VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN KHÁNH LY
KHAI THÁC THÔNG TIN SÁNG CHẾ PHỤC VỤ HOẠT ĐỘNG
QUẢN LÝ CÔNG NGHỆ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP KHỞI
NGHIỆP ĐỔI MỚI SÁNG TẠO
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Hà Nội, 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN KHÁNH LY
KHAI THÁC THÔNG TIN SÁNG CHẾ PHỤC VỤ HOẠT ĐỘNG
QUẢN LÝ CÔNG NGHỆ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP KHỞI
NGHIỆP ĐỔI MỚI SÁNG TẠO
Ngành: Quản lý khoa học và công nghệ
Mã số: 8 34 04 12
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN LÊ HỒNG
Hà Nội, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, được thực hiện dưới
sự hướng dẫn khoa học của TS. Trần Lê Hồng. Các số liệu, những kết luận nghiên
cứu được trình bày trong luận văn hoàn toàn trung thực. Tôi xin hoàn toàn chịu
trách nhiệm về lời cam đoan này.
Học viên
Nguyễn Khánh Ly
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................................................. 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHAI THÁC THÔNG TIN SÁNG CHẾ
VÀ QUẢN LÝ CÔNG NGHỆ CỦA DOANH NGHIỆP KHỞI NGHIỆP
ĐỔI MỚI SÁNG TẠO..................................................................................................................... 5
1.1 Một số lý luận cơ bản về khai thác thông tin sáng chế........................................ 5
1.2 Một số vấn đề lý luận về doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.......16
1.3 Một số vấn đề lý luận cơ bản về khai thác thông tin sáng chế trong
quản lý công nghệ của các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo...........23
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC THÔNG TIN
SÁNG CHẾ PHỤC VỤ QUẢN LÝ CÔNG NGHỆ CỦA CÁC DOANH
NGHIỆP KHỞI NGHIỆP ĐỔI MỚI SÁNG TẠO........................................................... 39
2.1 Thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng
tạo.................................................................................................................................................. 40
2.2 Thực trạng hoạt động quản lý công nghệ của các doanh nghiệp khởi
nghiệp đổi mới sáng tạo........................................................................................................ 43
2.3 Thực trạng hoạt động khai thác thông tin sáng chế của các doanh
nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo............................................................................... 45
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG QUẢN LÝ
CÔNG NGHỆ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP KHỞI NGHIỆP ĐỔI MỚI
SÁNG TẠO TRÊN NỀN TẢNG KHAI THÁC THÔNG TIN SÁNG CHẾ........66
3.1 Chủ trương của Đảng và Nhà nước trong phát triển các doanh nghiệp
khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.............................................................................................. 66
3.2 Phương hướng tăng cường quản lý công nghệ của các doanh nghiệp
khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.............................................................................................. 68
3.3 Giải pháp tăng cường quản lý công nghệ của các doanh nghiệp khởi
nghiệp đổi mới sáng tạo trên nền tảng khai thác thông tin sáng chế...................70
KẾT LUẬN......................................................................................................................................... 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................................ 81
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1.1 Ví dụ về sự thể hiện thông tin kỹ thuật của sáng chế........................................ 26
Hình 1.2: Ví dụ về yêu cầu bảo hộ trong đơn đăng ký sáng chế...................................... 29
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng ghi
nhận trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội nói chung và tăng trưởng kinh tế nói
riêng. Sự tăng trưởng kinh tế được duy trì liên tục, ở mức tương đối cao trong hơn
một thập kỷ và đi cùng với đó là việc huy động các nguồn lực cho tăng trưởng, trình
độ, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Chủ trương đổi mới mô hình
tăng trưởng của Việt Nam đã được khẳng định tại Đại hội Đảng lần thứ XI và XII,
trong đó nhấn mạnh tăng trưởng cần chuyển dần sang dựa vào công nghệ, dựa vào
đổi mới sáng tạo. Nghị quyết số 05-NQ/TW Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XII về một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi
mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức
cạnh tranh của nền kinh tế đã đề ra những giải pháp lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô
hình tăng trưởng, nâng cao năng suất và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Trên tinh thần phát triển đất nước trong thời đại ứng dụng nền tảng khoa học
công nghệ, công nghệ - xuất phát từ đặc tính sở hữu - đã trở thành một lợi thế cạnh
tranh quan trọng cho các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp khởi nghiệp đổi
mới sáng tạo nói riêng. Bên cạnh đó, thông tin công nghệ có thể được coi là sự thể
hiện của công nghệ. Cạnh tranh về mặt công nghệ đòi hỏi thông tin công nghệ phải
được bảo vệ chặt chẽ, nhằm đảm bảo lợi thế cho doanh nghiệp.
Bằng độc quyền sáng chế là một biện pháp hữu hiệu để bảo vệ thông tin công
nghệ, bởi vậy, thông tin sáng chế là nguồn thông tin quan trọng và luôn cập nhật
thông tin công nghệ. Việc đánh giá đúng vai trò, tầm quan trọng của thông tin sáng
chế và xác định nhu cầu khai thác thông tin sáng chế trong quản lý công nghệ của
các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo là việc làm cần thiết. Tuy nhiên,
nhiều doanh nghiệp chỉ đang quan tâm đến phát triển sản phẩm, gọi vốn đầu tư, lập
kế hoạch marketing, bán hàng mà quên mất sở hữu trí tuệ, bảo vệ ý tưởng vốn là
quyền pháp lý quan trọng của khởi nghiệp. Công tác khai thác thông tin sáng chế
còn đang bị bỏ ngỏ và cần được phát triển trong thời gian tới. Từ nhận định trên, tôi
đã chọn đề tài “Khai thác thông tin sáng chế phục vụ hoạt động quản lý công nghệ
của các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo” cho Luận văn khoa học
chuyên ngành Quản lý Khoa học và Công nghệ của mình.
1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Việc phân tích thông tin sáng chế để định hướng phát triển công nghệ hiện
nay rất được chú trọng trong quá trình quản lý công nghệ của các quốc gia trên thế
giới. Tuy nhiên, tại Việt Nam, khai thác thông tin sáng chế chưa được quan tâm triệt
để và chưa có ảnh hưởng lớn đến công tác quản lý công nghệ của các doanh nghiệp
khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Tầm quan trọng và vai trò của thông tin sáng chế
chưa được các doanh nghiệp này đánh giá cao.
Trên thực tế đã có một số nghiên cứu về vai trò của thông tin sáng chế trong
việc thúc đẩy hoạt động sáng tạo hoặc nghiên cứu vai trò của thông tin sáng chế đối
với quản lý công nghệ ở các doanh nghiệp nhưng mới chỉ ở cấp độ cơ bản nhằm
phục vụ chủ yếu cho người nộp đơn đăng ký sáng chế. Ngoài ra, các thông tin đăng
tải trên tạp chí, trên internet về sở hữu công nghiệp cũng mới chỉ đề cập đến việc
khai thác nguồn dữ liệu, phục vụ tra cứu thông tin và hướng dẫn thủ tục cho người
nộp đơn đăng ký sáng chế.
Luận văn kế thừa kết quả nghiên cứu đã có về thông tin sáng chế và quản lý
công nghệ: “Vai trò của thông tin sáng chế đối với quản lý công nghệ ở các doanh
nghiệp” để phát triển nghiên cứu đi sâu hơn về công tác khai thác thông tin sáng chế
phục vụ hoạt động quản lý công nghệ của doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo
theo 03 mảng chính: khai thác thông tin sáng chế, quản lý công nghệ ở các doanh
nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo và mối liên quan giữa khai thác thông tin sáng chế
với quản lý công nghệ ở các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Những nghiên cứu của luận văn nhằm thực hiện cơ sở lý luận về hoạt động khai
thác thông tin sáng chế của cộng đồng doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.
Đồng thời đề xuất được các giải pháp phù hợp nhằm thúc đẩy hoạt động khai thác
thông tin sáng chế phụ vụ phát triển doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Hệ thống hoá những vấn đề lý luận liên quan tới hoạt động khai thác thông
tin sáng chế. Làm rõ vai trò quản lý nhà nước đối với hoạt động khai thác thông tin
sáng chế của doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo;
2
Phân tích thực trạng hoạt động khai thác thông tin sáng chế, từ đó tìm ra
được các hạn chế và nguyên nhân của các hạn chế trong hoạt động khai thác thông
tin sáng chế phụ vụ cho hoạt động quản lý công nghệ của các doanh nghiệp khởi
nghiệp đổi mới sáng tạo;
Đề xuất các giải pháp tăng cường quản lý công nghệ của các doanh nghiệp
khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trên nền tảng khai thác thông tin sáng chế.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hệ thống lý luận về khai thác thông tin
sáng chế; hệ thống lý luận về quản lý công nghệ; mỗi liên hệ giữa khai thác thông
tin sáng chế và quản lý công nghệ của các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng
tạo tại Việt Nam và các hoạt động thực tiễn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nội dung: Luận văn nghiên cứu tổng quan hoạt động khai thác
thông tin sáng chế trong việc quản lý công nghệ ở các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi
mới sáng tạo;
Phạm vi thời gian: Luận văn sử dụng các số liệu liên quan đến vấn đề
nghiên cứu trong giai đoạn 2015-2019.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được tác giả thực hiện chủ yếu theo phương pháp nghiên cứu tài liệu,
ngoài ra còn có phương pháp so sánh, đánh giá:
a. Phân tích, tổng hợp các thông tin qua một số nguồn tài liệu khác để phản ánh
thực trạng vấn đề nghiên cứu từ thực tiễn cuộc sống.
b. Thực hiện so sánh và đánh giá số liệu khai thác được từ việc nghiên cứu tài liệu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Từ kết quả nghiên cứu của luận văn, tác giả muốn làm sáng tỏ, tường minh
phần cơ sở lý luận của các hoạt động khai thác thông tin sáng chế, từ đó nêu lên vai
trò và tầm quan trọng của khai thác thông tin sáng chế đối với hoạt động quản lý
công nghệ ở các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Đồng thời, đưa ra các
phương hướng và giải pháp tăng cường quản lý công nghệ của các doanh nghiệp
này trên nền tảng khai thác thông tin sáng chế, góp phần nâng cao nhận thức của
3
các nhà khởi nghiệp sáng tạo về thông tin sáng chế, gia tăng khả năng khai thác hiệu
quả kênh thông tin sáng chế nhằm phục vụ tốt công tác quản lý công nghệ của mình,
đảm bảo quyền lợi và tính cạnh tranh trên thị trường.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì có
03 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về khai thác thông tin sáng chế và hoạt động quản
lý công nghệ của doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo
Chương 2: Thực trạng hoạt động khai thác thông tin sáng chế phục vụ quản
lý công nghệ của các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo
Chương 3: Giải pháp tăng cường quản lý công nghệ của các doanh nghiệp
khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trên nền tảng khai thác thông tin sáng chế.
4
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHAI THÁC THÔNG TIN SÁNG CHẾ
VÀ QUẢN LÝ CÔNG NGHỆ CỦA DOANH NGHIỆP KHỞI NGHIỆP
ĐỔI MỚI SÁNG TẠO
1.1 Một số lý luận cơ bản về khai thác thông tin sáng chế
1.1.1 Khái niệm sáng chế và thông tin sáng chế
1.1.1.1 Khái niệm sáng chế
Sáng chế là sản phẩm, quy trình công nghệ do con người tạo ra chứ không
phải là những gì đã tồn tại trong tự nhiên được con người khám phá, ví dụ: kết cấu
máy móc, linh kiện, thiết bị, vật liệu, thực phẩm, dược phẩm, quy trình công nghệ,
phương pháp chuẩn đoán, dự báo,… hay nói cách khác, sáng chế là một giải pháp
cho một vấn đề cụ thể trong lĩnh vực công nghệ bất kỳ, từ các vật dụng đơn giản
như ổ điện, mắc áo,... đến các quy trình, thiết bị hiện đại thuộc lĩnh vực công nghệ
cao như máy lọc nước, tivi,... Sáng chế có thể liên quan đến sản phẩm hoặc quy
trình nhằm giải quyết các vấn đề của con người.
Theo Luật Sở hữu trí tuệ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Sáng
chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải quyết một vấn
đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên”. [21, khoản 12 Điều 4].
Thực tế cho thấy, quá trình từ khi ý tưởng được xây dựng cho đến khi sáng
chế hoàn chỉnh được ra đời là tương đối dài, đồng nghĩa với việc nhà sáng chế
thường phải thử nghiệm nhiều lần mới có được kết quả như mong đợi. Việc sáng tạo
ra sản phẩm mới đòi hỏi sự đầu tư về thời gian, tiền bạc và công sức rất lớn. Tuy
nhiên, việc bắt chước, làm nhái sau đó lại quá dễ dàng. Do vậy, điều cần làm ngay
sau khi tạo ra thành công một sáng chế là xác lập quyền sở hữu trí tuệ cho sáng chế
đó. Sáng chế được bảo hộ độc quyền dưới hình thức cấp Bằng độc quyền sáng chế
hoặc Bằng độc quyền giải pháp hữu ích.
“Quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế được xác lập trên cơ sở quyết
định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký
quy định tại Luật này.” [21, khoản 3.a, Điều 6]
Thông qua quá trình xác lập quyền, bằng độc quyền sáng chế được cơ quan
cấp nhà nước có thẩm quyền (hoặc một cơ quan nhân danh khu vực) cấp cho một
5
sáng chế, dựa trên cơ sở một đơn yêu cầu bảo hộ, cho phép bảo vệ các sáng chế
bằng một sự độc quyền trong thời hạn nhất định. Việc bảo hộ sáng chế có nghĩa là
người khác không được phép sản xuất, sử dụng, phân phối hoặc bán đối tượng được
bảo hộ trên thị trường khi không được sự đồng ý của chủ sở hữu sáng chế. Chủ sở
hữu sáng chế có quyền quyết định việc có sử dụng hay không sử dụng sáng chế
được bảo hộ trong suốt thời gian hiệu lực; có thể cho phép người khác sử dụng sáng
chế hoặc chuyển giao quyền sử dụng sáng chế cho người khác theo các điều kiện
thỏa thuận; cũng có thể chuyển nhượng sáng chế cho người khác, khi đó người được
chuyển nhượng sẽ là chủ sở hữu mới của sáng chế. Khi sáng chế hết hiệu lực, việc
bảo hộ kết thúc, chủ sở hữu sáng chế không còn có quyền độc quyền đối với sáng
chế đó nữa thì bất kỳ ai cũng đều có thể khai thác và sử dụng được sáng chế mà
không bị xâm phạm quyền.
Theo Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới: “Bằng độc quyền sáng chế là một độc
quyền được cấp cho một sáng chế, đó là một sản phẩm hoặc một quy trình mà nói
chung, tạo ra một cách thức mới để thực hiện một việc gì đó, hoặc đề xuất một giải
pháp kỹ thuật mới cho một vấn đề.” [19]
Bằng độc quyền sáng chế mô tả một sáng chế và thiết lập một điều kiện pháp
lý mà theo đó sáng chế đã được cấp bằng độc quyền chỉ có thể được khai thác một
cách bình thường khi chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế cho phép. Bằng độc
quyền sáng chế tạo ra sự bảo hộ độc quyền cho chủ sở hữu sáng chế (hoặc chủ văn
bằng), sự bảo hộ này chỉ có hiệu lực trên lãnh thổ của quốc gia (nhóm quốc gia) cấp
bằng đó. Hiệu lực của Bằng độc quyền sáng chế có giới hạn về thời gian, tuỳ thuộc
vào quy định của từng quốc gia (nhóm quốc gia) và thường là 20 năm.
1.1.1.2 Khái niệm thông tin sáng chế
Thông tin là bất kỳ thực thể hoặc hình thức cung cấp câu trả lời cho một câu
hỏi nào hoặc giải quyết sự không chắc chắn [26]. Thông tin phản ánh sự vật, sự
việc, hiện tượng của thế giới khách quan và các hoạt động của con người trong đời
sống xã hội. Con người luôn có nhu cầu thu thập thông tin bằng nhiều cách khác
nhau như: đọc báo, nghe đài, xem truyền hình, giao tiếp với người khác. Thông tin
là nguồn gốc của nhận thức và là cơ sở của quyết định.
6
Thông tin sáng chế, theo định nghĩa của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới
(WIPO), là các thông tin về kĩ thuật và pháp lý có trong các tài liệu sáng chế được
công bố định kì bởi các cơ quan sáng chế có thẩm quyền. Một tài liệu sáng chế bao
gồm phần mô tả đầy đủ về cách thức sử dụng của phát minh và các điểm yêu cầu
bảo hộ xác định phạm vi bảo hộ của sáng chế, thời điểm được cấp bằng sáng chế và
các tài liệu liên quan. [21]
“Thông tin sáng chế bao gồm:
(1) thông tin kỹ thuật liên quan đến các đối tượng vật dụng, sản phẩm, quy
trình và sử dụng và được mô tả trong các ví dụ, các hình vẽ và trong bản mô tả của
tư liệu sáng chế,
(2) thông tin về tình trạng pháp lý liên quan đến việc bằng độc quyền sáng
chế hay các quyền sở hữu công nghiệp khác có hiệu lực hay không, các dữ liệu từ
người nộp đơn,... và
(3) các thông tin thư mục liên quan đến tư liệu sáng chế đã được công bố.”
[7, tr.19 - 20]
Thông tin sáng chế không chỉ bao gồm nội dung của các tài liệu bằng sáng
chế được công bố mà còn cả thư mục và thông tin khác liên quan đến bằng sáng chế
cho các phát minh, chứng chỉ của nhà phát minh, chứng chỉ tiện ích và mô hình tiện
ích. Đây là bộ sưu tập tài liệu kỹ thuật lớn nhất, được phân loại tốt và cập nhật nhất
về các công nghệ mới và sáng tạo.
Hệ thống sáng chế cân bằng giữa sự độc quyền sáng chế được cấp cho chủ sở
hữu và nghĩa vụ công khai thông tin về công nghệ mới được phát triển. Do đó,
người nộp đơn bắt buộc phải tiết lộ thông tin rộng rãi về các phát minh của mình.
Việc người nộp đơn sáng chế tiết lộ thông tin về sáng chế của mình là rất quan trọng
đối với sự phát triển liên tục của công nghệ. Thông tin này cung cấp cơ sở để các
nhà phát minh khác có thể dựa theo đó phát triển giải pháp kỹ thuật mới, nếu không
công bố sẽ không có cách nào để công chúng có được thông tin về sự phát triển kỹ
thuật.
Ưu điểm của thông tin sáng chế:
Thông tin sáng chế là tập hợp lớn nhất, được phân loại tốt nhất và được cập
nhật thường xuyên nhất của các tài liệu kỹ thuật về các công nghệ mới và cải tiến.
7
Thông tin này cho biết sự phát triển của các công nghệ tiên tiến nhất, có nội dung kĩ
thuật phong phú và được bộc lộ chi tiết, xác định phạm vi bảo hộ của mỗi văn bằng
độc quyền, hướng dẫn hình thức chung các bản mô tả, và có thể dễ dàng tra cứu.
Trên hết, các doanh nghiệp cần tra cứu thông tin sáng chế của các doanh
nghiệp khác để nắm bắt tình hình cạnh tranh trên thị trường, xu hướng đâu tư công
nghệ, theo dõi sáng chế của đối thủ cạnh tranh, phẩn đối, yêu cầu hủy bỏ những
sáng chế có thể ảnh hưởng đến sáng chế của mình. Ngoài ra còn có các thông tin
hữu ích giúp doanh nghiệp hoạch định chiến lược phát triển sản phẩm như bản đồ
phát triển công nghệ, trong đó các sáng chế về phương pháp mới hoặc cơ cấu mới
có liên quan với nhau bằng một công nghệ then chốt được sắp xếp và biểu thị theo
một trình tự nhất định theo thời gian.
Để giúp các doanh nghiệp có thể dễ dàng tra cứu, một số cơ quan như Cục
Sáng chế Nhật Bản (JPO) còn có các "bản đồ sáng chế ", nêu hình vẽ một số sản
phẩm, cùng với mũi tên chỉ các phần có thể được cấp sáng chế và mã số phân loại.
1.1.1.3 Bản đồ sáng chế
Bản đồ sáng chế là một mô hình đồ họa của trực quan bằng sáng chế. Mô
hình này cho phép các công ty xác định các bằng sáng chế trong một không gian
công nghệ cụ thể, xác minh các đặc điểm của các bằng sáng chế này và xác định các
mối quan hệ giữa chúng, để xem liệu có bất kỳ vi phạm nào không. Bản đồ sáng chế
được xây dựng bằng cách thu thập thông tin bằng sáng chế liên quan của mục tiêu
lĩnh vực công nghệ, xử lý và phân tích nó.
Thuật ngữ bản đồ sáng chế thường được hiểu đơn giản là thông tin sáng chế
được thu thập cho một mục đích sử dụng cụ thể, sắp xếp, phân tích và mô tả trong
một hình thức trình bày trực quan như biểu đồ hoặc bảng. Bản đồ sáng chế là thông
tin có tất cả các tính năng sau đây:
c. Bản đồ sáng chế dựa trên thông tin bằng sáng chế: Thông tin sáng chế có nhiều
ưu điểm độc đáo khác nhau như xuất bản sớm, bao gồm nhiều lĩnh vực kỹ thuật và
sử dụng một định dạng thống nhất. Bằng cách sử dụng thông tin sáng chế làm cơ sở,
những lợi thế thông tin có sẵn trong Bản đồ sáng chế không cần phát triển thêm.
d. Bản đồ sáng chế có mục đích sử dụng rõ ràng: Một trong những yếu tố quan
trọng nhất của bản đồ sáng chế là nó có mục đích sử dụng rõ ràng. Bất kì bản đồ
sáng chế nào không có mục đích sử dụng rõ ràng thì không có khả năng áp dụng.
8
e. Bản đồ sáng chế bao gồm thông tin sáng chế phù hợp cho mục đích sử dụng:
Việc thu thập tài liệu sáng chế ít nhưng không bỏ sót đòi hỏi người xử lý thông tin phải
có kiến thức rộng và nhiều kinh nghiệm về thông tin sáng chế, bao gồm đọc thông tin
sáng chế, truy cập cơ sở dữ liệu, tìm kiếm và phân loại sáng chế. Những việc làm này
mất tương đối nhiều thời gian. Thông tin sáng chế được thu thập theo mục đích sử dụng
có nghĩa là những thông tin này đã sẵn sàng để sử dụng ngay lập tức.
f. Bản đồ sáng chế chứa thông tin bằng sáng chế có tổ chức: Tổ chức thông tin
sáng chế đòi hỏi chuyên môn trong lĩnh vực kỹ thuật có liên quan. Trên thực tế, bản
đồ sáng chế chứa thông tin sáng chế có tổ chức có nghĩa là những thông tin sáng chế
đã được phân tích, chia theo các lĩnh vực kỹ thuật, được lập chỉ mục khi cần thiết và
sắp xếp phù hợp với mục đích sử dụng.
g. Bản đồ sáng chế trình bày thông tin một cách trực quan: Tính năng dễ hiểu
nhất của Bản đồ sáng chế là hình ảnh trực quan nhưng không nhất thiết là phải được
trình bày dưới dạng biểu đồ hoặc bản vẽ. Không có giới hạn cụ thể về định dạng để
trình bày một Bản đồ sáng chế.
Bản đồ sáng chế thường được thể hiện dưới nhiều hình thái biểu đồ khác
nhau tùy thuộc vào thông tin và không có quy chuẩn cụ thể. Tuy nhiên, có 12 loại
biểu đồ thường được sử dụng để xây dựng bản đồ sáng chế, bao gồm: 1/ Bản đồ dựa
trên yếu tố; 2/ Sơ đồ phát triển công nghệ; 3/ Bản đồ quan hệ nội trú; 4/ Bản đồ ma
trận; 5/ Sơ đồ nghệ thuật hệ thống hóa; 6/ Bản đồ chuỗi thời gian; 7/ Bản đồ phân
tích Twin Peaks; 8/ Bản đồ trưởng thành; 9/ Bản đồ xếp hạng; 10/ Chia sẻ bản đồ;
11/ Bản đồ bộ xương; 12/ Bản đồ radar.
Thống kê sáng chế và lập bản đồ bằng sáng chế có thể cung cấp thông tin vô
giá cho các nhà ra quyết định của công ty, nhà đầu tư (nhà đầu tư mạo hiểm, ngân
hàng quảng cáo), nhà đổi mới (R & D), người có ảnh hưởng (văn phòng sáng chế,
nhà hoạch định chính sách) và quản lý. Bản đồ sáng chế cho phép những người
không quen thuộc với hệ thống sở hữu trí tuệ có thể nắm bắt được thông tin sáng
chế để tìm hiểu về xu hướng công nghệ, sự lan rộng của mạng lưới sáng chế và lĩnh
vực phát triển chiến lược của đối thủ cạnh tranh.
1.1.2 Khái niệm về khai thác thông tin sáng chế
“Khai thác” theo từ điển Tiếng Việt là hành động thu lấy những gì có sẵn,
hoặc tận dụng những khả năng tiềm tàng, đang ẩn giấu, hoặc tra xét, dò hỏi để thêm
điều bí mật.
9
Khai thác thông tin sáng chế là quá trình thu thập các thông tin về kĩ thuật và
pháp lý có trong các tài liệu sáng chế được công bố, bao gồm: Đơn yêu cầu cấp
bằng độc quyền sáng chế, Bằng độc quyền sáng chế và thông tin bất kỳ khác liên
quan đến sáng chế (sửa đổi, bổ sung, chuyển nhượng,...). Việc thu thập này bản chất
là tìm và tập hợp thông tin sáng chế theo những tiêu chí cụ thể nhằm làm rõ những
vấn đề và nội dung liên quan đến sáng chế. Hay nói cách khác, khai thác thông tin
sáng chế là quá trình thu thập và xử lý những thông tin thiết thực về các sáng chế có
liên quan đến sản phẩm sáng tạo của một cá nhân hoặc tập thể.
Bản chất của khai thác thông tin sáng chế:
Tìm được sáng chế được mô tả bằng một ngôn ngữ khác;
Đánh giá tầm quan trọng toàn cầu của một sáng chế (họ sáng chế càng có
nhiều thành viên, thì sáng chế đó càng quan trọng);
Xác định đối thủ cạnh tranh và đối tác kinh doanh tiềm năng trong chiến
lược tiếp thị toàn cầu cho sản phẩm hay quy trình.
Thông tin sáng chế bao gồm nhiều loại thông tin kỹ thuật và pháp lý có thể
được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau bao gồm:
Khai thác những thông tin định hướng về các chủ đề mới về nghiên
cứu/tra cứu nghiên cứu và phát triển (R&D);
Phân tích các định hướng nghiên cứu và xu hướng thị trường vào thời
điểm bắt đầu phát triển công nghệ/ thương mại;
Xác định các bằng độc quyền sáng chế đang cản trở việc thâm nhập thị
trường xác định tình trạng pháp lý của các bằng độc quyền đó;
Xác định các sáng chế của công ty liên quan với tình trạng kỹ thuật đã biết
(xác định sáng chế đồng dạng nước ngoài khi tiến hành hoạt động kinh doanh);
Đưa ra các yêu cầu bảo hộ rộng và mạnh;
Xác định các chủ đề R&D và xu hướng nghiên cứu của các đối thủ;
Đánh giá công nghệ (sáng chế) trước khi cấp li xăng;
Xác định các li xăng triển vọng;
Xác định công ty có nhiều khả năng vi phạm;
Đánh giá chất lượng công nghệ và kết quả nghiên cứu;
10
1.1.3 Các hoạt động khai thác thông tin sáng chế
Thông tin sáng chế trên toàn thế giới hiện nay được chứa đựng trong một kho
dữ liệu khổng lồ. Khoảng 2/3 thông tin kỹ thuật được bộc lộ trong quá trình xử lý
sáng chế chưa từng được công bố ở bất kỳ nơi nào khác với số lượng tư liệu sáng
chế trên thế giới nhiều hơn 70 triệu bản.
Thông tin sáng chế rất hữu ích cho các doanh nghiệp và các nhà sáng chế vì
nhiều lý do. Lý do quan trọng nhất là thông tin sáng chế là nguồn thông tin kỹ thuật
duy nhất mà họ có thể sử dụng một cách rất hữu ích cho kế hoạch kinh doanh của
mình. Hầu hết các sáng chế được bộc lộ lần đầu tiên đối với công chúng khi sáng
chế hoặc đơn đăng ký sáng chế được công bố. Vì vậy, thông tin sáng chế là nguồn
thông tin có giá trị về các nghiên cứu và các đổi mới.
Những con số thống kê về đơn sáng chế là minh chứng cho sự gia tăng về
nhu cầu bảo hộ sáng chế trên toàn thế giới. Chỉ trong 4 năm gần đây, lượng đơn
đăng ký sáng chế được nộp là hơn 12 triệu đơn và gần 5 triệu sáng chế được bảo hộ.
Sự sáng tạo của con người là không giới hạn, cùng với sự thay đổi không ngừng
nghỉ theo xã hội phát triển là lí do để các nhà nghiên cứu, nhà sáng chế cho ra đời
nhiều sáng chế phục vụ cho cuộc sống. Hiểu được tầm quan trọng của bảo hộ sáng
chế để bảo vệ quyền lợi của mình khi tham gia thị trường đã khiến cho họ có ý thức
hơn về nộp đơn đăng ký sáng chế, từ đó số lượng sáng chế vẫn gia tăng hàng năm
trên toàn thế giới.
h. Hoạt động tra cứu thông tin sáng chế:
Thông tin sáng chế được đưa đến với công chúng thông qua một loạt cơ sở
dữ liệu. Mỗi cơ sở dữ liệu chứa một tập hợp các tư liệu sáng chế nhất định. Hiện tại,
không có cơ sở dữ liệu nào chứa tất cả tư liệu sáng chế đã được công bố trên toàn
thế giới từ trước đến nay. Vì vậy, có thể phải tham vấn nhiều cơ sở dữ liệu khác
nhau để tìm ra và truy cập các tài liệu sáng chế mà người dùng quan tâm.
Việc tra cứu tư liệu sáng chế sẽ cho phép người dùng tìm thấy các thông tin
về xu hướng phát triển gần đây của một loạt lĩnh vực kỹ thuật. Trên thực tế, trong
một số lĩnh vực công nghệ, những phát triển mới đầu tiên và đôi khi chỉ được bộc lộ
trong tài liệu sáng chế. Tuy nhiên, điều cần lưu ý là sự có hạn của dữ liệu đang được
tra cứu. Không có bất cứ dữ liệu nào chứa tất cả thông tin kỹ thuật hiện có, hay toàn
11
bộ thông tin sáng chế hiện có. Thông tin có thể bị giới hạn về thời gian lưu trữ hay
quốc gia cung cấp nguồn thông tin hoặc các công cụ được sử dụng để tra cứu. Việc
tra cứu hiệu quả tư liệu sáng chế và các nguồn thông tin công nghệ khác thường đòi
hỏi nền kiến thức vững về lĩnh vực kỹ thuật liên quan đến sáng chế. Hiểu biết về
thuật ngữ và các vấn đề liên quan trong lĩnh vực này cũng là rất cần thiết nếu phải
xác định các tiêu chuẩn tra cứu phù hợp.
Các tiêu chuẩn mà có thể được sử dụng để tra cứu các sáng chế có liên quan là:
• Từ khóa;
• Phân loại sáng chế;
• Ngày (ví dụ: ngày ưu tiên, ngày nộp đơn, ngày công bố, ngày cấp bằng);
• Các số tham chiếu hay nhận dạng sáng chế (ví dụ: số đơn, số công bố, số bằng);
• Tên người nộp đơn/người được chuyển nhượng hay tác giả sáng chế.
Các tiêu chuẩn tra cứu khác nhau có thể được hỗ trợ bởi các dịch vụ tra cứu
khác nhau. Một số dịch vụ tra cứu có thể cho phép tra cứu tài liệu sáng chế ở phạm
vi rộng, trong khi một số dịch vụ khác lại giới hạn các tiêu chuẩn tra cứu.
Một số kênh khai thác thông tin sáng chế:
• Dịch vụ tìm kiếm thông tin sáng chế PATENTSCOPE® của Tổ chức Sở
hữu trí tuệ thế giới (WIPO): />• Cơ sở dữ liệu sáng chế của Cơ quan Sáng chế và Nhãn hiệu Hoa Kỳ
(USPTO): />• Thư viện Sở hữu Công nghiệp (IPDL) của Trung tâm Quốc gia về Đào tạo
và Thông tin Sở hữu Công nghiệp thuộc Cơ quan Sáng chế Nhật (JPO):
/>• Cơ sở dữ liệu sáng chế của Cơ quan Sáng chế châu Âu:
/>• Thư viện số về Sở hữu công nghiệp của Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam (IP LIB):
.
• Ngoài ra, còn có các dịch vụ tra cứu chuyên nghiệp nhằm thực hiện những
tra cứu về tình trạng kỹ thuật cho người nộp đơn tiềm năng, điều đó có thể là hữu
ích nếu việc tra cứu ban đầu này không đem lại kết quả mong muốn. Danh sách các
tổ chức cấp dịch vụ thông tin sáng chế có thể được tìm thấy tại:
12
/>i. Hoạt động xử lý thông tin sáng chế:
Xử lý thông tin sáng chế là việc sắp xếp, phân tích, đánh giá các dữ liệu sáng
chế có được theo yêu cầu, tiêu chí cụ thể một cách khoa học, chính xác, khách quan
nhằm cung cấp những cơ sở để xem xét, giải quyết, đưa ra các định hướng đúng đắn
và xây dựng chiến lược kinh doanh phù hợp với bối cảnh thực tế.
Thông qua việc kiểm tra tài liệu, số liệu sáng chế; các nhà sáng chế có thể hệ
thống hóa, phân tích tổng hợp số liệu, tài liệu; chỉnh lý chính xác số liệu, tài liệu để
đánh giá tình hình, xác định đúng bản chất của các sáng chế có liên quan tới sáng
chế của mình, từ đó đưa ra các giải pháp, phương án cho các quyết định quản lý
công nghệ. Có thể tóm gọn các hoạt động này trong việc xây dựng bản đồ sáng chế.
Đây là khâu then chốt, phản ánh nội dung trọng tâm hoặc kết quả cần đạt tới của
quy trình thông tin, bởi lẽ kết quả của nó là tạo lập những thông tin mới phục vụ
trực tiếp cho hoạt động quản lý công nghệ của cơ quan, tổ chức.
Cùng với tốc độ phát triển nhanh chóng của công nghệ đã tạo ra một khối
lượng lớn các sáng chế luôn được cập nhật vào nguồn thông tin sáng chế, một vấn
đề được đặt ra: không thể dừng lại tra cứu thông tin sáng chế một cách riêng rẽ và
tách biệt nhau. Cần thiết phải tập hợp thành từng nhóm các sáng chế theo một số
tiêu chí nhất định và theo dõi chúng trong những khoảng thời gian và phạm vi nhất
định theo kiểu "lập bản đồ công nghệ" để thu nhận được hình ảnh tổng thể về quá
trình phát triển công nghệ mới. Các tiêu chí thường được sử dụng bao gồm: tiêu chí
về phân loại sáng chế theo từng lĩnh vực kỹ thuật của sáng chế, tiêu chí về Chủ sáng
chế, tiêu chí về nguồn trích dẫn tài liệu có liên quan đến sáng chế,... Phân tích thông
tin sáng chế thường được tập trung vào phân tích số lượng và phân tích chất lượng
sáng chế. Một số phương pháp phân tích thông tin sáng chế thường được sử dụng:
a) Phân tích danh mục các sáng chế: tập hợp các sáng chế đang tồn tại trong
một lĩnh vực nhất định và nêu rõ Chủ sở hữu của các sáng chế đó.
b) Phân tích các yếu tố riêng biệt của sáng chế.
c) Phân tích phát triển kỹ thuật.
d) Phân tích sáng chế theo các vấn đề hoặc giải pháp được đề cập trong sáng chế.
e) Phân tích thứ bậc: sắp xếp trật tự theo thứ bậc.
13
f) Phân tích theo thời gian.
g) Phân tích mức độ chín muồi của công nghệ từ lúc bắt đầu, giai đoạn phát
triển, giai đoạn ngưng trệ, giai đoạn tái phát triển,v.v…
h) Phân tích ma trận.
i) Phân tích tương quan công nghệ.
k) Phân tích tài liệu trích dẫn xác định sáng chế nào được trích dẫn nhiều lần hoặc
hiếm được trích dẫn để thu được chiến lược sáng chế của các quốc gia trên thế giới.
Xác định hướng nghiên cứu phù hợp, tiến hành đánh giá công nghệ và tiên
lượng về triển vọng của công nghệ đó trong tương lai là những câu hỏi hóc búa
trước khi quyết định đầu tư và bắt đầu kinh doanh vào một lĩnh vực mới. Một trong
những phương pháp có thể giúp tìm ra câu trả lời đúng, đó là phân tích thông tin
sáng chế. Để có được thông tin "tình báo" về đối thủ cạnh tranh của mình, việc theo
dõi và giám sát thông tin sáng chế cũng đem lại nhiều thông tin hữu ích.
1.1.4 Vai trò của khai thác thông tin sáng chế
Các tài liệu sáng chế chứa thông tin công nghệ thường không được tiết lộ
trong bất kỳ hình thức xuất bản nào khác, bao gồm thực tế mọi lĩnh vực công nghệ.
Thông tin này có định dạng tương đối chuẩn và được phân loại theo các lĩnh vực kỹ
thuật để giúp việc xác định các tài liệu liên quan trở nên dễ dàng hơn.
Thông tin sáng chế thường được tạo ra trong quá trình nghiên cứu triển khai
và được công bố theo pháp luật về sáng chế. Thông tin sáng chế có trong các tài liệu
công bố gọi là tư liệu sáng chế (thường là bản mô tả sáng chế) - một dạng của tư
liệu thông tin khoa học - kỹ thuật, thương mại và cùng với các loại tư liệu khác như
sách, báo, tạp chí,... trong các lĩnh vực tương ứng tạo thành một bộ phận của tiềm
lực khoa học - công nghệ, kinh tế của một quốc gia.
Thông tin sáng chế có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trước tiên vì bản thân nó là
một trong những tiêu chí hữu hiệu để đánh giá về nền khoa học và công nghệ của một
quốc gia cũng như mức độ phát triển kinh tế dựa trên ứng dụng khoa học và công nghệ.
Nhưng quan trọng hơn, thông tin sáng chế giúp các hoạt động nghiên cứu và triển khai
có thể dễ dàng thành công và tạo ra những công nghệ mới phục vụ phát triển kinh tế –
xã hội của một quốc gia. Với ý nghĩa như vậy, hiện nay, mỗi quốc gia đều dành sự quan
tâm đặc biệt cho các hoạt động phổ biến thông tin sáng chế.
14
Thông tin sáng chế là nguồn thông tin duy nhất về độc quyền, được thể hiện
với cấu trúc chặt chẽ theo bảng phân loại sáng chế quốc tế và các mẫu thống nhất
chi tiết khác. Loại thông tin này thường được công bố trước các dạng công bố khác
của cùng tác giả, bao quát tất cả các sáng chế trong mọi lĩnh vực của toàn bộ các
công nghệ, có giá trị để tìm hiểu và có khả năng áp dụng công nghiệp cũng như khả
năng được sử dụng như một cơ sở dữ liệu.
Thông tin sáng chế là loại thông tin cập nhật nhất, độc nhất, mang tính mô tả
chi tiết. Loại thông tin này được tổ chức tốt, truy cập nhanh và dễ dàng, bao quát
nhiều lĩnh vực công nghệ và có khả năng trích dẫn thông tin kỹ thuật.
Thông tin sáng chế đã được trải qua một quá trình thẩm định và chỉnh sửa lại
tại Cơ quan Sở hữu trí tuệ và được phân loại thống nhất trong phạm vi quốc tế nên
có độ tin cậy cao và trung thực. Cách viết và thể hiện vấn đề kỹ thuật luôn ngắn
gọn, mạch lạc, đi thẳng vào mô tả nội dung của giải pháp công nghệ mới. Thông tin
sáng chế luôn phản ánh thông tin công nghệ mới nhất và được công bố sớm nhất so
với các tài liệu khác nhằm có được quyền ưu tiên trước các đối thủ cạnh tranh. Rất
nhiều thông tin công nghệ chỉ được tìm thấy sớm nhất trong thông tin sáng chế giúp
cho việc nắm bắt nhanh các công nghệ mới nhất. Hơn 80% thông tin công nghệ có
trong sáng chế nhưng không xuất hiện trong các tài liệu khác. Thông tin sáng chế
chứa khối lượng nội dung công nghệ phong phú, bao trùm hầu hết các ngành, các
lĩnh vực công nghệ từ trước cho tới nay, là một bộ sưu tập đầy đủ nhất về tình hình
phát triển của các loại công nghệ đã được biết đến trên toàn thế giới.
Thông tin sáng chế dùng để làm thông tin về quyền, xác định phạm vi và giới
hạn độc quyền của mỗi sáng chế. Việc tiếp cận các tài nguyên thông tin sáng chế
ngày nay được thực hiện chủ yếu thông qua tra cứu trực tuyến các thư viện IPDL
trên mạng thông tin toàn cầu internet (hầu hết là miễn phí).
Thông tin sáng chế là một nguồn thông tin quan trọng đối với các nhà nghiên
cứu, tác giả sáng chế, doanh nhân, các doanh nghiệp thương mại, cũng như các chuyên
gia sáng chế. Thông tin sáng chế có thể hỗ trợ những người sử dụng thông tin để tránh
những nỗ lực nghiên cứu và triển khai trùng lặp; xác định rõ khả năng bảo hộ của sáng
chế; tránh xâm phạm độc quyền sáng chế của người khác; xác định được giá trị sáng
chế của mình, cũng như của những người khác; khai thác công nghệ có trong đơn sáng
chế không được cấp bằng độc quyền sáng chế hoặc không được bảo hộ độc quyền ở
một số nước nhất định, hoặc bằng độc quyền sáng chế đã hết hiệu lực bảo hộ; thu thập
15
thông tin về các hoạt động sáng tạo và định hướng kinh doanh của đối thủ cạnh
tranh trong tương lai; nâng cao chất lượng của các quyết định kinh doanh, ví dụ, ký
kết hợp đồng li-xăng, thiết lập quan hệ đối tác về công nghệ, mua lại và sáp nhập
doanh nghiệp; xác định xu hướng phát triển chủ đạo của các lĩnh vực công nghệ cụ
thể, ví dụ, các lĩnh vực công nghệ liên quan đến việc bảo vệ sức khỏe cộng đồng,
bảo vệ môi trường, và xây dựng cơ sở cho việc hoạch định chính sách.
Từ vai trò của thông tin sáng chế, có thể thấy rằng việc tìm kiếm, phân tích
và khai thác thông tin sáng chế từ các cơ sở dữ liệu sáng chế trên thế giới rất có ý
nghĩa đối với các nhà nghiên cứu, các doanh nghiệp bởi từ nguồn thông tin có được
từ việc khai thác, nhà nghiên cứu hoặc doanh nghiệp có thể:
j. Xây dựng kế hoạch và thực hiện cải tiến các sản phẩm hoặc quy trình hiện có;
k. Đánh giá hiện đại trong một lĩnh vực công nghệ cụ thể;
l. Xác định các phát minh được bảo vệ bởi các bằng sáng chế, đặc biệt là để
tránh vi phạm và tìm kiếm cơ hội cấp phép;
m. Giám sát hoạt động của các đối tác và đối thủ tiềm năng cả trong và ngoài
nước;
n. Xác định các thị trường hoặc khám phá các xu hướng mới trong công nghệ
hoặc phát triển sản phẩm ở giai đoạn đầu.
1.2 Một số vấn đề lý luận về doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo
1.2.1 Khái niệm doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo
Một vài năm trở lại đây, thuật ngữ “startup” trở nên phổ biến trên toàn thế
giới để mô tả một vài dự án kinh doanh mạo hiểm, những ứng dụng mới ra mắt tại
thung lũng Silicon và thậm chí cả những công ty công nghệ lớn. Có rất nhiều định
nghĩa về startup, tuy nhiên, tựu chung lại, startup là doanh nghiệp khởi nghiệp từ
những ý tưởng mới, những mô hình mới, những kết quả khoa học công nghệ mới,
sau đó phát triển thành doanh nghiệp để cạnh tranh toàn cầu và được đầu tư nhanh
chóng. Vậy, “Startup” chính là để chỉ doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.
Theo Neil Blumenthal – Đồng sáng lập và đồng CEO của Warby Parker
(Mỹ): “Startup là một công ty hoạt động nhằm giải quyết một vấn đề mà giải pháp
không phải là hiển nhiên và dĩ nhiên không có gì đảm bảo thành công cả”.
Adora Cheung – Đồng sáng lập và CEO của Homjoy – một trong những
startup đình đám nhất tại Mỹ trong năm 2013 thì cho rằng: “Startup là một trạng
thái tinh thần. Khi mọi người gia nhập công ty của bạn và đưa ra những quyết định
16
cứng rắn thay vì chấp nhận sự ổn định để đổi lấy lời hứa tăng trưởng mạnh và sự
phấn khích mang lại những thay đổi ngay lập tức”.
Theo từ điển Heritage của Mỹ: “Startup” là “một doanh nghiệp hay công việc
kinh doanh vừa mới đi vào hoạt động”. Nhưng cái khó ở đây là nguồn này không
ghi rõ “mới” là bao nhiêu. Điều đó khiến cho nhiều người hiểu lầm cho rằng startup
có tuổi đời chỉ 1-2 năm. Tuy nhiên, Paul Graham – lập trình viên và nhà đầu tư mạo
hiểm nổi tiếng với vai trò sáng lập viên của Y-Combinator (quỹ đầu tư mạo hiểm chỉ
đầu tư cho các ý tưởng mới) – nhận định: “Một công ty 5 năm tuổi cũng có thể là
một startup”.
Như vậy, thời gian không phải là thước đo chuẩn để xác định một công ty có
phải là startup hay không. Theo CEO Warby Parker, startup là một tổ chức được
thiết kế nhằm cung cấp sản phẩm và dịch vụ trong những điều kiện không chắc chắn
nhất. Các startup được thiết kế cho những tình huống không thể mô hình hóa và độ
rủi ro không nhất thiết phải lớn nhưng chưa tính toán được.
Nhiều người cho rằng Startup phải có sáng tạo đỉnh cao về khoa học công
nghệ. Điều này đúng, nhưng chưa đủ. Định nghĩa startup không phải chỉ xuất hiện
trong lĩnh vực công nghệ. Có một điều chắc chắn là các startup thường ứng dụng
công nghệ để giải quyết các vấn đề và sự xuất hiện của công nghệ ở khắp mọi nơi.
Sự sáng tạo trong startup cần được hiểu một cách rộng rãi, không nhất thiết là
tạo ra công nghệ mới chưa từng có. Ngay cả những sáng chế tiên tiến nhất cũng luôn
được xây dựng dựa trên các công nghệ cũ. Nhiều công ty startup không sáng chế
ở khía cạnh sản phẩm, mà sử dụng các sáng chế khác: điều chỉnh những công nghệ
hiện tại cho mục đích mới, đặt ra một mô hình kinh doanh mới để mở ra các giá trị
trước đây chưa được tìm ra, hoặc thậm chí mang sản phẩm hay dịch vụ đến một địa
điểm mới hoặc nhóm khách hàng trước đây chưa được phục vụ. Trong tất cả các
trường hợp này, sự sáng tạo đổi mới là chìa khóa đưa đến thành công cho công ty.
1.2.2 Quản lý công nghệ của các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo
1.2.2.1 Khái niệm công nghệ và quản lý công
nghệ a. Công nghệ:
Quan niệm cũ về công nghệ: Công nghệ là tập hợp các phương pháp gia công,
chế tạo làm thay đổi tính chất, hình dạng, trạng thái của nguyên vật liệu và bán
17
thành phẩm để tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh. Ví dụ: công nghệ chế tạo máy điện, công
nghệ sản xuất linh kiện điện tử,... Tuy nhiên, theo quan điểm này, công nghệ chỉ liên
quan đến sản xuất vật chất mà chúng ta có thể nhìn thấy được và cảm nhận được.
Định nghĩa của Ủy ban kinh tế và xã hội khu vực Châu Á Thái Bình Dương
(ESCAP): “Công nghệ là kiến thức có hệ thống về quy trình kỹ thuật để chế biến vật
liệu và thông tin. Công nghệ bao gồm kỹ năng, kiến thức, thiết bị, phương pháp và
các hệ thống dùng trong việc tạo ra hàng hóa và nhà cung cấp dịch vụ”. Công nghệ
dùng để chỉ mọi hoạt động trong tất cả các lĩnh vực hoạt động xã hội có sử dụng
kiến thức khoa học nhờ đó mà công việc có hiệu quả hơn.
Theo Luật khoa học và Công nghệ (2000), công nghệ được hiểu một cách khái
quát là “tập hợp các phương pháp, quy trình, kỹ năng, bí quyết, công cụ, phương tiện
dùng để biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm”. [26, Khoản 2, Điều 2].
Theo Luật Chuyển giao công nghệ (2006), công nghệ là “giải pháp, quy
trình, bí quyết kỹ thuật có kèm hoặc không kèm công cụ, phương tiện dùng để biến
đổi nguồn lực thành sản phẩm”. [16, Khoản 2, Điều 3].
Mặc dù khác nhau về ngôn từ, các định nghĩa nêu trên về công nghệ đều bao
quát bốn khía cạnh:
- Công nghệ là máy biến đổi: khả năng làm ra sản phẩm đáp ứng và thỏa mãn
yêu cầu về kinh tế. Công nghệ không tồn tại mãi mãi vì một công nghệ muốn xuất
hiện thì phải hiệu quả hơn công nghệ cũ. Khía cạnh này không chỉ nhấn mạnh tầm
quan trọng của công nghệ trong việc giải quyết các vấn đề thực tế mà còn nhấn
mạnh sự phù hợp của mục đích kinh tế trong việc áp dụng công nghệ.
- Công nghệ là một công cụ: Khía cạnh này đề cập đến công nghệ là sản
phẩm của con người, bởi vậy, con người có thể làm chủ được công nghệ.
- Công nghệ là kiến thức: Công nghệ không nhất thiết phải nhìn thấy được và
các công nghệ giống nhau chưa chắc đã cho kết quả như nhau. Muốn sử dụng công
nghệ có hiệu quả thì con người phải được đào tạo về kỹ năng, kiến thức và được cập
nhật thông tin thường xuyên liên tục.
- Công nghệ là hàm chứa trong các dạng hiện thân của nó. Đề cập tới công
nghệ dù là kiến thức nhưng vẫn được mua, bán. Đó là công nghệ hàm chứa trong
các vật thể tạo ra nó, bao gồm: kỹ thuật, con người, thông tin và tổ chức.
18
Lịch sử đã thừa nhận vai trò của công nghệ đối với sự phát triển của nhân
loại. Đối với mỗi quốc gia, công nghệ trở thành công cụ chiến lược để phát triển
kinh tế - xã hội một cách nhanh chóng và bền vững trong môi trường quốc tế ngày
càng cạnh tranh khốc liệt. Người ta đã rút ra quy luật: Trên thế giới, không phải
những nước chiếm giữ nhiều đất đai và tiền bạc mà chính những nước chiếm giữ tri
thức và công nghệ mới trở thành các quốc gia phát triển hàng đầu.
Một trong những yếu tố quyết định việc doanh nghiệp mới thành lập có phải
là doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo hay không chính là trình độ công
nghệ làm nền tảng cho tính đổi mới sáng tạo. Trình độ công nghệ của doanh nghiệp
góp phần quan trọng tạo điều kiện cho tinh thần khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo.
Các nước có trình độ công nghệ cao cũng thường là các quốc gia có nhiều Startup
thành công. Hiện nay nhiều doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo chọn cho
mình hướng đi theo sự phát triển Công nghệ (Tech Startup). Đặc điểm của doanh
nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo công nghệ là không cần quá nhiều vốn ban đầu
(so với các ngành nghề khác) và có thể dễ dàng học hỏi từ những mô hình đi trước
trên thế giới. Theo kết quả khảo sát chọn mẫu ngẫu nhiên trên 7,450 doanh nghiệp
của Tổng cục Thống kê năm 2014, chỉ có 464 doanh nghiệp khẳng định là có các
hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) chiếm 6,23%. Điều này có nghĩa rằng,
đại bộ phận các doanh nghiệp chưa quan tâm đến các hoạt động ứng dụng và phát
triển khoa học công nghệ. Tuy nhiên bước sang giai đoạn năm 2016-2018, các lĩnh
vực được các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo lựa chọn khởi nghiệp sẽ
tập trung vào các lĩnh vực công nghệ tài chính, công nghệ lữ hành, trí tuệ nhân
tạo/chatbot, Internet vạn vật, chăm sóc sức khoẻ và tập hợp dữ liệu lớn theo xu
hướng phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
b. Quản lý công nghệ:
Quản lý là cách thức tác động (tổ chức, điều khiển, kiểm tra) hợp quy luật của
chủ thể quản lý đến khách thể quản lý trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận
hành đạt hiệu quả mong muốn và đạt mục tiêu đề ra. Quản lý là một hoạt động tất yếu
của xã hội loài người; nó phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm thu được hiệu quả, mà
nếu để mỗi người hoạt động riêng lẻ thì không thể đạt được. Như vậy, quản lý công
nghệ là tập hợp các hoạt động công nghệ nhằm đạt được mục tiêu đã định.
19
Khái niệm quản lý công nghệ:
- Ở góc độ vi mô (cơ sở): quản lý công nghệ là một bộ môn khoa học liên
ngành, kết hợp khoa học và công nghệ và các tri thức quản lý để hoạch định, triển
khai và hoàn thiện năng lực công nghệ nhằm xây dựng và thực hiện các mục tiêu
trước mắt và lâu dài của một tổ chức.
- Ở góc độ vĩ mô: quản lý công nghệ là một lĩnh vực kiến thức liên quan đến
thiết lập và thực hiện các chính sách về phát triển và sử dụng công nghệ, về sự tác
động của công nghệ đối với xã hội, với các tổ chức, các cá nhân và tự nhiên, nhằm
thúc đẩy đổi mới, tạo tăng trưởng kinh tế và tăng cường trách nhiệm trong sử dụng
công nghệ đối với lợi ích của nhân loại.
Theo Wikipedia, “Quản lý công nghệ là một tập hợp các quy tắc quản lý cho
phép các tổ chức quản lý các nền tảng công nghệ của họ để tạo ra lợi thế cạnh
tranh”. [24]
Các khái niệm điển hình được sử dụng trong quản lý công nghệ là:
- Chiến lược công nghệ (logic hoặc vai trò của công nghệ trong tổ chức),
- Dự báo công nghệ (xác định các công nghệ có thể có ý nghĩa lớn cho tổ
chức, có thể thông qua tìm kiếm công nghệ),
- Lộ trình công nghệ (công nghệ lập bản đồ đến nhu cầu kinh doanh và thị
trường),
- Danh mục dự án công nghệ (một loạt các dự án đang triển khai) và danh
mục công nghệ (tập hợp công nghệ đang sử dụng).
Quản lý công nghệ là một hoạt động phức tạp và đa dạng, đòi hỏi phải có sự
phân loại thông qua nhiều thảo luận và nghiên cứu. Khái niệm quản lý công nghệ rất
linh hoạt và phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể: ngành công nghiệp, quốc gia và
các công ty.
Quản lý công nghệ là tập hợp các phương pháp và hệ thống về quản lý quy
trình áp dụng kiến thức, bí quyết cả về kỹ thuật và quản lý đáp ứng các yêu cầu làm
ra các sản phẩm và dịch vụ nhất định, từ đó tạo ra các lợi thế so sánh cho doanh
nghiệp. Đó không phải là việc quản lý chuyên biệt về kỹ thuật trong các hoạt động
kinh doanh dựa vào công nghệ mà bao gồm tất cả các hoạt động khác, được thực
hiện trên cơ sở tiếp cận có hệ thống. [3]
20