các tổ chức KH&CN công tác hậu kiểm có ý nghĩa:
- Nâng cao ý thức (một cách thường xuyên) chấp hành pháp luật và
chính sách của Đảng và nhà nước.

- Tự xây dựng báo cáo kết quả hoạt động KH&CN của đơn vị (dựa theo
mẫu báo cáo thống nhất của Bộ KH&CN) để từ đó tiến hành tự đánh giá các
mặt hoạt động của đơn vị.
- Thông qua báo cáo kết quả hoạt động, chủ động để xuất các khuyến
nghị chính sách với các cơ quan quản lý nhà nước. Đồng thời bản thân tổ

18


chức KH&CN có cơ sở để tiến hành công tác thi đua khen thưởng trong đơn
vị hoặc đề xuất các kiến nghị khen thưởng cho tập thể và các cá nhân ở cấp
cao hơn.
1.3.4. Các cơ quan có chức năng hậu kiểm
Trong phạm vi luận văn này, tác giả chỉ đề cập tới cơ quan có chức năng
hậu kiểm đối với tổ chức KH&CN là các cơ quan cấp đăng ký hoạt động
KH&CN cho tổ chức, theo phân cấp bao gồm:
Cấp Bộ: Cơ quan kiểm tra các tổ chức KH&CN được Bộ KH&CN giao
cho Văn phòng Đăng ký hoạt động KH&CN. Công việc kiểm tra được tiến
hành hàng năm theo kế hoạch được Bộ KH&CN phê duyệt và theo nguyên
tắc kiểm tra điểm các tổ chức KH&CN. Việc lựa chọn “điểm” kiểm tra là lựa
chọn các tổ chức KH&CN thuộc các lĩnh vực khoa học khác nhau (khoa học
tự nhiên, khoa học kỹ thuật, khoa học nông nghiệp, khoa học y dược, khoa
học xã hội và khoa học nhân văn), các địa bàn khác nhau (Tp. Hà nội, Tp. Hồ
Chí Minh hay các địa phương khác), các cơ quan chủ quản khác nhau.
Cấp địa phương: Cơ quan kiểm tra các tổ chức KH&CN là các Sở
KH&CN các Tỉnh, Thành phố. Nói chung những vấn đề liên quan đến kiểm
tra ở cấp địa phương, Kế hoạch kiểm tra, phê duyệt kế hoạch, lựa chọn
“điểm” kiểm tra tương tự như ở cấp Bộ, điều khác biệt là ở cấp địa phương
chỉ tiến hành đối với các tổ chức KH&CN do Sở KH&CN cấp Giấy chứng
nhận đăng ký hoạt động KH&CN.


19


×