Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Hoà- Lớp KTPT K42
LỜI NÓI ĐẦU
Lâm trường quốc doanh là tổ chức kinh tế có vị trí quan trọng nhất
trong hệ thống tổ chức sản xuất của ngành lâm nghiệp, được giao quản lý và
sử dụng đại bộ phận tài nguyên rừng tự nhiên hiện còn của nước ta. Lâm
trường quốc doanh đã từng giữ vai trò chủ lực trong việc thực hiện nhiệm vụ
của ngành lâm nghiệp: khai thác, cung ứng lâm sản đáp ứng nhu cầu của nền
kinh tế quốc dân, trồng rừng mới, bảo vệ rừng và góp phần phát triển kinh tế
xã hội trên địa bàn, miền núi, vùng dân tộc.
Trong những năm qua thực hiện đường lối đổi mới kinh tế của Đảng và
Nhà nước, Lâm trường quốc doanh đã có những chuyển biến quan trọng cả về
tổ chức và cơ chế quản lý nhằm góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển
nghề rừng bền vững. Tuy nhiên với đặc thù của loại hình doanh nghiệp lâm
nghiệp, hoạt động sản xuất kinh doanh liên quan chặt chẽ đến tư liệu sản xuất
là rừng và đất rừng, bảo vệ và phát triển môi trường sinh thái, giữ vững an
ninh quốc phòng và phát triển kinh tế xã hội nông thôn miền núi. Việc đổi
mới tổ chức và quản lý Lâm trường quốc doanh vừa qua vẫn còn nhiều vấn đề
chưa rõ dẫn đến tình trạng khó khăn trong hoạt động và phát triển của nhiều
lâm trường, hiệu quả khai thác toàn diện tiềm năng tài nguyên rừng và đất
lâm nghiệp còn thấp , đời sống của người lao động đang gặp nhiều khó khăn.
Lâm trường chưa làm tốt vai trò nòng cốt trong quản sản xuất, trung tâm dịch
vụ khoa học kỹ thuật trên địa bàn.
Tiếp tục thực hiện các nghiên cứu về đổi mới tổ chức, cơ chế quản lý,
chính sách đối với Lâm trường quốc doanh nhằm phát hiện những vấn đề
vướng mắc và đề xuất những giải pháp, chính sách nhằm hoàn thiện đổi mới
hệ thống Lâm trường quốc doanh là vấn đề cần thiết góp phần thúc đẩy quá
trình thực hiện công cuộc cải cách doanh nghiệp Nhà nước trong lĩnh vực lâm
nghiệp. Vì vậy, tôi lựa chọn đề tài: “Thực trạng và những giải pháp chủ
1
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Hoà- Lớp KTPT K42
yếu nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với các Lâm trường quốc
doanh trong giai đoạn đến 2010” làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của
mình.
Ngoài phần lời nói đầu và kết luận, kết cấu luận văn bao gồm:
Ch ương 1 : Cơ sở lý luận và thực tiễn về đổi mới Lâm trường quốc doanh
trong nền kinh tế nhiều thành phần.
Chương 2: Thực trạng các Lâm trường quốc doanh trong thời gian qua.
Ch ương 3 : Những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách
đối với các Lâm trường quốc doanh trong giai đoạn đến 2010.
Mục đích nghiên cứu luận văn: Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về đổi
mới Lâm trường quốc doanh trong nền kinh tế nhiều thành phần, nêu rõ vị trí,
vai trò tầm quan trọng của Lâm trường quốc doanh trong hệ thống lâm
nghiệp; Nêu rõ thực trạng của Lâm trường quốc doanh trong giai đoạn đầu
thực hiện đổi mới từ đó thấy được sự cần thiết phải thực hiện đổi mới và đề
xuất một số giải pháp chủ yếu để hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với các
lâm trường quốc doanh trong giai đoạn đến 2010.
Trong thời gian qua, em đã cố gắng vận dụng những kiến thức của
mình để đi sâu nghiên cứu vào việc hoàn thiện về cơ chế chính sách đối với
các Lâm trường quốc doanh. Vì thời gian nghiên cứu và tài liệu tham khảo có
hạn, bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong được
sự thông cảm và chỉ bảo tận tình các thầy, cô và các cán bộ trong Vụ Kinh tế
Nông nghiệp để em có thể khắc phục những thiếu sót của mình.
Em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo tận tình của thầy- TS. Nguyễn
Thanh Hà và chuyên viên Đinh Ngọc Minh- người đã hướng dẫn em trong
quá trình thực tập cùng các cán bộ trong Vụ Kinh tế Nông nghiệp thuộc Bộ
Kế hoạch và Đầu tư đã giúp đỡ em hoàn thành bản luận văn này. Em rất
2
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Hoà- Lớp KTPT K42
mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo và bạn đọc để bài viết được
hoàn thiện hơn.
C HUƠNG 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐỔI MỚI
LÂM TRƯỜNG QUỐC DOANH
TRONG NỀN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN.
1.1 Khái niệm và vai trò của nền Kinh tế nhiều thành phần.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có nhiều đặc điểm, nhưng đặc
điểm nổi bật là cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Theo quan điểm chính trị
học, thành phần kinh tế là khu vực kinh tế, kiểu quan hệ kinh tế dựa trên cơ
sở chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất
1
.
Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần tồn tại không phải do ý muốn chủ
quan của Nhà nước, nó xuất hiện, tồn tại và phát triển phụ thuộc vào những
tiền đề kinh tế và chính trị khách quan của nền kinh tế. Trong cơ cấu này, mỗi
thành phần kinh tế luôn có vai trò, vị trí và vận động, phát triển theo một xu
hướng nhất định. Xuất phát từ tính quy luật vốn có của nền kinh tế thị trường,
có thể thấy, các thành phần kinh tế đều vận động hướng đến mục tiêu lợi ích.
Sự vận động này cũng có thể khác hướng, thậm chí ngược chiều nhau tuỳ
theo mục tiêu ấy là gì, ai là chủ thể của những lợi ích được tạo ra, việc phân
chia và sử dụng lợi ích đó như thế nào.
Cơ sở khách quan của sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế là do có
nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Đại hội Đảng IX(2001),
đã khẳng định từ các hình thức sở hữu cơ bản như: sở hữu toàn dân, sở hữu
tập thể, sở hữu tư nhân đã hình thành nhiều thành phần kinh tế với các hình
thức tổ chức kinh doanh đa dạng đan xen, hỗn hợp; đó là: Kinh tế Nhà nước,
1
Trần Bình Trọng, Kinh tế chính trị tập 2, NXB Thống kê, 2000.
3
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Hoà- Lớp KTPT K42
Kinh tế tập thể, Kinh tế cá thể, tiểu chủ, Kinh tế tư bản tư nhân, Kinh tế tư
bản Nhà nước, Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
2
.
Nền kinh tế nhiều thành phần trong sự vận động của cơ chế thị trường
ở nước ta là nguồn lực tổng hợp to lớn để đưa nền kinh tế vượt khỏi thực
trạng thấp kém đưa nền kinh tế hàng hoá phát triển kể cả trong điều kiện ngân
sách Nhà nước hạn hẹp.
Nền kinh tế nhiều thành phần vừa phản ánh tính đa dạng phong phú
trong việc đáp ứng nhu cầu xã hội, vừa phản ánh tính chất phức tạp trong việc
quản lý thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó việc “phát triển
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phải đi đôi với tăng cường quản lý Nhà
nước về kinh tế- xã hội”
3
. Để hạn chế và khắc phục những hậu quả do nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường mang lại,
giữ cho công cuộc đổi mới đi đúng hướng và phát huy bản chất tốt đẹp của
chủ nghĩa xã hội, Nhà nước phải thực hiện tốt vai trò quản lý kinh tế- xã hội
bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách, thông tin, tuyên truyền, giáo dục và các
công cụ khác.
Trong suốt những năm qua, nhất là từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI (12-1986) đến nay, trên cơ sở tư duy ngày càng rõ hơn về thực tiễn của
đất nước và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã không ngừng đổi
mới quan điểm, tư duy về chế độ sở hữu và thành phần kinh tế. Trên cơ sở đó,
Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần, các thành phần kinh tế đều kinh doanh theo pháp luật, đều là bộ phận
quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát
triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh; trong đó Kinh tế Nhà nước giữ
vai trò chủ đạo, Kinh tế Nhà nước cùng với Kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
2
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, 2001.
3
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, NXB Chính trị quốc gia,1991.
4
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Hoà- Lớp KTPT K42
Những đổi mới quan trọng trong đường lối của Đảng mang tính đột phá
về chế độ sở hữu và thành phần kinh tế có đặc điểm như
4
:
Thực hiện phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, mỗi thành phần có
vị trí quan trọng trong cơ cấu nền kinh tế; mỗi doanh nghiệp cũng đan xen
nhiều hình thức sở hữu; thực hiện bình đẳng và cạnh tranh để phát triển.
Sở hữu nhà nước có thể tồn tại ở nhiều hình thức tổ chức kinh tế, kinh
tế nhà nước có vai trò chủ đạo trong nền kinh tế vì chiếm lĩnh một số ngành
và một số lĩnh vực cơ bản.
Hợp tác là tổ chức kinh tế được hình thành trên cơ sở người lao động
tự nguyện góp sức, góp vốn và quản lý dân chủ, với mọi qui mô và mức độ
tập thể hoá tư liệu sản xuất khác nhau; phát huy vai trò tự chủ của xã hội viên.
Hợp tác xã chủ yếu là dịch vụ, hỗ trợ và hướng dẫn, giúp đỡ xã viên; đồng
thời phát triển nhiều hình thức kinh tế hợp tác đa dạng.
Kinh tế cá thể có vai trò quan trọng; có thể tham gia nhiều hình thức
liên kết, hợp tác khác nhau để có thể tiếp tục phát triển lớn hơn.
Kinh tế tư bản tư nhân là một bộ phận quan trọng trong cơ cấu kinh tế
của nền kinh tế quốc dân, có khả năng góp phần xây dựng đất nước, được
phát triển không hạn chế trong những ngành, lĩnh vực mà pháp luật không
cấm, được khuyến khích như mọi thành phần kinh tế khác.
Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao
động và hiệu quả kinh tế, phân phối dựa trên mức độ đóng góp của các nguồn
lực vào sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội.
Tuy nhiên việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện
nay không phải là bằng bất cứ cách nào, mà Đảng ta chủ trương phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần phải dựa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. “Nền
kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một nền kinh tế
4
Kinh tế Nhà nước và quá trình đổi mới Doanh nghiệp Nhà nước, Ngô Quang Minh, NXB chính trị quốc
gia,1998.
5
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Hoà- Lớp KTPT K42
vận động theo hướng Kinh tế Nhà nước thực hiện tốt vai trò chủ đạo và cùng
với Kinh tế hợp tác xã trở thành nền tảng”
5
.
Nền kinh tế nhiều thành phần được hình thành ở nước ta là nền kinh tế
dựa trên nhiều hình thức sở hữu. Yêu cầu khách quan của nền kinh tế nhiều
thành phần đặt ra cho tất cả các hình thức sở hữu là phải xác định và xác nhận
rõ quyền sở hữu đối với tài sản, tiền vốn, chất xám; làm rõ quyền sở hữu
thuộc về ai và xác định ai đó có bao nhiêu quyền sở hữu dưới dạng tiền tệ
nhằm mục đích định lượng hoá quyền sở hữu của từng người. Không có sở
hữu chung chung, vô chủ và cũng không có quyền sở hữu như nhau cho tất cả
mọi người.
Nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta vừa chịu sự điều tiết theo cơ
chế thị trường vừa chịu sự điều tiết của Nhà nước. Thị trường và Nhà nước
đều đóng vai trò là người phân bổ nguồn lực cho sự phát triển của nền kinh tế.
Đề cao quá mức vai trò của thị trường và coi nhẹ hay phủ nhận vai trò của
Nhà nước hoặc ngược lại đều không thể đạt được sự tăng trưởng và phát triển
của nền kinh tế.
Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một
chủ trương chiến lược của Đảng và Nhà nước ta. Từ khi được khẳng định, chủ
trương này đã đi vào cuộc sống, góp phần giải phóng sức sản xuất, tạo ra sự
chuyển biến mạnh mẽ trong nền kinh tế nước ta, khắc phục căn bản khủng
hoảng kinh tế, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển nhanh, cải thiện
đời sống nhân dân. Tuy nhiên bên cạnh mặt được, tích cực, trong sự vận
động, phát triển các thành phần kinh tế đã bộc lộ hạn chế. Kinh tế Nhà nước
chưa phát huy hết vai trò chủ đạo của mình, vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp
còn nhiều lúng túng trong quá trình triển khai. Kinh tế hợp tác chậm đổi mới
5
Tập thể tác giả, Kinh tế chính trị Mác- Lênin, Học viện Hành chính Quốc gia, 2001.
6
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Hoà- Lớp KTPT K42
và phát triển, Kinh tế tư nhân, cá thể, liên doanh chưa được quản lý chặt chẽ.
Vấn đề đặt ra là cần phải làm rõ vai trò vị trí, thực trạng và xu thế vận động
của mỗi thành phần kinh tế. Trên cơ sở đó lựa chọn những hình thức kinh tế
thích hợp, những giải pháp thoả đáng thúc đẩy các thành phần kinh tế tiếp tục
phát triển.
1.1.1 Khái niệm và vai trò của Kinh tế Nhà nước, Doanh nghiệp Nhà
nước.
1.1.1.1 Khái niệm Kinh tế Nhà nước, Doanh nghiệp Nhà nước
Kinh tế Nhà nước là khu vực kinh tế do nhà nước nắm giữ, dựa trên cơ
sở quan trọng là sở hữu Nhà nước. Hay nói cách khác Kinh tế Nhà nước là
toàn bộ hoạt động kinh tế thuộc sở hữu của Nhà nước, trên cơ sở đó Nhà
nước có quyền quản lý, sử dụng hiệu quả kinh tế do lực lượng kinh tế của
Nhà nước mang lại. Kinh tế Nhà nước phải là và bao gồm những hoạt động
kinh tế mà Nhà nước là chủ thể, có quyền tổ chức, chi phối hoạt động theo
hướng đã định.
Kinh tế Nhà nước được thể hiện dưới nhiều hình thức hoạt động khác
nhau với các hình thức tổ chức tương ứng, như hoạt động trong các lĩnh vực
sản xuất, dịch vụ, các hoạt động đảm bảo cho quá trình tái sản xuất xã hội mà
ở đó Nhà nước biểu hiện như một chủ sở hữu, chủ thể kinh doanh, người
tham gia. Nghĩa là kinh tế Nhà nước có nhiều bộ phận hợp thành, mỗi bộ
phận hợp thành kinh tế Nhà nước có chức năng và nhiệm vụ khác nhau.
Nếu xét theo lĩnh vực hoạt động, thì khu vực kinh tế Nhà nước bao gồm
các hoạt động kinh tế của Nhà nước trong:
- Hoạt động trực tiếp sản xuất- kinh doanh hàng hoá, dịch vụ.
- Hoạt động kinh tế nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất xã hội.
7
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Hoà- Lớp KTPT K42
Về hình thức tổ chức, khu vực kinh tế Nhà nước bao gồm nhiều bộ phận
hoạt động trong các lĩnh vực then chốt, thiết yếu của nền kinh tế quốc dân. Cụ
thể:
- Ngân sách Nhà nước.
- Ngân hàng Nhà nước.
- Kho bạc Nhà nước.
- Các quỹ dự trữ quốc gia.
- Các tổ chức sự nghiệp có thu.
- Hệ thống doanh nghiệp Nhà nước.
Theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước năm 1995, thì “Doanh nghiệp Nhà
nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý,
hoạt động kinh doanh hoặc công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã
hội do Nhà nước giao. Doanh nghiệp Nhà nước có tư cách pháp nhân, có các
quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động, kinh
doanh trong phạm vi do doanh nghiệp quản lý”
6
.
Tuy nhiên, theo cách hiểu hiện nay của Luật Doanh nghiệp Nhà nước
được Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp
thứ 4 thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2003, và có hiệu lực thi hành từ ngày
01 tháng 7 năm 2004; thì “Doanh nghiệp Nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà
nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ
chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm
hữu hạn”
7
. Doanh nghiệp Nhà nước là bộ phận chính yếu của khu vực kinh
tế Nhà nước- một lực lượng vật chất cơ bản, đảm bảo cho việc thực hiện các
mục tiêu kinh tế- xã hội của Nhà nước.
6
Luật Doanh nghiệp Nhà nước, 1995. Chương I, Điều 1.
7
Luật Doanh nghiệp Nhà nước, 2004, chương I, Điều 1.
8
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Hoà- Lớp KTPT K42
Một doanh nghiệp được coi là Doanh nghiệp Nhà nước khi có đủ 3
điều kiện:
Nhà nước là cổ đông chính.
Doanh nghiệp có nhiệm sản xuất ra hàng hoá dịch vụ để bán.
Có hạch toán lãi lỗ.
Nếu xét theo mục tiêu hoạt động thì các doanh nghiệp Nhà nước chia
làm 3 nhóm:
Nhóm các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động công ích. Theo Luật
Doanh nghiệp Nhà nước sửa đổi đã loại bỏ loại hình thức doanh nghiệp công
ích và thay bằng hoạt động công ích, các sản phẩm, dịch vụ công ích được
Nhà nước thực hiện bằng cách “đặt hàng, giao kế hoạch, đấu thầu theo giá
hoặc phí do Nhà nước quy định”
8
.
Nhóm các doanh nghiệp Nhà nước bán công ích- sản xuất kinh doanh
hàng hoá công ích.
Nhóm các doanh nghiệp Nhà nước thuần tuý kinh tế.
1.1.1.2 Vai trò của Kinh tế Nhà nước, Doanh nghiệp Nhà nước.
Kinh tế Nhà nước là bộ phận quan trọng, có tác động thiết thực trong
cơ cấu kinh tế của mỗi nước. Trong quá trình đổi mới, Đảng ta luôn chủ
trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa và thành phần kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế
quốc dân tức là nó phải có khả năng chi phối xu thế phát triển kinh tế- xã hội
của đất nước. Vai trò đó được thể hiện trên các mặt:
9
Kinh tế Nhà nước trở thành lực lượng vật chất và công cụ sắc bén để
Nhà nước thực hiện chức năng định hướng, điều tiết và quản lý vĩ mô nền
kinh tế.
8
Luật Doanh nghiệp Nhà nước, 2004, chương I, điều 3, Khoản 12.
9
Ngô Quang Minh, Kinh tế Nhà nước và quá trình đổi mới Doanh nghiệp Nhà nước, NXB chính trị quốc
gia,1998.
9
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Hoà- Lớp KTPT K42
Hoạt động của khu vực kinh tế Nhà nước là nhằm mở đường, hướng
dẫn, hỗ trợ, thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế khác.
Kinh tế Nhà nước là lực lượng xung kích chủ yếu thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Kinh tế Nhà nước nắm giữ các vị trí then chốt trong nền kinh tế nhằm
đảm bảo các cân đối vĩ mô của nền kinh tế cũng như tạo đà tăng trưởng lâu
dài, bền vững và hiệu quả cho nền kinh tế.
Kinh tế Nhà nước trực tiếp tham gia khắc phục mặt trái của cơ chế thị
trường và điều chỉnh nó.
Kinh tế Nhà nước phải là hình mẫu về ứng dụng tiến bộ khoa học-
công nghệ, về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế- xã hội và chấp hành
pháp luật.
Thực hiện dự trữ quốc gia nhằm đảm bảo hành lang an toàn cho nền
kinh tế.
Giải quyết các vấn đề xã hội.
Kinh tế nhà nước là nền tảng cho chế độ xã hội mới.
Vai trò của hệ thống doanh nghiệp Nhà nước gắn liền với việc tham gia
vào hoạt động kinh tế của Nhà nước. Các doanh nghiệp Nhà nước vừa là chủ
thể kinh doanh, vừa là lực lượng trực tiếp tạo cơ sở vật chất cho xã hội, vừa là
lực lượng nòng cốt để Nhà nước dẫn dắt, mở đường cho các thành phần kinh
tế khác cùng phát triển. Vai trò này được thể hiện trên 3 khía cạnh: kinh tế,
chính trị, xã hội. Cụ thể là
10
:
Là công cụ chủ yếu tạo ra sức mạnh vật chất để Nhà nước giữ vững
sự ổn định xã hội, điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
10
Ngô Quang Minh, Kinh tế Nhà nước và quá trình đổi mới Doanh nghiệp Nhà nước, NXB chính trị quốc
gia,1998.
10
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Hoà- Lớp KTPT K42
Mở đường dẫn dắt các thành phần kinh tế khác phát triển, thúc đẩy sự
tăng trưởng nhanh và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế.
Đảm nhận các lĩnh vực hoạt động có tính chiến lược đối với sự phát
triển kinh tế- xã hội: cung ứng các hàng hoá, dịch vụ thiết yếu (giao thông,
thuỷ lợi, điện, nước…, an ninh quốc phòng, xã hội (giáo dục, y tế,…)
Góp phần quan trọng khắc phục những khiếm khuyết của cơ chế thị
trường.
Là lực lượng xung kích tạo ra sự thay đổi cơ cấu kinh tế, thúc đẩy
nhanh ứng dụng tiến bộ khoa học- công nghệ nhằm thực hiện công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
Là lực lượng đối trọng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước,
chống sự lệ thuộc vào nước ngoài về kinh tế.
Thực hiện một số chính sách xã hội.
Là lực lượng tạo nền tảng cho xã hội mới.
Tóm lại, khu vực kinh tế Nhà nước và hệ thống doanh nghiệp Nhà
nước là những phạm trù kinh tế có cùng bản chất tuy khác nhau về cấp độ.
Vai trò của khu vực kinh tế Nhà nước rộng hơn và bao hàm cả vai trò quan
trọng cả hệ thống doanh nghiệp Nhà nước. Nói đến vai trò chủ đạo là nói đến
vai trò của cả hệ thống kinh tế Nhà nước trong đó các doanh nghiệp Nhà nước
là bộ phận chính yếu, là phương tiện, công cụ, lực lượng đi đầu mở đường
cho sự phát triển kinh tế.
1.1.2 Sự cần thiết phải đổi mới các Doanh nghiệp Nhà nước
Trong điều kiện cơ chế kế hoạch hoá tập trung, doanh nghiệp Nhà nước
(trước đây là xí nghiệp quốc doanh) chiếm vị trí độc tôn trong nền kinh tế. Đó
là những doanh nghiệp hạch toán kinh tế theo nguyên tắc thu đủ chi đủ được
11
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Hoà- Lớp KTPT K42
bao cấp. Về mặt sở hữu, đó là những doanh nghiệp do Nhà nước đầu tư vốn
100% và trực tiếp quản lý.
Khi chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc
đổi mới cơ chế quản lý luôn là vấn đề được Đảng và Nhà nước quan tâm.
Việc đổi mới các doanh nghiệp Nhà nước là sự vận dụng của Đảng và Nhà
nước Việt Nam, là quy luật tất yếu và cũng xuất phát từ thực trạng hoạt động
không hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong cơ chế thị
trường, được nuôi dưỡng bằng chế độ bao cấp nên nhiều xí nghiệp quốc
doanh rơi vào tình trạng trì trệ, lãng phí nguồn tài lực xã hội, làm ăn thua lỗ
kéo dài, tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau, chậm trễ trong các khoản nộp
ngân sách Nhà nước,… đã làm cho khu vực kinh tế này kém hiệu quả trở
thành gánh nặng cho nền kinh tế quốc dân.
Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn tới tình trạng Kinh tế
Nhà nước hoạt động chưa hiệu quả là do chậm tháo gỡ các vướng mắc về cơ
chế, chính sách để tạo động lực và điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp Nhà
nước nâng cao hiệu quả hoạt động, phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế
quốc dân.
Từ thực tế đó, mà Nhà nước ta đã tiến hành cải cách các doanh nghiệp
Nhà nước, chuyển đổi sở hữu nhằm khắc phục từng bước tình trạng yếu kém.
Vấn đề quan trọng để các doanh nghiệp tiếp tục phát triển và đổi mới là người
lao động phải được đảm bảo lợi ích, khắc phục tình trạng doanh nghiệp Nhà
nước, tài sản Nhà nước không có người làm chủ cụ thể, làm chủ trực tiếp, làm
chủ một cách có trách nhiệm. Các giải pháp chung nhất là chuyển đổi sở hữu
làm tăng quyền tự chủ cho các doanh nghiệp như cổ phần hoá, bán, khoán,
cho thuê doanh nghiệp Nhà nước, giảm sự can thiệp của Nhà nước, cải cách
cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp, hình thành các tổng công ty, … Muốn vậy,
Nhà nước phải kiên quyết sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước, xử lý đúng
12
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Hoà- Lớp KTPT K42
đắn những xí nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài, xây dựng một số mô hình doanh
nghiệp Nhà nước mới năng động và có hiệu quả.
1.2 Khái niệm, đặc điểm và vai trò của các Lâm trường quốc
doanh.
1.2.1 Khái niệm và đặc điểm của Lâm trường quốc doanh.
1.2.1.1 Khái niệm Lâm trường quốc doanh.
Thuật ngữ “Lâm trường quốc doanh” xuất hiện ở nước ta vào những
năm cuối cùng của thập kỷ 50 của thế kỷ XX, cùng với quá trình chuyển đổi
các Trạm trồng rừng Nam Quảng Bình và các Chi nhánh Quốc doanh Lâm
khẩn thành các đơn vị kinh tế, thực hiện chế độ hạch toán kinh tế độc lập,
được giao làm nhiệm vụ trồng rừng hoặc khai thác gỗ. Trước đây, do xác định
khái niệm và nhiệm vụ của lâm trường không rõ nên đã từng tồn tại thời kỳ
mà ngành lâm nghiệp xác định nhiệm vụ chủ yếu nhất của Lâm trường quốc
doanh là khai thác gỗ hoặc trồng rừng theo nhu cầu vốn đầu tư của Nhà nước.
Do đó rừng còn gỗ thì còn Lâm trường quốc doanh, rừng hết gỗ khai thác thì
giải tán Lâm trường quốc doanh. Trên phạm vi hoạt động của Lâm trường
quốc doanh nếu còn đất trống và Nhà nước cấp vốn xây dựng cơ bản thì Lâm
trường quốc doanh còn trồng rừng. Nếu không còn đất trống hoặc Nhà nước
không cấp vốn nữa thì giải tán Lâm trường quốc doanh.
Theo tinh thần đổi mới, Nghị Quyết số 28 của Bộ Chính trị về tiếp tục
sắp xếp, đổi mới và phát triển Nông, Lâm trường quốc doanh ngày 16 tháng 6
năm 2003, Lâm trường quốc doanh được thành lập với nhiệm vụ chủ yếu là
khai hoang mở rộng diện tích canh tác ở các vùng đất mới, phát triển sản xuất
lâm sản hàng hoá cung cấp cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu;
sản xuất giống cây trồng, giống vật nuôi, đưa tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất
nông, lâm nghiệp; làm trung tâm xây dựng một số vùng kinh tế mới, nông
13
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Hoà- Lớp KTPT K42
thôn mới; kết hợp phát triển với bảo đảm an ninh, quốc phòng ở những vùng
xung yếu, khó khăn.
11
Như vậy, tổ chức quá trình sản xuất hợp lý trong lâm trường là kết hợp
chặt chẽ cả quá trình từ tạo rừng đến khai thác, chế biến và tiêu thụ lâm sản.
Có như vậy lâm trường mới thực sự là doanh nghiệp, thực hiện hạch toán
kinh doanh độc lập, tự chịu trách nhiệm lỗ, lãi.
Hiện nay, Lâm trường quốc doanh được hiểu là một tổ chức kinh tế do
Nhà nước thành lập, là một loại hình doanh nghiệp Nhà nước, được thực hiện
chế độ hạch toán kinh tế độc lập, là nơi có một tập thể công nhân viên chức
được Nhà nước giao vốn, được sử dụng một diện tích rừng và đất lâm nghiệp
thuộc sở hữu Nhà nước theo qui hoạch được cấp có thẩm quyền phê duyệt để
thực hiện các kế hoạch nuôi trồng rừng, khai thác lâm sản, chế biến lâm sản
và các kế hoạch kinh doanh sản xuất khác do Nhà nước giao
12
. Lâm trường
quốc doanh được Nhà nước đầu tư vốn ban đầu, là đơn vị cơ sở của ngành
lâm nghiệp được Nhà nước giao quản lý và sử dụng một bộ phận quan trọng
là tài nguyên rừng và đất lâm nghiệp; được đầu tư tập trung về nhân lực, vốn,
kỹ thuật, là lực lượng chủ yếu thực hiện các kế hoạch của Nhà nước trong
lĩnh vực lâm nghiệp, góp phần vào phát triển kinh tế- xã hội an ninh quốc
phòng ở vùng miền núi, dân tộc
13
.
Nhiệm vụ cơ bản của Lâm trường quốc doanh thường được xác định
là:
- Nâng cao diện tích rừng và trữ lượng gỗ và lâm sản.
- Nâng cao chất lượng rừng.
- Bảo vệ và khai thác hợp lý tài nguyên rừng.
11
Ban Chấp hành Trung uơng, Nghị quyết số 28 của Bộ Chính trị về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển
Nông, Lâm trường quốc doanh.
12
Bộ Kế hoạch và đầu tư, Đề tài: Tổ chức và chính sách đối với Lâm trường quốc doanh: Thực trạng và giải
pháp , 2001.
13
Nguyễn Văn Đẳng, Lâm nghiệp Việt Nam 1945-2000,, NXB nông nghiệp, 2001.
14
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Hoà- Lớp KTPT K42
- Tích cực mở rộng kinh doanh, đa dạng hoá các ngành nghề và sản
phẩm.
- Nâng cao các hiệu ích của rừng.
- Tăng cường khả năng tự tích luỹ, tự phát triển bằng nội lực của mình .
Từ nhiệm vụ cơ bản đó, các nhiệm vụ chủ yếu của Lâm trường quốc
doanh được xác định như sau:
- Dựa theo pháp luật để bảo vệ, kinh doanh, khai thác, sử dụng tài
nguyên rừng trên khu vực mình được giao.
- Theo sự hướng dẫn và tổ chức của cơ quan quản lý Nhà nước về lâm
nghiệp để triển khai việc kiểm kê rừng, lập phương án kinh doanh rừng làm
cơ sở cho việc kinh doanh rừng, xây dựng rừng có căn cứ khoa học.
- Xây dựng kế hoạch hàng năm trên cơ sở phương án quy hoạch rừng
đã được phê chuẩn và nhu cầu thị trường. Hoàn thành các nhiệm vụ có tính
chất pháp lệnh được Nhà nước giao như: Ươm cây con, trồng rừng, chăm sóc
rừng, cải tạo rừng…
- Khai thác, chế biến, sử dụng có hiệu quả sản lượng gỗ được phép khai
thác, tích cực mở rộng kinh doanh các ngành nghề khác, tổ chức hợp lý các
hoạt động sản xuất, cung ứng, tiêu thụ lâm sản.
- Trên cơ sở phục vụ các yêu cầu của sản xuất để mở rộng các hoạt
động thực nghiệm khoa học, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới để
phát huy vai trò gương mẫu của Lâm trường quốc doanh đối với các thành
phần kinh tế khác.
1.2.1.2 Đặc điểm Lâm trường quốc doanh
Quá trình kinh doanh rừng và sản xuất lâm nghiệp do Lâm trường quốc
doanh đảm nhiệm có những đặc điểm chính sau đây:
15
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Hoà- Lớp KTPT K42
* Quá trình sản xuất rất dài: Kinh doanh rừng là một quá trình dài, hàng
chục năm mới có sản phẩm có giá trị hoặc giá trị sử dụng phù hợp với yêu cầu
của thị trường và xã hội. Do vậy, xác định chiến lược kinh doanh của Lâm
trường quốc doanh phải có một tầm nhìn dài hạn, phải quan tâm đến lợi ích
lâu dài, phải xem xét đến các lợi ích dài hạn để đạt tới mục đích tổng thể cuối
cùng. Hơn nữa, chu kỳ sản xuất lâm nghiệp dài hơn nhiều so với sản xuất
công nghiệp nên độ rủi ro cao. Vì vậy, những chính sách của Nhà nước cần
tạo điều kiện để Lâm trường quốc doanh hoạt động có hiệu quả hơn.
* Quá trình tự nhiên và quá trình kinh tế xen kẽ nhau: Khác hẳn với
quá trình sản xuất công nghiệp, quá trình kinh doanh rừng có quá trình kinh tế
và quá trình tự nhiên. Quá trình kinh tế là thời kỳ có đầu tư lao động, tiền
vốn; còn quá trình tự nhiên là thời kỳ sản xuất ra sản phẩm với sự tác động
của các yếu tố tự nhiên.
* Địa bàn sản xuất của các Lâm trường quốc doanh thường rất rộng và
rất phân tán. Trước đây, lúc mới thành lập, phạm vi hoạt động của một Lâm
trường quốc doanh thường là một huyện miền núi, hoặc cả một vùng miền núi
của một tỉnh (vào khoảng 100.000 ha trở lên). Đến nay, qua nhiều lần quy
hoạch lại, giao đất, giao rừng, giảm bớt qui mô rừng tự nhiên, thưa dân thì
diện tích thường vào khoảng 20.000 ha đến 30.000 ha, ở vùng đất trống, đồi
trọc cũng trên 5.000 ha. Việc Lâm trường quốc doanh phải quản lý một diện
tích đất rất lớn có dân cư sống xen kẽ nên gặp nhiều rất nhiều khó khăn trong
việc quản lý, bảo vệ rừng.
* Tính chất khu vực của kinh doanh rừng rất rõ ràng: Thể hiện ở
phương hướng kinh doanh của các Lâm trường quốc doanh ở các vùng sinh
thái, vùng chuyên canh khác nhau, mà ngay ở trong một lâm trường cũng
khác nhau do điạ bàn sản xuất của lâm trường.
16
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Hoà- Lớp KTPT K42
* Tính chất thời vụ trong kinh doanh rừng rất rõ ràng: Tính chất này
đòi hỏi phải gắn liền với qui luật sinh trưởng của cây rừng và rừng, với hoạt
động kinh doanh rừng.
* Đất đai là một tư liệu sản xuất không thể thay thế được trong sản xuất
Lâm nghiệp: Đất đai là một tư liệu sản xuất đặc biệt, không thể thay thế được.
Hiện trạng sử dụng đất đai có ảnh hưởng đến tình hình sinh trưởng của cây
rừng, của rừng và kết quả kinh doanh của Lâm trường quốc doanh, nên trong
quản lý kinh doanh của Lâm trường quốc doanh vừa phải bồi dưỡng đất đai
vừa phải sử dụng hợp lý đất đai.
* Rừng tự nhiên được giao cho Lâm trường quốc doanh quản lý kinh
doanh vừa là tài sản quốc gia, vừa là tư liệu sản xuất của Lâm trường quốc
doanh. Tuy nhiên những nơi đó lại có cộng đồng dân cư sống lâu đời tại khu
vực có rừng tự nhiên của lâm trường nên những vướng mắc về sử dụng tài
nguyên rừng lâm trường và người dân địa phương là không tránh khỏi. Đây là
đặc điểm quan trọng, chi phối nhiều cơ chế quản lý của Lâm trường quốc
doanh. Lâm trường quốc doanh nhận một phần rừng tự nhiên, là một bộ phận
tài nguyên thiên nhiên “là một loại vốn có tính chất đặc biệt”, có lợi ích và có
tác dụng nhiều mặt đối với xã hội. Riêng đối với hoạt động công ích của lâm
trường, không lấy lợi nhuận là mục tiêu chủ yếu mà lấy lợi ích về môi trường,
bảo tồn đa dạng sinh học rừng làm mục tiêu chủ yếu và được Nhà nước cấp
kinh phí để thực hiện các hoạt động đó. Điều đó có nghĩa là: Trong một Lâm
trường quốc doanh đồng thời vừa thực hiện chức năng kinh tế vừa thực hiện
chức năng công ích (chức năng xã hội).
Do vậy, vấn đề xác định rõ diện tích, trữ lượng gỗ và lâm sản, giá trị
bằng tiền, qui định rõ rõ ràng và cụ thể nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn, lợi
ích của Lâm trường quốc doanh khi tiếp nhận, quản lý, kinh doanh rừng tự
nhiên được Nhà nước giao đã trở thành một vấn đề hết sức cần thiết và rất
quan trọng trong cơ chế quản lý của Lâm trường quốc doanh.
17
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Hoà- Lớp KTPT K42
1.2.2 Vai trò của Lâm trường quốc doanh trong nền kinh tế quốc dân
14
.
1.2.2.1 Đối với ngành Lâm nghiệp.
Quản lý Nhà nước về Lâm nghiệp có hai nội dung lớn đó là: quản lý
Nhà nước về rừng và quản lý Nhà nước về các hoạt động sản xuất, kinh
doanh lâm nghiệp. Trước hết, về mặt quản lý rừng, Lâm trường quốc doanh là
một loại hình chủ rừng Nhà nước, có vị trí pháp nhân là người được giao
quyền sử dụng rừng và đất lâm nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước. Từ năm 1990
đến nay, với việc đẩy mạnh chính sách giao đất giao rừng, phát triển nền lâm
nghiệp nhiều thành phần, nên không phải nhà nước chỉ giao rừng cho các
Lâm trường quốc doanh mà còn giao cho nhiều chủ rừng Nhà nước khác nữa
như: Ban quản lý rừng, các đơn vị lực lượng vũ trang… và các chủ rừng
thuộc các thành phần kinh tế khác. Vì vậy, cần nhận thức đúng vị trí pháp lý
có tính chất bình đẳng của Lâm trường quốc doanh trong hệ thống quản lý
rừng Nhà nước và phải khắc phục, loại bỏ những nhận thức sai lầm về vị trí
có tính chất “ độc quyền, duy nhất” của Lâm trường quốc doanh trong hệ
thống quản lý rừng Nhà nước về rừng. Thời kỳ đó, gần như Lâm trường quốc
doanh được xem là, hoặc tự nhận là người chủ sở hữu rừng Nhà nước duy
nhất, được độc quyền khai thác rừng thuộc sở hữu Nhà nước. Chính nhận
thức sai lầm và không rõ ràng về vị trí của Lâm trường quốc doanh trong hệ
thống quản lý rừng Nhà nước dẫn đến tình trạng buông lỏng quản lý rừng Nhà
nước về rừng, để Lâm trường quốc doanh tự ý sử dụng bừa bãi diện tích rừng
nằm trong quy hoạch của Lâm trường quốc doanh, thậm chí cả diện tích rừng
ngoài phạm vi qui hoạch của các Lâm trường quốc doanh. Tuy vậy, cần nhấn
mạnh “vị trí có tính chất chủ lực, chủ đạo” của Lâm trường quốc doanh trong
hệ thống quản lý Nhà nước vì:
- Lâm trường quốc doanh là tổ chức kinh tế của Nhà nước, nên Lâm
trường quốc doanh không thể chạy theo mục đích kinh doanh, mục đích tìm
141
4
Bộ Kế hoạch và đầu tư, Đề tài: Tổ chức và chính sách đối với Lâm trường quốc doanh: Thực trạng và giải
pháp, 2001.
18
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Hoà- Lớp KTPT K42
kiếm lợi nhuận đơn thuần mà còn phải tiếp nhận và thực hiện các nhiệm có
tính chất phi lợi nhuận do Nhà nước giao.
- Lâm trường quốc doanh là tổ chức kinh tế của Nhà nước giao quản lý
nhiều diện tích rừng và đất lâm nghiệp nhất, có ảnh hưởng chủ yếu nhất đến
tình trạng tài nguyên rừng của đất nước. Lâm trường quốc doanh có đội ngũ
cán bộ kỹ thuật lâm nghiệp có trình độ quản lý rừng cao nhất, có nhiều điều
kiện để sử dụng kỹ thuật lâm sinh tiên tiến để làm giàu rừng.
Trong điều kiện bao cấp, Lâm trường quốc doanh có vị trí chủ đạo,
nhiều khi là “duy nhất hoặc độc quyền” trong việc thực hiện nhiệm vụ sản
xuất và cung ứng gỗ cho nền kinh tế quốc dân.
Chuyển qua cơ chế thị trường, có nhiều thành phần nhưng vị trí của
Lâm trường quốc doanh đối với nhiệm vụ này cũng rất quan trọng vì hầu hết
các Lâm trường quốc doanh đều đang quản lý các khu rừng còn nhiều tài
nguyên nhất.
1.2.2.2 Đối với nền kinh tế và xã hội.
Vai trò của hệ thống Lâm trường quốc doanh trong nền kinh tế và trong
đời sống cũng có nhiều thay đổi qua các thời kỳ phát triển của đất nước. Và
được thể hiện ở các mặt:
- Các Lâm trường quốc doanh là những cơ sở có nhiệm vụ tạo lập
những cơ sở nguyên liệu tập trung cho yêu cầu công nghiệp hoá đất nước.
- Các Lâm trường quốc doanh có vai trò quan trọng trong việc quản lý
những khu rừng có tác dụng bảo đảm an ninh môi trường, sinh thái, bảo vệ đa
dạng sinh học cho đất nước. Lâm trường quốc doanh có nhiệm vụ sử dụng có
hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn rừng do Nhà nước giao, sử dụng có hiệu
quả tài nguyên rừng, đất đai và các nguồn lực khác vào mục tiêu kinh doanh
và những nhiệm do Nhà nước giao.
19
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Hoà- Lớp KTPT K42
- Các Lâm trường quốc doanh có vai trò quan trọng đối với sự phát
triển kinh tế, xã hội ở miền núi, vùng đồng bào dân tộc, nhất là vùng sâu,
vùng xa.
- Các Lâm trường quốc doanh có vai trò quan trọng đối với nhiệm vụ
bảo đảm an ninh quốc phòng, tăng cường quốc phòng ở vùng biên giới, hải
đảo.
Ngoài ra các Lâm trường quốc doanh còn có vai trò quan trọng trong
việc tạo việc làm cho người lao động, cơ giới hoá sản xuất trong lâm
nghiệp,....
1.2.3 Sự cần thiết phải đổi mới Lâm trường quốc doanh.
Các Lâm trường quốc doanh có vị trí quan trọng trong quá trình phát
triển lâm nghiệp và giống như tất cả các doanh nghiệp nhà nước khác, Lâm
trường quốc doanh cũng chịu ảnh hưởng của quá trình đổi mới kinh tế theo
hướng nền kinh tế thị trường. Lâm trường quốc doanh không nên ở ngoài tiến
trình đổi mới của đất nước nhằm khai thác bền vững tài nguyên của đất nước
tạo ra thế và lực mới cho Lâm trường quốc doanh. Do đó, các cơ chế và chính
sách nhằm đổi mới doanh nghiệp Nhà nước như nâng cao quyền tự chủ, tự
hạch toán,… đều tác động đến Lâm trường quốc doanh theo hướng sản xuất
kinh doanh ngày càng hoạt động hiệu quả hơn. Lâm trường quốc doanh phải
được đổi mới về tổ chức hoạt động và cả đổi mới về cơ chế chính sách.
Hiện nay ngành lâm nghiệp đang đứng trước một thử thách lớn là quản
lý và sử dụng tài nguyên rừng và đất rừng rất lớn (gần 11 triệu ha rừng và 7,8
triệu ha đất lâm nghiệp chưa có rừng), có khoảng 9 triệu lao động trong nông
thôn không có việc làm (hàng năm được bổ sung thêm 1 triệu lao động đến
tuổi lao động) nhưng tạo ra giá trị sản xuất chỉ chiếm gần 1% cho GDP.
Trong khi đó hàng năm nhà nước phải đầu tư khoảng gần 1000 tỷ đồng cho
20
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Hoà- Lớp KTPT K42
phát triển lâm nghiệp và đất nước lại phải nhập một khối lượng gỗ lớn (5,6
triệu m
3
/năm).
15
Lâm trường quốc doanh chính là loại hình tổ chức kinh tế cơ sở có vị
trí quan trọng nhất trong hệ thống tổ chức sản xuất của ngành lâm nghiệp,
được giao quản lý và sử dụng đại bộ phận tài nguyên rừng tự nhiên hiện còn
của đất nước và giữ vai trò chủ đạo trong việc thực hiện kế hoạch Nhà nước
về lâm nghiệp. Hiện Lâm trường quốc doanh đang quản lý diện tích đất và
rừng rất lớn (4,9 triệu ha), chủ yếu là rừng sản xuất (lấy gỗ và lâm sản) với
một lực lượng lao động lớn (hơn 25.000 người) nhưng hoạt động kinh doanh
lại kém hiệu quả (có 2% có lãi), thu nhập của công nhân thấp, nộp ngân sách
ít, trong khi đó nông dân không có đất sản xuất. Do vậy, cải cách Lâm trường
quốc doanh là vấn đề đặt ra cấp thiết kể cả trong thực tiễn sản xuất và trong
chỉ đạo của Chính phủ (Vì Bộ Chính trị đã có Nghị Quyết 28/NQ ngày
16/6/2003 và Chính phủ có quyết định 179/2003/ QĐ-TTg về việc tiếp tục
sắp xếp và đổi mới Nông, Lâm trường quốc doanh). Nhiều cơ quan Chính phủ
đang thực hiện chỉ đạo của Chính phủ nghiên cứu để đổi mới cơ chế chính
sách của Lâm trường quốc doanh nhằm tìm ra một hướng đi phù hợp với điều
kiện hoàn cảnh của nước ta hiện nay.
Việc đổi mới Lâm trường quốc doanh của nước ta nhằm phát huy được
năng lực sẵn có của lâm trường hiện nay (kinh nghiệm, kỹ thuật, cơ sở vật
chất, con người sẵn có,…) cho phát triển sản xuất, thực hiện một số vấn đề
kinh tế xã hội khi chưa có các thành phần kinh tế khác thực hiện. Hơn nữa,
giải quyết phần nào tình trạng nông dân không có đất để ổn định cuộc sống,
khi giải quyết được tình trạng trên thì sẽ hình thành tài sản của chính mình
thông qua nghề rừng và có chủ động trong sản xuất kinh doanh hơn.
15
Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Báo cáo về tình hình thực hiện Quyết định 187/QĐ-TTg, 2001.
21
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Hoà- Lớp KTPT K42
Xuất phát từ vai trò và vị trí của Lâm trường quốc doanh trong nền
kinh tế quốc dân, từ đó trong quá trình chuyển đổi ta luôn phải xác định
16
:
Chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần sẽ có nhiều hình thức sở
hữu khác nhau. Nhưng trong các hình thức sở hữu đó, từ mô hình chỉ có một
chủ sở hữu rừng Nhà nước chuyển sang mô hình nhiều hình thức sở hữu rừng
(Nhà nước, tập thể, cá nhân, cộng đồng,…) đang thực hiện giao đất lâm
nghiệp. Trong quá trình đó, cần xác định và thực hiện nhất quán định hướng
bố trí quyền sở hữu, quyền sử dụng rừng cho từng thành phần kinh tế để phù
hợp với giai đoạn hiện nay.
Quản lý rừng, kinh doanh rừng là công việc lâu dài, tốn kém. Vì vậy,
sự can thiệp của Nhà nước, sự hỗ trợ tài chính từ ngân sách Nhà nước để quản
lý, bảo vệ rừng là rất cần thiết. Không nên xem đó là biện pháp bao cấp, là
làm mất quyền tự chủ kinh doanh của các rừng. Vấn đề là, cần xác định rõ
phạm vi và nội dung can thiệp của Nhà nước, xác định các hạng mục cần hỗ
trợ từ ngân sách Nhà nước.
Việc cải tiến tổ chức và đổi mới quản lý Lâm trường quốc doanh hiện
có ở nước ta là rất cần thiết. Nhưng phải đặt vấn đề này trong tổng thể chiến
lược phát triển lâm nghiệp, cải cách tổ chức quản lý lâm nghiệp, cải cách
quản lý doanh nghiệp Nhà nước, cải cách hành chính nói chung và chiến lược
xây dựng và tổ chức, quản lý rừng Nhà nước nói riêng để lựa chọn loại hình
tổ chức quản lý kinh doanh rừng Nhà nước trong điều kiện kinh tế thị trường
ở nước ta một cách hợp lý và hiệu quả hơn. Trong hệ thống Lâm trường quốc
doanh hiện có, phải tuỳ điều kiện ở từng địa phương để lựa chọn mô hình tổ
chức kinh doanh có hiệu quả. Có nơi có thể lấy Lâm trường quốc doanh hiện
có làm đơn vị cơ sở, nhưng có nơi có thể tổ chức thành tổng công ty. Có Lâm
trường quốc doanh có thể áp dụng ngay mô hình tổ chức và hạch toán đầy đủ,
tách rời quản lý Nhà nước và quản lý kinh doanh ngay, nhưng có Lâm trường
16
Bộ Kế hoạch và đầu tư, Đề tài: Tổ chức và chính sách đối với Lâm trường quốc doanh: Thực trạng và giải
pháp, 2001.
22
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Hoà- Lớp KTPT K42
quốc doanh phải tạm thời áp dụng mô hình tổ chức hạch toán theo kiểu đơn vị
sự nghiệp có thu, chưa tách rời ngay chức năng quản lý Nhà nước và quản lý
kinh doanh.
Phải nghiên cứu và thể chế hoá những cơ chế quản lý có tính chất đặc
thù của Lâm trường quốc doanh, trước hết là cơ chế giao rừng tự nhiên cho
các Lâm trường quốc doanh quản lý để sản xuất lâm sản có đánh giá giá trị
của rừng và có thu hồi lại giá trị rừng đã sử dụng.
Phải đánh giá đúng thực trạng của các Lâm trường quốc doanh, phải
có những tiêu chí cụ thể để phân loại các Lâm trường quốc doanh hiện có, xác
định định hướng chuyển đổi chính xác cho từng Lâm trường quốc doanh. Tuỳ
theo mục đích kinh doanh và giai đoạn phát triển rừng của từng loại Lâm
trường quốc doanh để xây dựng các cơ chế quản lý, nhất là cơ chế tài chính
cho từng loại Lâm trường quốc doanh một cách hợp lý. Chuyển các Lâm
trường quốc doanh sang thực hiện cơ chế kinh doanh không có nghĩa là nhất
loạt cắt bỏ những trợ giúp của Nhà nước.
Tuy vậy, việc đổi mới các Lâm trường quốc doanh vẫn còn có rất nhiều
quan điểm. Một loại ý kiến đánh giá cho rằng Lâm trường quốc doanh thiên
về mặt tiêu cực là Lâm trường quốc doanh đã hình thành và xây dựng từ
nhiều năm nay, tốn nhiều tiền của, công sức nhưng kết quả đạt được không
tương xứng với việc đầu tư, không ít lâm trường hoạt động sản xuất kinh
doanh đạt hiệu quả thấp, thua lỗ, tiêu cực cả về tiền vốn, vật tư, thiết bị, đất
đai,…Vì vậy, không nên duy trì mô hình Lâm trường quốc doanh mà cần phải
giải thể, chuyển thể. Nhiều loại ý kiến khác lại thiên về mặt thành tích và đề
cao cho rằng mô hình Lâm trường quốc doanh là hiện hữu của chủ nghĩa xã
hội do vậy cần tồn tại. Nhiều ý kiến cũng cho rằng Lâm trường quốc doanh là
doanh nghiệp Nhà nước trong lâm nghiệp ở nông thôn, nó có những ưu điểm
và mặt mạnh riêng mà kinh tế hộ hoặc các thành phần kinh tế khác không có.
Nhất là trong giai đoạn hiện nay lâm trường vẫn có vai trò đối với sự nghiệp
23
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Hoà- Lớp KTPT K42
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, không ít nơi lâm
trường còn có vai trò quan trọng trong lĩnh vực văn hoá, xã hội, an ninh và
quốc phòng. Vì vậy, cần tiếp tục duy trì và đổi mới Lâm trường quốc doanh;
nhưng cũng có ý kiến cho rằng kinh tế hộ và các thành phần kinh tế khác đều
làm được những công việc sản xuất, kinh doanh của lâm trường, thậm chí còn
làm tốt hơn, do đó không nhất thiết phải có sự tồn tại của lâm trường.
Tựu chung lại là chúng ta nên rà soát, xem xét từng Lâm trường quốc
doanh để có quyết định có cần thiết duy trì, xác định quy mô và nội dung sản
xuất, kinh doanh phù hợp với yêu cầu cụ thể của lâm trường trên địa bàn để
nhằm mục đích phát huy tối đa các nguồn lực (đất đai, lao động, vốn nhàn
rỗi,..); phát huy cơ sở vật chất, con người sẵn có của lâm trường trong những
năm qua; tạo mọi điều kiện để nông dân chủ động sản xuất kinh doanh, giải
phóng các nguồn lực (đất đai, lao động), lâu nay bị bó buộc người lao động
không được quyền quyết định việc sử dụng đất đai, lao động của mình, trong
đó lâm trường có quyền quyết định việc sử dụng nhưng không hiệu quả dẫn
đến tranh chấp đất đai, tài nguyên. Việc đổi mới lần này, cũng phải coi rừng
trồng và vườn cây phải là một tài sản gắn liền với nông dân, lâm trường để có
thể dễ dàng giao dịch trên thị trường vốn, có thể thế chấp tài sản này để vay
vốn phát triển sản xuất kinh doanh. Cuối cùng, là việc trồng rừng cần phải
tính đến cả hai lợi ích, đó là lợi ích kinh tế như: cung cấp gỗ, củi, lâm sản,..
lợi ích này ai thu thì phải đầu tư, Nhà nước không đầu tư cho lợi ích này; hai
là lợi ích về môi trường- xã hội, khi một cá nhân trồng rừng thì xã hội được
hưởng không một lợi ích là rừng điều hoà khí hậu, sinh thủy, hạn chế lũ lụt,
hạn hán,… Do vậy Nhà nước cần hỗ trợ một phần cho dân trồng rừng do lợi
ích này mang lại.
24
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Hoà- Lớp KTPT K42
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÁC LÂM TRƯỜNG QUỐC DOANH
TRONG THỜI GIAN QUA
2.1 Thực trạng Lâm trường quốc doanh trước thời kỳ đổi mới.
Lâm trường quốc doanh được thành lập đầu tiên ở miền Bắc vào năm
1958 với nhiệm vụ trồng rừng chống cát bay ở Nam Quảng Bình. Vào đầu
thập kỷ 60, đã phát triển thêm nhiều Lâm trường quốc doanh trồng rừng ở
những vùng đồi trọc thuộc nhiều tỉnh khác ở miền Bắc nhất là ở Thái Nguyên,
Yên Bái, Nghệ An, Quảng Ninh.
Vào thời kỳ khôi phục kinh tế, Lâm trường quốc doanh là loại hình sản
xuất có số lượng đơn vị nhiều nhất, được bố trí ở nhiều vùng rừng có điều
kiện khó khăn, được giao quản lý gần như hầu hết diện tích rừng của đất nước
và thực hiện nhiều nhiệm vụ cơ bản nhất của ngành Lâm nghiệp. Trong suốt
giai đoạn 1960- 1975, các Lâm trường quốc doanh ở ngành Lâm nghiệp đã
được thành lập và phát triển liên tục.
Đến năm 1975, trên miền Bắc đã có gần 200 Lâm trường quốc doanh
và đến đầu năm 1978, ở các tỉnh miền Nam đã thành lập được 60 Lâm trường
quốc doanh. Hệ thống Lâm trường quốc doanh xây dựng thời kỳ này có đặc
điểm chính như sau
17
:
Phần lớn các Lâm trường quốc doanh đều thành lập ở những vùng
nhiều rừng hoặc nhiều đất trống đồi trọc.
Tổ chức và xây dựng theo mô hình quản lý Lâm trường quốc doanh
đã tồn tại trong thời kỳ trước năm 1975.
Phát triển từ những công trình khai thác gỗ do cán bộ nhân viên Nhà
nước quản lý và sử dụng lực lượng thiết bị và công nhân tư nhân, sau đó
tuyển dụng công nhân cố định, ăn lương Nhà nước, hoạt động theo kế hoạch
17
Nguyễn Văn Đẳng, Lâm nghiệp Việt Nam 1945-2000, NXB Nông nghiệp, 2001.
25