Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

THÀNH TỰU CÁCH MẠNG VIỆT NAM DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.45 KB, 7 trang )

Đ/c hãy liên hệ và phân tích làm rõ những thành tựu vĩ đại của Cách mạng Việt Nam dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong 86 năm qua.

Ngày 3/2/1930 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời do chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập nên không
chỉ chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cứu nước, mà còn khẳng định vai trò quyết định về sự
lãnh đạo của của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khẳng định, muốn làm cách mạng thì “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận
động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng
có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”. Thực tiễn
thắng lợi của nhân dân ta trong quá trình đấu tranh cách mạng, giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh đã khẳng định: Đảng Cộng
sản Việt Nam là người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong 86 năm
qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam đã giành được những thành tựu, những thắng
lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử, mở ra kỷ nguyên mới trong sự phát triển của dân tộc ta: kỷ nguyên độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác – Lênin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam. Chủ nghĩa Mác – Lênin không chỉ là hệ
tư tưởng lý luận của giai cấp công nhân, phong trào công nhân mà còn là vũ khí giải phóng giai cấp
công nhân, giải phóng dân tộc, giải phóng toàn xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ: “Việc thành
lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ
rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”. Như lịch sử đã thể hiện,
trong suốt nhiều thập kỷ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, các phong trào đấu tranh yêu nước và
cách mạng Việt Nam, tuy nổ ra liên tiếp và theo nhiều khuynh hướng tư tưởng, con đường khác
nhau, nhưng đều thất bại. Nguyên nhân chung là do tư tưởng dẫn đường của các phong trào đó và
những con đường giải phóng dân tộc, phát triển đất nước do các phong trào đó vạch ra không còn
phù hợp với nhu cầu và xu thế vận động của thế giới trong thời đại mới. Cuộc khủng hoảng về
đường lối và sự bế tắc về con đường cách mạng đã được giải quyết với sự ra đời của Đảng Cộng sản
Việt Nam chủ trương làm cách mạng vô sản, gắn cách mạng giải phóng dân tộc với cách mạng xã
hội chủ nghĩa; gắn mục tiêu độc lập dân tộc với mục tiêu chủ nghĩa xã hội; gắn cách mạng Việt Nam
với cách mạng thế giới mà đội tiên phong là Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga vĩ đại. Sự
lựa chọn con đường cách mạng đó là sự lựa chọn của chính lịch sử, đáp ứng nguyện vọng và lợi ích


của đông đảo nhân dân Việt Nam. Nhờ vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cách mạng Việt
Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Ngay từ khi vừa mới ra đời, Đảng ta đã quy tụ, đoàn kết
chung quanh mình tất cả các giai cấp, các tầng lớp nhân dân yêu nước, xây dựng nên lực lượng cách
mạng hùng mạnh.
Qua 15 năm lãnh đạo cách mạng (1930 - 1945), với ba cao trào cách mạng lớn (1930 - 1931, 1936 1939, 1939 - 1945), khi thời cơ đến, Đảng đã nhanh chóng chớp lấy thời cơ, với tinh thần “Dù phải
đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng kiên quyết giành cho được độc lập”, Đảng ta đã phát động cuộc
Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Cách mạng tháng Tám thành công; ngày
2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình lịch sử, chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt chính phủ lâm thời đọc
bản “Tuyên ngôn độc lập” khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đánh đổ xiềng xích của
thực dân gần 100 năm để xây dựng nên nước Việt Nam của dân, da dân và vì dân. Từ đây dân tộc ta
bước sang một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên độc lập, tự do, dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Ngay khi vừa mới ra đời, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ đã phải đối mặt với ba thứ

1 | Trang


giặc: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Vận mệnh của đất nước đứng trước tình thế “ngàn cân
treo sợi tóc”. Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã kịp thời đề ra những chủ trương và
quyết sách đúng đắn, khôn khéo, toàn diện trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,
quốc phòng, an ninh và đối ngoại để giữ vững chính quyền non trẻ. Với đường lối chính trị, quân sự,
ngoại giao đúng đắn và sáng suốt, Đảng đã động viên được sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc,
củng cố, giữ vững chính quyền cách mạng, đưa cách mạng Việt Nam vượt qua tình thế hiểm nghèo
và chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp xâm lược.
Khi thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta, hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng và của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, nhân dân cả nước đồng loạt đứng lên với tinh thần “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định
không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ chống
thực dân Pháp xâm lược. Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức
mình là chính, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta vượt qua muôn vàn
khó khăn, gian khổ, hy sinh, giành thắng lợi to lớn trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược, kết thúc bằng Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”,

góp phần phá vỡ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân cũ, dẫn tới sự sụp đổ hoàn toàn của chủ
nghĩa thực dân. Với thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, thực hiện quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Song ở miền
Nam, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai đã xóa bỏ Hiệp định Giơ-ne-vơ hòng chia cắt lâu dài đất nước ta.
Đất nước ta lại tạm thời bị chia làm hai miền. Đảng đã xác định con đường phát triển tất yếu của
cách mạng Việt Nam là phải tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Tiến hành cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành căn cứ địa vững mạnh của cách mạng cả nước
và tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai,
giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã
cùng một lúc tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc
và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Từ năm 1965, khi đế quốc Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, cả nước ta tiến hành
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập tự do!”, “Hễ
còn một tên xâm lược trên đất nước ta thì ta còn phải chiến đấu quét sạch nó đi”, “Tất cả cho tiền
tuyến. Tất cả để chiến thắng giặc Mỹ xâm lược”, dưới sự lãnh đạo của Đảng quang vinh và Chủ tịch
Hồ Chí Minh vĩ đại, nhân dân ta đã vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, hy sinh, lần lượt đánh
thắng các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ ở miền Nam và chiến tranh phá hoại bằng không
quân và hải quân của Mỹ ở miền Bắc. Với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 và
với thắng lợi huy hoàng của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nhân dân ta đã kết thúc thắng lợi 30
năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước và mở
ra một thời kỳ mới - thời kỳ độc lập, thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, nhân dân ta lại bước vào thời kỳ cả nước quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, cách mạng Việt Nam có nhiều thuận lợi rất cơ bản, nhưng cũng gặp phải
không ít khó khăn, thách thức mới. Nét nổi bật là, chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh
tế sản xuất nhỏ, năng suất lao động thấp, lại phải chịu hậu quả nặng nề do chiến tranh để lại. Chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực phản động luôn tìm mọi cách chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân
dân ta. Đặc biệt, từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế
trải qua nhiều diễn biến phức tạp, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở
Đông Âu sau hơn 70 năm tồn tại và phát triển mạnh mẽ đã sụp đổ. Tình hình đó đã tác động, ảnh
hưởng lớn đến sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của nhân

dân ta. Qua quá trình tiến hành công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, dưới sự

2 | Trang


lãnh đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam đã vượt qua những khó khăn, trở ngại, thu được những
thành tựu quan trọng, đã nhanh chóng hoàn thành việc thống nhất đất nước về mọi mặt, đánh thắng
các cuộc chiến tranh ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa, đã nỗ lực khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, từng bước ổn
định sản xuất và đời sống của nhân dân. Đặc biệt, đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở ra bước
ngoặt trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.
Trong các nhiệm kỳ Đại hội VII (1991-1996), Đại hội VIII (1996-2001), Đại hội IX (2001-2006),
Đại hội X (2006-2011), Đảng đã không ngừng tổng kết thực tiễn để phát triển, hoàn thiện đường lối
đổi mới và lãnh đạo nhân dân ta phát huy tinh thần sáng tạo, thực hiện đổi mới toàn diện đất nước.
Đại XI của Đảng (tháng 01-2011) đã khẳng định: “Thắng lợi của công cuộc đổi mới, tiến hành công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, tiếp tục đưa đất nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa
xã hội với nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp thực tiễn Việt Nam...; đất nước ta đã ra khỏi
tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, có quan hệ
quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới”. Đến Đại hội XII
(tháng 1-2016) Đảng ta tiến hành tổng kết 30 năm đổi mới, Đại hội khẳng định: Ba mươi năm đổi
mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp phát triển của nước ta, đánh dấu sự trưởng
thành về mọi mặt của Đảng, của Nhà nước ta, đánh dấu sự trươgnr thành về mọi mặt của Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta. Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải tiến sâu sắc, toàn
diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của Đảng, toàn dân và toàn quân vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Với đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo, trên cơ sở lý luận Mác - Lê-nin, phù hợp với điều kiện cụ
thể ở Việt Nam, Đảng ta đã tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta thực hiện đường lối đổi mới, đưa đất
nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, bước vào thời kỳ phát triển tương đối ổn định, thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nền kinh tế nước ta tăng trưởng khá nhanh, thoát
khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung

bình. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta ngày càng hoàn thiện. Đời sống về
vật chất và tinh thần của nhân dân ta đã được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa và
khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định. Nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc có bước phát triển mới. Quốc phòng và an ninh được giữ vững và
tăng cường.
Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã
tăng lên rất nhiều. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà Đảng ta đã tổ chức và lãnh đạo
nhân dân ta giành được trong công cuộc đổi mới đất nước đã góp phần khẳng định đường lối đổi
mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam, khẳng định vai trò và sự
lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, nhất
là trước những khó khăn, thách thức, những vấn đề mới chưa có tiền lệ trong lịch sử, chúng ta cũng
không thể tránh khỏi những hạn chế, yếu kém, khuyết điểm, thậm chí có cả những sai lầm, nhưng
Đảng ta đã sớm phát hiện ra những hạn chế, yếu kém, sai lầm, khuyết điểm, kịp thời đề ra những
biện pháp sửa chữa đúng đắn.
Những ngày đầu tháng 1 năm 2015, khi Trung Quốc kéo giàn khoan HD981 vào sâu trong khu vực
đặc quyền kinh tế và thềm lục địa; duy trì tàu chiến, tàu hải cảnh và tàu sắt quanh giàn khoan. Có
những hành động gây hấn, khiêu khích, tấn công, cản trở tàu của ta thi hành nhiệm vụ trên
biển.Song song với hành vi phạm trắng trợn pháp luật quốc tế của Trung Quốc, đi ngược lại Hiến
chương Liên hợp quốc, cũng như Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 và các thỏa

3 | Trang


thuận giữa ASEAN-Trung Quốc (DOC). Trên cơ sở chủ trương đó, các cơ quan chức năng của
Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ và cả hệ thống chính trị đã vào cuộc, tiến hành toàn diện đấu
tranh ngoại giao cả song phương và đa phương; đấu tranh ngăn chặn trên thực địa bằng lực lượng
dân sự thực thi pháp luật; thông tin kịp thời, thường xuyên và chân thực, làm cho nhân dân ta và bạn
bè thế giới hiểu rõ tình hình đang diễn ra. Chúng ta luôn sử dụng các biện pháp hòa bình, đồng thời
yêu cầu Trung Quốc tỏ thiện chí giải quyết thỏa đáng vấn đề bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật
pháp quốc tế và những thỏa thuận giữa Trung Quốc-ASEAN, Trung Quốc-Việt Nam.Đồng thời

chúng ta củng cố các cơ sở pháp lý cần thiết, cân nhắc tính toán kiện Trung Quốc ra Tòa án quốc tế
nếu Trung Quốc không chịu rút giàn khoan. Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương, đường
lối đúng đắn, lãnh đạo nhân dân đấu tranh bảo vệ tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định
phát triển. Dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, chúng ta luôn quyết tâm bảo vệ tổ quốc, như vua Lê
Thánh Tông đã nói “Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại nên vứt bỏ? Ngươi phải kiên
quyết tranh biện, chớ cho họ lấn dần. Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang phương Bắc trình
bày rõ điều ngay lẽ gian. Nếu ngươi dám đem một thước núi, một tấc đất của Thái tổ làm mồi cho
giặc, thì tội phải tru di!”.
Vì vậy, Đảng ta được nhân dân tin cậy, thừa nhận là người lãnh đạo chân chính, duy nhất, là đội tiên
phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, là người tổ chức và
lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, là những người tiến nhất của giai cấp và dân tộc,
trung thành, kiên định với lợi ích của dân tộc, của nhân dân, luôn đi đầu, sẵn sàng hy sinh vì độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Ngoài lợi ích của giai cấp
công nhân, của nhân dân lao động, lợi ích của toàn dân tộc Việt Nam, Đảng không có lợi ích nào
khác. Lịch sử cách mạng Việt Nam cận, hiện đại đã chứng tỏ không có một tổ chức chính trị nào có
thể thay thế được vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam. Đó là
một thực tiễn lịch sử không ai có thể phủ nhận được.
Thực tiễn 86 năm qua đã khẳng định: sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu
quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam thật sự là đội tiên
phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và toàn dân tộc
Việt Nam. Tự hào về Đảng Quang vinh thế hệ trẻ ngày nay luôn thấy rõ hơn trách nhiệm của mình,
nguyện đi theo Đảng, xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, tiếp tục lãnh đạo nhân dân
ta đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế, thực hiện thắng
lợi mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã
hội. Là một Đoàn viên ưu tú, được tham gia lớp học nhận thức về Đảng toi sẽ cố gắng phấn đấu hơn
nữa để sớm có thể đứng vào hàng ngũ của Đảng, được góp một phần nào đó sức lực vào công cuộc
bảo vệ, phát triển của đất nước.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung phát triển nắm 2011)
xác định các phương hướng đi lên CNXH ở nước ta. Đ/c hãy phân tích và làm rõ.


Trong xã hội có mâu thuẫn giai cấp đối kháng, đấu tranh giai cấp mang tính tự phát với mục
tiêu kinh tế sẽ phát triển dần đến đấu tranh mang tính tự giác - đấu tranh chính trị, liên quan đến vấn
đề giành hoặc giữ chính quyền. Đấu tranh chính trị đòi hỏi giai cấp phải có mục tiêu chính trị rõ
ràng, tổ chức chặt chẽ, tập hợp, huy động đông đảo lực lượng của giai cấp và các lực lượng liên

4 | Trang


minh với mình. Đó là yêu cầu và điều kiện ra đời của đảng chính trị - đội tiên phong, bộ tham mưu
chiến đấu, tổ chức cao nhất, chặt chẽ nhất, kiên quyết nhất của giai cấp. Để hoàn thành sứ mệnh lịch
sử đó, đảng chính trị phải có Cương lĩnh chính trị.
Cương lĩnh chính trị là văn bản trình bày những nội dung cơ bản về mục tiêu, đường lối,
nhiệm vụ và phương pháp cách mạng trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Cương lĩnh chính trị là
cơ sở thống nhất ý chí và hành động của toàn Đảng, là ngọn cờ tập hợp, cổ vũ các lực lượng xã hội
phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Mà theo như V.I.Lênin viết: “Cương lĩnh là bản tuyên
ngôn vắn tắt, rõ ràng và chính xác nói lên tất cả những điều mà đảng muốn đạt được và vì mục đích
gì mà đảng đấu tranh”. Ngay từ khi thành lập, Đảng ta đã thông qua Cương lĩnh chính trị để hiệu
triệu, tập hợp và lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội mới. Hội nghị
thành lập Đảng đã thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều
lệ vắn tắt của Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khởi thảo. Đến tháng 10-1930, Ban Chấp hành
Trung ương Đảng đã thông qua Luận cương cách mạng tư sản dân quyền do đồng chí Trần Phú,
Tổng Bí thư của Đảng soạn thảo. Nội dung cơ bản của Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt,
Chương trình tóm tắt và Luận cương cách mạng tư sản dân quyền đã được thông qua là tiến hành
cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Đó là Cương lĩnh đầu tiên của
Đảng.
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng là ngọn cờ tập hợp toàn Đảng, toàn dân ta trong cuộc đấu tranh giành
độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, tạo tiền đề để cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Việc xác định
đúng đắn, chính xác con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một trong những vấn đề rất hệ
trọng của Đảng và nhân dân. Trên cơ sở vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin, từ thực tiễn

thành công và thất bại của chue nghĩa xã hội trên thế giới và nhất là những năm đauà tiến hành đổi
mới, tiếp thu chọn lọc tinh hoa nhân loại, Đại hội VII (tháng 6-1911) của Đảng Cộng sản Việt Nam
đã thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Cương lĩnh đã tổng
kết 60 năm quá trình cách mạng Việt Nam, rút ra 5 bài học lớn, phân tích sâu sắc đặc điểm tình hình
quốc tế và trong nước; phác họa ra mô hình XHCN mà nhân dân ta xây dựng, đồng thời phác họa ra
con đường đi lên CNXH ở nước ta. Qua tổng kết 20 năm thực hiện cương lĩnh 1991, Đại hội XI đã
thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH (bổ sung và phát triển
năm 2011). Cương lĩnh 2011 là văn bản pháp lý cao nhất của Đảng trên tinh thần kế thừa Cương
lĩnh 1991 đã khẳng định rõ mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng
được về cơ bản nền tảng kinh tế của CNXH với kiến truc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn
hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước XHCN ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Từ
nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành
một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng XHCN. Để thực hiện các mục tiêu trên, toàn Đảng,
toàn dân ta nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng và
trí tuệ, tận dụng thời cơ, vượt qua thử thánh, quán triệt và thực hiện tốt các phương hướng cơ bản
sau đây:
“Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ
tài nguyên, môi trường. Cương lĩnh 1991 xác định: Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa
theo hướng hiện đại. Còn Cươn lĩnh 2011 bổ sung xác định: Đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước, gắn
với phát triển kinh tế tri thức, môi trường.
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh 1991 đã xác định
mô hình phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận
hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước. Qua các nhiệm kỳ đại hội, Đảng ta đã

5 | Trang


chuyển từ “phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý Nhà nước”, sang “phát triển kinh tế thị trường
theo định hướng XHCN”. Đại hội XI khẳng định “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH.

Ba là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời
sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Trong bảy phương hướng cơ bản của Cương
lĩnh 1991 chưa đề cập đến xây dựng con người. Qua các nhiệm kỳ Đại hội, Đảng ta nhận thức ngày
càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn về nhân tố con người; phát triển kinh tế- xã hội, vừa là mục tiêu, vừa
là động lực của sự phát triển. Đảng ta cũng nhận thức rõ hơn về thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội, khẳng định: Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng
lĩnh vực, ở từng địa phương; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng
chính sách phát triển.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế. Về phương hướng trên, ở Cương lĩnh 1991 không xác định thành
một phương hướng cơ bản riêng. Việc bổ sung, phát triển phương hướng “chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế” là đúng với thực trạng hội nhập của nước ta hiện nay và là phương hướng cơ bản lâu
dài trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và
mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất. Qua các nhiệm kỳ đại hội, Đảng ta đã khẳng định dân chủ
XHCN là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước; khẳng
định đại đoàn kết dân tộc là đường lối sách lược, chiến lược của CM Việt Nam; là nguồn sức mạnh,
động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định đảm bảo thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan
trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết.
Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Cương lĩnh năm 1991 mới xác định xây dựng nhà nước XHCN, Nhà nước của dân, do nhân dân và
vì nhân dân. Khái niệm “Nhà nước pháp quyền XHCN” lần đầu tiên được Đảng ta sử dụng tại Hội
nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII. Các kỳ Đại hội VIII, IX, X đều nhấn mạnh xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Vì vậy, Cương lĩnh
2011 xác định: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”
là một trong tám phương hướng cơ bản đúng đắn, phù hợp cả về lý luận lẫn thực tiễn.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh”. Cương lĩnh 1991 xác định “xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang tầm nhiệm vụ, đảm bảo cho Đảng làm tròn

trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp CM XHCN ở nước ta”. Đại hội X đã viết gọn lại là “xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh”.
Tám phương hướng nêu trên phản ánh nội dung toàn diện các lĩnh vực xây dựng và phát triển đất
nước theo mục tiêu phát triển bền vững , không chỉ là kinh tế - xã hội - môi trường mà còn phải chú
trọng phát triển văn hóa, con người và bảo đảm sự ổn định, củng cố vững chắc chế độ chính trị với
Nhà nước pháp quyền, nền dân chủ, vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Do đó, phải nhấn mạnh
tầm quan trọng của việc xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, có
tiềm lực mạnh về quốc phòng, an ninh quốc gia để xây dựng chủ nghĩa xã hội gắn liền bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa. Tám phương hướng nêu trên đã bao quát những điểm căn bản, chủ yếu trong
đường lối, chính sách đối nội và đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, thể hiện sự nhất quán của

6 | Trang


Đảng với các quan điểm đổi mới và phát triển . Tám phương hướng đó cũng chính là con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội , là mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thực tiễn của nước ta. Trong tám
phương hướng đó, Đảng ta đặt ở hàng đầu vấn đề đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên môi trường bởi lẽ đây là vấn đề cấp thiết nhất hiện nay,
giải quyết nhiệm vụ xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đó là đòi hỏi tất yếu,
do nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Không đẩy mạnh công
nghiệp hóa không thể thực hiện bước chuyển đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành
một nước công nghiệp, không thể có nền kinh tế phát triển cao với năng suất lao động cao dựa trên
khoa học - công nghệ, không thể có lực lượng sản xuất hiện đại. Cái mới trong sự phát triển nhận
thức lý luận của Đảng ta về phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội là: đẩy mạnh công nghiệp hóa
là để đạt tới hiện đại hóa , muốn vậy phải chủ động chuẩn bị các điều kiện để phát triển kinh tế tri
thức, đặc biệt chú trọng bảo vệ tài nguyên, môi trường, vừa tiết kiệm và sử dụng có hiệu quả các
nguồn tài nguyên vừa bảo vệ được môi trường, phòng tránh thảm họa môi trường và biến đổi khí
hậu, nước biển dâng - một vấn đề toàn cầu mà Việt Nam không thể xem thường. Nhân tố quan
trọng hàng đầu, có ý nghĩa quyết định mọi thắng lợi là ở sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng.
Đây là bài học lớn đã được tổng kết và được kiểm nghiệm trong thực tiễn. Do đó, phải ra sức xây

dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và bản lĩnh cầm
quyền của Đảng.
Những bổ sung, phát triển trong Cương lĩnh 2011 đã xác định rõ hơn con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta, tất cả đều là những kinh nghiệm, được thực tiễn kiểm nghiệm là đúng đắn,
chính xác. Như V.I.Lênin đã nói: Chỉ có thể dựa trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tiễn xây dựng
chủ nghĩa xã hội của hàng triệu người khi họ bắt tay vào hành động. Hơn nữa, thực tiễn luôn vận
động, biến đổi không ngừng; do đó, lý luận cũ phải có sự thay đổi tương ứng nhằm phản ánh đúng
thực tiễn, phù hợp với thực tiễn. Nghĩa là, sự điều chỉnh, bổ sung và phát triển những đặc trưng của
chủ nghĩa xã hội cho sát với thực tế khách quan luôn là việc làm cần thiết và phải được tiến hành
thường xuyên. Đó cũng chính là ý nghĩa của nguyên tắc mang tính phương pháp luận mà Chủ tịch
Hồ Chí Minh nêu ra: lý luận phải gắn liền với thực tiễn. Cương lĩnh 2011 đã, đang và sẽ chưng minh
tính đúng đắn của mình trong tương lai bằng những lộ trình, bước đi phù hợp mà Đảng và Nhà nước
đã nghiên cứu.

7 | Trang



×